Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh
Khai Thi Ve Niem Phat
Khai Thi Ve Niem Phat
Khai Thi Ve Niem Phat Khai Thi Ve Niem Phat
Khai Thi Ve Niem Phat
Niệm Phật
Khai Thi Ve Niem Phat
Khai Thi Ve Niem Phat
H.T Tuyên Hoá


Pháp Môn Niệm Phật


Hòa Thượng Tuyên Hóa

Vì Sao Cần Phải Niệm Phật?

Dùng Sáu Căn Niệm Quán Âm

Niệm Phật Giống Như Gọi Ðiện Thoại

Ðừng Chờ Ðến Lúc Khát Mới Ðào Giếng

Niệm Danh Hiệu Bồ-Tát có thể Minh Tâm Kiến Tánh

Quán Thế Âm Bồ Tát Là Huynh Ðệ Của Chúng Ta

Ðại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông

"Niệm Phật năng niệm vô gián đoạn"

 


Vì Sao Cần Phải Niệm Phật?

Vì sao lúc bình thường chúng ta cần phải niệm Phật? Lúc bình thường chúng ta thường niệm Phật là để chuẩn bị cho lúc lâm chung.

Thế thì tại sao không đợi đến lúc lâm chung rồi hãy niệm Phật? Tập quán là thói quen được huân tập qua nhiều ngày, nhiều tháng. Cho nên, nếu bình thường các bạn không có tập quán niệm Phật thì đến lúc lâm chung các bạn sẽ không nhớ ra là mình cần phải niệm Phật. Do đó, lúc bình thường mình cần phải học niệm Phật, tu Pháp-môn Tịnh Ðộ, đến lúc lâm chung mới không hoảng hốt, luống cuống, mà trái lại, sẽ an nhiên vãng sanh Thế Giới Cực-lạc!

Vì sao chúng ta cần phải vãng sanh về Thế Giới Cực Lạc? Là vì khi Ðức Phật A Di Ðà ở nhân địa tu hành làm thầy tỳ kheo, Ngài đã từng phát bốn mươi tám đại nguyện mà trong đó có nói rằng:

"Sau khi tôi thành Phật, nếu trong mười phương có chúng sanh nào niệm 'A-Di-Ðà Phật,' danh hiệu của tôi, thì tôi nhất định sẽ tiếp dẫn người đó tới thế giới của tôi, và trong tương lai, vị ấy sẽ được thành Phật. Ở thế giới của tôi, ai ai cũng đều hóa sanh từ hoa sen, nên thân thể của họ hoàn toàn thanh tịnh vô nhiễm."

Bởi Ðức Phật A Di Ðà đã phát nguyện lớn như vậy, nên tất cả chúng sanh đều nên tu Pháp-môn Niệm Phật, một pháp-môn rất hợp với căn cơ của mọi người và cũng rất dễ tu. Trong Kinh còn dạy:

Ðời Mạt Pháp, một ức người tu hành hiếm khi có được một người đắc Ðạo; duy có tu Pháp-môn Niệm Phật là ai cũng được độ thoát.

Ý nói rằng trong số một ức người tu hành, hiếm hoi lắm mới có một người đắc Ðạo; chỉ có Pháp-môn Niệm Phật là có thể giúp mọi người vãng sanh về Thế Giới Cực Lạc và do đó được độ thoát. Ðặc biệt là trong thời Mạt Pháp hiện tại, niệm Phật chính là pháp môn hợp với căn cơ của mọi người nhất.

Song, Âu Mỹ hiện nay không phải đang ở vào thời đại Mạt Pháp mà có thể nói là đang ở vào thời đại Chánh Pháp. Vì sao nói Âu Mỹ đang ở vào thời đại Chánh Pháp? Vì Phật Pháp vừa mới được truyền tới các nước ở phương Tây và hiện đang vào lúc hưng thịnh. Do đó, hiện tại ở Mỹ quốc có rất nhiều người rất thích tham Thiền, tịnh tọa; đó cũng là biểu hiện của Chánh Pháp.

Thời Chánh Pháp, ai cũng có thể tu Pháp-môn Niệm Phật. Thời Mạt Pháp mọi người cũng có thể tu Pháp-môn Niệm Phật, ở bất cứ thời đại nào mình cũng có thể tu pháp môn này. Nếu như có người đối với các pháp môn khác không thể dụng công được, thì nên tu Pháp Niệm Phật. Thiền-sư Vĩnh Minh Diên Thọ có nói rằng:

Hữu Thiền, hữu Tịnh Ðộ,

Do như đái giác hổ.

(Có Thiền, có Tịnh-Ðộ,

Như hổ mọc thêm sừng.)

Những người vừa tham Thiền và vừa niệm Phật thì giống như cọp mà mọc thêm sừng, oai thế vô cùng. Họ có thể:

Hiện thế vi nhân sư,

Tương lai tác Phật Tổ.

(Ðời này làm Thầy mọi người,

Tương lai thành Phật, làm Tổ.)

Do đó, người chân chánh tham Thiền tức là người chân chánh niệm Phật, người chân chánh niệm Phật cũng chính là người chân chánh tham Thiền. Nói sâu một chút nữa, người chân chánh trì Giới chính là người chân chánh tham Thiền, và người chân chánh tham Thiền cũng là người chân chánh trì Giới. Thế thì, người chân chánh giảng Kinh thuyết Pháp, tức là người thật sự vì giảng Kinh mà giảng Kinh, thì cũng là người chân chánh tham Thiền!

Trong Chứng Ðạo Ca, Ðại-sư Vĩnh Gia có nói rằng:

Tông diệc thông, Thuyết diệc thông,

Ðịnh, Huệ viên minh bất trệ không.

(Tông cũng thông, Thuyết cũng thông,

Ðịnh, Huệ sáng tròn chẳng trệ không.)

Vậy, người vừa biết tham Thiền lại vừa biết giảng Kinh là người thông suốt cả tông lẫn thuyết. Nói sâu một chút nữa, thì người chân chánh trì Chú, chân chánh tu Mật Tông, cũng là người chân chánh tham Thiền. Vì lẽ đó, tuy nói Thiền, Giáo, Luật, Mật, Tịnh là năm pháp môn, nhưng nếu xét đến ngọn nguồn thì tất cả chỉ là một chứ không phải là sai khác. Nếu giảng sâu thêm chút nữa thì ngay cả "một" cũng chẳng còn, thì làm gì mà có "năm" được chứ? Người chân chánh học Phật Pháp cần phải hiểu điểm này cho rõ ràng.

Những kẻ có khuynh hướng phân chia tông phái thì cho rằng Pháp-môn Niệm Phật cao nhất, còn Tham Thiền là không đúng; cũng có người nói Tham Thiền là pháp cao nhất, còn Niệm Phật là sai lầm, những ai có quan niệm như thế đều là những người chưa hiểu rõ Phật Pháp. Phải biết rằng:

Nhất thiết giai thị Phật Pháp, giai bất khả đắc.

(Tất cả đều là Phật Pháp, đều không thể chứng đắc.)

Ðã "không có pháp gì có thể chứng đắc được," hà tất phải chấp trước thêm những thứ không nên chấp trước, đương không có chuyện lại tìm thêm chuyện, hoặc gây ra chuyện.

Nếu các bạn thật sự hiểu rõ pháp, thì "không có pháp gì có thể chứng đắc được." Song le, đối với những ai không hiểu Phật Pháp mà mình nói rằng cái gì cũng hoàn toàn không có cả thì họ sẽ thất vọng. Do đó, Ðức Phật dạy Quyền Pháp (Giáo pháp quyền biến, tạm thời) để đưa về Thực Pháp (Pháp chân thật) và thuyết giảng Quyền Trí để dẫn về Thực Trí.

Vậy, Thực Trí là gì? Thực Trí là một "quy vô sở đắc," trở về lại chỗ không chứng đắc. Thứ tướng chân thật, không có hình tướng, nhưng cũng chẳng có "không có hình tướng," mới chính là trí huệ chân thật vậy!

 


Dùng Sáu Căn Niệm Quán Âm

 

Khi niệm hồng danh Ðức Quán Thế Âm, chẳng những miệng niệm phải rõ ràng mà tâm mình cần phải nhớ giữ cho sáng tỏ. Phải dùng tất cả sáu căn : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý - mà niệm. Ðem toàn thân toàn ý chuyên chú mà niệm Ðức Quán Thế Âm. Ðó gọi là thâu nhiếp sáu căn, chuyên tâm thâm nhập.

Nơi Viên Thông Chương của Ngài Ðại Thế Chí dạy rằng : 'Thâu nhiếp sáu căn, xâu kết không gián đoạn chuỗi niệm thanh tịnh thì sẽ đắc được Tam-ma-địa. Ðây là phương pháp hay nhất. 'Thật vậy đoạn kinh trên dạy mình đem sáu căn cột giữ vào một chỗ, không tán loạn, bắt chúng phải phục tùng theo, nghe lời mình. Khi đó mình biến sáu tên giặc (tức sáu căn) này thành sáu vị Hộ Pháp. Cho nên thâu nhiếp là làm cho sáu tên giặc chịu phép nhu thuận, biết nghe lời, không còn dám tác quái nữa.

Vì sao khi niệm Quán Thế Âm mình chẳng chuyên nhất đặng? Là bởi vì mình không chịu thâu nhiếp, không chế ngự sáu tên giặc này. Rồi cứ để chúng tạo sóng tạo gió, dẫn khởi vọng tưởng cuồn cuộn nổi lên.

Khi đã cột giữ được sáu căn thì mình phải xâu hết không gián đoạn chuỗi niệm thanh tịnh. Niệm thanh tịnh phải giữ nó liên tục như sóng nước : sóng sau sóng trước không ngừng nghỉ vậy. Chuỗi niệm thanh tịnh tức là niệm Ðức Quán Thế Âm. Mình phải niệm không gián đoạn không ngừng nghỉ. Niệm cho tới lúc 'tương ưng' thì đó là đắc Tam-ma-địa. Tam-ma-địa nghĩa là Chánh Ðịnh Chánh Thọ.

Ðây là pháp môn viên thông hay nhất vậy. Khi mình có trình độ cảm nghiệm cảnh giới như trên tức là mình có thể dùng sáu căn mà trì niệm đức Quán Âm vậy.

Khi cảm nhận đặng cảnh giới Tam-ma-địa thì mới gọi là đắc niệm Quán Âm Tam Muội. Kẻ được như vậy mới được gọi là đã Quán Âm Thất ! Chưa được Niệm Quán Âm Tam Muội, thì chưa là kẻ thật đả thất ! Kẻ nhập tam muội thì từ sáng đến tối, miệng niệm tâm trì danh hiệu Quán Thế Âm mà chẳng biết, chẳng hay gì đến quá khứ, hiện tại hay vị lai. Y hoàn toàn quên bãng, bặt mất ý niệm về thời gian.

Khi tinh thần tập trung niệm Quán Âm, mọi phiền não tự nhiên sẽ tiêu tan mất. 'Mình ăn cơm chưa hè? Không nhớ!' Vì sao thế? Vì y niệm Quán Âm mà! 'Mình mặc áo quần đàng hoàng chưa hè? Không nhớ nữa!' Vì sao thế? Vì y dốc lòng niệm Quán Âm đó!

Cho nên, nếu mình có thể quên bẵng đi 3 chuyện : ăn uống, áo quần, ngủ nghỉ thì tam muội sẽ hiện tiền. Vì tâm chẳng còn vô minh, phiền não, vọng tưởng. Do đó hãy niệm Quán Âm cho rõ ràng; lòng vui vẻ hoan hỷ coi niệm Quán Âm là việc sung sướng tự tại nhất. Ðược vậy thì dù bịnh, bịnh cũng lành; có đau, đau cũng hết. Dù bụng đói, cũng cảm thấy no; dù thiếu ngủ cũng thấy khỏe. Ðây cũng chính là đi vào cảnh giới Niệm Quán Âm Tam Muội.

Niệm Quán Âm Nhiều Thêm

Vọng Tưởng Bớt Ít Ði

Niệm Quán Âm tức là quét dọn rác rưởi trong lòng mình.

Niệm một tiếng Quán Âm, thì bớt đi một vọng tưởng.

Niệm hai tiếng Quán Âm, thì bớt đi hai vọng tưởng.

Niệm vạn tiếng Quán Âm, bớt đi vạn vọng tưởng.

Có người hỏi : 'Thầy dạy sai rồi ! Khi tôi niệm Quán Âm lòng tôi vọng tưởng cũng dấy lên, e vọng tưởng còn nhiều hơn cả niệm Quán Âm.'

