Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh
Kinh Duoc Su Giang Giai
Kinh Duoc Su Giang Giai
Kinh Duoc Su Giang Giai Kinh Duoc Su Giang Giai
 
Kinh Duoc Su Giang Giai
Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức
Kinh Duoc Su Giang Giai
Kinh Duoc Su Giang Giai
H.T Tuyên Hoá lược giảng

 

Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh Thiển Thích

Kinh Công Đức Các Bổn Nguyện của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Lược Giảng

 

  Đường Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu dịch

 Tuyên Hóa Thượng Nhân giảng tại Kim Luân Thánh Tự,

Los Angeles, California, Hoa K năm 1983.

 

 

Vì vấn đề sanh tử của chúng sanh chúng ta mà đức Phật Thích Ca xuất hiện tại cõi Ta-bà này. Ngài được sanh ra trong một gia đình vương giả, nhưng Ngài đã từ bỏ sự giầu sang của cả một vương quốc để ra đi lo việc tu hành và chứng thành Phật quả dưới gốc cây Bồ đề. Sau khi chứng quả Phật, Ngài quán sát các chúng sanh trong thế giới Ta-bà và nhận thấy rằng các chúng sanh tại đây có một nhân duyên sâu đậm với hai vị Phật, đó là đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ở phương Đông và đức A-Di Đà Như Lai ở phương Tây.

       Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ở thế giới Lưu ly nơi phương Đông có thể giúp chúng ta tăng phước tăng thọ, tiêu trừ tai nạn; còn đức A Di Đà Như Lai ở phương Tây thì có thể tiếp dẫn chúng ta mang theo nghiệp mà sanh về thế giới Cực lạc, “hoa nở liền trông thấy Phật,  ngộ được pháp Vô sanh nhẫn.”

        Trong bài Nhị Phật Chú có câu:

        “Nhị Phật diễn hóa tại Ta-bà

         Đông A-súc, Tây Di-đà”

        Hai câu này nghĩa là Phật A-súc, tức Phật Dược Sư và Phật Di-đà đều giáo hóa chúng sanh tại thế giới Ta-bà. Hai vị Phật, một vị ở phương Đông, một vị ở phương Tây, nhưng cả hai đều có nhân duyên rất sâu đậm với chúng ta nơi cõi Ta-bà, do đó Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật chính là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, còn Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật chính là A-di-đà Như Lai.

       Nếu có ai niệm danh hiệu của Đức Phật Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư thì người đó được giải trừ tai nạn, bệnh tật tiêu tan, tội diệt, phước sanh, tâm ý mãn nguyện. Vậy, vị Phật giúp các chúng sanh kéo dài mạng sống chính là Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư.

      Còn đức Phật A-di-đà thì sao? Ở đây là vấn đề vãng sanh. Như có ai muốn về thế giới Cực Lạc, thì phải niệm danh hiệu của đức Phật A-di đà. Nếu quý vị muốn sanh về cõi Lưu Ly, tức là thế giới của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thì hãy niệm danh hiệu của Ngài Dược Sư.

       Khi còn sống, người ta muốn tiêu trừ tai nạn, kéo dài tuổi thọ; còn khi lâm chung người ta mong vể nơi thế giới Cực Lạc. Bởi vậy, trong Phật giáo chúng ta thấy có cái bài vị mầu đỏ gọi là bài vị diên thọ, ngụ ý rằng Đức Phật Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư phóng hào quang chiếu sáng ngôi sao bổn mạng. Còn khi vãng sanh, nếu không muốn tái sanh nơi thế giới Lưu Ly mà muốn về cõi Cực Lạc thì người ta niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Nhân duyên của chúng ta đối với hai vị Phật nói trên quả là rất mật thiết.

       Tuy nhiên, chúng ta vốn chưa biết về hai vị Phật này, ngay đến cả danh hiệu của các Ngài chúng ta cũng không biết, do đó đức Phật Thích Ca mới giới thiệu cho chúng ta về danh hiệu, bổn nguyện, cùng công đức nguyện lực của các Ngài. Bởi vậy mới có bộ Kinh này, gọi là “Kinh Công Đức Các Bổn Nguyện Của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai”

       “Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “bổn nguyện” là các lời phát nguyện của Ngài khi Ngài phát tâm Bồ đề, thời gian trước khi thành Phật quả. Lời nguyện phát ra trước khi thành Phật gọi là bổn nguyện.

        “Công đức” gồm có chữ “công”, chỉ những gì được tạo lập ở bên ngoài; chữ “đức” chỉ những gì được tích lũy ở bên trong. Thí dụ, quý vị dựng chùa miếu, tu sửa cầu đường, mưu cầu hạnh phúc và lợi ích cho mọi người, như vậy gọi là tạo lập công. Còn đức là nói về sự tình ở trong tâm, ví dụ như quý vị làm một điều gì mà khi ngước trông lên thì không thẹn với trời, trông xuống không hổ với người, ngoài không dối người, trong không dối chính mình. Những hành động như vậy ở bên ngoài thì lập nên công, ở bên trong tạo thành đức hạnh, đó gọi là công đức.

        Về đức hạnh chúng ta có câu: “Thiện dục nhân kiến bất thị chân thiện”, nghĩa là phàm điều thiện mà lại muốn mọi người trông thấy, thì chẳng phải là chân thiện. Quý vị làm một điều thiện, quý vị không cần người ta biết đến, cũng không cần phải quảng cáo với ai, chẳng hạn quý vị không cần phải tuyên bố rằng: “Tôi đã làm việc thiện này, việc thiện kia” hay nói: “Tôi đã thọ Năm giới, thọ Tám giới, rất nhiều giới, tôi đã thọ Bồ-tát giới!” Những điều đó quý vị đã làm nhưng quý vị không khoa trương. Đức hạnh thì không ai hay biết, đó mới là đức hạnh. Như muốn mọi người hay biết, thì không phải rồi! Cho nên mới có câu:

Làm thiện muốn người thấy,

Đó chưa là thật thiện.

Làm ác sợ người biết,

Đó mới là đại ác.

(Thiện dục nhân kiến,

Bất thị chân thiện.

Ác khủng nhân tri,

Tiện thị đại ác.)

      Làm việc thiện mà muốn mọi người hay biết tức không phải là đức hạnh. Điều ác mà sợ có người biết thì đó là một tội lỗi lớn. Do đó, đã là người học Phật, chúng ta không thể giống như vậy, không nên tranh hơn tranh kém, chẳng hạn như nói những câu: “Tôi đã làm nên những chuyện này, chuyện kia! Tôi như vậy đó! Tôi bố thí như thế này! Tôi hộ pháp như thế kia!” Có những tư tưởng, hành vi khoa trương tự mãn, thì đó không phải là tư cách của người hộ pháp.

        Bởi vậy, nay quý vị học Phật Pháp, nghe giảng kinh, quý vị hãy dụng công ngay tại đây, chớ không phải là để hư trương danh tiếng, mượn dịp này để quảng cáo cho mình. Điều ta chú trọng là công phu thực sự, còn cái hư danh thì ta không cần biết. Chúng ta là người học Phật thì chính chúng ta phải làm gương, khiến cho mọi người phải kính nể phẩm hạnh của tín đồ Phật giáo! Công đức là ở chỗ đó!

 

        “Kinh” ở đây có nghĩa là kinh thường. Pháp kinh thường nghĩa là pháp không biến đổi. Kinh chính là lời của thánh nhân, lời giảng dạy do bậc thánh nói ra, một chữ cũng không thể bớt, một chữ cũng không thể thêm vào, ý tứ phong phú. Nói tóm lược thì ý nghĩa của chữ Kinh không ngoài bốn nghĩa: quán, nhiếp, thường và pháp.

- Quán tức là xâu qua, xuyên qua, ngụ ý rằng ý nghĩa và đạo lý trong lời Phật dạy giống như một cái xâu, xuyên qua từ đầu đến cuối.

- Nhiếp nghĩa là bắt lấy, như nói thâu nhiếp, bởi kinh Phật có thể thâu nhiếp hết mọi căn cơ.

- Thường, có nghĩa là không thay đổi, từ cổ chí kim luôn luôn như vậy, có tính cách vượt thời gian.

- Pháp nghĩa là phép tắc. Chư Phật trong ba đời, quá khứ, hiện tại, vị lai, cũng như ba đời các chúng sanh, tất cả đều tuân theo khuôn phép đó. Bởi vậy có câu: “Tam thế đồng tuân danh viết pháp”, nghĩa là ba đời cùng tuân theo gọi là pháp. Tất cả chúng ta cũng phải tuân thủ phép tắc đó.

         “Kinh” còn được ví như dây mực của người thợ mộc, có khi mang ý nghĩa như một giòng suối tuôn. Thật ra chữ kinh còn chứa đựng nhiều ý nghĩa lắm, có điều quý vị chỉ cần nhớ lấy mấy ý chính. Kinh là gì? Kinh là kinh thường, là pháp không đổi thay, không cải biến, vĩnh viễn nó như vậy. Nay Phật giảng như thế này, trong tương lai Phật cũng giảng như thế, quá khứ Phật cũng đã giảng như vậy. Như trong câu: “Cổ kim chẳng đổi gọi là thường, ba đời đều tuân theo gọi là pháp” Vậy kinh này, tức Kinh Công Đức Các Bổn Nguyện Của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, nếu giải thích một cách đơn giản thì cũng giảng như trên.

        Nay giảng các chữ trong đề kinh. “Dược” nghĩa là thuốc; “Sư” là thầy. Vị Phật đây là một thầy thuốc lớn, có thể trị tất cả mọi bệnh tật của người trong thế gian. Bất kể quý vị bị chứng bệnh nan y gì,  nếu được Ngài cứu chữa thì chắc chắn bệnh sẽ hết. Bệnh gì cũng chữa lành, ở cửa tử mà được hồi sanh, bệnh đáng chết mà được cứu sống. Bởi vậy Ngài mới có tên gọi là “Dược Sư”

        “Lưu ly” là một chất trong suốt, ở trong có thể nhìn thấu ra ngoài, ở ngoài có thể nhìn thấu vào trong. Lưu Ly là tên của quốc độ quả báo (báo độ) của Đức Dược Sư, gọi là thế giới Lưu Ly và Ngài là vị giáo chủ. Thân thể của Ngài cũng là chất lưu ly, nội ngoại đều sáng trong, tinh khiết. Ngài thông hiểu hết các loại thuốc. Ở Trung Hoa đời xưa có vua Thần Nông, và có câu nói: “Thần Nông thường bách thảo”, nghĩa là vua Thần Nông đã từng nếm hết thảy các thứ thuốc. Thân thể của vua Thần Nông cũng là chất lưu ly. Khi nếm thuốc,  nuốt vào  bụng rồi, vua có thể nhận ra tác dụng của vị thuốc, biết được vị thuốc đó đi vào đường kinh lạc nào trong cơ thể. Khi nếm đủ các loại thuốc xong, vua phân tích ra từng tánh chất một (dược tánh), vị nào chua, ngọt, đắng, cay, mặn, thứ nào là lạnh, nóng, ấm, trung bình, thứ nào độc thứ nào không độc.  

       “Quang” là ánh sáng. Thân thể Đức Dược Sư không những trong suốt, mà còn tỏa sáng, tức là một đại quang minh tạng.

      “Như Lai” là một trong mười tên hiệu của Phật: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Số là, mỗi vị Phật có mười vạn danh hiệu, nhưng kể đủ cả mười vạn danh hiệu ấy thì không ai nhớ được, nên người ta rút ngắn lại thành một vạn; tuy nhiên, một vạn kể ra cũng dài, lại rút thêm thành một ngàn; sau rút nữa thành một trăm và cuối cùng rút xuống chỉ còn lại mười danh hiệu.

       Vị Phật nào cũng có mười danh hiệu đó, chứ chẳng phải vị Phật này có mà vị Phật kia thì không. Học Phật Pháp chúng ta phải hiểu điều đó. Tôi nghe những kẻ ngoại đạo nói về “Như Lai Phật”. Họ không hiểu Như Lai Phật là vị Phật nào. Kỳ thực, vị Phật nào cũng có hiệu là Như Lai. Như Lai nghĩa là “theo đạo như thực, theo đạo như thực mà thành Chánh giác”.

        “Bổn nguyện” là nói về các lời phát nguyện trong quá khứ của Đức Dược Sư. Đây không phải là lời phát nguyện trong đời này. Trong kinh điển Phật giáo có các danh từ như bổn sự, bổn nguyện, bổn sanh. Bổn sanh là đời hiện tại, bổn nguyện lại thuộc đời quá khứ, còn bổn sự cũng là sự việc xẩy ra trong kiếp xưa.

       “Công Đức” và “kinh”, các danh từ này đã được giảng rồi.

      Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai là vị Phật ở phương Đông. Ngài có một tên khác nữa là “Phật A Súc”. Phật Dược Sư thuộc Kim Cang Bộ ở phía Đông, và Bộ này chú trọng Pháp Hàng Phục. Pháp này chuyên hàng phục thiên ma, ngoại đạo. Khi chúng thấy các vị Kim Cang hộ pháp thuộc Bộ Kim Cang là chúng phải quy hàng. Giả tỷ như bất cứ ai niệm Chú Lăng Nghiêm thì sẽ được  tám vạn bốn ngàn Kim Cang Tạng Bồ Tát gia hộ, che chở. Cố nhiên người đó phải thành tâm niệm chú mới được!

        Đại khái tôi giảng ý nghĩa về tên kinh là như vậy.