Bản lĩnh của vị này cao cường lắm ! Bởi vì y có thể vừa niệm Quán Âm vừa nghĩ loạn xạ. Kỳ thật, y chẳng phải niệm Quán Âm đâu, bởi vì tâm y nào có ở chỗ đó đâu. Tuy nhìn nhưng y chẳng thấy, tuy nghe mà y chẳng lắng. Tuy cùng đại chúng niệm Quán Âm nhưng y chẵng chú ý đến Quán Âm. Chính bởi do không chú ý, chú tâm đến Quán Âm nên vọng tưởng loạn lên. Khi vọng tưởng nổi dậy thì miệng cũng quên niệm Quán Âm. Hễ quên niệm Quán Âm thì vọng tưởng lại càng dấy khởi. Ðó là thứ tu lấy lệ chớ không phải là tu chân thật.

Lúc nào mình không niệm Quán Âm thì lúc đó mình hòa với bụi bặm, trộn với bùn lầy : Cứ bị người xung quanh đủa đảy, chẳng có định tâm gì cả. Tới lúc niệm Quán Âm thì chẳng được tương ưng, tiếng niệm yếu ớt, khí lực bạc nhược.

Ðây, lúc niệm Quán Âm mắt phải nhìn hướng tới Ngài, lòng tưởng nhớ Ngài, xem Bồ Tát thực sự luôn luôn hiện hình ở trước mặt mình. Ðức Bồ Tát ngàn mắt ngó mình, ngàn tai nghe mình, ngàn tay hộ mình. Miệng niệm Quán Âm, tai phải nghe cho rõ ràng. Rồi lại đem tiếng niệm nghe nơi tai, chuyển đạt vô đáy lòng. Khi lòng tiếp nhận tiếng niệm Quán Âm thì tức là mình đã thỉnh Ngài Quán Âm vào tâm tư rồi đãy. Có Ngài Quán Âm ngự trong lòng thì sao mình có thể loạn tưởng, nghĩ xằng đặng! Cho nên niệm Ngài Quán Âm là phương thuốc thần trị bịnh vọng tưởng.

Hễ lòng thanh tịnh, thì mình tự tại.

Khuyến Tu Tịnh Ðộ Trung

Niệm Phật mà niệm không gián đoạn,

Miệng niệm Di-Ðà lòng chuyên nhất,

Chẳng khởi tạp niệm đắc tam muội,

Chắc rằng cõi Tịnh có ngày về.

Trọn ngày nhàm chán cõi Ta Bà,

Lòng đối hồng trần thêm lạnh nhạt.

Cầu sanh Cực Lạc, ý sâu dầy,

Rũ sạch cấu nhơ, giữ trắng lòng.

 


Niệm Phật Giống Như Gọi Ðiện Thoại

Nếu mình không gọi điện thoại,

đâu ai trả lời.

 

Niệm niệm chân thành niệm niệm thông,

Mặc mặc cảm ứng, mặc mặc trung.

Trực chỉ sơn cùng thủy tận xứ,

Tiêu dao Pháp-giới nhậm Tây Ðông.

Nghĩa là:

Niệm niệm chân thành, niệm thấu suốt,

Lặng lặng cảm ứng, lặng trung dung.

Ðến khi núi mòn sông cạn hết,

Tiêu diêu Pháp-giới khắp Ðông Tây.

Không biết quý-vị có liễu ngộ được chân nghĩa của bài kệ vừa rồi hay chăng?

"Niệm niệm chân thành, niệm thấu suốt," chữ niệm đầu tiên nói lên ý niệm do tâm phát ra. Chữ niệm thứ hai là chỉ ý niệm do miệng thốt ra. Nếu chỉ có ý niệm thứ nhì, tức là ý "niệm" phát ra từ nơi miệng thì không còn là ý niệm chân thành. Cho nên tâm khẩu cần phải chân thành khi niệm danh hiệu Phật Bồ-tát. Chúng ta cần niệm đến chỗ tâm và miệng hợp nhất, một mà không hai. Chúng ta không thể tùy tiện mà niệm, cũng không thể niệm một cách tán loạn, và càng không nên niệm một cách tạp nhạp với nhiều vọng tưởng của mình. Nếu mình làm được như vậy thì mới gọi là chân thành được.

Có được ý niệm chân thành thì nhất định sẽ được cảm ứng. Cảm ứng đó là gì? Là sự tương thông giữa tâm phàm phu của mình với tâm sáng lạng của chư Phật Bồ-tát. Ðó gọi là:

Quang quang tương chiếu;

Khổng khổng tương thông.

Nghĩa là:

Ánh sáng này chiếu ánh sáng kia;

Lỗ lông này thông lỗ lông kia.

Tại sao có được cảm ứng như vậy? Giống như khi gọi điện thoại, bên này có quay số, bên kia mới trả lời. Niệm danh hiệu Bồ-tát cũng vậy, sẽ có lúc Bồ-tát hỏi mình rằng: "Thiện nam tử, thiện nữ nhân, các vị cần điều chi?" Lúc đó mình cầu gì sẽ được nấy. Nếu thiếu thành tâm thì cũng như điện thoại có năm số, mà mình chỉ quay có ba số rồi ngừng tay, làm sao đường dây có thể thông được. Niệm danh hiệu Bồ-tát cũng vậy, nếu mình niệm một chốc rồi ngừng lại, đó là thiếu thành tâm. Nhất định không có chuyện cảm thông được.

Chỉ ai có cảm ứng mới nhận biết sự "quang quang tương chiếu" này. Cũng như khi gọi điện thoại, phải nhấc ống nghe lên mới nghe rõ người bên kia đầu dây. Vì phàm phu không sao thấy được luồng sóng qua lại của điện thoại nên bài kệ nói rằng: "Im lặng cảm ứng, im lặng trung dung."

Còn nói đến: "Núi mòn, sông cạn hết" là chỗ mà "Bách xích can đầu trùng tiến bộ. Tán thủ thiên không biệt hữu thiên." Nghĩa là: Ðầu sào trăm trượng cứ bước tiếp. Duỗi tay trời sập: một trời mới. ý nói rằng: ở nơi đầu sào trăm trượng, mình buông tay thì ngoài trời kia còn có bầu trời khác. Khi mình niệm đến chỗ sơn cùng thủy tận, thì lúc đó mình niệm mà không niệm bởi vì niệm và mình đã thành một khối. Ðó là lúc mình có thể "Tiêu dao Pháp-giới, nhậm Tây Ðông." Thí dụ khi mình muốn vãng sinh Cực-lạc thế giới thì tức khắc được như ý. Nếu muốn "đảo giá từ hàng," trở lại độ chúng sinh thì mình cũng có thể ứng nghiệm; từ thế giới Cực-lạc mà trở lại thế giới Ta-bà, hoặc đến tất cả Pháp-giới khác. Không chỗ nào mình muốn tới mà chẳng đặng, nên nói rằng "nhậm Ðông Tây" chính là:

Nhất như ý, nhất thiết như ý.

Nhất tự tại, nhất thiết tự tại.

Nghĩa là:

Một việc như ý, muôn việc như ý,

Một việc tự tại, muôn việc tự tại.

Cho nên người học Phật lúc nào cũng phải chân thành. Nếu mình không như vậy tức là hư ngụy, là thứ: "Khai không hoa, bất kết quả" tức là nụ hoa giả có nở ra cũng không sao kết trái được. Học Phật cần nhất là đừng tự dối mình.

Thêm vào đó, cổ nhân lại có câu: "Quân tử cầu chư kỷ, tiểu nhân cầu chư nhân." Nghĩa rằng người quân tử thì tìm đáp án nơi chính mình, dựa vào năng lực của mình, còn kẻ tiểu nhân thì nương tựa, cầu cạnh kẻ khác. Chúng ta không thể có tâm ỷ lại, phải biết rằng sự cảm ứng là tự mình chiêu cảm lấy, không do nơi khác. Có người nói: "Niệm Phật để được sinh Tịnh-độ; như vậy nhờ Phật mới được tiếp dẫn." Câu nầy có thể đúng nhưng cũng có thể không đúng. Tại sao vậy? Bởi vì thuyết tiếp dẫn do đối căn cơ mà lập. Ðối với chúng sinh còn đầy lòng tham, luôn hy vọng chỉ dùng ít sức mà hoạch kết quả lớn; hay thích cho vay ít lấy lãi nhiều, thánh nhân do đó phải tùy cơ ứng biến, nói rằng Phật lực tiếp dẫn với mục đích là muốn chúng sinh nổ lực niệm Phật. Kỳ thật kẻ niệm danh hiệu Phật Bồ-tát mà được vãng sinh Tịnh-độ đều hoàn toàn do dựa vào sức lực của chính họ.

Niệm Phật nào phải do Phật niệm giúp mình đâu! Khi muốn niệm danh hiệu Bồ-tát, có phải là ý niệm đó xuất phát từ Bồ-tát không? Nếu không thì làm sao gọi là nhờ vào tha lực được? Ðây giống như là Phật và Bồ-tát phóng quang gia bị cho mình. Ðó cũng là sự cảm ứng do công đức mình niệm Phật Bồ-tát. Ðem chuyện gọi điện thoại ra ví dụ thêm lần nữa, nếu mình không nhấc điện thoại quay số thì đâu ai có thể tiếp chuyện cùng mình? Niệm Phật cũng đồng đạo lý như vậy.

Kỳ thật, tâm niệm hy vọng Phật tiếp dẫn mình vãng sinh Tịnh-Ðộ thực ra là tâm tham, tâm ỷ lại, là cái tâm mình không muốn có. Khi tu hành, phải tự dựa vào năng lực của mình, phấn chấn tinh thần, dũng mãnh tinh tấn; phải biết quả báo không phải là kẻ khác mang đến mình. Cho nên niệm Phật không thể nói rằng nhờ Phật lực tiếp dẫn được.

Cổ nhân có câu: "Tướng tướng bổn vô chủng, nam nhi đương tự cường." Nghĩa rằng các vị tướng không phải sinh ra đã thành, kẻ nam nhi phải tự lực tự cường. Chúng ta học Phật cũng phải có tâm khí như vậy:

Phật-đà bổn vô chủng,

Chúng sinh đương tự cường.

Nghĩa là:

Ðức Phật không do chủng tộc nào thành,

Chúng sinh phải tự lực tự cường.

Nếu không như vậy suốt ngày cứ ỷ lại vào uy lực của Phật thì cũng như là những người con của tỷ phú, ỷ lại nơi di sản của ông cha mình, rồi rốt cuộc tự mình sẽ hại mình mà thôi. Cho nên quý-vị mau mau tỉnh ngộ.

Giảng ngày 16 tháng 6 năm 1985


Ðừng Chờ Ðến Lúc Khát

Mới Ðào Giếng

Ai bảo mình lúc chưa bịnh,

toàn làm việc hồ đồ,

không biết lo gìn giữ thân.

 

Bịnh hậu thủy tri thân thị khổ,

Tử hậu phương tri thác dụng tâm.

Nghĩa là:

Bịnh rồi mới biết thân nầy khổ,

Chết xong mới rõ lầm dụng tâm.

Ðây là bịnh thông thường của chúng sinh: Khi chưa bịnh thì thế gian nầy thật hết sức sung sướng và đầy đủ. Ðến khi bịnh, không động đậy được, không ăn uống được, mất hết tự do, chịu đủ thứ thống khổ khó nhẫn, lúc đó mới biết rằng nguyên nhân cái khổ là do thân nầy mà ra. Nhưng lúc biết vậy thì đã quá trễ. Nên nói:

Lâm nhai lạc mã thu cương vãng.

Thuyền đáo giang tâm bổ lậu trì!

Nghĩa là:

Ngựa đến vực thẳm, thâu cương thì quá trể.

Thuyền tới giữa dòng, vá lỗ chậm lắm thay!

Ai bảo lúc chưa bịnh, cứ làm việc hồ đồ, không biết lo giữ gìn thân mình. Bịnh khổ như vậy, hà huống chuyện lớn sinh tử.

"Tử hậu phương tri thác dụng tâm," chết rồi mới biết mình dùng tâm sai lầm. Bình thường mình không chịu kiểm điểm, đến khi xuống tới Diêm-vương mới biết rằng, lúc sinh tiền mình làm những chuyện không chính đáng, những chuyện sai lầm. Lúc sống thấy người niệm Phật, thì mình phỉ báng, nói rằng họ mê tín; cười cho là họ ngu si. Bây giờ có hối hận thì đã muộn rồi! Sự đau khổ trong núi kiếm và vạc dầu như thế nào, tự mình chiêu cảm lấy. Cho nên "Ngựa khi đã tới bờ vực thẳm mới gò cương thì quá trể. Thuyền đến giữa dòng rồi mới vá chỗ thủng thì quá chậm." Cho nên ai kêu mình không chịu chuẩn bị tương lai.