        

Kinh văn:

 Hán Việt :

Như thị ngã văn, nhất thời Bạc-Già-Phạm, du hóa chư quốc, chí Quảng Nghiêm thành, trú nhạc âm thụ hạ, dữ đại Bí-sô chúng bát thiên nhân câu, Bồ tát Ma-ha-tát tam vạn lục thiên, cập quốc vương, đại thần, bà-la-môn, cư sĩ, thiên long bát bộ, nhân, phi nhân đẳng, vô lượng đại chúng, cung kính vi nhiễu, nhi vi thuyết pháp.  

 

Việt :

Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc Già Phạm đi độ các nước, đến thành Quảng Nghiêm, Ngài dừng lại dưới gốc cây âm nhạc, cùng tám ngàn đại Bí-sô, ba vạn sáu ngàn Bồ-tát Ma-ha-tát, các quốc vương đại thần, các bà-la-môn, các cư sĩ, trời rồng và tám bộ chúng, người và chẳng phải người, đông không kể xiết, cả thảy đều cung kính vây quanh nghe Phật thuyết pháp.

 

Lược giảng: 

 

“Như thị” nghĩa là « như vầy. » Danh từ này ngụ ý rằng “pháp như vầy” thì có thể tin theo, học tập và thực hành. Chúng ta phải phát nguyện tu hành pháp đó, y theo lời dạy trong đó mà tu tập.

“Ngã văn”, nghĩa là “tôi nghe”. Đây là lời của Tôn giả A-nan. Tôn giả nói như sau: “Các pháp nói trong bộ kinh này là do chính tôi, A-nan, được nghe từ kim khẩu của đức Phật nói ra, chớ không phải là do người truyền lại. Chính là tôi đã được nghe”.

       Sở dĩ có mấy chữ “Như thị ngã văn” - tôi nghe như vầy - là bởi bốn nguyên do sau: Đó là bốn điều Tôn giả A-nan hỏi Phật. Số là khi Phật sắp nhập Niết bàn, Tôn giả A-nan rất đỗi bi thương, quên hết mọi sự mà chỉ biết than khóc. Ngày ấy, ngài A-nan đã chứng Sơ quả song ngài vẫn chưa đoạn được vấn đề tình cảm, cho nên khi biết tin Phật sẽ nhập Niết Bàn, ngài không thể nén được xúc động nên mới khóc lóc một cách bi thảm, cơ hồ chỉ biết khóc, chẳng biết chuyện gì khác nữa. Lúc đó có một vị tôn giả (Tôn giả A-nậu-lâu-đà) nhắc cho ngài thức tỉnh và nói rằng: “Ông vốn có bổn phận ghi nhớ lại các lời Phật dạy, nay Phật sắp vào Niết Bàn ông hãy ráng tỉnh táo mà nghĩ cho kỹ! Ngay bây giờ, ông hãy xét coi có điều gì trọng yếu thì phải hỏi Phật đi, đặng Phật chỉ dạy cho. Ông chỉ khóc lóc như vậy thì trong tương lai chúng ta sẽ ra làm sao đây?” Nghe lời nhắc nhủ đó, Đức A-nan bèn tỉnh ngộ, ngài nói: “Đúng vậy! Có vấn đề gì quan trọng thì chúng ta phải mang ra hỏi Phật ngay. Có điều tôi khóc quá nên quên cả mọi thứ. Bây giờ chúng ta phải hỏi Phật những điều gì đây? Đầu óc tôi rối như tơ vò, chẳng còn nghĩ ra được vấn đề gì cả”.

       Vị tôn giả nói trên nói: “Ông cần hỏi Phật rằng trong tương lai khi kết tập kinh tạng, tại mỗi bộ kinh phải lấy những chữ gì để bắt đầu. Đó là câu hỏi thứ nhất. Điều thứ hai là khi Phật tại thế thì Ngài là thầy của chúng ta; sau khi Phật nhập Niết Bàn thì ai sẽ là thầy? Điều này cũng cần phải hỏi Phật. Thứ ba, ông hỏi Phật rằng khi Ngài tại thế thì tất cả các tỳ kheo chúng ta ở cùng với Ngài. Vậy khi Ngài nhập Niết Bàn rồi, chúng ta sẽ ở với ai? Điều thứ bốn là khi Phật tại thế nếu tỳ kheo nào có ác tính thì Phật điều phục họ. Sau khi Phật nhập Niết Bàn ai sẽ điều phục họ?”

      Tôn giả A-nan đáp: “Bốn vấn đề vừa nói quả là trọng yếu rất mực, tôi sẽ phải đi hỏi Phật ngay.”

      Nói rồi, Tôn giả A-nan đi đến trước Phật, chắp tay, quỳ gối và thưa rằng:

       - Bạch Đức Thế Tôn! Nay Ngài sắp nhập Niết Bàn nên chúng con có những vấn đề quan trọng muốn thỉnh Phật chỉ dạy cho chúng con.

      Phật nói:

       - Ông muốn hỏi điều gì thì cứ việc hỏi.

      Tôn giả A-nan thưa:

        - Trong thời gian trụ thế, Thế Tôn đã thuyết pháp 49 năm, nói kinh trong hơn ba trăm pháp hội, vậy ngày sau, khi kết tập kinh tạng thì phải lấy những chữ gì để khởi đầu cho mỗi bộ kinh?

      Phật đáp:

       - Kinh điển của chúng ta khác với kinh điển của ngoại đạo. Kinh của các đạo khác nếu họ chẳng nói về “có”, tức họ nói về “không”. Phần ghi trên đầu các kinh đều chẳng đi ra ngoài hai chữ “có” và “không”. Vậy về điểm này, đối với kinh của chúng ta, các ông nên ghi mấy chữ “tôi nghe như vầy”, ngụ ý rằng “Tôi, A-nan, chính tôi được nghe như vầy, chớ đó không phải là lời tôi nghe người ta truyền lại”.

     A-nan thưa:

     -  Xin vâng! Trong tương lai chúng con sẽ ghi mấy chữ “tôi nghe như vầy”. Điều thứ hai con muốn thỉnh Phật chỉ dạy là khi Phật còn ở tại thế gian, tất cả các tỳ kheo chúng con đều tôn Phật là thầy. Vậy sau khi Phật vào Niết Bàn rồi, chúng con sẽ tôn ai làm thầy?

      Phật đáp:

     - Sau khi Như Lai nhập Niết Bàn các ông sẽ lấy “giới” làm thầy. Ba-la-đề-mộc-xoa chính là thầy của các ông. Các ông giữ được giới thì chẳng khác gì ta còn tại thế. Các ông hãy làm các điều lành và tránh xa các điều ác.

      A-nan hỏi:

     - Điều thứ ba con xin thỉnh Phật chỉ dạy là nay Phật trú ở thế gian, chúng con trú cùng một nơi với Phật, thường theo học với Phật. Vậy sau khi Phật nhập Niết Bàn thì các tỳ kheo chúng con sẽ trú cùng với ai?

      Phật đáp:

     - Sau khi ta nhập Niết Bàn, tất cả tỳ kheo các ông phải trú vào Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ, hay bốn lãnh vực quán niệm, gồm có thân, thọ, tâm và pháp. Các ông phải an trú vào bốn nơi này để quán niệm.

      Thứ nhất là quán thân bất tịnh, nghĩa là mình tự quán sát thân thể của mình, thấy thân thể này chẳng có cái gì gọi là sạch sẽ, tinh khiết, nó chỉ là sự tổng hợp của bốn đại, đất, nước, gió, lửa mà thành. Thứ hai là quán thọ là khổ, thứ ba quán tâm là vô thường, thứ tư quán pháp là vô ngã.

       A-nan hỏi Phật điều thứ tư:

      - Về những tỳ kheo có tánh ác, họ đều được Phật điều phục khi Phật còn tại thế. Vậy sau khi Phật nhập Niết Bàn, nếu có tỳ kheo có tánh ác, chúng sẽ phải đối xử với họ ra sao?

       Phật đáp:

      - Trong tương lai nếu các ông gặp những tỳ kheo này thì nên lặng yên và bỏ mặc họ (mặc tẩn).

       Điều này có nghĩa là khi gặp những trường hợp này, ta nên giữ im lặng, không nói chuyện với những người ấy. Bỏ mặc tức là bỏ đi nơi khác, không lý tới họ, không tranh cãi với họ. Như vậy, ít lâu sau họ sẽ tự cảm thấy rằng họ quấy và sẽ tự sửa chữa. Đối với những người đó, nếu quý vị lại hỏi han, tranh biện với họ thì họ sẽ tự cảm thấy họ có giá trị. Còn như quý vị chẳng hỏi han gì, họ sẽ cảm thấy họ chẳng hay ho gì. Thế nào gọi là tỳ kheo có tính ác? Nên nhớ rằng chẳng phải người xuất gia nào cũng cố gắng tu đạo, chẳng phải bất cứ ai ở đây cũng chịu tu hành.

       Ngày trước, tại những ngôi chùa lớn ở Trung quốc, các vị xuất gia rất đông, đủ mọi hạng người. Trong số này, có những kẻ đã từng giết người, đốt nhà,  trộm cướp, hoặc xưa là thổ phỉ nay cải tà quy chánh, hoặc làm thổ phỉ nhưng mượn danh nghĩa của người xuất gia để giả trang đối với nhà chức trách, các hạng người như vậy đều có cả, nghĩa là rồng với rắn lẫn lộn, không đồng nhất.

       Đó là tình trạng tại Trung quốc và tôi tin rằng ở đâu cũng như vậy mà thôi. Nói về loại chuyên môn ăn cắp ở Trung quốc, người ta còn mệnh danh họ là “thiên thủ Quan Âm” - nghĩa là đức Quan Âm ngàn tay - bởi họ có muôn ngàn tay thực. Ai có đồ vật gì hay là họ lén lấy ngay, lấy xong mang đi bán, được đồng nào thì mua rượu hay  ma túy. Bởi vậy quý vị đừng có khờ khạo, chớ có nhắm mắt tin rằng ai xuất gia cũng là người tốt cả. Tôi xin nói thẳng với quý vị như vậy, kể cả tôi cũng có thể ở trong số đó nữa, không phải ai ai cũng tốt đâu. Có điều tôi đã nguyện làm điều lành. Trong quá khứ tôi không biết đã từng làm những việc gì xấu, nay thì tôi chỉ ước mong làm sao tu hành cho tốt mà thôi.

       Tỳ kheo ác tính thì rất là ác, họ không biết nghe lẽ phải, quý vị càng tranh biện với họ, họ càng thấy họ hay, họ càng làm tới, do đó Phật dạy chúng ta hãy giữ im lặng và bỏ mặc họ, không lý tới họ nữa.

      

      Nói về Tứ Niệm Xứ thì thứ nhất là quán thân bất tịnh. Quý vị có thể nghĩ rằng: “Mỗi ngày tôi đều tắm rửa tấm thân này sạch sẽ, sau đó tôi còn tô điểm nó cho thêm đẹp đẽ ”. Quý vị nói đúng! Quý vị trang điểm thân mình với nhiều thứ lắm! Tay thì đeo đồng hồ vàng, trên người  có giắt cây viết đắt tiền, đầu đội mũ đẹp, thân mặc quần áo sang trọng, sự trang điểm tấm thân của quý vị rất là hào nhoáng. Nhưng quý vị có biết như vậy là nghĩa gì không? Có khác gì quý vị mang những đồ quý giá, mỹ lệ, dùng bảy loại báu vật để trang hoàng cái cầu tiêu? Cái cầu tiêu quả là đẹp thật, nhưng nó vẫn là cầu tiêu, nó bốc lên mùi xú uế, nó là bất tịnh.

      Thân thể chúng ta có chín lỗ thường tiết ra những đồ bất tịnh. Ở hai con mắt thì có chất ghèn, ở hai tai có ráy tai, ở hai lỗ mũi có nước mũi, ở miệng thì có đờm, dãi. Đó là bảy lỗ. Còn hai lỗ kia dùng cho đại và tiểu tiện. Con người của quý vị nếu lâu ngày không tắm rửa cũng thành hôi hám. Quý vị ăn hành thì người quý vị sẽ tiết ra mùi hành; ai uống sữa bò thì có mùi sữa bò; ăn thịt bò thì có mùi bò; ăn thịt dê, thịt heo, thịt chó thì sẽ tiết ra mùi của các thứ ấy. Quý vị ăn tỏi ư? Người quý vị sẽ toàn là mùi tỏi!

       Quý vị bảo rằng: “Mùi phát ra ở miệng. Nếu ăn xong súc miệng, đánh răng thì chẳng còn mùi nữa”. Kỳ thực chẳng phải vậy. Ăn thứ gì thì chẳng phải chỉ có răng miệng có mùi mà toàn thân thể đều có mùi của thứ đó. Nếu quý vị không tin thì hãy thí nghiệm một lần cho biết. Quý vị thử uống thật nhiều sữa, tới khi đổ mồ hôi thì sẽ thấy mồ hôi có mùi sữa. Xem ra chín lỗ nói trên thường tiết ra chất bất tịnh, vậy chúng còn có gì là hay nữa? Quán sát như vậy gọi là quán thân bất tịnh.

      Thứ hai hãy quán thọ là khổ. Thọ có nghĩa là hưởng thọ, lãnh thọ. Bất cứ quý vị nhận thứ gì của ai, lãnh thọ hay hưởng thọ một thứ gì, cái thọ đó là khổ. Cái vui sướng, tức là “lạc,” cũng là nguyên nhân của khổ.

       Thứ ba là quán tâm vô thường. Tâm của chúng ta, niệm niệm đổi thay, chẳng bao giờ ngưng nghỉ, nó là vô thường.

       Thứ tư, quán pháp vô ngã. Tất cả các pháp đều không có ngã. Không những thế chúng cũng không có ngã sở.

      Như quán thân bất tịnh, các thứ thọ, tâm, pháp cũng đều bất tịnh. Quán thọ là khổ, các thứ thân, tâm và pháp cũng đều là khổ; quán tâm vô thường, các thứ thân, thọ, pháp cũng đều vô thường; quán pháp vô ngã, các thứ kia cũng là vô ngã. Gọi là Tứ Niệm Xứ, bốn lãnh vực để quán niệm, nhưng một là ba, ba là một; một thứ tức là bốn thứ và bốn thứ tức là một thứ.

      Thời gian Phật còn tại thế thì các tỳ kheo trú cùng một nơi với Phật và sau khi Phật nhập Niết Bàn thì phải trú tại Tứ Niệm Xứ. Đó là di ngôn của Phật, lời Ngài phó chúc, dạy các tỳ kheo chúng ta phải y theo như vậy.

      Sau khi Phật vào Niết Bàn thì tất cả phải lấy giới làm thầy. Giới là nghĩa “không làm các điều ác, luôn làm các điều lành”; cũng có nghĩa là “ngưng ác, ngừa quấy” (chỉ ác phòng phi), tức là chấm dứt điều ác, tu mọi điều lành, hay làm các điều phải, chấm dứt các điều quấy. Đó là giới luật. Kỳ thực nguyên ủy chẳng có gì gọi là luật cả. Nguyên do là khi Phật còn tại thế, số đệ tử rất đông, mà càng đông thì phát sinh nhiều vấn đề phức tạp. Có người giữ đúng quy củ, nhưng cũng có kẻ không theo phép tắc gì cả. Mỗi khi gặp một nguyên do nào đó Phật mới đưa ra một quy lệ, rồi lâu ngày các quy lệ đó gom lại thành giới luật. Tỳ kheo có 250 điều giới, Tỳ kheo ni có 348 điều, Bồ tát thì có 10 giới trọng 48 giới khinh, Sa di có 10 giới, cư sĩ tại gia thì hoặc 8 giới, hoặc 5 giới.

       Các điều giới đó không ngoài chủ ý khuyên mọi người giữ quy củ. Cho nên giữ được quy củ thì xã hội sẽ có những phần tử tốt, ưu tú, hiền lương, có thể mang lại trật tự an lành cho tất cả, không còn điều gì phiền hà trong cuộc sống. Bởi vậy giới luật là nền tảng của một thế giới an bình. Đó là lý do mà các tỳ kheo phải lấy giới làm thầy.

Tôi nghe như vầy ”. Vào ngày ông A-nan kết tập kinh điển, lúc ông vừa ngồi vào cỗ pháp tọa, tức là chỗ thường ngồi của Phật khi thuyết pháp, người ta bỗng thấy hiện ra nhiều tướng tốt lành. Đại chúng chứng kiến lấy làm lạ, trong lòng nẩy sinh ba điều nghi hoặc. Thứ nhất người ta nghi rằng vị tôn giả đó chẳng phải là A-nan thực, mà là đức Thích ca Phật sống lại, bởi họ thấy rõ vị tôn giả xưng là A-nan cũng có ba mươi hai tướng tốt, cùng tám mươi vẻ đẹp nên nghi rằng Phật đã hồi sanh.

      Thứ hai, họ nghi rằng đây là một vị Phật ở cõi khác đến thế giới Ta-bà để thuyết pháp. Nếu chẳng vậy thì làm gì có được những hiện tướng tốt lành đó.

      Thứ ba, họ nghi tôn giả A-nan đã chứng Phật quả, ông đã thành Phật.

       Bởi có những điểm nghi ngờ như vậy nên ai nấy đều bàng hoàng, chưa biết rõ sự thể ra sao. Tới khi Tôn giả A-nan cất tiếng: “Như thị ngã văn” - tôi nghe như vầy - bốn chữ đó có nghĩa như: “Đây! Pháp như vầy là do chính tôi, A-nan, được nghe đức Thích-ca Mâu-ni Phật thuyết giảng”, mọi người mới thức tỉnh và các sự nghi ngờ mới tiêu tan.

      Ngay đến hàng A-la-hán, khi thấy ngài A-nan kết tập kinh điển cũng khởi lên ba mối nghi như vậy. Nói gì chúng ta ngày nay, nghe tới kinh này, tâm chúng ta bèn khởi lên, chẳng phải ba mà có thể tới hàng ngàn hàng vạn mối nghi nữa, tỷ như có ý nghĩ rằng: “Kinh này có thiệt hay không?”, “có phải do Phật nói ra chăng?”, “lấy gì làm bằng chứng?”. . .  Cái máy điện toán trong thân thể này, không phải là điện não (computer), mà là nhân não, một khi mở máy thì cả ngàn, cả vạn mối nghi xuất hiện. Xem như vậy thì học Phật Pháp chẳng phải là dễ. Chúng ta học Phật mà chẳng có thành tựu gì, chính là do cái tâm nghi ngờ đó.

Có câu rằng: “Tu đạo cần đừng có tâm nghi”, nghĩa là người tu đạo đừng có tâm nghi. Nói thế này, thì quý vị không tin; nói thế kia, quý vị cũng không tin; nói điều chân thực cũng không tin; song nói điều hư dối thì quý vị lại tin! Đó là điên đảo.

Câu tiếp theo là: “Tâm nghi vừa khởi lạc đường mê”, nghĩa là một khi quý vị khởi tâm nghi tức là quý vị đi ngay vào con đường lầm lạc. Bởi vậy người học Phật phải theo đúng châm ngôn “sáng như vậy, chiều cũng vậy” (triêu ư tư, tịch ư tư)-- , ngày ngày tu học, từng giờ, từng khắc phải tu học, đinh ninh trong dạ, chớ không phải làm cho qua chuyện mà được.

       Tại Vạn Phật Thánh Thành này, bất cứ là người xuất gia hay hàng cư sĩ, nếu muốn học Phật thì phải ráng đọc tụng cho thuộc bộ Kinh Lăng Nghiêm. Nhớ và thuộc lòng bộ kinh này thì công học Phật sẽ không uổng. Thực vậy, trong kinh này Phật giảng đến chỗ tột cùng, rất là chính xác, phơi bày hết cái dở của hàng ngoại đạo, lột trần bổn tướng của họ. Bởi vậy nếu chúng ta hiểu thấu kinh Lăng nghiêm, thì thiên ma ngoại đạo sẽ phải khiếp sợ đến dựng lông tóc. Nay quý vị muốn thực lòng hộ trì Tam Bảo, hoằng dương Phật Pháp, thì phải mau mau nghiên cứu kinh Lăng Nghiêm, đọc tụng Lăng Nghiêm, giảng giải Lăng Nghiêm, tối thiểu là như vậy.

        Việc học kinh Lăng Nghiêm, nghe kinh, tụng kinh, đòi hỏi một sự nhẫn nại, không được sanh lòng chán nản. Quý vị phải biết cái cây kia, mỗi ngày nó một lớn lên, rồi hàng ngày quý vị phải lấy nước tưới lên, thì cây mới nở hoa, mới có mầu sắc đẹp đẽ như vậy. Các trẻ nhỏ phải ngày ngày dạy dỗ, lớn lên đi học cũng ngày ngày đọc sách. Học Phật Pháp thì cũng phải bỏ chút ít thời gian để hàng ngày nghiên cứu, học tập Phật Pháp.

       Quý vị học Phật Pháp còn tốt hơn là mang tiền gửi tại ngân hàng nữa. Về phương diện huệ mạng và Pháp thân thì việc học Phật lại càng trọng yếu hơn nữa. Chớ nên coi tiền tài trên thế gian này là thật. Học Phật Pháp mang lại pháp tài để quý vị sử dụng tại thế gian. Nó là công đức pháp tài cho pháp xuất thế gian. Quý vị không thể coi nhẹ vấn đề này, không thể làm một cách qua loa cho xong việc!  Bận rộn cả ngày mà cũng dành được chút thời gian để nghe kinh, nghiên cứu Phật Pháp, vậy là tốt lắm!

       Chớ có nghĩ rằng: “Ồ! Giảng kinh thì ngày nào cũng chỉ từng đó! Nghe hoài phát chán!” Vậy chớ, công việc của quý vị bận rộn mà quý vị vẫn phải ăn, vẫn phải bận quần áo, vẫn phải ngủ nghỉ thì sao? Như nghe kinh mà ta cũng coi trọng như ăn, mặc, ngủ nghỉ thì hay biết bao!

       “Như vầy” (Như thị), ý nói rằng pháp như vầy. Pháp đó có thể tin được, pháp đó có thể tu theo, pháp đó có thể tu thành Phật được. Pháp đó phải tu tập, chúng ta phải tin theo, chúng ta phải gắng sức tu một cách chân thành. Từ ngữ “Như vầy” là chỉ về pháp, biểu tượng cho ý nghĩa thành tựu của bộ kinh về chữ “tín”.

       Phàm là kinh thì phải thỏa mãn sáu điều kiện cần thiết, gọi là sáu thành tựu. Thứ nhất là thành tựu về tín. Nếu quý vị tin được có nghĩa là niềm tin đã thành tựu, mà tín có thành tựu thì mới có lợi ích. Nếu không tin thì chẳng có lợi gì. Lấy thí dụ như cơm mà chúng ta ăn. Chúng ta tin rằng ăn cơm vào thì sẽ được no bụng, bằng không ăn thì chẳng no được.  Pháp cũng vậy, tuy Pháp đó có thể dẫn tới Phật quả, nhưng quý vị không tin, không tu, thì Pháp đó chẳng có hiệu quả gì đối với quý vị cả. Pháp chẳng phải nói suông, thực hành Pháp mới là đạo. Quý vị phải thực sự tu hành, y theo Pháp mà tu tập, có như vậy mới có lợi lạc. Quý vị có tin thì mới có sự thành tựu. Có được niềm tin thực ra cũng do nhiều nhân duyên khác hỗ trợ.

        “ Tôi nghe  . Từ ngữ này nói lên điều kiện cần thiết thứ hai, đó là sự nghe, hay nói cách khác là thành tựu về nghe. “Tôi nghe” thì chữ “tôi” chỉ Tôn giả A-nan. Ngài tự xưng mình là “tôi”, nhưng chữ “tôi” ở đây có tính cách vô ngã, không hề có sự chấp trước, cái “tôi” viên dung,  không bị trở ngại; nó thấu suốt cả vạn sự vạn vật mà lại buông bỏ hết; bởi vậy nó mới đích thực là chân ngã của tự tánh. Cái “tôi” này không mang ý nghĩa đối ngoại, như nói tôi và người khác. Nó là đối nội, đối với chính tâm sở của mình. Đây là cái “tôi” có trí huệ, cái “tôi” không điên đảo, cái “tôi” trong sự trạch pháp. Bởi có con mắt trạch pháp nên mới tới được trình độ “thâm nhập kinh tạng, trí huệ như biển”. Làm sao có được con mắt trạch pháp? Chính là phải có thành tựu về tín và thành tựu về văn.

 

Một thời  Nay đã có hai sự thành tựu, có lòng tin, có ý muốn nghe, nhưng lại phải có một thời điểm để nghe, tức thời gian nghe bộ kinh Công Đức Bổn Nguyện của Đức Phật Dược Sư, mà cũng chỉ cả thời gian Tôn giả A-nan kết tập kinh tạng. Từ ngữ “một thời” chính là sự thành tựu về thời gian. Có thể quý vị sẵn lòng tin, lại muốn nghe, nhưng thời gian không ăn khớp chẳng hạn, đại khái quý vị không có dịp đến Kim Luân Thánh Tự để tham gia pháp hội giảng kinh thuyết pháp, mà  lại nằm ở nhà, thì dầu có tin và muốn nghe cũng không nghe được. Đó là vần đề thành tựu về “thời”, một trong các điều kiện cần thiết để nghe kinh.

 

“Bạc Già Phạm” là một tên khác của đức Phật. Từ ngữ này có sáu ý nghĩa. Quý vị muốn tìm hiểu kỹ càng về từ ngữ này thì có thể tra từ điển Phật học. Nếu không, thì chỉ cần nhớ rằng đây là tiếng Phạn và tiếng đó chỉ đức Phật. Từ ngữ “Bạc Già Phạm” biểu tượng cho sự thành tựu về chủ thể.

       Nay các điều kiện về tín, nghe và thời đã được thỏa mãn, nhưng nếu không ai giảng kinh thì quý vị đâu có nghe được gì. Các thành tựu trên đều vô dụng nếu không có sự thành tựu về chủ thể, tức là người chủ thuyết pháp.

      Bây giờ tôi hỏi quý vị: Có ai nhớ sáu ý nghĩa của chữ “Bạc-Già-Phạm” này không?

 

[ Một đệ tử thưa: Đệ tử chỉ nhớ được bốn ý nghĩa.

Thượng Nhân:  Cứ nói ra cho mọi người nghe đi! Còn hai nghĩa kia để người khác nói.

Đệ tử:  Một nghĩa là tự tại, ngụ ý rằng đức Phật ở nơi nào cũng thoải mái, không có phiền não. 

Thượng Nhân: Tự tại giống như ông chăng?

Đệ tử: Hoàn toàn khác.

Thượng Nhân:  A!  Ông làm gì mà không tự tại? Ông chạy đi đâu mà không ở chỗ này?

Đệ tử: Thường thường là hướng ngoại, lăng xăng ở bên ngoài.

Thượng Nhân: Okay! Nghĩa thứ hai là gì?