Vì thế Chu Tử nói rất hay: "Nghi vị vũ nhi trù mâu, vật lâm khát nhi quật tĩnh." Nghĩa là khi trời chưa mưa thì mình phải lo sắp đặt trước; thí dụ như sửa mái nhà. Khi chưa mưa xuống mình phải mau mau chuẩn bị đối phó những chuyện sẽ xảy ra lúc trời mưa. Như ở miền bắc Trung Hoa vì những cửa sổ làm bằng giấy, nên trước khi mưa, cửa sổ cần dán kín. Nếu cửa không dán kỹ trời mưa sẽ ướt đồ vật bên trong. Ðợi mưa mới đi dán cửa sổ thì đã quá muộn rồi. Ðừng chờ tới lúc khát rồi mới đào giếng. Như những người ở nơi xa xăm không có ống nước dẫn nước lại, họ phải nghĩ cách để giải quyết vấn đề cung cấp nước. Không phải chờ đến lúc khát rồi mới đi đào giếng; như vậy thì quá trể.

Mình học Phật cũng vậy, phải hiểu rằng mọi sự vô thường, không ai thoát được cái chết. Tại sao mình không lo chuyện hạ thủ công phu để giải quyết cái chết? Cho nên:

Nhược yếu nhân bất tử,

Tiên hạ tử công phu.

Nghĩa là:

Mình nếu muốn không chết,

Thì phải tu hết mình.

"Tử công phu" (tu hết mình), có nghĩa là giống như ngày hôm nay mình đả thất, niệm danh hiệu Bồ-tát. Ðả thất, thứ nhất là cầu thế giới hòa bình; thứ hai là vì chuyện về sau của chính bản thân mình. Thế cũng giống như chưa mưa mà mình đã chuẩn bị trước. Mình đả thất thì năm nào cũng phải tham gia, không thể gián đoạn, như vậy mới có thể kết được đại nhân duyên với A Di Ðà Phật và Quán Thế Âm Bồ-tát. Mình cần phải niệm Ðức A Di Ðà Phật tới độ là coi Ngài như sư phụ của mình, xem Ngài Quán Thế Âm Bồ-tát như là người bạn của mình. Nếu như được làm đệ tử của Phật, làm bạn của Bồ-tát, trải qua nhiều năm tháng, tự nhiên mình cũng sẽ trở thành bạn thân của các vị đó. Như vậy thì chư Phật Bồ-tát sẽ tiếp dẫn mình về thế giới Cực-lạc vào phút cuối cùng. Quý-vị đừng nên hồ nghi, bởi vì:

Tu Ðạo chi nhân tâm mạc nghi,

Nghi tâm nhất khởi tiền đồ mê.

Nghĩa là:

Lòng người tu Ðạo chớ ngờ nghi,

Nghi ngờ nổi dậy liền mờ mê.

Nghĩa là người tu Ðạo chớ có tâm nghi ngờ, khi lòng nghi nổi dậy thì đi vào sự mê mờ. Chúng ta nên nghe lời của thiện-tri-thức, không nên có lòng nghi ngờ. Thí dụ như thiện-tri-thức nói tu hành cần phải có khổ công, thì mình phải tin như vậy. Nếu mình có lòng tin một cách triệt để nhất định sẽ được minh tâm kiến tánh, phản bổn hoàn nguyên. Do đó mình phải thường nghe lời chỉ dạy của bậc thiện-tri-thức. Nếu vị đó dạy mình "niệm Phật" thì mình nhất định phải theo lời mà niệm Phật; nếu vị ấy dạy mình "đừng buông lung" thì mình không được buông lung, đó là yếu quyết của việc tu Ðạo vậy.

Như đã nói trên: "Bịnh rồi mới biết thân này khổ." Bởi vì con người mà không trải qua một cơn bịnh khổ thì không chịu phát tâm tu hành đâu. Do vậy, kẻ chưa bịnh thì không hiểu sự thống khổ.

Lại có câu rằng: "Phú quý tu đạo nan." Nghĩa rằng người giàu tu đạo rất khó, bởi vì việc gì cũng như ý cả thì làm sao họ nghĩ đến chuyện tu. Do đó nghèo với bịnh là thứ trợ duyên cho việc tu Ðạo. Bịnh đến thì mình đừng âu lo, nghèo khốn cũng chớ ưu sầu. Có bài kệ như sau:

Ngã kiến tha nhân tử,

Tử tâm nhiệt như hỏa,

Bất thị nhiệt tha nhân,

Tiệm tiệm luân đáo ngã.

Nghĩa là:

Ta thấy người ấy chết,

Lòng ta nóng như lửa,

Chẳng phải nóng cho người,

Mà từ từ lửa tới ta.

Nghèo khốn hay bịnh hoạn hẳn nhiên giúp mình trưởng dưỡng tâm tu Ðạo. Cũng như khi thấy người khác nghèo khốn, bịnh khổ, già chết, mình cũng phải phát tâm như thế. Ðời người giống như: "Trường giang, hậu lãng thôi tiền lãng." Nghĩa là "Sông Trường giang, sóng sau đẩy sóng trước." Nếu mình kịp thời phát nguyện vãng sinh, lúc gần chết, mình sẽ có sự chuẩn bị. Không vậy, lúc ấy mình hoảng sợ không biết cách đối phó. Giống như đất nước nếu không trải qua một cơn biến loạn thì nhân dân chỉ thích sống trong cảnh sung sướng an lạc, không màng đến chuyện bảo vệ đất nước. Hiện tại Phật-giáo cũng như vậy, người ta không nghĩ cách để phục hưng Phật-giáo, nên Phật-giáo đi vào tình trạng ủy mị.

Vì vậy mình phải đề xướng Phật-giáo; trách nhiệm không phải chỉ ở các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, mà ở tại mỗi tín đồ Phật-giáo. Nếu như mỗi người chúng ta đều tự nhận trách nhiệm, thì lo gì Phật-giáo không phát triển! Hiện tại có những tín đồ Phật-giáo cho rằng đạo Phật không bằng những ngoại đạo thời nay, chẳng những họ không dám nhận mình là Phật-giáo đồ, thậm chí còn a dua với kẻ khác chê bai Phật-giáo là mê tín. Quý-vị thấy như vậy có phải là đáng thương lắm không? Giống như ở Cửu Long (Kowloon) nơi Ðạo Phong Sơn có một đoàn thể ngoại đạo chuyên thu nạp những Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni trong Phật-giáo, tới đó để trải qua một phiên cải tạo làm cho họ mất đi gốc gác rồi trở ra phỉ báng Phật-giáo.

Do đó chân chính tin Phật thì dù chết cũng không thay đổi, luôn luôn đề cao chí khí của mình, không vì kẻ khác chê cười, không vì lợi ích mà thay đổi chí của mình. Nếu như mọi người không quên mình là tín đồ Phật-giáo thì Phật-giáo chắc chắn sẽ phục hưng.

Tuy những thứ ngoại đạo hiện đang hưng thịnh, nhưng chỉ nhất thời mà thôi. Bởi vì thiên đạo thì tuần hoàn: Vật tới cùng cực thì sẽ quay ngược lại. Quý-vị đừng để cái vẻ bên ngoài của chúng làm dao động tâm trí mình. Chân lý thì bất diệt, sự phục hưng của Phật-giáo thì hoàn toàn dựa vào nỗ lực của đại chúng.

Giảng ngày 17 thánhg 6 năm 1958

 


Niệm Danh Hiệu Bồ-Tát

có thể Minh Tâm Kiến Tánh

Tâm tánh của chúng sinh, luôn luôn quang minh lỗi lạc. Chẳng qua là vì bị vô số tội chướng, vọng niệm, làm cho lu mờ đi thôi.

 

Bản tính của chúng sinh thì thích sướng, ghét khổ. Do vô minh che đậy nên chúng sinh không biết cách để đạt tới sự an lạc sung sướng, thoát ra khỏi sự thống khổ. Do đó, tuy rằng miệng luôn nói là truy cầu sự an lạc nhưng, bất hạnh thay, hễ càng tìm kiếm thì càng thêm thống khổ.

Bồ-tát là người có lòng từ bi quảng đại, đã giác ngộ, biết được làm thế nào để ly khổ, đắc lạc. Vì vậy đối với chúng sinh đau khổ, đáng thương xót, Ngài phát tâm nguyện đại bi rộng lớn, tầm thanh cứu khổ. Nên chúng sinh mình không phải là hoàn toàn tuyệt vọng. Chỉ cần mình có lòng thành khẩn, niệm tụng "Nam Mô Quán Thế Âm Bồ-tát," thì Ngài sẽ dùng pháp lực vô biên để độ thoát, giúp mình ly khổ, đắc lạc. Sự an lạc này là sự an lạc cứu cánh, là sự an lạc ở Tây-phương Cực-lạc. Do vậy, nói rằng niệm danh hiệu Bồ-tát không những được thoát ly khỏi sự thống khổ của thế giới nầy, mà mình còn được vãng sinh về thế giới Cực-lạc, khi hoa khai kiến Phật, tới được chỗ an lạc thanh tịnh cứu cánh nhất.

Niệm Bồ-tát có thể ly khổ, có thể làm cho mình liễu ngộ tâm tánh. Phải chăng có một việc quá dễ dàng như vậy? Nhiều chúng sinh còn ngu tối, đặt ra câu hỏi nầy. Bồ-tát quả phát tâm muốn làm chuyện tiện nghi cho chúng sinh, nên Ngài mới nói ra pháp môn phương tiện như vậy. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều chúng sinh, dầu với sự dễ dàng tuyệt đỉnh kia cũng không nhận thức được. Thật đáng tiếc thay!

Có người lại nói rằng: "Niệm danh hiệu Bồ-tát thì có thể tiêu trừ được tội khổ, đó là điều tôi tin tưởng. Nhưng làm sao niệm Bồ-tát lại có thể làm cho tôi minh tâm, kiến tánh được?" Vài ngày trước, tôi có nói ví dụ về chuyện đánh điện thoại. Bây giờ, lại kể cho quý-vị nghe một ví dụ khác còn đơn giản hơn.

Ví như có một người bị bịt mắt, chỉ thấy bốn bể tối đen. Người đó đi tới đâu, nếu không đụng phải vào tường thì cũng va vô vách, làm cho sứt đầu bể trán, khổ không thể nói được. Nhưng, tự y lại không biết thế nào để tháo tấm khăn bịt mặt kia ra. May thay, y gặp được một người có lòng từ bi, trông thấy y tội nghiệp như vậy, liền giúp y mở khăn bịt mắt ra. Nhờ đó, từ chỗ không thấy đường, nay hắn ta có thể thấy mọi sự, không còn khổ sở, cũng không phải đi đụng vào tường, vào vách như xưa.

Ðạo lý niệm Bồ-tát để được minh tâm kiến tánh cũng tương tự như vậy. Chúng sinh, y hệt như người bị bịt mắt kia, xưa nay mắt đâu bị mù, chẳng qua chỉ bị che kín mà thôi. Tâm tánh của chúng sinh cũng như vậy, xưa nay vẫn không mất mát, luôn luôn quang minh lỗi lạc. Chẳng qua là vì bị vô số tội chướng, vọng niệm, làm cho lu mờ đi thôi. Bồ-tát cũng giống như người có lòng từ bi kia. Ngài giúp mình giải trừ nghiệp chướng đã che đậy bản tánh quang minh trong tâm mình; để mình có thể phản bổn, hoàn nguyên; khôi phục lại bản lai diện mục.

Cho nên, mình không thể không niệm danh hiệu Bồ-tát được. Bởi vì, giống như người bị bịt mắt kia, nếu không cầu kẻ khác, không chịu tiếp nhận sự giúp đỡ của kẻ khác, thì đừng nói là vẫn cứ phải đi đụng vào tường, mà còn có khi đi lạc lối, rơi xuống hố thẳm, nguy hại đến tánh mạng nữa.

Ở đời nầy, số người có tội ác thì nhiều vô kể. Nếu như không cẩn thận, lỡ một mai lạc bước, rơi xuống vực sâu tội lỗi, mất đi thân người, thì muôn vạn kiếp khó mà tìm lại được, mang hận ngàn đời. Các vị cư sĩ! Hãy mau mau tiếp thọ sự khuyên dụ của đức Bồ-tát mà thường xuyên niệm tụng danh hiệu Ngài để được cứu độ ra khỏi chốn biển khổ sanh tử này.

Giảng ngày 17 thàng 6 năm 1958

 


 

Quán Thế Âm Bồ Tát Là Huynh Ðệ Của Chúng Ta

 

Chúng ta ngày ngày niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, song "Quán Thế Âm" nghĩa là gì? "Quán" là quán xét âm thanh ở thế gian. "Quán" cũng là nhìn, nhưng không phải nhìn bên ngoài, mà là nhìn tâm của chúng sanh, xem chúng sanh nào tâm không còn vọng tưởng lăng xăng. Không còn vọng tưởng, tâm rỗng không, tức là khai ngộ. Do đó câu kệ nói rằng:

"Thập phương cùng tụ hội,
Ðồng học Pháp Vô-vi."

Niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát cũng là một pháp vô vi. "Vô vi" là không làm nhưng chẳng gì là không làm--tức là dạy chúng ta chớ khởi vọng tưởng vậy.

Khi bạn niệm "Nam Mô Quán Thế Âm Bồ-tát" thì Quán Thế Âm Bồ-tát cũng niệm bạn--hai bên cùng niệm nhau giống như bạn nhớ tưởng người thân, thì người thân của bạn cũng nhớ tới bạn vậy. Chúng ta và Quán Thế Âm Bồ-tát, từ vô lượng kiếp đến nay, chính là bà con trong Ðạo-pháp, thân thích trong Phật-pháp. Bà con kể từ lúc nào? Tính từ thời Ðức Phật A Di Ðà đấy! Ðức Phật A Di Ðà là Giáo-chủ cõi Cực Lạc ở Tây Phương và cũng là sư-phụ của Quán Thế Âm Bồ-tát. Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát giúp Ðức Di Ðà hoằng dương pháp môn Tịnh-Ðộ. Chúng ta chính là bạn đồng môn với Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát. Ðức Quán Âm Bồ-tát là vị anh cả đối với tất cả chúng sanh nào chưa vãng sinh cõi Cực Lạc, và do đó, chúng sanh là em của Ngài. Nói như vậy thì rõ ràng Ngài và chúng ta là bà con rất gần. Do đó, hễ mình nhớ tới anh mình, thì anh mình cũng nhớ tới mình. Mình là em của Ðức Quán Âm, và Ðức Quán Âm là anh của mình.

Có người nói: "Tại sao Ðức Quán Âm có thể là anh của mình đặng? Nói như vậy chẳng phải là quá đáng chăng?" Chẳng những Ðức Quán Âm xem chúng ta như em, Ngài còn xem tất cả chúng sanh là em út cả. Nếu không thế, thì sao Ngài lại tầm thanh cứu khổ? Vì sao hễ chúng sanh gặp khó khăn, Ngài liền cứu giúp? Ðó là vì Ngài xem chúng sanh như tay chân ruột thịt của Ngài vậy, cho nên Ngài mới không sợ gian khổ, đi cứu độ tất cả chúng sanh đang đau khổ ở cõi Ta Bà này. Vì thế các bạn chớ quên người anh trong Ðạo-pháp của mình--hễ chúng ta niệm một tiếng Quán Thế Âm Bồ-tát, Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát cũng liền nhớ niệm tới chúng ta.

Khi niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, chính là chúng ta kêu gọi người anh của mình. Khi Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát gọi tên chúng ta, chính là Ngài gọi các đứa em, tức là các Bồ-tát tương lai, các vị Phật tương lai vậy.

Nếu xem Quán Thế Âm Bồ-tát như vậy, chúng ta càng phải thành tâm, càng phải khẩn thiết niệm tên người anh ruột trong Ðạo-pháp này, chớ để lỡ cơ hội. Khi niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát, bạn chớ cúi đầu xuống mà phải ngước đầu lên, biểu thị một tinh thần dũng mãnh, tinh tấn. Chớ làm ra vẻ rũ rượi, lờ đờ. Khi Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát thấy bạn có tinh thần tinh tấn, Ngài sẽ nói với bạn rằng: "Hãy mau nắm lấy tay ta!" Thế rồi, Ngài sẽ đưa bạn tới thế giới Cực Lạc.

Có người nghĩ vẩn vơ rằng: "Tại sao Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát từ sáng đến tối cứ quan sát, quan sát, quan sát hoài, còn tôi thì chẳng được phép nhìn gì cả?" Bạn "nhìn" và Quán Thế Âm Bồ-tát "nhìn," hai cách nhìn khác nhau lắm. Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát nhìn bên trong, còn bạn thì nhìn ra ngoài. Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát nhìn tự tánh. Tâm tánh của Ngài giống như màn ra-đa, hiện ra tất cả mọi chúng sanh. Chúng sanh nào có vọng tưởng gì, Ngài đều biết hết. Ngài nhìn vào màn ra-đa bên trong, khác với cái nhìn của các bạn. Bởi vì chúng sanh ở cách xa Ngài quá, tuy rằng Ngài có ngàn tay ngàn mắt, song nếu dùng để nhìn vô lượng chúng sanh thì cũng không đủ dùng, không đủ nhìn. Do đó Ngài mới hồi quang phản chiếu (xoay ngược ánh sáng, chiếu rọi tự tâm), phản văn văn tự tánh (xoay ngược cái nghe, lắng nghe tự tánh). Ngài quan sát tự tánh của chúng sanh xem ai là kẻ đang chịu khổ; rồi Ngài đi cứu độ chúng sanh ấy. Nhưng bạn thì lại nhìn ra ngoài, quên bẵng trí huệ căn bản của mình. Do đó, cái nhìn của bạn với cái nhìn của Ngài hoàn toàn khác nhau.

Có người lại nghĩ rằng: "Thầy ơi! Tôi không tin điều Thầy khai thị đâu! Vì sao tôi không tin? Vì Thầy nói chúng tôi là anh em với Quán Thế Âm Bồ-tát, song Ngài là bậc thánh còn chúng tôi là phàm phu; phàm phu làm sao có thể là anh em với bậc thánh đặng? Ðiều này không hợp lý nên tôi không tin." Tốt lắm! Bạn không tin cũng được, điều bạn nói cũng có lý. Song, lý lẽ này thuộc tri kiến của kẻ phàm; bởi vì bạn chưa thâm nhập Kinh Tạng, nên chưa có trí huệ rộng sâu như biển.

Kinh Hoa Nghiêm dạy: "Bồ-tát suy nghĩ như vầy: 'Ta với chúng sanh, từ vô thủy kiếp tới nay đã từng là anh em, cha mẹ, chị em, vợ chồng với nhau.' " Bạn nói bạn không tin, chẳng qua là vì bạn không hiểu rõ đạo lý Kinh Hoa Nghiêm đó thôi.

Hơn nữa, chẳng những Bồ-tát nhìn chúng sanh như vậy mà ngay cả Phật, Ngài cũng xem chúng sanh "tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta." Nếu Phật xem chúng sanh như cha mẹ thì tôi nói Quán Thế Âm Bồ-tát xem chúng sanh như anh em, có gì là không hợp lý? Bạn nói bạn không tin, đó là do bạn không đủ trí huệ, thiếu kiến thức hoặc giả cái nhìn của bạn quá hạn hẹp đó thôi.

Vì sao Phật muốn độ chúng sanh? Vì Ngài quan niệm "tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta." Vì cha mẹ của Ngài đang thọ khổ trong lục đạo luân hồi nên bất luận thế nào, Ngài cũng phải cứu họ, khiến họ được ly khổ đắc lạc.

Mỗi ngày chúng ta đều niệm Quán Thế Âm Bồ-tát, đều lạy Quán Thế Âm Bồ-tát; song khi Ngài hiện thân trước mặt chúng ta thì chúng ta lại chẳng hay biết. Do đó chúng sanh chúng ta thật rất đáng thương! Vì sao Quán Thế Âm Bồ-tát hiện ra trước mặt mà chúng ta không hay biết? Ðây là thử thách cho ta (it is our big test). Khi bạn niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, bạn phải học làm sao để được như Ngài vậy. Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát thì có lòng đại từ, đại bi, đại nguyện, đại lực; do đó, khi niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, chúng ta phải học làm sao cho có lòng đại từ, đại bi, đại nguyện, đại lực--ai đối xử xấu với mình, mình chớ động tâm; ai mắng chửi mình, mình phải nhẫn lặng; ai đánh đập mình, mình hãy nhẫn chịu; thậm chí có ai giết hại mình, mình cũng phải chịu, coi như là trả nợ vậy! Thế nào là "trả nợ"? Ví như xưa kia mình không chửi rủa ai, thì sẽ không ai tới chửi rủa mình; xưa mình không đánh đập ai, thì cũng chẳng ai lại đánh đập mình.

Vì sao có kẻ tới chửi rủa, đánh đập hay giết hại mình? Bởi vì xưa kia, khi mình còn si mê, mình đã từng chửi rủa, đánh đập, giết hại người khác; do đó, kiếp này mình gặp phải những hoàn cảnh như vậy, và mình nên cần phải thanh toán cho sạch nợ nần xưa kia. Khi xưa, vì si mê nên mình có nợ mà không trả. Ngày nay hiểu Ðạo, mình phải chân thành trả sạch nợ kia. Hễ mình trả hết nợ thì sẽ thấy đặng Quán Thế Âm Bồ-tát và làm bà con trong Ðạo Pháp với Ngài.

Thế nên, đã niệm Quán Thế Âm Bồ-tát thì khi gặp ai chúng ta cũng chớ tìm lỗi lầm của họ. Hễ cứ xoi mói lỗi lầm của người thì mình chưa hết khổ, chưa chặt đứt gốc rễ đau khổ. Do đó các bạn hãy nhận định rõ ràng mọi cảnh giới, thấu suốt căn nguyên mọi sự. Học Phật-pháp, bạn phải biết vận dụng Phật-pháp. Nếu không biết vận dụng Phật-pháp, thì bất luận bạn tu bao lâu, Phật-pháp vẫn là Phật-pháp, mà bạn vẫn là bạn. Khi biết vận dụng thì bạn nhập làm một với Phật-pháp, không còn ngăn cách gì nữa.

Nhẫn nại là pháp tối trọng yếu. Bạn phải nhẫn được những việc khó nhẫn. Ví dụ, bạn không thích bị chửi rủa, song hễ có ai mắng bạn, bạn hãy vui vẻ nhẫn nhịn. Tuy bạn không thích bị đánh đập, song hễ ai đánh bạn, bạn hãy vui vẻ chịu đựng. Bạn không muốn chết, vì mạng người quý báu lắm; song hễ có ai muốn giết bạn, bạn hãy xem như họ giải thoát một đời nghiệp chướng cho bạn--họ chính thật là Thiện-tri-thức đấy. Các bạn ơi! Khi học Phật-pháp, chúng ta phải đổi ngược thái độ lại mà học, tu Ðạo cũng phải đổi ngược thái độ lại mà tu! Thế nào là đổi ngược thái độ? Tức là hãy thích làm những việc mà xưa kia mình không ưa thích; việc mình chẳng ưa thì chớ bao giờ bắt kẻ khác làm.

Nếu bạn cũng hệt như những kẻ tầm thường khác: chẳng thể nhìn suốt, chẳng thể buông bỏ, chẳng thể dứt trừ sự chấp trước vào cái "tôi" và vào cái "pháp," cứ giữ chặt bốn quan điểm phân biệt mình, người, chúng sinh và thọ-giả thì bạn sẽ có rất nhiều rắc rối phiền hà. Nếu bạn biết lùi một bước thì chuyện gì cũng tự nhiên yên bình như biển lặng trời trong. Khi học Phật-pháp, chớ học đòi thứ cao thâm diệu vợi, vì rằng:

Bình thường tâm thị Ðạo,
Trực tâm thị đạo tràng."

(Tâm bình thường--tâm không dục vọng--là Ðạo,
Lòng thẳng thắn là đạo tràng, nơi tu hành.)

Bởi thế chúng ta cần phải có tấm lòng chính trực, thẳng thắn khi tu hành.

Khi niệm Quán Thế Âm Bồ-tát, bạn chớ có lòng tham lam. Ðừng nghĩ: "Tôi niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, tôi sẽ phát tài!" Ðó là việc không thể có! Khi bạn không tham, giàu sang có thể tới; một khi nảy lòng tham, bạn sẽ chẳng được gì đâu. Khi niệm Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát, bạn đừng khoe khoang: "Tôi tới chỗ nọ chỗ kia tham gia Thất Quán Âm. Bạn chưa hề tham gia thì đâu có bằng tôi!" Các bạn chớ khởi vọng tưởng như thế, cũng đừng ham danh, tham lợi hay thích hưởng thụ sung sướng.