Đệ tử:  Bạc Già Phạm có một nghĩa là danh xứng, ý nói rằng ai ai cũng biết tên của đức Phật; công đức, hạnh nguyện, từ bi, tất cả mọi người đều hay biết.  Nghĩa thứ ba là đoan nghiêm, tức là sự đoan chính, không có chút gì gọi là tà, không có vọng tưởng, tóm lại là rất trang nghiêm, rất chánh. Nghĩa thứ tư là xí thịnh, ý nói rằng công đức của Ngài rất trang nghiêm, thật là viên mãn, có tính cách sáng rực như một ngọn lửa phát ra ánh sáng, vô cùng mỹ lệ, rất hay, ai ai cũng muốn xem, ngắm ánh sáng của ngọn lửa.

Thượng Nhân: Trong số quý vị đây có ai biết được ông ấy nói đúng hay sai chăng? Bốn danh xưng về đức Phật vừa nói có nằm trong sáu ý nghĩa của chữ Bạc Già Phạm không? Ai biết ông ấy nói sai? Mau nói thử coi! Ông ấy nói đúng ư? Cũng lên tiếng cho biết đi!  Chữ đó còn hai ý nghĩa nữa, tôi không cần gọi tên ai cả, người nào biết thì hãy mau mau nói ra. Nếu chẳng ai nói cả thì chứng tỏ rằng quý vị đã quên, không một người nào ghi nhớ hết.

Quả Huệ thì sao? Biết không? Người ta nói như vậy đó, có đúng không?

Quả Huệ: Có một nghĩa là cát tường.

Thượng Nhân: Còn gì nữa? Quả Nhã có biết không?

Quả Nhã: Có một nghĩa là tôn quý.

Thượng nhân: Còn bốn ý nghĩa mà vừa rồi người ta đã giảng thì có đúng không?

Quả Nhã: Một ý nghĩa gọi là trang nghiêm, nhưng ông ấy nói thành chữ đoan chính.]

       

       Cát tường! Người Trung Hoa thích chữ cát tường lắm! Nhất là tại vùng Quảng Đông, cứ mỗi lần sang năm mới, người ta chỉ nói : “Như ý cát tường! Như ý cát tường!” Muốn cát tường mà không chịu niệm Phật! Chỉ kiếm nơi đánh bài “mạc chược”, hoặc đến chỗ khiêu vũ! Quý vị muốn được cát tường thì quý vị phải niệm Phật, sống trong quy củ theo đúng phép tắc. Đánh mạc chược ư? Cát tường làm sao được? Chỉ có thua bạc thôi! Thua tới thua lui, thua đến mất luôn cả cái quần này. Quý vị bảo như vậy là cát tường ư?

        Tôn quý! Phật là tôn quý nhất! Do đó muốn được tôn quý, chúng ta phải theo gương Phật, học tập tấm gương rất tôn quý, rất hoàn chỉnh của Ngài, một tấm gương trong, không còn tập khí, không còn vọng tưởng tạp niệm, hoàn toàn vượt xa cảnh giới A-la-hán.

        A-la-hán như trong kinh Pháp Hoa mở đầu như sau:

       “Tôi nghe như vầy: Một thời Phật tại núi Kỳ-Xà-Quật, thuộc thành Vương Xá, cùng các vị đại tỳ-kheo, một vạn hai ngàn người, đều là A-la-hán . . .”

        A-la-hán là những vị đó. Họ là những người đã dứt sạch lậu hoặc - chư lậu dĩ tận - dứt hết các điều xấu, các tập khí, lìa mọi vọng tưởng, thoát khỏi vòng sanh tử. Các ngài đã làm xong mọi việc mà họ phải làm - sở tác dĩ biện - hoàn thành mọi thứ, không còn hướng ra ngoài để mong cầu điều gì. Bởi không rong ruổi tìm kiếm bên ngoài nữa nên mới dứt sạch các lậu hoặc.

         Lậu là thế nào? Như ham nói chẳng hạn, đó là lậu. Thích nghe thanh âm cũng là lậu. Có người bảo: “Tôi không nghe, tôi không nhìn, đâu có thể như vậy được? Học Phật Pháp để đi tới chỗ không nghe, không nhìn thì tôi không thể làm được”. Bởi không làm được như vậy nên cho đến nay quý vị vẫn chưa thành Phật, vẫn còn hướng ra ngoài để tìm kiếm, không biết trở về, không thể hồi quang phản chiếu.

        Một khi đã dứt hết các thứ lậu thì lúc đó quý vị chẳng còn tham, chẳng tranh, chẳng cầu, chẳng ích kỷ, chẳng tự lợi. Chừng nào quý vị còn tham, là còn bệnh; còn tranh, cầu, ích kỷ, tự lợi, là còn bệnh. Tình ái cũng là bệnh và bệnh nặng nhất chính là dục niệm.  Khi dứt sạch lậu thì hết dục niệm, hết các ý nghĩ dâm dục, hết sự khát khao, vọng tưởng, niệm gì cũng không còn.

       Bậc A-la-hán thì không có phiền não - vô phục phiền não - vì phiền não đã hết. Bậc A-la-hán đã tìm được lợi lạc cho chính mình - đãi đắc kỷ lợi - đã có trí huệ chân chánh, tức coi như đã gặt hái được cái kết quả chân chánh của việc tu học Phật. Như tôi đã từng nói với quý vị, Phật chính là một vị đại trí huệ. Ai có trí huệ thì người đó sẽ không điên đảo và người đó là Phật.  Chừng nào quý vị còn điên đảo, tâm còn tham không biết chán, không bao giờ vừa lòng, luôn luôn tranh đua với người khác, chỉ biết ích kỷ, tự lợi, thì quý vị không thể nói tới sự lợi ích của Phật Pháp được. Chỉ khi nào quý vị dứt hẳn lòng ham muốn ngoại vật, như tiền bạc, đồ châu báu, rồi các thứ về sắc, thanh, hương, vị, xúc, tất cả các cảnh giới này đều không lay chuyển được mình, lúc đó quý vị mới thật sự hưởng lợi của chính mình, đãi đắc kỷ lợi.

      A-la-hán đã thoát hết mọi thứ ràng buộc, tức là « tận chư hữu kết. » Lúc này các tập khí đã hết, các thứ giây trói buộc không còn nữa nên hoàn toàn tự do. Trong cảnh giới này, tâm mới thực sự tự tại.

       Còn Phật thì sao? Địa vị của Phật còn siêu việt hơn nhiều lắm, bởi vậy Phật mới là tôn quý bậc nhất.

        Nếu chúng ta muốn học theo Phật thì bước đầu phải học tính cách không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi. Chẳng phải là cứ nói : “Tôi không cái này, tôi không cái kia”, nhưng đồng thời lại muốn lấy các thứ của người khác. Đó là quý vị đã dối người và dối chính mình. Quý vị thực sự không có tâm tranh ư? Quý vị sẽ để cho mọi sự diễn tiến một cách tự nhiên. Quý vị không tham ư? Quý vị cũng sẽ giữ một thái độ như vậy. Đến tình trạng không cầu thì có câu nói: “Đáo vô sở cầu xứ tiện vô ưu”, nghĩa là còn mong cầu thì còn ưu sầu, hết mong cầu thì chẳng còn gì phải ưu sầu nữa. Quý vị còn phải dứt bỏ tâm ích kỷ (tự tư), tức là không nghĩ riêng cho mình. Các chuyện phiền phức trên thế gian này là do mọi người có tâm ích kỷ, mà ích kỷ phát sinh là vì dục niệm. Không ích kỷ còn bao gồm cả lòng không mong cầu và không còn vướng vào vòng yêu thương nữa. Không tự lợi là không tìm cái lợi riêng cho mình, không tìm cái khoái cảm riêng cho mình, các thứ đó phải dứt bỏ hết! Nếu loại được hết các căn bệnh kể trên thì quý vị sẽ thành Phật.  

       Sáu ý nghĩa của từ Bạc-Già-Phạm quan trọng như vậy. Chúng ta là người học Phật, phải nhớ cho kỹ. Bằng không, quý vị sẽ không có cách gì nhận thức được Phật. Như trường hợp quý vị quen biết một người nào, quý vị nhận biết diện mạo, hình dáng bên ngoài của người đó, còn nhận biết cả giọng nói. Như vậy mới gọi là quen biết thực sự. Quý vị chẳng cần phải nhìn thấy tận mặt, chỉ cần nghe giọng nói của người đó là đã nhận ra ngay người quen thuộc. Nhận biết Phật cũng cùng một ý nghĩa như vậy. Nếu quý vị học Phật mà không ghi nhớ hết các nghĩa của danh từ Bạc-Già-Phạm thì quý vị quả là kẻ học Phật hồ đồ.

       Bởi vậy quý vị phải nhớ điều này đặng lần sau khi được hỏi đến thì có thể trả lời được mà không hồ đồ. Quý vị hãy xem! Tôi đã mất nhiều hơi sức giảng cho quý vị mà quý vị lại quên hết, tai nghe như gió thoảng qua, thật là đáng tiếc biết bao! Bây giờ tôi giảng được chừng nào, quý vị phải cố gắng ghi nhớ, lần sau nhất định tôi sẽ hỏi lại, ai không trả lời được tức là kẻ đó đã ngồi ngủ gục.

 

Phật đi hóa độ các nước, đến thành Quảng Nghiêm, Ngài dừng lại dưới gốc cây âm nhạc.

      Phật giáo hóa các chúng sanh không phải chỉ giới hạn trong một nước mà tại hết thảy các nước nào có duyên với Phật Pháp, cũng như những chúng sanh ở một nước nào hữu duyên thì Ngài cũng tới đó để giáo hóa. Bởi vậy mới nói là « du hóa chư quốc ». Trên đường du hóa, Phật đi tới một thành phố lớn tên gọi là Quảng Nghiêm (Vaisali). Ngài dừng lại tại gốc một cây âm nhạc, ngồi xuống trong thế kiết già và thuyết pháp cho đại chúng.

       Các từ ngữ “ thành Quảng Nghiêm, dưới gốc cây âm nhạc ” nói lên ý nghĩa của “xứ thành tựu”. Phần trên chúng ta đã thấy những sự thành tựu về tín, văn, thời và chủ. Thành tựu về chủ tức là nói về chủ thể của sự giảng kinh. Tuy nhiên, đã có người giảng kinh rồi thì lại cần phải có địa điểm giảng nữa. Cũng giống như nay giảng Kinh Dược Sư mà không có giảng đường thì giảng làm sao được? Bởi vậy phải có yếu tố địa điểm, tức là nói về xứ thành tựu.

      Đoạn sau kinh văn nói đến các Tỳ-kheo và Bồ tát, tức đề cập tới chúng thành tựu. Vậy là đã có chủ thể giảng kinh, có địa điểm, nay lại có người nghe kinh. Phật thuyết pháp mà nếu chẳng có ai nghe, Phật thuyết cho Phật nghe thì chẳng còn ý nghĩa gì. Tất phải có sự hiện diện của chúng sanh thì Phật mới có đối tượng thuyết pháp.

       Chúng sanh trong các pháp hội đều là những người có duyên với Phật Pháp. Như quý vị tới đây nghe kinh, chính là đã có sẵn nhân duyên rồi. Không có duyên thì dầu muốn tới cũng không tới được. Đừng tưởng đây là một chuyện bình thường. Kỳ thực nó không đơn giản như vậy. Chính quý vị đã từng gieo trồng căn lành từ bao nhiêu kiếp trước, nên nay mới có cơ hội mỗi ngày đến đây nghe kinh. Có điều chúng ta không nhận biết được điều đó mà thôi. Bởi không hiểu duyên lành này nên chi, có lúc quý vị sanh tâm lười biếng, rồi lấy cớ rằng: “A! Sư Phụ chưa tới, ta có thể chạy đi tiêu khiển chút xíu”. Rồi thì, từ đó chạy đi coi hát, coi điện ảnh, đi nhảy, đi uống rượu, mở “party”, nghĩa là mang sức lực phung phí vào những chuyện vô ích.

       Mỗi lần đến đây nghe kinh, một là quý vị được nghe pháp âm, đủ khiến cho lòng vơi bớt những phiền não trần lao của thế tục, hai là quý vị được thêm trí huệ vì những gì kinh điển nói ra đều là trí huệ, đều là pháp bát-nhã.

      Có người bảo rằng: “Tôi hiểu kinh cũng khá lắm rồi!” Vậy hiểu thêm nữa không tốt hay sao? Quý vị sợ quá nhiều ư? Quý vị đến ngân hàng gửi tiền, có khi nào quý vị thốt ra câu: “Trương mục của tôi quá nhiều tiền, nhiều quá thôi! Nhiều quá thôi!”? Nhiều bao nhiêu đi nữa cũng chẳng ngại, càng nhiều càng tốt mà! Vậy có thêm trí huệ, biết thêm Phật Pháp chân chánh mà cũng ngại ư? Chẳng phải như vậy là điên đảo hay sao? Chẳng qua quý vị không biết suy tính, nên mới bỏ gốc mà tìm ngọn, bỏ cái trước mắt mà tìm cái xa vời, bỏ lỡ việc học hỏi Phật Pháp, để uổng phí hết thời gian! 

 

 « cùng với các đại bí-sô, đủ tám ngàn vị. »

Đại bí-sô hay tỳ kheo là chỉ các bậc xuất gia. Chữ “đại” ngụ ý rằng các vị này đều là bậc trưởng lão, là những tỳ kheo đã xuất gia từ trên hai mươi tới ba mươi năm. Không gọi bằng chữ “lão” là già mà gọi bằng chữ “đại” vì họ là những bậc tỳ kheo lớn, đầy đủ đức hạnh, trí huệ viên mãn, phẩm cách tuyệt vời.