Lúc niệm Quán Thế Âm Bồ-tát, hãy niệm một cách bình thường, chớ cầu cạnh bất kỳ việc gì. Ðừng nên bắt chước những kẻ vừa niệm Quán Thế Âm Bồ-tát vừa nghĩ: "Tôi hiếm muộn không con, cầu xin Ðức Quán Thế Âm Bồ-tát cho tôi đứa con trai." Có người thì xin con gái; cũng có nhiều cậu niệm Quán Thế Âm Bồ-tát để cầu xin có đặng cô bồ xinh đẹp, và nhiều cô niệm Quán Thế Âm Bồ-tát để cầu gặp bạn trai--những việc như thế đều chẳng thể được! Khi niệm danh hiệu Ðức Quán Âm, hãy quét sạch những ý tưởng dơ bẩn ấy đi. Ðừng nên có lòng tham lam, giận dữ hay si mê. Ví như ngày ngày mặc áo, chớ để ý áo đẹp hay không, chỉ cần ấm thân là tốt. Ngày ngày ăn cơm, chớ nảy lòng tham thức ngon vật lạ. Nếu có những ý tưởng ấy, bạn chẳng còn dùng chân tâm để niệm Quán Thế Âm Bồ-tát nữa. Nếu bạn quả thật thành tâm niệm đức Quán Thế Âm Bồ-tát, thì sao lại còn nghĩ tới chuyện ăn ngon, mặc đẹp? Các bạn đã quên những thứ ấy đi từ lâu rồi mới phải chứ! Chỉ có một cách là quên đi mọi chuyện thì chúng ta mới hợp nhất với Quán Thế Âm Bồ-tát đặng.

Trong lòng chúng sanh, ai ai cũng sẵn có một vị Quán Thế Âm Bồ-tát. Bây giờ chúng ta niệm Quán Thế Âm Bồ-tát chính là niệm Ðức Quán Âm ở lòng mình. Có người nói: "Tôi tìm trong tâm, sao chẳng thấy tâm tôi đâu hết?" Nếu bạn không có tâm, bạn chẳng cần niệm Quán Thế Âm Bồ-tát làm gì. Bởi vì chính đó (tức là bạn không có tâm) là Quán Thế Âm Bồ-tát. Quán Thế Âm Bồ-tát chính là sự không có tâm, bởi vì Ngài hoàn toàn không khởi vọng tưởng, cũng chẳng có tham, sân, si. Ngài không bao giờ tính toán hôm nay mặc áo gì cho đẹp, ăn món gì cho thật ngon, hoặc muốn hưởng thụ đồ cúng dường gì. Ngài không chấp trước gì cả, không mong cầu gì hết. Việc Ngài làm là cứu độ chúng sanh, nguyện cho tất cả chúng sanh ly khổ đắc lạc, liễu sanh thoát tử, thành tựu Phật Ðạo. Ngài không mong cầu gì ở chúng sanh cả. Ngài mong cho chúng sanh có thể chân chánh hiểu rõ Phật-pháp, hết sạch tham, sân, si.

Khi niệm Quán Thế Âm Bồ-tát, chớ nghĩ lăng xăng suốt ngày: "Sáng ra chẳng ăn gì cả, tối lại cũng chẳng có trà uống, thật khổ quá mức! Chịu không nổi nữa rồi, mau mau cuốn gói chạy thôi!" Tu hành như vậy thật chẳng có giá trị gì cả!

 


Ðại Thế Chí Bồ Tát

Niệm Phật Viên Thông

Ðại: Ðại là gì? Ðại là trái với tiểu, nhưng ở đây "đại" mà "vô ngoại," nghĩa là chẳng có gì lớn hơn nữa. "Ðại" ở đây là thể của pháp, đồng thời cũng là Phật tánh của chúng sanh. Ðó là "đại nhi vô ngoại," "tiểu nhi vô nội," bao trùm tận thư không gồm hết pháp giới.

Do đó nói rằng Ðại Thế Chí Bồ Tát làm một động tác như đưa tay lên hoặc bước tới một bước, thì thập phương thế giới đều rúng động. Uy lực của Ngài vô cùng lớn lao, cho nên gọi là "Ðại Thế Chí." Bởi vậy khi Ngài di động, cả mười phương thế giới đều rúng động. Có người thắc mắc: "Ngài thường đi đây đi đó hay không?"

Quý Phật tử chớ nên bận tâm về việc này, vì một khi Ngài Ðại Thế Chí di chuyển thì thập phương thế giới thường chấn động, do đó Ngài thường ở trong đại định. Tuy nhiên, mặc dù Ngài nhập định nhưng Ngài vẫn có mặt cùng khắp, hào quang của Ngài chiếu sáng cùng khắp, trí tuệ của Ngài cũng ở cùng khắp.

Quý Phật tử cũng chẳng nên nghĩ rằng: "Oh!" "Ngài Ðại Thế Chí Bồ Tát nhất định là một vị rất quê mùa, thô lổ. Nếu không như thế thì bước chân của Ngài đâu có thể làm chấn động thập phương thế giới? Nhất định bước chân của Ngài rất nặng nề."

Chẳng phải như thế đâu. Không phải bước chân của Ngài nặng nề như quý vị suy đoán. Quý vị không nên lấy cái tri kiến của phàm phu mà suy đoán Thánh nhơn. Chẳng qua là oai đức của Ngài làm chấn động thập phương thế giới. Không những Ngài có oai đức to tát như vậy mà Ngài còn có thể dùng năng lực của mình để khiến cho thập phương thế giới được bình an vô sự, chẳng có mảy may chấn động. Cho nên mặc dù Ngài có năng lực như vậy nhưng chưa hẳn Ngài mang quyền lực này ra sử dụng, đó là Ðại Thế Chí Bồ Tát.

Vừa qua tôi đã giảng nghĩa ba chữ "Ðại Thế Chí." "Bồ-tát" là gì? "Bồ-tát" là "bồ dã, giác dã, tình dã." Tức là giác hữu tình. Nói đầy đủ là Bồ Ðề Tát Ðỏa, phạn ngữ là Bodhisattva. Bồ-tát là bậc giác ngộ trong số chúng sanh, cũng có thể nói rằng Bồ-tát là chúng sanh đã giác ngộ.

Làm sao có thể nói Bồ-tát là bậc giác ngộ từ trong chúng sanh? Bồ-tát vốn cũng là chúng sanh như quý vị, như tôi. Chẳng qua là Bồ-tát nguyện phát bồ đề tâm, dũng mãnh tinh tấn, hành Bồ-tát đạo, - xả những gì mà người khác không thể xả bỏ được, nhẫn những gì mà người khác không thể nhẫn được, làm những gì mà người khác không thể làm được, và đem lại lợi ích cho hết thảy chúng sanh. Vì Bồ-tát làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh cho nên mới được giác ngộ, và là một bậc giác ngộ trong số chúng sanh chúng ta.

Bồ-tát vốn chẳng khác gì chúng ta. Chẳng những Bồ-tát giống như chúng ta, mà ngay cả Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn sanh đi sanh lại nhiều kiếp ở nhân địa, thì Ngài cũng là chúng sanh như quý vị, như tôi. Hiện giờ tôi, quý vị và hết thảy chúng sanh đều là chư Phật trong vị lai, cho nên Phật xem hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ trong quá khứ, đều là chư Phật trong vị lai. Quán sát như vậy nên Ngài xem hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ trong quá khứ, do đó đối với mỗi chúng sanh Ngài đều có tâm hiếu thuận. Ngài xem mỗi chúng sanh đều là Phật trong vị lai, do đó Ngài có lòng cung kính đối với mỗi chúng sanh. Ðối với tất cả chúng sanh Ngài vừa có tâm cung kính vừa có tâm hiếu thuận.

Cho nên Ngài đối xử với hết thảy chúng sanh rất bình đẳng, nhìn chúng sanh với đôi mắt từ bi, và cũng trên phương diện này, Bồ-tát là bậc giác ngộ trong chúng sanh. Lại nữa, Ngài mang đạo lý mà Ngài giác ngộ được ra giáo hóa chúng sanh, khiến hết thảy chúng sanh cũng đều giác ngộ như Ngài để được lợi ích, cho nên gọi đó là "tự lợi, lợi tha." Vừa qua tôi đã giải thích đại khái về Bồ-tát.

"Niệm Phật." Tôi xin quý vị hãy nhận thức rõ ràng hai chữ "Niệm Phật" trong chương "Ðại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông." Ý nghĩa của Kinh văn chẳng phải là Ngài Ðại Thế Chí Bồ Tát được thỉnh cầu niệm Phật, mà là Ðại Thế Chí Bồ Tát hiện thân thuyết pháp, dạy chúng ta và hết thảy chúng sanh rằng: "Tôi nhờ pháp môn Niệm Phật mà đắc viên thông. Nếu người nào y theo phương pháp này tu hành thì khả dĩ cũng đắc viên thông." Ngài đã đắc viên thông, Ngài muốn hết thảy chúng sanh đều đắc viên thông như Ngài.

Cho nên "Niệm Phật" ở đây chẳng phải chính Ngài Ðại Thế Chí niệm Phật, vì Ngài đã "Niệm vô sở niệm," - chẳng niệm mà niệm, niệm mà không niệm. Ngài đã đạt mức viên thông này và nhiều kinh nghiệm về pháp môn niệm Phật. Cho nên Ngài dạy chúng ta và hết thảy chúng sanh rằng: "Quý vị có biết chăng? Tôi từ con đường Niệm Phật mà đến. Phương pháp này giúp tôi đắc viên thông, nay tôi truyền cho quý vị, quý vị có thể dùng pháp môn Niệm Phật này mà đắc viên thông."

Niệm Phật có bốn phương pháp:

1. Trì danh niệm Phật

2. Quán tượng niệm Phật

3. Quán tưởng niệm Phật

4. Thực tướng niệm Phật

1. Trì danh niệm Phật:

Trì danh niệm Phật là thường thường chuyên niệm sáu tiếng "Nam Mô A Di Ðà Phật." Lúc tôi ở tại Ðài Bắc tôi gặp một người rất bướng bỉnh. Tôi bảo y niệm Phật, y trả lời: "Niệm Phật nào có lợi ích gì? Thay vì niệm Phật thì để tôi niệm tôi hay hơn." Tôi đáp: "Cũng vậy thôi, nếu ông niệm ông, mà có thể thành Phật được thì cũng được thôi." Chúng ta niệm Phật là vì đức Phật A Di Ðà lúc còn ở nhân địa đã phát bốn mươi tám đại nguyện.

Một trong bốn mươi tám đại nguyện ấy là: "Tất cả chúng sanh trong thập phương thế giới, nếu có người nào xưng danh hiệu tôi thì người đó nhất định thành Phật; nếu người đó không thành Phật thì tôi thề không thành Chánh giác, tôi cũng chẳng thành Phật."

Căn cứ vào lời đại nguyện này, chúng ta chẳng khác gì được đi trên một chiếc thuyền để đến bờ bên kia. Nguyện lực của Phật A Di Ðà chính là bản hợp đồng mà trong quá khứ Ngài đã cùng chúng ta và chúng sanh trong thập phương ký kết với nhau. Cho nên, nếu chúng ta niệm Phật mà chẳng được sanh về thế giới Cực Lạc thì đức Phật A Di Ðà cũng thiếu tư cách để thành Phật. Vì mối quan hệ này cho nên mỗi chúng ta nên thành tâm thực hành pháp môn niệm Phật.

Pháp môn niệm Phật là một pháp môn đơn giản nhất, viên dung nhất, một pháp môn đi tắt chóng thành Phật nhất. Pháp môn này cũng chẳng đòi hỏi nhiều thời gian, chẳng phải hao tốn tiền bạc. Người già cả cũng có thể niệm Phật, người trẻ tuổi cũng có thể niệm Phật, kẻ tráng niên cũng có thể niệm Phật, người bịnh cũng như người khỏe mạnh đều có thể niệm Phật. Theo pháp môn Niệm Phật này thì:

Tam căn phổ bị

Lợi độn kiêm thu

Tam căn phổ bị: Ba căn là thượng, trung, hạ tức là kẻ có trí tuệ, người bình thường, kẻ ngu đần. Cả ba hạng người này đều có thể niệm Phật để được sanh về thế giới Cực Lạc.

Lợi độn kiêm thu: Là bao gồm cả hạng người thông minh nhất (như Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, hai Ngài đều phát nguyện vãng sanh Tịnh Ðộ) lẫn hạng người ngu đần nhất. Ngay cả loài súc sanh như chim anh võ, chim bát ca, chúng đều niệm Phật và cũng được vãng sanh về thế giới Cực Lạc, hà huống là "vạn vật chi linh, như loài người chúng ta" mỗi người niệm Phật đều có hy vọng vãng sanh thế giới Tây Phương Cực-Lạc. Vì Ðức Phật A Di Ðà và chúng ta có ký kết hợp đồng, không lý Ngài đã ký kết rồi bỏ qua hay sao? Cho nên chúng ta dựa vào hiệu lực của hợp đồng này nhất quyết có thể vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực-Lạc vậy.

2. Quán Tượng Niệm Phật:

Quán tượng tức là thỉnh một bức tượng Phật A Di Ðà, rồi vừa niệm Phật vừa quán tưởng tướng hảo trang nghiêm của Phật A Di Ðà, nhất là ánh hào quang tướng bạch hào giữa hai mắt. Thường thường quán tượng để niệm Phật rất dễ đắc Niệm Phật Tam muội, đạt tới nhất tâm bất loạn. Chủ yếu trong việc niệm Phật là đạt tới nhất tâm bất loạn, đắc Niệm Phật Tam muội. Nếu quý vị đắc Niệm Phật Tam muội thì dù có mưa to gió lớn cũng không lay chuyển. Bất luận quý vị đi, đứng, ngồi, hay nằm, nhứt nhứt đều ở trong Tam muội, đi cũng Di Ðà, ngồi cũng Di Ðà; đi cũng Phật, ngồi cũng Phật. Quý vị ở trong Tam muội thì sẽ được thấm nhuần nước trí tuệ. Ðạt tới Niệm Phật Tam muội, nhất tâm bất loạn, thì nhất định sẽ được vãng sanh.

3. Quán Tưởng Niệm Phật:

Quán tưởng tức chỉ đơn thuần quán tưởng, không cần phải có tượng phật trước mặt. Quán tưởng:

A Di Ðà Phật thân kim sắc,

tướng hảo quang minh vô đẳng luân,

bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di,

cám mục trừng thanh tứ đại hải,

quang trung hóa Phật vô số ức,

hóa Bồ-tát chúng diệc vô biên,

tứ thập bát nguyện độ chúng sanh,

cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.

Quán tưởng bài kệ tán Phật này cũng có thể đắc Niệm Phật Tam muội.

4. Thực Tướng Niệm Phật:

Thực tướng niệm Phật tức niệm mà không niệm, không niệm mà niệm, lúc đó hành giả đi vào tham thiền. Cho nên người hiểu rõ niệm Phật chân chính không phản đối tham thiền; người hiểu rõ tham thiền chân chính cũng chẳng phản đối niệm Phật. Chẳng những không phản đối niệm Phật mà cũng chẳng phản đối Giáo Tông, Mật Tông, Luật, Mật, Tịnh nhưng hợp lại thì "nhất tông bất lập," một tông cũng chẳng có, tất cả đều hổ trợ lẫn nhau, tông này cùng tông nọ đều có mối tương quan với nhau.

Chúng ta là chúng sanh chẳng nên tự sanh tâm phân biệt, chẳng nên "đầu thượng an đầu" trên đầu còn đặt thêm đầu nữa, nói rằng: "Thiền tông là Thiền tông, Mật tông là Mật tông, chẳng có tương quan gì cả." Không phải như vậy! Tất cả các tông vốn là một, vốn chẳng có phân biệt quá nhiều như vậy, chỉ vì chúng sanh không có việc chi làm, muốn tìm cái gì để làm, cho nên phân ra đây một tông, đó một tông; nam một tông; bắc một tông; đông một tông; tây một tông, trên một tông, dưới một tông, rốt cuộc chẳng biết tôi thuộc tông nào, ông thuộc tông nào.

Tại Mỹ thường có người hỏi tôi: "Chẳng hay thầy thuộc tông nào?" Tôi đáp: "Chẳng tông nào cả. Nếu tôi thuộc một tông thì tôi đang ở trong một phạm vi hạn hẹp; tôi chẳng thuộc tông nào thì tận hư không, cùng khắp pháp giới đều là của tôi, bao trùm tất cả. Tại sao tôi lại tự vẽ cho mình một phạm vi nhỏ bé, tạo ra một giới hạn chật hẹp, nói rằng mình thuộc một tông nào đó? Tôi thuộc Phật giáo, không có tông mà cũng chẳng có phái lại cũng chẳng có môn mà cũng không có hộ. Tôi với tông nào cũng là một." Tôi thường nói thế này:

Chân nhận tự kỷ thác,

Mạc luận tha nhân phi,

Tha phi tức ngã phi,

Ðồng thể danh Ðại Bi.

(Thành thật nhận lỗi mình,

Chớ bàn luận lỗi người,

Lỗi người tức lỗi mình,

Ðồng thể tức Ðại Bi.)

Hãy nhìn nhận một cách thành thật lỗi lầm của mình, không nên bàn luận lỗi lầm của người khác, kẻ khác có lỗi lầm tức mình có lỗi lầm, lỗi lầm của họ cũng là lỗi lầm của mình, phải tìm cách tự sửa sai mới đúng. Chớ nên bất cứ lúc nào miệng cũng luôn nói: "Không đúng, không đúng, không đúng, không đúng!" Thử hỏi như vậy có ích lợi chi? Cho nên có câu: "Ðồng thể danh Ðại Bi," vì tất cả đều là một thể, đó là đại bi tâm. Quý vị đi đâu để tìm đại bi tâm? Quý vị tìm nó từ bản thân của quý vị, chẳng cần đi tìm cầu bên ngoài.

Như vậy thực tướng niệm Phật tức là tham thiền. Do đó quý vị Thiện tri thức chớ nên làm một đệ tử bất hiếu của Phật Thích Ca Mâu Ni, chớ nên luôn quấy nhiễu, chớ nên gây tổn thương tình ruột thịt, chớ nên tự tạo rắc rối cho mình. Ðó là kỳ vọng của tôi đối với Phật giáo hiện đại.

Bấy giờ, thời gian không cho phép chúng ta tiếp tục. Quý vị Phật tử cần về nghỉ ngơi để ngày mai kẻ đi làm, người bận việc khác, ép buộc tinh tấn thái quá cũng chẳng tốt. Mong quý vị về nhà nếu trằn trọc chưa ngủ được thì hãy niệm Phật. Chúc quý vị Phật tử một đêm an lành.

 


"Niệm Phật năng niệm vô gián đoạn"

Bây giờ chúng ta cùng Quy Y Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo.

Nam Mô Thường Trụ Thập Phương Phật

Nam Mô Thường Trụ Thập Phương Pháp

Nam Mô Thường Trụ Thập Phương Tăng

Kinh Ðại Bảo Tích nói: "Vào thời Mạt pháp, một ức người tu hành chỉ một người đắc đạo cũng rất là hiếm, duy có nương vào niệm Phật mà đắc độ." Tu hành vào thời mạt pháp không dễ gì đắc đạo, duy có nương vào pháp môn niệm Phật mới dễ thành tựu đạo nghiệp.

Ðại Thế Chí Bồ Tát là một trong Tam Thánh ở cõi Tây Phương mà đức giáo chủ là Phật A Di Ðà. Ðức Quán Thế Âm và Ðức Ðại Thế Chí cùng đến giúp Ngài tiếp dẫn chúng sanh về cõi Cực Lạc. Cho nên pháp môn niệm Phật rất được các Ngài đề cao.

Chúng ta niệm Phật cần niệm đến mức nhất tâm bất loạn, đạt tới niệm Phật Tam muội. Muốn đạt tới trình độ này thì phải làm thế nào? Trước tiên phải chuyên nhất, luôn giữ chánh niệm mà trì danh niệm Phật. Cách đây hơn hai mươi năm tôi có viết một bài kệ về niệm Phật, nay xin đọc lại cho quý vị nghe.

Kệ rằng:

Niệm Phật năng niệm vô gián đoạn,

Khẩu niệm Di Ðà đả thành phiến,

Tạp niệm bất sanh đắc Tam muội,

Vãng sanh Tịnh Ðộ định hữu phần,

Chung nhật yếm phiền Ta-bà khổ,

Tài tương hồng trần tâm niệm đoạn,

Cầu sanh Cực Lạc ý niệm trọng,

Phóng hạ nhiễm niệm quy tịnh niệm.

Niệm Phật niệm hoài không gián đoạn,

Hồng danh đồng khởi tại tâm can,

Tạp niệm không sanh tam muội được,

Vãng sanh Tịnh độ có phần sang,

Trọn ngày chán nản Ta bà khổ,

Tâm niệm hồng trần dứt sạch quang,

Cầu sanh Cực Lạc luôn trong ý,

Nhiễm niệm dứt trừ, tịnh niệm toàn.

 

"Niệm Phật năng niệm vô gián đoạn" tức là quý Phật tử có thể niệm Phật đến độ không gián đoạn.

"Khẩu niệm Di Ðà đả thành phiến," tức quý vị luôn niệm sáu tiếng hồng danh, "Nam Mô A Di Ðà Phật," niệm cho đến gió thổi chẳng lọt, mưa tuôn không thấm. Lúc đó mới thực sự đạt tới cảnh giới Niệm Phật Tam muội, cho nên mới nói rằng miệng niệm Di Ðà khư khư chẳng rời.

"Tạp niệm bất sanh đắc Tam-muội," tức là hết thảy tạp niệm đều không nảy sanh, cho nên nói rằng:

Một niệm chẳng sanh toàn thể hiện,

Lục căn thoáng động bị mây che.

Quý vị có thể niệm cho đến một niệm cũng chẳng sanh, thì tạp niệm gì cũng chẳng còn, như vậy ắt đắc niệm Phật Tam muội.

"Vãng sanh Tịnh Ðộ định hữu phần." Một khi đạt tới Niệm Phật Tam muội rồi thì nhất định được sanh về cõi Tịnh Ðộ. Quý vị nhất định có hy vọng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc bốn câu trước đã giải thích qua, sau đây là bốn câu còn lại:

"Chung nhật yếm phiền Ta-bà khổ," tức là Ngày ngày đều cảm thấy cõi Ta bà đầy khổ não, thế giới Cực Lạc rất an vui, cho nên mình hãy luôn nhàm chán cõi khổ Ta bà.

"Tài tương hồng trần tâm niệm đoạn," tức tâm niệm hồng trần mới diệt được. Vì mình chán ghét cái khổ nên muốn được an lạc, hễ muốn có an lạc thì hãy từ bỏ những thú vui vật chất tạm bợ trên thế gian.

"Cầu sanh Cực Lạc ý niệm trọng." Ðiều rất quan trọng là có tâm mong cầu vãng sanh về thế giới Cực Lạc.

"Phóng hạ nhiễm niệm quy tịnh niệm," nghĩa là mình có thể rời bỏ ý niệm nhiễm ô thì là lúc Tịnh Ðộ đã chín muồi. Trái lại, nếu vẫn còn níu kéo cái ý niệm ô nhiễm kia thì nhứt quyết chẳng thể nào vui hưởng sự an lạc thanh tịnh của Thế Giới Cực Lạc được.

Bài kệ tám câu này tuy rất ngắn gọn nhưng nếu ta suy ngẫm kỹ thì rất lợi lạc cho ai tu pháp môn Tịnh Ðộ.

Ðại Thế Chí Bồ Tát đắc niệm Phật "Viên thông": Viên là viên dung vô ngại; thông là thông đạt. Niệm Phật tới mức vừa viên dung lại vừa thông đạt, tức là niệm Phật đến viên mãn, niệm đến thành tựu, đồng thời cũng chứng đắc sự và lý đều viên dung vô ngại. Ðạt được cảnh giới này thì gọi là viên thông.


PHÁP MÔN NIỆM PHẬT
 

PHẬT A DI ĐÀ ĐẤNG ĐẠI PHÁP VƯƠNG

Tại sao chúng ta phải niệm Nam Mô A Di Đà Phật? Vâng! Bởi vì đức phật A Di Đà Phật có nhân duyên lớn với tất cả chúng sanh trong mười phương. Khi còn thực hành Bồ tát hạnh, tức là khi chưa chứng Phật quả, ngài làm  vị tỳ kheo tên là Pháp Tạng. Bấy giờ, tỳ kheo Pháp Tạng có phát ra bốn mươi tám lời nguyện lớn. Trong các lời nguyện ấy, đều có một mục đích chung, đó là phải cứu độ chúng sanh thoát khỏi khổ đau sanh tử, chứng lên quả vị Phật Đà. Trong bốn mươi tám lời nguyện, có một lời nguyện như sau: “Tất cả chúng sanh trong mười phương trên thế giới, đợi sau khi ta thành Phật, nếu có chúng sanh nào niệm danh hiệu của ta thì người ấy nhứt định sẽ thành Phật, nếu như họ không thành Phật thì ta cũng không bước lên quả vị chánh giác”.

Nguyện lực này của đức Phật A Di Đà giống như sức hút của khối nam châm khi gặp sắt thép. Hết thảy chúng sanh trong mười phương thế giới đều giống như khối sắt mà đức Phật A Di Đà là khối Nam châm, cho nên ngài thu hút tất cả họ vào trong thế giới Cực lạc. Giả sử thu hút không được thì sao? Thì đức A Di Đà sẽ không thành Phật. Vì vậy, hết thảy chúng sanh, nếu có những ai niệm danh hiệu của Phật A Di Đà thì những người đó đều có cơ hội thành Phật.