        “Tỳ kheo” nguyên là tiếng Phạn, bao hàm ba nghĩa. Vị nào hay nghe kinh, ắt đã được nghe nhiều lần ý nghĩa này: thứ nhất là nghĩa “khất sĩ”, thứ hai là “bố ma”, thứ ba là “phá ác”.

      1. Khất sĩ, chỉ người đi xin ăn. Những người đi đến từng nhà để xin cơm ăn còn gọi là kẻ ăn mày, nhưng khất sĩ thì không phải là hạng ăn mày bình thường, đi xin với một tâm hồn phân biệt, không bình đẳng—hễ được cho nhiều thì vui thích, cho ít thì buồn phiền. Đối với khất sĩ thì khác—cho đồ ngon hay không ngon, họ cũng chẳng chú ý, hoặc cho nhiều cho ít, họ cũng không quan tâm, họ chỉ biết mang cơ duyên đến để mọi người được gieo phước, ai cho thì người đó gieo nhân và gieo nhiều nhân lành thì gặt hái nhiều phước, họ chẳng bao giờ có phiền não.

       Trên đường đi khất thực, mắt vị Tỳ kheo không nhìn ngang nhìn ngửa hoặc quay đầu ngắm nghía, mà luôn giữ thái độ nghiêm chỉnh uy nghi, theo đúng pháp túc cung trai. Đã là người xuất gia, mỗi khi đi ra đường cũng không thể ngó ngang ngó dọc, luôn luôn giữ cặp mắt nhìn xuống mũi, mũi chiếu xuống miệng, miệng thì quán tâm. Phàm thứ gì không đúng với lễ nghi, thì mắt không nhìn, tai không nghe, miệng không nói, thân không vọng động.                   

       Khất sĩ đi xin ăn trong sự yên lặng, không nói năng, chớ không giống như người ăn mày đến trước cửa nhà người ta thì nói những câu: “Thưa ông! Thưa bà! Phát tài, phát phúc!” toàn là những từ ngữ tán dương, khách sáo. Tỳ kheo đi khất thực thì không nói gì cả, ai bố thí thứ gì thì mang đi, không bố thí cũng vậy, trong tâm không có phiền não.

     2. Bố ma là ý nghĩa thứ hai của chữ “tỳ kheo”. Tỳ kheo luôn luôn giữ vẻ đoan nghiêm nên thiên ma trông thấy thì kinh hãi, các loại tà ma quỷ quái thì phải lánh xa. Tại sao vậy? Bởi chánh bao giờ cũng thắng tà.

     3. Phá ác là ý nghĩa thứ ba. Người thường rất khó phá trừ các tập khí xấu, không giống như các tỳ kheo là những người chuyên trị việc phá trừ tập khí, chuyên sửa các lỗi lầm của mình, cải sửa điều ác thành điều thiện, do đó họ được gọi là phá ác.

       Số tỳ kheo này tổng cộng là bao nhiêu? Trong pháp hội có tất cả tám ngàn vị.

 

: ba vạn sáu ngàn đại bồ-tát.   

      Danh từ “Bồ-tát” cũng là tiếng Phạn và rất lưu hành tại Trung Quốc. Hai chữ này ai ai cũng quen thuộc, nhưng hỏi mọi người, kể cả trong hàng Phật tử, Bồ tát là gì thì chẳng ai biết nói ra sao.

      Chúng ta phải nhớ rằng hai chữ “Bồ tát” chính là chỉ một vị thánh trong Phật giáo Đại thừa. Nói cho đủ thì đó là danh từ « bồ-đề tát-đỏa », còn tiếng Anh là Bodhisattva, dịch nghĩa ra tức là « giác hữu tình ». Chữ hữu tình là chỉ chúng sanh và, Bồ tát là một chúng sanh trong chín Pháp giới, là một thánh nhân trong bốn Pháp giới thánh.

      Giác hữu tình là ý nghĩa gì? Đó là ngụ ý rằng các vị này sử dụng trí huệ giác ngộ của mình để độ thoát các chúng sanh hữu tình. Phàm loại gì có khí huyết thì gọi là hữu tình, không có khí huyết thì gọi là vô tình. Như các giống thực vật, tuy thuộc loại vô tình, nhưng chúng lại có “tánh” (bổn tánh) và chúng đều sanh ra và được nuôi dưỡng trong đại quang minh tạng của Phật.

      Bồ tát gọi là « giác hữu tình » nhưng cũng là một « hữu tình giác ». Tại sao nói vậy? Bởi Bồ tát cũng là người như chúng ta, cũng là một chúng sanh, chỉ khác là Bồ tát đã giác ngộ. Giác ngộ điều gì? Giác ngộ ý nghĩa “chư ác bất tác, chúng thiện phụng hành” (các việc ác không làm, các việc lành thì làm). Một khi đã giác ngộ thì dụng công phá trừ tập khí, tu tập trí huệ vô thượng. Như vậy đây là một vị giác ngộ trong giới hữu tình. « Giác » là đối nghịch với « mê », nên Bồ tát là một chúng sanh không mê và, bởi không mê nên trong hành động không còn sự vô minh nữa.

      Chúng ta bây giờ phàm làm việc gì cũng là hành động trong sự vô minh, bởi lý do chúng ta không có trí huệ chân chánh. Gặp việc là chúng ta không biết xử trí cách nào cho đúng, tiến chẳng biết tiến, thoái chẳng biết thoái. Chúng ta không phải là kẻ đã tự giác, còn hàng Nhị thừa thì đã tự giác rồi, hành động không còn hồ đồ nữa, nhưng họ không dùng các pháp môn giác ngộ đó nói cho mọi người biết để tất cả đều được giác ngộ. Bồ tát thì không những đã được tự giác, lại còn truyền bá trí huệ giác ngộ đó cho hết thảy mọi người, khiến cho những ai thực lòng mong ước giác ngộ, đều có thể theo phương pháp đó mà đạt được kết quả. Vậy là Bồ tát đã tự giác lại còn đi giác ngộ người khác, tức là tự giác, giác tha. Tuy nhiên sự giác ngộ của Bồ tát vẫn chưa tới chỗ viên mãn.

       Phật thì sao? Phật thì tự giác, giác ngộ chúng sanh, sự giác ngộ của Phật lại đạt tới độ viên mãn, ba hạnh giác ngộ đều viên mãn, do đó có câu: “tam giác viên, vạn đức cụ”, cả vạn đức hạnh đều toàn vẹn, như vậy mới gọi là Phật.

       Chỗ này đương nói về Bồ tát. Vậy nếu Bồ tát vẫn giữ bước tiến tu thì cũng sẽ chứng được quả Bồ tát Đẳng giác, chỉ thua Phật một bậc. Hàng Bồ tát cũng có nhiều bậc, có Bồ tát Sơ địa, Bồ tát Nhị địa, Tam địa, Tứ địa, cho đến Bồ tát Thập địa. Bồ tát Thập địa gọi là Bồ tát Đẳng giác. « Đẳng » là ngang hàng, ý nói ngang với độ giác ngộ của Phật, nhưng so địa vị thì không bằng Phật.     

        Trong pháp hội của đức Phật Dược Sư có các hàng Bồ tát như trên, gọi là đại Bồ tát hay ma-ha-tát. Gọi là “đại” tức chỉ nguyện lực lớn, trí huệ lớn, công phu tu hành và đạo nghiệp đều lớn. Số Bồ tát đó trong pháp hội là ba vạn sáu ngàn vị.

 

« các quốc vương, đại thần ». Một số quốc vương cũng có mặt trong Pháp hội. Họ là vua một nước, lo việc trị vì để mang lại hạnh phúc cho toàn dân. Bên cạnh có các vị đại thần, họ là những người phụ tá của vua để lo việc trị nước.

 

Bà-la-môn. Bà-la-môn là một giai cấp quý tộc ở Ấn. Nước Ấn độ có bốn giai cấp, hai giai cấp tôn quý và hai giai cấp hạ tiện. Bà-la-môn theo pháp tu khổ hạnh, ăn chay, nhưng họ cầu sanh về cõi trời, tâm tham hãy còn, tâm sân chưa hết, tâm si và vọng tưởng cũng chưa hàng phục được. Họ chỉ là những người tu khổ hạnh thanh tịnh, đại loại giống như hàng đạo sĩ ở Trung quốc, tuy hình tướng chẳng giống nhau, nhưng tôn chỉ tu hành chẳng sai khác.  Bà-la-môn chính là những người tu ngoại đạo tại Ấn độ. Trong hàng Bà-la-môn cũng đã có khá nhiều người đạt được công phu đáng kể.

 

Cư sĩ. Đây là một danh xưng, dùng trong việc xưng hô. Người khác xưng hô mình như vậy chớ không phải chính mình tự xưng là “cư sĩ”. Tôi thấy có một số người, dĩ nhiên không phải hàng xuất gia, nhận mình là cư sĩ, rồi cho in lên tấm danh thiếp tên của mình với danh xưng cư sĩ; nói chuyện với ai cũng tự xưng tôi là cư sĩ tên này, cư sĩ tên kia chẳng hạn. Như vậy là kém hiểu biết.

       Lối xưng hô phổ thông tại Trung quốc là dùng hai chữ “tiên sinh”. Người khác có thể dùng hai chữ đó để xưng hô ta, chớ ta không thể tự xưng là tiên sinh được. Thí dụ tôi hỏi: “Ông là ai? ” Anh trả lời: “Tôi là Triệu tiên sinh, là Lý tiên sinh, hoặc Tiền tiên sinh v.v..” Trả lời như vậy tức là chẳng biết tiếng Trung Hoa.  

       Chữ “tiên sinh” thường dùng để xưng hô đối với những vị có học vấn, hoặc lớn tuổi và có đức hạnh, hoặc những người lịch lãm. Chữ “cư sĩ” là dành cho những ai đủ mười loại mỹ đức. Nếu quý vị chẳng được như vậy thì không xứng đáng với danh xưng này. Lại nói đến mấy chữ “Pháp sư” nữa, phải để cho người khác gọi ta, chớ ta không thể tự xưng mình là Pháp sư được, bởi như vậy có khác gì tự mình tán tụng mình, tự mình xưng mình là hoàng đế? Chữ hoàng đế cũng phải để người khác tung hô, đại khái như tung hô: “Hoàng đế vạn tuế!” Tự mình không thể xưng hô như vậy! Dùng chữ cư sĩ để xưng hô là có ý cung kính, cung kính người khác, chớ không phải cung kính chính mình. Anh đối với chính anh, trong lòng cung kính, điều này nên lắm, nhưng không cần biểu lộ ra ngoài. Về văn hóa Trung quốc, vấn đề học vấn là vô cùng tận. Sai một ly đi một dặm. Trên đây chỉ là những điều thường thức, chẳng có gì là thâm sâu, chúng ta phải lưu ý.

 

Thiên long bát bộ. Trời, rồng và tám bộ chúng.

      Đạo tràng của chúng ta hiện nay cũng đương nhờ sự che chở của các vị thiên long. Chắc mọi người còn nhớ thời gian Kim Luân Thánh Tự mới dọn tới và khi bắt đầu tu sửa, ở lưng trời người ta thấy có đức Bồ tát Quán Âm hiện ra. Ngài đặt chân trên lưng con rùa và thị hiện ở không trung.

       Một chuyện khác là hồi đó, có người cho tôi hay rằng ngay tại góc đường phía đông của khu này có một quán rượu. Trong quán có đủ thứ trò quỷ quái, nào ma túy, nào rượu, nào thoát y vũ, đi vào đi ra toàn là hạng ăn chơi trụy lạc. Đương lúc chúng ta sửa soạn để khai trương thì quán rượu này bị cảnh sát ra lệnh đóng cửa. Khu này ngày trước uế tạp nay trở thành khang trang sạch sẽ. Đó chính là nhờ tám bộ thiên long che chở cho đạo tràng nên mới có sự cảm ứng như vậy.

       Chỗ đạo tràng này nguyên là một giáo đường cũ. Cư dân đến ở, đa số là hỗn tạp, họ ăn ở thiếu sạch sẽ, khi ăn khi uống tùy tiện xả rác, thành thử loài chuột kéo đến rất đông. Chúng ta đến đây để hoằng dương Phật Pháp, nên bổn phận của các bộ thiên long tất phải hộ trì đạo tràng, từ đó họ phải đuổi hết các loài chuột đi nơi khác. Thực lòng tôi chẳng có vấn đề gì với loài chuột, nhưng có chuột thì thiếu vệ sinh, khiến cho những ai đến đây đều có cảm tưởng chỗ này là dơ bẩn. Bởi vậy chúng ta phải cầu sự giúp đỡ của thiên long bát bộ, xin các vị ấy hãy làm nhiệm vụ ủng hộ đạo tràng, bằng cách xua đuổi chuột cùng các thành phần bất hảo ra khỏi nơi này.

      Bát bộ là chỉ trời, rồng, dạ xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, ca-lâu-la. Các vị này đều hộ trì đạo tràng. Hôm nay, nhân dịp tôi giảng tới chỗ này mà nhắc tới các vị thiên long. Vậy xin các vị hãy làm nhiệm vụ của mình, nhất định sẽ ra tay hộ trì cho đạo tràng của Phật.

       Các chư thiên ở trên trời trong quá khứ đã từng phát nguyện ủng hộ đạo tràng của Phật.

Long là rồng, thuộc loài linh vật, cũng là một chúng sanh. Tại sao lại làm thân rồng? Trong qua khứ họ đã tu đạo, nhưng tu theo kiểu “thừa cấp giới hoãn”, nghĩa là tu các thừa thì gấp gáp, mà trì giới thì trễ nãi. Chữ “thừa” ở đây là chỉ Tiểu thừa, Đại thừa. Họ nguyện tu các pháp Đại thừa, nguyện tinh tấn, dũng mãnh, nhưng lại muốn đi đường tắt cho mau, muốn được thần thông. Do đó họ đi khắp nơi tìm Phật Pháp, kiếm Mật tông và chuyên tu theo tông này. Cách thức họ tu như thế nào? Họ không chú trọng giới luật, không giữ giới. Những người giữ giới phải luôn luôn theo đúng câu: “Việc ác thì tránh, việc lành thì làm” , trong khi đó, họ ăn cắp đầu lâu của xác chết để luyện công, niệm chú. Có khi họ ăn cắp bài vị tổ tiên của các nhà rồi biến các vong linh đó làm quỷ để sai khiến. Chữ “thừa cấp” là nói về sự tinh tấn, dũng mãnh của họ để luyện công, đặng có thể tiến mau như hỏa tiễn vậy. “Giới hoãn” là nói họ không coi trọng giới luật, mặc sức hành động, kể cả các loại giới như giết hại, ăn cắp, dâm dục, họ không tuân thủ. Vậy thì còn nói gì nữa! Quý vị coi! Họ ăn cắp đầu lâu, ăn cắp bài vị tổ tiên nhà người ta, lấy cả mấy cây trồng trên mộ phần để luyện pháp, với tâm tham như vậy để tu pháp, do đó mới có câu “thừa cấp, giới hoãn”. 

      Bởi vậy do quả báo, họ phải mang thân rồng mà có thần thông. Rồng vẫn là loại linh vật, có thể thu nhỏ, có thể hiện lớn, khi ẩn khi hiện vô chừng. Có điều chúng rất sợ ánh sáng mặt trời, bởi một khi có ánh sáng chiếu tới chúng cảm thấy khổ sở như bị lửa đốt thân, khiến chúng phải đổ mưa xuống, giống như người ta tắm gội vậy.

       Dạ xoa còn gọi là “tốc tật quỷ”, nghĩa là con quỷ chạy mau. Có loại chạy trên không, gọi là không hành, có loại chạy dưới đất gọi là địa hành, cũng có loại đi dưới nước gọi là thủy hành. Chúng chạy nhanh hơn xe hơi, hơn cả máy bay, có thể so với hỏa tiễn, nhưng hỏa tiễn cũng không thể thần tốc bằng dạ xoa, chỉ cần một niệm là ngàn dặm, vạn dặm cũng tới được.

      Dạ xoa cũng có nhiều chủng loại, kể cả ngàn vạn thứ khác nhau, giống như các loại chư thiên và rồng, không thể kể hết được. Loài người chúng ta cũng có loài da trắng, da đen, da vàng chẳng hạn, rồi trong số này lại phân chia thành quý vị ở bắc, tôi ở nam, người này ở đông, kẻ kia ở tây. Trong số rồng thì có rồng xanh, rồng vàng, rồng lửa, rồng trắng, rồng đen v.v..  Mỗi loài chúng sanh đều chia thành nhiều hạng. Trên thế giới này có biết bao nhiêu loại chúng sanh, rồi mỗi loại lại phân thành ngàn vạn giống có hình tướng khác nhau, đa dạng vô cùng, đó chính là điều kỳ diệu của thế gian.

     Không ai hiểu được sự bí mật của tạo hóa. Có người bảo rằng: “Ngày nay người ta đã lên tới cung trăng, vậy chuyện gì con người cũng sẽ làm được cả, chẳng có gì là không biết được”. Quý vị nên nhớ rằng dẫu từ địa cầu này quý vị có thể lên tới các tinh cầu khác, nhưng có biết đâu, chỉ cần một trái bom nguyên tử hay bom khinh khí nổ tung, một trận động đất hay núi lửa bộc phát, dù đó là thiên tai hay do con người tác động, thì nguy cơ hủy diệt nhân loại vẫn có thể xảy ra được. Càng ngày bí mật của thế giới càng được khám phá, các vấn đề lần lượt được sáng tỏ, nhưng khi sáng tỏ đến cực điểm thì màn hắc ám lại trở lại. Tôi nói một tỷ dụ: buổi ban mai chúng ta thức dậy, trời rạng sáng, rồi tới khi sáng đến cực điểm thì dần dần về chiều; trời tối, chúng ta đi ngủ và nhắm mắt đi vào giấc mơ với đầu óc mù mờ. Trong thế gian này, chuyện lớn chuyện nhỏ tất cả đều đi theo cái vòng tuần hoàn này cả.   

      Càn-thát-bà là loại biết âm nhạc, chơi âm nhạc hay vô cùng. Mỗi khi chúng cử nhạc thì tất cả chư thiên thượng giới đều chú ý lắng nghe đến say mê túy lúy như người uống rượu, không còn biết đến chuyện gì chung quanh. Tuy nhiên không dễ gì bảo chúng chơi nhạc cho chúng ta nghe. Chúng có một nhược điểm là ưa ngửi mùi hương. Ở đâu có mùi hương thì dầu xa xôi cả ngàn vạn dặm chúng cũng tới ngay được để thưởng thức hương thơm. Vua trời có một thứ hương, chuyên dùng để chiêu dụ càn-thát-bà. Có mùi hương thì càn-thát-bà liền tới, rồi ở đấy nhẩy múa, ca hát, tấu nhạc, nên càn-thát-bà còn gọi là khứu hương thần, nghĩa là thần ngửi hương. Ở trên đã nói qua về loài rồng. Vậy trong loài rồng có tám vị long vương (vua rồng), loài càn-thát-bà thì có bốn càn-thát-bà vương,

       A-tu-la là loài hay nổi giận. Người nào hay tức giận đều ít nhiều có hạt giống a-tu-la. Tại thiên giới, a-tu-la được gọi là loài không có rượu, bởi chúng không có rượu để uống. Chúng còn được gọi là loại phi thiên, tức không phải là dân thuộc thiên giới. Tại chốn này chúng chỉ là kẻ cư ngụ bất hợp pháp, tuy rằng a-tu-la cũng được xếp vào hàng chúng sanh của một cõi lành (thiện đạo) trong sáu cõi của dục giới. Tại thiên giới chúng thường giao tranh với các thiên tướng, thiên binh, để lật đổ ngôi vua trời đặng có thể trở thành Thích-đề-hoàn-nhân (Đế thích).

       A-tu-la cũng có bốn loại. Chúng có thiên phước mà không có thiên quyền, nghĩa là chúng ở trên thiên giới và được hưởng phước nơi đây, nhưng lại chẳng có quyền hành  như chư thiên, đại loại như các cư dân sống bất hợp lệ ở nước Mỹ, được hưởng các tiện nghi của nước Mỹ, đó là phước báo của họ, nhưng họ không có quyền tham gia vào việc điều hành của quốc gia này.

       Ca-lâu-la là giống chim đại bàng cánh vàng, có thể biến thành lớn, thành nhỏ, khi ẩn, khi hiện. Cánh chim trải rộng ra có thể tới ba trăm ba mươi do-tuần. Mỗi do-tuần dài chừng 40 miles (dặm), vậy ba trăm ba mươi do-tuần thì quý vị tưởng tượng nó xa tới đâu! Mỗi khi chim bằng vỗ cánh, nước biển bị quạt hết thì cung điện loài rồng đâu còn nữa! Rồng lớn, rồng nhỏ đều bị nuốt hết. Quý vị bảo: “Ghê gớm như vậy ư!” Cũng chưa ghê gớm lắm đâu!

       Ca-lâu-la thần thông quảng đại, nên loài rồng rất sợ ca-lâu-la. May là chúng đã quy y Phật, sống hòa bình không còn tàn sát các giống khác. Ca-lâu-la cũng có bốn loại, muốn biết thêm chúng có những tên gì, thì hãy xem trong phẩm Tựa của kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ở đấy nói rất rõ ràng.

      Thần thông biến hóa của loại đại bàng cánh vàng này thật là không thể nghĩ bàn. Vỗ cánh một cái thì nước biển bị quét sạch, vỗ cánh hai cái là núi bị bạt đi lấp bằng đáy biển. Đó là thần thông dời núi lấp biển của ca-lâu-la.

      Khẩn-na-la thì như thế nào? Chúng cũng biết âm nhạc, trên đầu có một cái sừng, còn có tên gọi là “nghi thần”, tức là loại thần hay nghi ngờ. Chúng chơi âm nhạc rất giỏi.

       Ma-hầu-la-già là một loại trăn lớn.

      Nói chung thiên long tám bộ đều xuất thân từ các hạng yêu ma quỷ quái, rồi về sau cải tà quy chánh, theo về Phật, trở thành một giới hộ pháp. Ngẫm lại, người bạc ác mà biết hồi đầu, đều biết làm các điều thiện, cho nên có câu nói: “Bể khổ không bờ, quay đầu là bến”. Phạm những tội thập ác, ngũ nghịch, nhưng biết sửa lỗi lầm thì vẫn có thể trở thành người tốt.

       Tám bộ quỷ thần này tự cảm thấy nhiều lỗi lầm trong quá khứ, bởi đã phá hoại pháp Phật, làm tổn thương Phật giáo. Tới khi lương tâm phát hiện ra điều này, chúng đã phát nguyện làm kẻ hộ pháp.  

Nhân phi nhân đẳng. “Nhân” là chỉ những người phát tâm đến hộ trì Phật giáo. “Phi nhân” tức là không phải loài người, chỉ các loài chúng sanh khác cũng phát tâm hộ trì tam bảo.  

Vô lượng đại chúng, cung kính vi nhiễu, nhi  vi thuyết pháp. Đông không kể xiết, cả thảy đều cung kính vây quanh nghe Phật thuyết pháp.

Lúc đó đại chúng trong pháp hội rất đông, không thể kể gồm bao nhiêu người, tất cả cung kính vây kín xung quanh đức Bạc-già-phạm, và Ngài thuyết pháp cho các chúng sanh trong pháp hội cũng như các chúng sanh trong đời vị lai.

 

Kinh văn: 

Hán Việt:

Nhĩ thời Mạn Thù Thất Lợi Pháp vương tử, thừa Phật uy thần, tòng tòa nhi khởi, thiên đản nhất kiên, hữu tất trước địa, hướng Bạc Già Phạm, cung khúc hợp chưởng, bạch ngôn: “Thế tôn! Duy nguyện diễn thuyết, như thị tướng loại chư Phật danh hiệu, cập bản đại nguyện thù thắng công đức, linh chư văn giả, nghiệp chướng tiêu trừ, vi dục lợi lạc, Tượng pháp chuyển thời, chư hữu tình cố”.  

 Việt:

Bấy giờ, con của đấng Pháp Vương là ngài Mạn-Thù-Thất-Lợi, nhờ oai thần của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, hở một vai áo, đầu gối bên hữu quỳ sát  đất, hướng về Bạc-Già-Phạm, cúi mình chắp tay, bạch rằng: “Thế Tôn! Xin Ngài diễn thuyết, cũng giống như thế, diễn những danh hiệu và những điều nguyện căn bản lớn lao,công đức tuyệt vời, của các đức Phật, cho những người nghe, đều hết nghiệp chướng, vì sự lợi lạc của các hữu tình khi Tượng Pháp chuyển”.

Lược giảng:

     Ngài Mạn Thù Thất Lợi hay Văn Thù Sư Lợi, còn được gọi là Pháp Vương tử, nghĩa là con của đấng Pháp Vương. Phật là Pháp Vương, các Bồ tát là con của Pháp Vương, nhất là Ngài Văn Thù Sư Lợi lại là một vị Bồ tát Đẳng giác, sắp sửa thành Phật.

      Lúc bấy giờ Ngài Văn Thù Sư Lợi, nhờ oai thần của chư Phật mười phương, từ chỗ ngồi đứng dậy, để lộ một bên vai. Bên vai nào? Chính là vai bên phải. Để lộ bên vai phải là có ý nghĩa gì? Thứ nhất, theo phong tục của người Ấn, khi khí trời nóng nực, họ trật một bên vai áo để hơi nóng ở trong mình thoát ra. Thứ hai, hở vai bên phải là cách thức tỏ bày sự cung kính, cung kính bằng cả thân và tâm. Một bên là tùy thuận thế tục, một bên là cầu pháp xuất thế nên biểu thị sự cung kính. Chân nhưng không ly tục, tục chẳng ly chân, hai thứ chẳng chướng ngại nhau.

      Ngài quỳ xuống, đầu gối sát đất, hướng về Bạc Già Phạm (nghĩa là hướng tới Phật), rồi cúi mình xuống chắp tay (tức là biểu thị thân tâm đều cung kính, ba nghiệp thanh tịnh), và thưa với Phật:

      Thế Tôn! Xin Ngài diễn thuyết, cũng giống như thế ”. . .  ý nói rằng chúng con tất cả chỉ có một nguyện ước, là được nghe Phật nói cho biết những tướng như thế, những loại như thế. Tướng loại gì? Chính là danh hiệu của chư Phật và của Phật Dược Sư Lưu Ly Quang, cùng các bổn nguyện lớn của Ngài. Bổn nguyện là chỉ các nguyện lớn trong đời quá khứ, trong thời gian Ngài hành đạo Bồ tát, công đức tích lũy như thế nào mà được thù thắng.