 

THÂU NHIẾP HẾT THẢY CĂN TÁNH VÃNG SANH CỰC LẠC

Kinh A Di Đà là bộ kinh không có ai hỏi mà đức Phật Thích Ca tự nói. Tại sao không hỏi mà tự nói? Bởi vì chẳng có ai hiểu biết về pháp môn này cả, cho nên chẳng có người hỏi đến. Trong kinh, tuy Tôn giả đại trí Xá-lợi-Phất là đối tượng đương cơ để đức Phật nói pháp, nhưng ngay cả tôn giả cũng không biết phải hỏi như thế nào!

Sở dĩ đức Phật nói ra, vì ngài không thể chờ được nữa. ngài nói cho đại chúng nghe pháp môn niệm Phật là pháp môn rất thù thắng, rất thực tế, rất dễ hiểu, ngắn gọn mà lại rẻ tiền. Chỉ cần mọi người niệm Phật, “hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, hoặc niệm đến bảy ngày”, nhiếp tâm không loạn thì khi sắp lìa đời, người ấy sẽ thấy đức Phật A Di Đà cùng thánh chúng hiện ra trước mặt để tiếp dẫn họ. Cho nên pháp môn này không phải là điều mà mọi người tầm thường có thể tin tưởng và tiếp nhận được. Nhưng pháp môn này lại rất thực tế, dễ hiểu. Pháp môn niệm Phật này có khả năng thâu nhiếp hết thảy cả ba hạng căn tánh, lanh lợi hay ám độn… đều dung nạp. Bất luận, bạn là người thông minh hay là kẻ ngu si, khi bước vào tu tập pháp môn này đều giống nhau, tất cả đều có thể thành Phật.

Vãng sanh về thế giới Tịnh độ, ở đó không có chúng sanh khổ, chỉ thọ hưởng những pháp vị an vui. Việc hóa sanh từ hoa sen, không như con người chúng ta phải trải qua chín tháng mười ngày ở trong bào thai rồi mới sanh ra. Ở cõi nước ấy lấy hoa sen làm thai bào, an trụ trong hoa sen một thời kỳ, tương lai sẽ chứng thành Phật quả.

 

NGÀY ĐÊM THÀNH TÂM CHUYÊN TRÌ NIỆM

Một câu Di Đà vua muôn pháp

Năm thời tám giáo bao hàm cả

Hành giả chỉ nên chuyên trì niệm

Sẽ vào nhà bất động Như Lai

“Một câu Di Đà vua muôn pháp” Câu niệm danh hiệu Phật Di Đà này là vua của muôn pháp. “Năm thời tám giáo bao hàm cả”. Tám giáo là Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo, Viên giáo, Tiệm giáo, Đốn giáo, Bí mật giáo, Bất định giáo. Năm thời là thời Hoa-nghiêm, thời A-hàm, thời Phương-đẳng, thời Bát-nhã, thời Pháp-hoa Niết-bàn. Đem năm thời tám giáo này hợp lại thì  tất cả đều được bao hàm trong câu niệm danh hiệu A Di Đà Phật này vậy. “Hành giả chỉ nên chuyên trì niệm”, chúng ta, bất luận là ai, nếu chuyên tâm niệm Phật thì sẽ vào được ngôi “Nhà bất động của Như Lai”, nhứt định sẽ vãng sanh về cõi Thường tịch quang Tịnh độ, về thế giới Cực lạc. Chúng ta là những chúng sanh, sanh nhằm thời mạt pháp thì phải dùng câu niệm Phật để được độ thoát. Nếu ai muốn được giải thoát mọi khổ đau, người ấy nên niệm danh hiệu của đức phật này vậy.
Bớt lại một câu nói

Niệm Phật thêm một lời

Đập tan mối đầu niệm

Sẽ sống với Pháp thân
  vậy, chúng ta không nên bỏ sót câu niệm Phật này.

 

 

THỜI KHẮC QUÁN TƯỞNG TƯ LƯƠNG TỐT

Pháp môn niệm Phật này, gồm có bốn phương pháp quán niệm.

1. Trì danh niệm phật, chính là hành giả chú tâm vào câu Nam Mô A Di Đà Phật. 

2. Quán tưởng niệm Phật, nghĩa là nghĩ tưởng đến đức Phật A Di Đà. Tưởng nghĩ như sau:

A Di Đà Phật thân kim sắc

Tướng tốt chói sáng tự trang nghiêm

Năm tu di uyển chuyển bạch hào

Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc

Trong hào quang hóa vô số Phật

Vô số Bồ tát hiện ở trong

Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh

Chín phẩm sen vàng lên giải thoát

Đó là phương pháp quán tưởng niệm Phật

3.Quán Tướng niệm Phật, nghĩa là đối trước hình tượng của đức Phật A Di Đà để niệm danh hiệu của ngài. Phương pháp này đòi hỏi hành giả nhìn thẳng vào hình tượng của đức phật A Di Đà một cách rõ ràng, miệng niệm rõ từng tiếng, tai nghe rõ từng tiếng, tâm chỉ nghĩ tưởng đến hình tướng của ngài. Đây gọi là quán tướng niệm Phật.

4. Thật tướng niệm Phật, chính là phương pháp tham thiền. Hành giả tham công án: “Niệm Phật là ai?”, cứ chuyên tìm câu niệm Phật là ai? như thế đến hai tuần lễ niệm: “Nam Mô A Di Đà Phật”. Đợi khóa niệm Phật xong, chúng ta mới có thể tìm ra câu “Niệm Phật là ai” này. Nhất định hành giả phải tìm cho ra, không nên tìm nửa chừng rồi bỏ. Nếu nửa chừng bỏ đi, bạn sẽ lạc đường, không tìm về nhà được. Như thế là bạn không thấy được đức Phật A Di Đà.

CHÁNH TÍN CHÁNH NGUYỆN CHÁNH HẠNH

Tín, Nguyện,Hạnh, đây là ba món tư lương của hành giả tu tập pháp môn Tịnh độ.

Thế nào gọi là tư lương? Giống như bạn muốn đi du lịch nơi nào đó thì bạn phải chuẩn bị các thức ăn, đây gọi là Lương. Chuẩn bị tiền bạc, các thứ cần dùng, gọi là Tư.

Tư lương là thức ăn, là tiền bạc, là các thứ cần dùng của bạn. Cũng vậy, người hành giả tu tập pháp môn Tịnh  độ, muốn vãng sanh về thế giới Cực lạc thì cũng phải đầy đủ ba món tư lương. Ba món tư lương này chính là lòng tin, phát nguyện và thực hành. Ban đầu, hành giả nhứt định phải phát khởi tín tâm. Nếu như bạn chưa có lòng tin, đó là bạn chưa có duyên với thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà. Nếu bạn đã có lòng tin, nghĩa là bạn đã có duyên. Cho nên, đầu tiên đòi hỏi bạn phải có lòng tin chân thật. Lòng tin ấy là tin vào chính bản thân mình và tin đối tượng mà mình hướng đến, tin nhân, tin quả, tin sự, tin lý.

Vì sao gọi là tin vào bản thân mình? Hành giả tu tập phải tin vào bản thân mình, quyết định rằng, mình có khả năng sanh về thế giới Cực lạc ở Tây phương. Bạn không nên xem nhẹ bản thân mình rằng: “Ôi! Tôi đã tạo ra quá nhiều tội lỗi, tôi không có khả năng sanh về thế giới Cực lạc được!”. Như vậy, tức là bạn không tin vào chính khả năng của mình. Bạn tạo ra nhiều tội lỗi phải không? Nếu tu tập pháp môn này, bạn sẽ gặp nhiều cơ hội tốt đấy! Cơ hội tốt là gì? Đó là có thể mang nghiệp vãng sanh. Những tội lỗi gì mà bạn đã tạo ra đều có thể mang theo đến thế giới Cực lạc, như vậy gọi là mang nghiệp vãng sanh. Thế nhưng mang nghiệp, bạn phải biết rằng nghiệp ấy là Túc-nghiệp, tức là những hành động bạn đã gieo tạo trong quá khứ, chứ không phải mang theo nghiệp mới tạo. “Túc” là túc thế, tức là mang theo nghiệp khi bạn còn sanh tiền. Tân nghiệp là những nghiệp tạo ra trong tương lai. Mang theo Túc-nghiệp không mang theo tân nghiệp, chính là mang theo những tội lỗi trong quá khứ bạn đã gây nên mà không mang theo những tội nghiệp trong tương lai. Từ những việc làm, những hành vi, những suy nghĩ của bạn, bất luận là đã tạo ra những tội lỗi gì, giờ đây bạn phải sửa đổi những lỗi lầm trong quá khứ của mình, làm lại những việc làm mới, bỏ ác hướng thiện. Như vậy, những tội lỗi của bạn đã gây tạo trước đây, bạn có thể mang theo qua thế giới Cực lạc nhưng không mang theo nghiệp tương lai.

Tin Tha, tức là tin vào đối tượng của mình hướng đến. Bạn tin ở Tây phương có thế giới Cực lạc, thế giới đó cách xa cõi ta bà chúng ta đang sống khoảng mười vạn ức cõi Phật. Trước đây, khi đức A Di Đà chưa thành Phật,ngài làm một vị tỳ kheo tên là Pháp-tạng. Bấy giờ, ngài phát nguyện trong tương lai sẽ xây dựng một thế giới Cực lạc. Nếu có chúng sanh trong mười phương phát nguyện muốn sanh về, sống trong cõi nước của ngài thì không cần gì khác, chỉ cần niệm danh hiệu của ngài sẽ được vãng sanh. Những công việc khác đều không bị hao phí, đã không phí tiền, lại không phí sức. Có thể nói, pháp môn này là pháp môn cao nhất, pháp môn tối thượng. Bạn chỉ cần niệm Nam Mô A Di Đà Phật thì có thể vãng sanh đến nước Cực lạc. Đây chính là tin tha.

Vã lại, hành giả phải tin vào nhân quả. Tin Nhân là sao? Tức là tin vào bản thân mình từ xưa đã gieo trồng thiện căn, vì vậy mới có thể gặp được pháp môn này. Giả sử bạn không có thiện căn thì làm sao có thể gặp được nó, cũng không thể gặp được tất cả pháp môn của đức Phật nói ra. Bởi vì bạn có được thiện căn do xưa bạn đã gieo trồng nhân hạnh lành, cho nên đời này gặp được pháp môn Tịnh độ. Tín, nguyện, trì danh này, nếu bạn không tiếp tục vun bồi căn lành thì trong tương lai bạn sẽ không thành tựu được quả vị Bồ-đề. Cho nên, bắt buộc bạn phải tin vào nhân quả, tin vào bản thân của bạn xưa nay đã gieo trồng hạt giống Bồ-đề, trong tương lai nhất định sẽ gặt được quả giải thoát. Giống như trồng lúa, khi gieo hạt giống vào trong đất rồi, bạn phải chăm bón, tưới nước, hạt giống đó mới có khả năng sanh trưởng.

Hơn nữa, phải tin Sự, tin Lý. Thế nào gọi là tin Sự, tin Lý? Bạn nên biết, đức Phật A Di Đà có nhân duyên lớn đối với hàng chúng ta, ngài nhất định sẽ dẫn dắt chúng ta đến khi thành Phật. Đây là tin vào sự.

Tin vào lý, vì sao chúng ta có nhân duyên lớn với đức Phật A Di Đà? Nếu không có nhân duyên thì chúng ta sẽ không gặp được pháp môn Tịnh độ này. Đức Phật A Di Đà cũng chính là hết thảy chúng sanh, hết thảy chúng sanh cũng chính là đức Phật A Di Đà. Ngài do niệm Phật mà được thành Phật. Vì vậy, hết thảy chúng sanh chúng ta, nếu như có niệm Phật thì cũng có thể thành Phật A Di Đà. Đây là đứng trên lý mà nói.

Có lý, có sự, như vậy chúng ta nương theo lý sự đó để tu hành. Trong kinh Hoa-Nghiêm, đức Phật từng thuyết: “Sự vô ngại  pháp giới, lý vô ngại pháp giới,lý sự vô ngại pháp giới, sự sự vô ngại pháp giới”. Chúng ta có những pháp giới này rồi, đứng trên căn bản tự tánh mà nói thì cùng đức Phật A Di Đà chỉ là một. Do đó, chúng ta có đủ tư cách để thành Phật.

Đức Phật A Di Đà, ngài ở ngay trong tâm của chúng sanh. vì vậy chúng sanh cũng nằm trong tâm của đức Phật A Di Đà. Bởi do mối quan hệ này mà có sự có lý, nhưng đạo lý ấy nhứt định bạn phải tin tưởng, phải hành trì, bạn không thể biếng nhác. Ví như  bản thân tôi đây, niệm phật mỗi ngày một tăng, chứ không phải ngày càng giảm.