      , cho những người nghe, đều hết nghiệp chướng ”. . .  nghĩa là khiến cho những ai nghe đến nguyện lực, công đức vô lượng đó đều có thể giải trừ nghiệp chướng mà được sự thanh tịnh.

       vì sự lợi lạc của các hữu tình khi Tượng Pháp chuyển ”, đây lại còn vì lợi ích của cả các loài hữu tình vào thời Tượng pháp trong tương lai. Trong thời Tượng pháp, mọi người chú trọng xây chùa, mà không chú trọng việc tu tập. Chùa miếu chẳng qua là một nơi có tượng của Phật, còn người tu chân chính thì rất là ít. Nói chúng sanh hữu tình là nói loài có khí, có huyết, còn như không có khí và huyết thì gọi là chúng sanh vô tình, tức các loài thảo mộc.

 

Kinh văn:

Hán Việt:

Nhĩ thời Thế Tôn tán Mạn Thù Thất Lợi đồng tử ngôn: “Thiện tai! Thiện tai! Mạn Thù Thất Lợi! Nhữ dĩ đại bi, khuyến thỉnh ngã thuyết chư Phật danh hiệu, bổn nguyện công đức, vi bạt nghiệp chướng sở triền hữu tình, lợi ích an lạc, Tượng Pháp chuyển thời, chư hữu tình cố. Nhữ kim đế thính, cực thiện tư duy, đương vi nhữ thuyết”.

Mạn Thù Thất Lợi ngôn: “Duy nhiên! Nguyện thuyết, ngã đẳng nhạo văn”. 

Việt: 

Bấy giờ Thế Tôn tán thán đồng tử Mạn Thù Thất Lợi rằng: “Hay lắm! Hay lắm! Ông Mạn Thù Thất Lợi! Ông lấy lòng đại bi, khuyên mời Ta nói về danh hiệu và công đức bổn nguyện của chư Phật, để dẹp cho hết nghiệp chướng ràng buộc loài hữu tình, để cho lợi ích an lạc các loài hữu tình khi Tượng Pháp chuyển”.  Các ngươi hãy nghe kỹ, tư duy cho khéo, nay Ta sẽ nói cho các ngươi nghe

Mạn Thù Thất Lợi bạch rằng: “Xin vâng! Xin Thế Tôn nói, chúng con thích nghe”.

 

Lược giảng:

       Bấy giờ Thế Tôn tán thán đồng tử Mạn Thù Thất Lợi rằng. Lúc bấy giờ, Phật khen ngợi đồng tử Văn Thù Sư Lợi. Gọi là « đồng tử » là vì Ngài nhập đạo lúc còn là trẻ thơ, sau đó tu hành đạo Bồ tát, để rồi thành bậc thượng thủ trong hàng Bồ tát. Phật khen như thế nào? “Thiện tai! Thiện tai!  Mạn Thù Thất Lợi!” Đức Phật khen Ngài rằng: “Hay lắm! Hay lắm! Ông thực là một vị Bồ tát tốt!” Vì lẽ gì mà Phật đưa ra những lời khen tụng như vậy?

      Bởi vì “ Ông lấy lòng đại bi, khuyên mời Ta nói về danh hiệu và công đức bổn nguyện của chư Phật ”. Phật nói: “Ông đã vận dụng một tâm lượng đại bi rộng lớn, hướng tới hết thảy mọi chúng sanh, dầu họ có duyên hay không có duyên với Phật Pháp, và đã thỉnh Ta nói về danh hiệu của chư Phật cùng những công đức bổn nguyện của các Ngài”.

      để dẹp cho hết nghiệp chướng ràng buộc loài hữu tình, để cho lợi ích an lạc các loài hữu tình khi Tượng Pháp chuyển ”, nghĩa là nhằm dẹp bỏ các nghiệp chướng đương trói buộc các loài hữu tình, những nghiệp chướng đã đưa họ vào ba đường ác, đầy họ vào bể khổ; vì sự lợi ích cứu độ các hữu tình trong thời Tượng pháp, mang cho họ sự tự do, an lạc, hết phiền não.  

     "các ngươi hãy nghe kỹ, tư duy cho khéo, nay Ta sẽ nói cho các ngươi nghe."  

Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: “Xin vâng! Chúng con ước mong Phật nói, chúng con rất thích nghe”.

 

Kinh văn:

Hán Việt:Phật cáo Mạn Thù Thất Lợi: “Đông phương khứ thử quá thập Căng Già sa đẳng Phật độ, hữu thế giới danh Tịnh Lưu Ly, Phật hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Bạc Già Phạm.

Mạn Thù Thất Lợi! Bỉ Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, bổn hành Bồ tát đạo thời, phát thập nhị đại nguyện, linh chư hữu tình, sở cầu giai đắc”. 

Việt:  

Phật bảo Ngài Mạn Thù Thất Lợi: “Về phía đông kia, cách đây nhiều Phật độ bằng mười lần số cát sông Căng-già, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly, đức Phật cõi ấy danh hiệu là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Bạc Già Phạm.

Ông Mạn Thù Thất Lợi ơi! Khi đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, còn đương hành đạo Bồ tát, Ngài đã phát ra mười hai nguyện lớn, khiến cho hữu tình cầu gì cũng được”.

 

Lược giảng:

       Đức Phật nói với Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng ở phía đông, cách thế giới Ta-bà một số Phật độ bằng mười lần số cát sông Căng Già, có một thế giới gọi là Tịnh Lưu Ly. Căng Già tức là Hằng hà, Phật độ tức là Phật quốc, thế giới Tịnh Lưu Ly là ngụ ý một thế giới thanh tịnh trong suốt như lưu ly.

      Vị Phật ở nơi này có danh hiệu là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Ngoài ra, giống như các đức Phật khác, Ngài cũng có mười danh hiệu, kể ra là: Như Lai; Ứng Chánh Đẳng Giác (có nghĩa là chánh đẳng chánh giác); Minh Hạnh Viên Mãn (tức sự tu hành và trí huệ của Ngài đạt tới chỗ viên mãn); Thiện Thệ Thế Gian Giải (trí huệ cao vời và hiểu biết hết mọi sự của thế gian); Vô Thượng Sĩ; Điều Ngự Trượng Phu; Thiên Nhân Sư (thầy của trời và người); Phật; Bạc Già Phạm (hay Thế Tôn).

     Theo lời Phật nói với Ngài Văn Thù Sư Lợi thì trong thời gian chưa thành Phật, tức thời kỳ nhân địa, đang tu đạo Bồ tát, đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai đã phát ra mười hai lời nguyện lớn. Phàm người tu hành là cần phải phát nguyện, phát những lời nguyện chân chánh, từ trong tâm phát xuất, rồi theo đó mà thực hành.

       Đức Thế Tôn Dược Sư phát nguyện là để tất cả các loài hữu tình cầu gì cũng được. Ngày nay chúng ta tu hành tương đối dễ dàng hơn so với đức Thích Ca, vì Ngài đã phải trải qua ba kiếp lớn a-tăng-kỳ, nghĩa là một số vô lượng kiếp, tu hành mới thành được quả Phật. Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai cũng vậy. Còn như chúng ta hiện nay chỉ cần nương nhờ vào nguyện lực của các Ngài và di sản của các Ngài để lại cho chúng ta, ý nói đó là Phật Pháp chứa đựng trong ba tạng mười hai phần kinh.

      Liệu chúng ta có thể nhận di sản này để thừa hưởng chăng? Điều đó còn phải hỏi lại, xét xem chúng ta có phải là Phật tử chân chánh hay không? Giả tỷ công đức của chúng ta chưa đủ, chúng ta chưa thực tâm muốn thành Phật tử chân chánh thì chẳng thể nào thừa hưởng được di sản của Phật, loại Pháp bảo vô thượng này.

     Nay Phật Lưu Ly Quang đã phát mười hai điều nguyện lớn, nên hết thảy mọi chúng sanh hữu tình có thể cầu thứ gì được thứ ấy. Quý vị căn cứ vào câu kinh “sở cầu giai đắc” (cầu gì cũng được), thì sẽ thấy bất luận điều gì mà quý vị mong cầu, quý vị sẽ được toại lòng xứng ý, quý vị sẽ chóng thành Phật. Các vị Phật trong quá khứ đã từng phát nguyện như vậy và, nhờ vào nguyện lực đó, chúng ta dụng công ít mà thành tựu nhiều, chúng ta đạt quả vị cao mà công sức không nhiều lắm, do đó gặp được pháp này chúng ta phải hết sức tinh tấn, sanh tâm hoan hỷ lớn và đạt được niềm pháp hỷ sung mãn.

 

Kinh văn:

Hán Việt:

Đệ nhất đại nguyện:

Nguyện ngã lai thế, đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề thời, tự thân quang minh, xí nhiên chiếu diệu, vô lượng vô số vô biên thế giới, dĩ tam thập nhị đại trượng phu tướng, bát thập tùy hình, trang nghiêm kỳ thân, linh nhất thiết hữu tình, như ngã vô dị. 

 

Việt:   

Nguyện lớn thứ nhất:

Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề thì tự thân ta sáng chưng rực rỡ, chiếu soi tất cả vô lượng vô số vô biên thế giới, có đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám mươi vẻ tùy hình, trang nghiêm thân ta, khiến cho các loài hữu tình đều được như ta không khác.

   

Lược giảng:

       Chư Phật và chư Bồ tát trong quá khứ đã từng lập vô lượng vô biên nguyện lớn để lợi ích cho chúng sanh, tới khi các ngài thành Phật thì các nguyện lực đó đều thành hiện thực, do đó hết thảy chúng sanh trong mười phương đều được thâu nhiếp. Nguyện lực có thể ví như cục đá nam châm, còn chúng sanh ví như chất sắt. Nguyện lực lớn thì sức hút mạnh, khiến cho bao nhiêu chúng sanh trong khắp mười phương, dầu nghiệp chướng nặng nề đến chừng nào, cũng đều bị nguyện lực thâu hút.

       Do nguyện ý của Ngài muốn giúp đỡ các chúng sanh, nên giữa hai đàng có nhân duyên đặc biệt với nhau. Bởi vậy, tuy chúng sanh bị vô minh che lấp, nhưng linh tri và linh giác của họ có thể cảm nhận được nhân duyên này.

      Lúc xưa, Dược Vương Bồ tát đã từng tự thiêu để cúng dường Phật, hy sinh thân mình như vậy, còn chúng ta ngày nay, đừng nói tự thiêu toàn thân, ngay đến thiêu một ngón tay cũng chưa dám thực hiện.

 

Nguyện lớn thứ nhất...”: Dược sư Lưu Ly Quang có lời phát nguyện đầu tiên như thế nào?

Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề thì...”. Ngài nói Ngài hy vọng rằng trong đời tương lai, khi Ngài chứng được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, tức là thành quả vị Phật, lúc đó:

tự thân ta sáng chưng rực rỡ, chiếu soi tất cả vô lượng vô số vô biên thế giới...”, thân Ngài sẽ sáng chói, rực rỡ, chiếu soi tới tận vô lượng, vô số, vô biên thế giới,

có đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám mươi vẻ tùy hình, trang nghiêm thân ta...”, có đủ cả ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám mươi vẻ đẹp, trang nghiêm trên thân Ngài,

khiến cho các loài hữu tình đều được như ta không khác...” khiến cho hết thảy các loài hữu tình cũng được như ta, không khác, tức là thân hình cũng đủ các tướng trang nghiêm như ta và cũng sáng chưng chiếu khắp vô lượng, vô số, vô biên thế giới. Nguyện lực của ta là như vậy đó, ta không muốn chỉ riêng mình thành Phật, riêng mình sáng chưng, mà muốn rằng các chúng sanh được ta chiếu soi tới cũng sẽ có được thân thể giống như ta.

       Nhân vì Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang đã có lời phát nguyện đó, cho nên ngày nay khi nghe tới công đức bản nguyện này, chúng ta thấy được cơ hội có thể được một tấm thân sáng chưng như Ngài. Chúng ta không nên tự coi thường mình. Quý vị bảo rằng quý vị chẳng cần có thân thể sáng chói, sáng hay không sáng cũng chẳng có ích lợi gì. Vậy chớ thân hình không sáng thì có ích lợi hay sao?

 

Kinh văn:

Hán Việt:

Đệ nhị đại nguyện:

Nguyện ngã lai thế, đắc Bồ đề thời, thân như lưu ly, nội ngoại minh triệt, tịnh vô hà uế, quang minh quảng đại, công đức nguy nguy, thân thiện an trú, diệm võng trang nghiêm, quá ư nhật nguyệt, u minh chúng sanh, tất mông khai hiểu, tùy ý sở thú, tác chư sự nghiệp.  

Việt: 

Nguyện lớn thứ hai:

Nguyện đời sau này khi ta đắc đạo Bồ đề, thân ta như ngọc lưu ly, trong ngoài sáng suốt, sạch không vết nhơ, sáng sủa rộng lớn, công đức cao vời, thân khéo an trú, lưới sáng trang nghiêm, sáng hơn cả mặt trời và mặt trăng. Chúng sanh ở nơi tối tăm, đều được sáng bừng, đâu cũng làm được, mọi sự như ý.                    