Trên đã nói về lòng tin, đến đây chúng ta tìm hiểu về Nguyện. Thế nào gọi là Nguyện? Nguyện là lòng mong muốn, tâm nguyện và ý chí hướng tới của bạn. Tâm tưởng của bạn phải như thế mới phát nguyện. Trong kinh thường hay nhắc đến bốn lời nguyện, đó là:

Chúng sanh vô số lượng thề nguyện đều độ khắp

Phiền não không cùng tận thề ngyuện đều dứt sạch

Pháp môn không kể xiết thề nguyện đều tu tập

Phật đạo không gì hơn thề nguyện sẽ chứng lên.

Đây là bốn lời thệ nguyện rộng lớn mà hết thảy chư phật, chư vị Bồ tát trong quá khứ đều y theo bốn lời nguyện này mà thành được quả vị Phật Đà, thành tựu hạnh nguyện của Bồ tát. Hết thảy chư Phật, chư vị Bồ tát trong đời hiện tại cùng tận đời vị lai cũng căn cứ theo bốn lời thệ nguyện này mà chứng thành đạo quả. Nhưng việc phát nguyện, điều đầu tiên đòi hỏi bạn phải có lòng tin kiên cố. Tin có thế giới Cực lạc, tin có Phật Adi Đà, tin vào bản thân mình nhứt định có nhân duyên lớn với đức Phật A Di Đà, vì vậy chúng ta ắt sẽ vãng sanh qua thế giới Cực lạc. Nếu có được tín tâm này rồi, sau đó bạn nên phát nguyện. Khi đã phát nguyện, ắt sẽ được vãng sanh. cho   nên mới nói “Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung”. Đây là do lòng mong muốn của chúng ta, muốn sanh về thế giới Tịnh độ chứ không phải do một ai miễn cưỡng gọi ta đi, không phải có người đến nhất định bắt ta đi cho bằng được. Tuy nhiên, nói đức Phật A Di Đà đến tiếp dẫn chúng ta thì cũng do chính bản thân chúng ta mong muốn được đi, mong muốn được gần gũi với đức Phật A Di Đà, được sanh qua thế giới Cực lạc nên ngài mới đến tiếp dẫn. Hoa nở thấy Phật, là mong đến thế giới cực lạc để được thấy Phật nghe pháp. Nếu có được tâm nguyện ấy rồi, sau đó bạn phải thực hành. Thực hành bằng cách nào? Đó chính là niệm Phật, niệm Nam Mô A Di Đà Phật….giống như cứu lửa cháy đầu, bởi chiếc đầu của mình sắp mất. Có người muốn chặt đầu, do đó phải cấp tốc bảo vệ chiếc đầu của mình.

Niệm Phật chính là thực hiện ba món tư lương Tín, Nguyện, Hạnh này. Đây chính là tư lương, là lộ phí trên hành trình vãng sanh về thế giới Cực lạc. Tư lương chính là lộ phí đi đường, là tiền bạc cần dùng. Ba món tư lương trên, là tiền bạc, là hành trang du lịch, là vé đi đường đến thế giới Cực lạc. Vì vậy, chúng ta cần phải có.

 

 

 

XƯỚNG TỤNG NIỆM PHẬT, NIỆM PHÁP, NIỆM TĂNG

Hiện tại, chúng ta đang niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Câu niệm Phật ấy, chính là tự chúng ta đang kiến tạo cho mình một thế giới Tịnh độ, mỗi người tự trang nghiêm thế giới Cực lạc, thành tựu thế giới cực lạc cho bản thân mình. Thế giới Cực lạc không hoàn toàn cách xa chúng ta mười vạn ức cõi Phật, nhưng nó cũng thật sự cách xa cả mười vạn ức cõi Phật. Bởi vì, tuy nó cách xa mười vạn ức cõi phật như thế, nhưng không ra ngoài một niệm hiện tiền của chúng ta. Vì không ra khỏi một niệm hiện tiền nên nói: không hoàn toàn xa chúng ta mười vạn ức cõi Phật mà chính là ở ngay  tâm lý chúng ta. Thế giới Cực lạc, chính là bổn tâm xưa nay của hết thảy chúng sanh chúng ta. Nếu như bạn nhận ra chơn tâm xưa nay của mình thì bạn đã sanh về thế giới Cực lạc, còn bạn chưa nhận ra nó thì bạn không thể sanh về thế giới Cực lạc. Đức Phật A Di Đà và chúng sanh chúng ta không thể phân biệt bỉ thử. Một niệm hồi quang của chúng sanh sẽ nhận biết được xưa nay mình là Phật, biết được xưa nay mình là Phật, đó là thế giới cực lạc. Cho nên nói thế giới cực lạc không hoàn toàn xa như thế.

Do vậy, bạn có thể mang theo tâm ô nhiễm của mình vãng sanh về Cực lạc. Bấy giờ, những tâm lý tư lợi, những tạp niệm, tâm đố kị, tâm chướng ngại, tâm ích kỉ, tâm chỉ biết lợi riêng cho mình không còn nữa. Bạn sẽ học hạnh lợi tha của Bồ tát, giác ngộ cho tất cả chúng sanh. Đấy chính là thế giới Cực lạc hiện tiền. Khi tâm không còn tạp niệm, không còn vọng tưởng, bạn thử nghĩ xem, đây chẳng phải là thế giới Cực lạc hay sao? Nếu đây không phải thế giới Cực lạc thì bạn nói đây là cái gì?

Cho nên chúng ta không thể tìm bên ngoài mà có được thế giới Cực lạc. Đối với các bậc thiện tri thức, các vị đều là những người có được kiến thức sâu rộng, thông minh hơn tôi. Trong tương lai, quý vị giảng phật pháp đều sẽ hay hơn tôi giảng nhiều. Hiện tại ở đây, chẳng qua các vị là người bản xứ, không hiểu được tiếng của nước khác mà thôi! Tôi giới thiệu cùng quý vị bằng những lời cũ rích, lời nói quá xưa này, chẳng phải mới mẻ gì. Nhưng trong tương lai, các bạn là những bậc thần kỳ, biến hoá vô song. Điều ấy vi diệu không thể nói được.

Tiện đây, tôi hát tặng quý vị một bài:

Phật A Di Đà

Bậc đại thánh chúa     

Đoan nghiêm tuyệt diệu không ai bằng

Hồ trân bảy báu

Hoa sen bốn màu

Tuyệt diệu thay!

Trào dâng sóng vàng

Đây là nói đến hoa sen bốn màu. Bậc đại thánh chúa là ai? Đó là đức Phật A Di Đà. Cho nên nói:

Bậc đại thánh chúa A Di Đà

Đoan nghiêm tuyệt diệu, ai sánh bằng?

Ngài ngồi đó vẻ uy nghiêm

Ôi! tướng hảo Phật A Di Đà.

Tuyệt diệu thay! Chẳng ai sánh bằng ngài, tướng hảo ấy thật rạng rở! Ao  trân bảo là ao được làm bằng bảy báu, trong đó có hoa sen bốn màu, cho nên gọi là “Ao trân bảy báu, hoa sen bốn màu”. “Trào dâng sóng vàng” là làn sóng gợn lăn tăn trên mặt nước ao, được phản chiếu lên ánh sáng sắc vàng.

 

 

HOA SEN XANH, VÀNG, ĐỎ, TRẮNG

Chúng ta niệm Nam Mô A Di Đà Phật, như thế sẽ có hoa sen hiện ra trong nước tám công đức, ở ao bảy báu của thế giới Cực lạc. Hoa sen ấy, ngày càng lớn nhưng nó vẫn chưa nở, đợi đến lúc chúng ta lâm chung, tự tánh chúng ta hiển lộ, sanh qua thế giới Cưc lạc thì lúc đó hoa sen mới nở ra để đở lấy chân chúng ta. Cho nên, bạn muốn biết phẩm vị của mình cao hay thấp, từ thượng phẩm thượng sanh, hay là trung phẩm trung sanh, hạ phẩm hạ sanh? Điều ấy còn phải tuỳ thuộc vào bạn niệm Phật nhiều hay ít. Nếu bạn niệm phật nhiều thì đoá sen của bạn vừa cao vừa lớn, còn bạn niệm ít thì đoá sen của bạn sẽ vừa thấp vừa nhỏ. Cũng vậy, nếu bạn không vun bồi, thực hành niệm Phật thì đoá hoa sen của bạn sẽ bị khô héo và sẽ chết mất. Cho nên, điều ấy hoàn toàn do bạn có tranh thủ được quả vị tu tập của mình hay không?

 

 

 

GIÓ LAY NƯỚC LẶNG RỘNG DIỄN PHÁP ÂM

“Nước tâm trong sạch trăng tuệõ lại chiếu

 Bầu trời chánh niệm mây phiền não tan”.

Khi hành giả niệm Phật đạt đến mức “Niệm Phật tam muội” thì bạn nghe tiếng gió thổi cũng trở thành tiếng Nam Mô A Di Đà Phật. Bạn nghe tiếng nước đổ cũng trở thành tiếng Nam Mô A Di Đà Phật. Bạn nghe tất cả các thứ âm thanh đều sẽ trở thành câu niệm Phật. “Nước chảy gió động đều rộng diễn nói pháp âm”, nghĩa là, khi bạn đạt đến “Niệm Phật tam muội” rồi, thì âm thanh của nước chảy cũng là tiếng Nam Mô A Di Đà Phật, tiếng gió động cũng là Nam Mô A Di Đà Phật. Vì vậy Tô Đông Pha  từng nói: “Vẻ đẹp của núi non đều là tuớng lưỡi rộng dài”. Núi nọ, cảnh kia đều là tướng lưỡi rộng dài của đức Phật A Di Đà đang diễn nói pháp mầu. Tiếng róc rách của khe suối, tiếng ầm ầm của thác đổ cũng đều là âm thanh thanh tịnh. Đây chính là đã đạt được “Niệm Phật tam muội”.

Trước đây, tôi có viết một đoạn kệ tụng, nay xin đọc ra cho mọi người nghe:

Niệm Phật chuyên niệm không gián đoạn

Miệng niệm Di Đà chẳng nghĩ toán

Niệm tạp không sanh, chứng Tam muội

Vãng sanh Tịnh độ chớ lo toan

Trọn ngày chán lìa Ta-bà khổ

Tâm niệm hồng trần sẽ đoạn ngay

Luôn nghĩ cầu sanh về Tịnh độ

Buông xả tạp niệm, thanh tịnh sanh

Câu: “Niệm Phật chuyên niệm không gián đoạn”, hành giả niệm Phật mãi miết, từ sáng đến tối chỉ nghe tiếng niệm Phật, không có thời gian dừng nghĩ, đó gọi là không gián đoạn. “Miệng niệm Di Đà chẳng nghĩ toán” tức là miệng luôn luôn niệm Nam Mô A Di Đà phật, như thế tạo thành một chuổi niệm Phật. “Tạp niệm không sanh chứng Tam muội”, khi hành giả cứ miên mật niệm Phật như thế, tâm niệm được buộc vào câu Nam Mô A Di Đà Phật, khi ấy không còn những vọng tưởng tạp niệm dấy khởi, hành giả sẽ đạt được nhứt tâm bất loạn, tức là đạt được định lực niệm Phật, đạt được cái thọ dụng của niệm Phật, đó là “Niệm Phật Tam muội”. Khi đạt được tam muội ấy rồi, bạn không còn lo gì đếùn chuyện vãng sanh Tịnh độ! Sự mong muốn vãng sanh tịnh độ của hành giả nhứt định sẽ đạt được. “Trọn ngày chán lìa Ta-bà khổ” tức là từ sáng đến tối chúng ta phải chán bỏ sự thống khổ của cõi Ta-bà, thì “Tâm niệm hồng trầnđược đoạn ngay”. Bởi vì bạn thấy rằng, sống giữa thế giới Ta-bà này rất khổ, cho nên muốn xa lìa tất cả các thứ khoái lạc bụi trần của thế gian. Khi các thứ tạp niệm đã đoạn trừ thì không còn các thứ tâm lý như dâm dục, ngã mạn, tâm tranh danh đoạt lợi, buông xả tất cả cảnh duyên bên ngoài, nhìn thấy chúng là tạm bợ, không thật. Vì vậy, hành giả mới đoạn trừ được tất cả tâm niệm của thế gian. Tâm niệm của bạn “Luôn nghĩ cầu sanh về Tịnh độ”, ý niệm đó vô cùng quan trọng để cho việc “Buông xả tạp niệm, thanh tịnh sanh”. Khi buông xả các tâm lý ô nhiễm rồi, lúc ấy hành giả đã đạt được tâm niệm thanh tịnh.

Đoạn kệ tụng này là nói về đạo lý của pháp môn niệm Phật, tuy rất ngắn gọn, rõ ràng, nhưng bạn thử suy gẫm kỹ xem, ý nghĩa của nó vô cùng thâm thuý, giúp cho người tu tập pháp môn niệm Phật này được nhiều lợi lạc.


Tải về xem
Khai Thi Ve Niem Phat