 

Lược giảng: 

     Nguyện lớn thứ hai: Nguyện đời sau này khi ta đắc đạo Bồ đề, thân ta như ngọc lưu ly...” Nguyện lớn thứ hai là khi ta thành Phật, thân ta sẽ giống như lưu ly. “ trong ngoài sáng suốt ”, nghĩa là trong suốt từ trong ra ngoài; “sạch không vết nhơ”, bên trong không có vết, không có chỗ nhơ, bên ngoài cũng vậy, hoàn toàn trong sạch; “ sáng sủa rộng lớn ”, không thể nói là sáng rực tới độ nào, chỉ biết là sáng sủa rộng lớn; “ công đức cao vời ”, công đức thì cao vời; “ thân khéo an trú ”, thân thể của ta an ổn, không một bệnh tật gì; “ lưới sáng trang nghiêm ”, trang nghiêm bằng một thứ lưới sáng rực; “ sáng hơn cả mặt trời và mặt trăng ”, sáng hơn cả mặt trời, mặt trăng; “ Chúng sanh ở nơi tối tăm ”, các chúng sanh ở nơi tối tăm; “ đều được sáng bừng ”, đều được sáng rực như vậy; “ đâu cũng làm được ”, tùy ý muốn đến chỗ nào thì được chỗ ấy; “ mọi sự như ý ”, việc gì cũng thành tựu, mọi sự như ý nguyện.

        Chúng ta thấy quả là Phật hết sức thông cảm cho các chúng sanh, dầu một chi tiết nhỏ có thể lợi ích cho chúng sanh Phật cũng không bỏ sót. Không ai quan tâm và thân thiết với chúng ta bằng Phật.

 

Kinh văn: 

Hán Việt:

Đệ tam đại nguyện:

Nguyện ngã lai thế, đắc Bồ đề thời, dĩ vô lượng vô biên trí huệ phương tiện, linh chư hữu tình, giai đắc vô tận sở thọ dụng vật, mạc linh chúng sanh hữu sở phạp thiểu.  

 

Việt:

Nguyện lớn thứ ba:

Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo Bồ đề, ta dùng vô lượng vô biên phương tiện trí tuệ, khiến cho chư hữu tình đều được mọi vật thọ dụng vô cùng, chẳng để chúng sanh có chỗ thiếu sót.

 

Lược giảng:

      Nguyện lớn thứ ba ”: Đức Dược Sư phát lời nguyện lớn này khi Ngài còn là một tỳ kheo trong đời quá khứ. Thuở ấy, Ngài cũng giống như quý vị, như tôi hay các chúng sanh khác, chỉ không giống là ở chỗ Ngài tự phát ra lời nguyện lớn, nên chi Ngài đã sớm thành Phật. Còn như chúng ta, thì quả là ích kỷ, tự lợi, tham, cầu, tranh chấp nhau, không muốn  lập nguyện lớn, bởi vậy, cho đến nay chúng ta chưa thành Phật được.

      Ngài nói: “ Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo Bồ đề, ta dùng vô lượng vô biên phương tiện trí tuệ ”: Ta nguyện đời sau, khi ta thành Phật, ta sẽ lấy những phương tiện trí huệ, vô số kể và vô bờ bến - đây là phương tiện trí huệ, chẳng phải là phương tiện ngu si. Phương tiện trí tuệ là thế nào? Là những pháp có lợi ích cho người, pháp đó chẳng nhất thiết lợi ích cho ta, cứ loại nào có lợi ích cho người thì mang ra để giáo hóa. Còn phương tiện ngu si thì sao? Đó là những loại không hợp với thiện pháp, trái với thiện pháp, mà là hợp với ác pháp, tương ưng với ác pháp.

     Tương ưng với ác pháp là như thế này: ta lấy thí dụ khi bị muỗi cắn, ta vô ý đập chết con muỗi, rồi tự bào chữa rằng đó là “phương tiện”, không đáng kể, không phạm sát giới, không phải là phá giới. Cũng như trường hợp mỗi khi thấy ai có thứ gì hay, động lòng tham, đến khi người ta không chú ý bèn lấy cắp mang đi, rồi lại tự bảo rằng: “Đây không phải là ăn cắp, phương tiện mà! Người khác dùng cũng như ta dùng, có gì đâu mà phân biệt?” Kỳ thực, lấy trộm của người là không hợp pháp, tương ưng với ác pháp, vậy mà còn bảo là “phương tiện”, không có gì là quan trọng!

      Về tà dâm chẳng hạn, ai cũng biết vợ chồng một khi đã kết hôn chính thức với nhau thì sự tư tình của chồng sẽ làm cho vợ không vui. Khi đã phạm điều tà dâm rồi lại còn cho rằng chuyện đó chẳng quan hệ gì, chỉ là “phương tiện” thôi! Biết rõ thế nào là tà dâm nhưng vẫn cố bao che, viện hết lẽ để bênh vực mình, cứ một mực nghĩ rằng: “Có gì là quan hệ lắm đâu? Ai mà biết được!”

       Quý vị thử nghĩ coi! Nói dối, uống rượu cũng lý luận tương tự như vậy đó!

       -  “Ồ! Uống chút xíu rượu, uống chơi cho vui thôi! Có gì là quan trọng đâu, tôi đâu có say!”

       -  “Nói dối như vậy thì có gì đâu mà sợ! Có chết ai đâu mà nghiêm trọng quá vậy!”

      Đây chỉ là cách tự giành lẽ phải cho mình, đó gọi là những phương tiện ác, phương tiện ngu si. Trở về kinh văn, Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai nói Ngài dùng phương tiện trí huệ.

       Khiến cho chư hữu tình đều được mọi vật thọ dụng vô cùng, ”, nghĩa là khiến cho hết thảy các loài hữu tình đều được mọi vật thọ dụng, bất cứ thứ gì, cần gì được nấy. Chúng ta thấy Phật có tâm bố thí rất mực rộng lớn, Ngài dùng nguyện lực này để thỏa mãn các ước ao của chúng sanh, những gì chúng sanh mong cầu, khiến cho “ chẳng để chúng sanh có chỗ thiếu sót ”, không để cho chúng sanh thiếu thốn một thứ gì, cái gì cũng đầy đủ hết, khiến ai nấy đều xứng ý thỏa lòng, mọi sự tốt đẹp.

       Nếu quý vị muốn thỏa mãn lòng tham của mình thì hãy mau mau niệm danh hiệu của Ngài hay tụng Kinh Công Đức Bổn Nguyện Của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, quý vị sẽ được toại nguyện.

      Có người nói rằng: “Tôi biết rồi! Tôi niệm danh hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai rồi tôi đến sòng bạc tại Reno. Tôi mà ăn được một triệu đồng thì về sau tôi không đánh bạc nữa. Tôi cầu như vậy”. Nếu quý vị thực lòng thì rất có thể quý vị sẽ được toại nguyện. Nhưng nếu quý vị nửa tin, nửa ngờ, thì quý vị sẽ không thể dối gạt được Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.

 

Kinh văn:

Hán Việt:

Đệ tứ đại nguyện:

Nguyện ngã lai thế, đắc Bồ đề thời, nhược chư hữu tình, hành tà đạo giả, tất linh an trú Bồ đề đạo trung, nhược hành Thanh văn, Độc giác thừa giả, giai dĩ Đại thừa nhi an lập chi.  

 

Việt: 

Nguyện lớn thứ tư:

Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo Bồ đề, nếu có những hữu tình tu hành tà đạo thì ta sẽ khiến họ an trú trong đạo Bồ đề, còn nếu tu hành hạnh Thanh văn, Độc giác thì đều an lập nơi pháp Đại thừa.

 

Lược giảng:

      « Nguyện lớn thứ tư. » Trong điều nguyện thứ tư này, Ngài nguyện cho hết thảy các loài hữu tình đều bỏ tà quy chánh, bỏ mê về giác, lìa khổ hưởng vui; nguyện cho ai tu Tiểu thừa đều hướng về Đại thừa, phát tâm Bồ đề chân chánh, để tương lai thành tựu quả Phật.

Ngài nguyện rằng: “Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo Bồ đề ”, tức là khi phát nguyện thì Ngài chưa thành Phật; Ngài nói về đời sau này, khi Ngài chứng quả vị Chánh Đẳng Chánh Giác. “nếu có những hữu tình” đây là bao quát hết thảy các chúng sanh. Nói chung, trong số các chúng sanh, kẻ có chánh tri chánh kiến thì rất ít, mà kẻ có tà tri tà kiến thì lại rất nhiều: nói đến chánh pháp, ít người thông hiểu, chịu tiếp thu và thực hành. Ngược lại, nói tới tà pháp, loại bàng môn tả đạo, hoặc thứ gì có vẻ huyền bí, có vẻ dễ dàng thì tức khắc người ta đổ xô tới để theo. Bởi vậy mới nói: tu hành tà đạo”, tức ám chỉ người tu pháp ngoại đạo, không cầu chánh pháp. Nói đến các loại như bùa ếm, đầu độc, cầu cơ, đồng bóng v.v..  thì người ta tin ngay, còn giảng kinh, nói pháp thì những người đó chẳng thấy hay ho gì. Nếu bảo họ rằng: “Anh sẽ gặp tai nạn như thế này. Muốn tránh khỏi, anh phải làm việc này, việc kia”, nói vậy là họ tin ngay, còn giảng cho họ Phật Pháp thì chẳng ai muốn nghe.

      thì ta sẽ khiến họ an trú trong đạo Bồ đề”. Tuy họ tu theo đạo tà, nhưng Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai cũng cố gắng dùng các pháp phương tiện, khiến họ bỏ đường mê để quay về lối giác, bỏ tà quy chánh, dứt đường sanh tử, phát tâm Bồ đề rộng lớn, an trú trong đạo Bồ đề. An trú ở đây có nghĩa là bỏ tà quy chánh, không còn trở lại đường tà để an ổn trú nơi đường giác. Đường giác là đường trí huệ. Quý vị có trí huệ, quý vị sẽ đi con đường chánh pháp; quý vị không có trí huệ - ngu si - quý vị sẽ đi vào con đường nhỏ, con đường của loại bàng môn, ngoại đạo. Nay, kẻ bàng môn ngoại đạo được Phật Lưu Ly Quang dùng phương tiện để quay về đường chân chánh của Phật giáo.

       còn nếu tu hành hạnh Thanh văn, Độc giác ”. Thanh văn là những pháp Tứ đế, gồm các món khổ, tập, diệt, đạo. Còn Độc giác là chỉ về pháp tu Thập nhị nhân duyên; pháp đó tóm tắt như sau: vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử. Hết thẩy các chúng sanh đều do mười hai nhân duyên này mà sanh, do mười hai nhân duyên này mà diệt; như trong câu: “các hành là vô thường, đó là pháp sanh diệt; sanh diệt diệt rồi, tịch diệt là vui”. Nếu chứng ngộ được pháp tu mười hai nhân duyên, tức bỏ mê quay về giác, rồi sau đó bỏ tiểu mà hướng tới đại. Bỏ tiểu hướng tới đại chính là tu pháp môn Lục độ.

Thập nhị nhân duyên:  

      Do vô minh mà chúng ta sanh ra đời, tức là từ cái chỗ mơ hồ mà sanh ra. Vô minh là gốc của phiền não, gốc của sanh tử, cũng là gốc của mọi sự phiền hà, hết thảy mọi vấn đề rắc rối. Tu là tu cái gì? Tu chính là phá vô minh. Vô minh làm cho quý vị mờ tối, không hiểu rõ việc mình làm. Hành động trong sự hồ đồ; hành động mà không hiểu, không hiểu mà vẫn hành động, đó gọi là vô minh. Vô minh chi phối hành động của quý vị, khiến quý vị thành điên đảo, mơ hồ, sống trong mơ, chết trong mộng, tham đắm các thứ như tiền của, sắc dục, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ (tài, sắc, danh, thực, thùy).

       Khi đã có vô minh thì nó thể hiện bằng hành vi. Hành vi gì? Tức là làm cái điều mà không hiểu rõ, chỉ hiểu một chút mà không hiểu tất cả ngành ngọn. Đã có hành vi thì sẽ có dấu vết, sẽ có hình tướng lưu lại. Có hành động, tức có sự tướng, có sự tướng tất có cái tên.

       Khi đương hành động thì tâm chưa khởi lên sự phân biệt. Hành động xong rồi, mới có thức, tức là tâm phân biệt, gọi là cái biết, cái tri thức. Đã biết phân biệt rồi thì sẽ có ngay bốn thứ tướng: nhân tướng, ngã tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng. Thức này là ý thức và tác dụng của nó mang lại danh và sắc, tức là nói tới vật thể. Vật thể thành hình hài gồm có lục nhập (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý).

       Bằng lục nhập, hình hài tiếp xúc với ngoại giới; lúc đó xúc sẽ mang lại thọ (sự cảm thọ); nhờ có tâm phân biệt mà xúc đưa tới cảm thọ dễ chịu hay khó chịu, khoái cảm hay không khoái cảm, từ đó tâm ái, cái tham ái xuất hiện. Bởi vậy mới nói là: “xúc duyên thọ, thọ duyên ái”, một tiến trình đi theo thứ tự đó.

       Khi đã có ái, tức có ngay hữu, ý muốn chấp hữu, hướng về tự kỷ, cái ta, do đó mà dẫn tới đời sau, rồi, theo trình tự, tiến tới già và chết.

       Mười hai nhân duyên nói trên đã kể ra đủ hết tiến trình của hết thảy mọi chúng sanh trong sự luân hồi sanh tử.  

     Độc giác là những người ngộ lý nhân duyên này. Họ thấy các nhân duyên nối kết với nhau thành một vòng, không có đầu mối, không có chỗ đứt đoạn, do đó họ tu để ra khỏi vòng sanh tử, thoát cảnh luân hồi.

     Thanh Văn và Duyên giác, tức Độc giác là hai thừa trong Phật giáo, gọi chung là Nhị thừa.

      Hai thừa này thực ra chưa phải là chỗ cùng tột (cứu cánh). Ai tu và chứng được hàng nhị thừa thì giải quyết xong vấn đề “phân đoạn sanh tử”, nhưng vẫn chưa dứt được “biến dịch sanh tử”. Bởi vậy trong kinh, đức Như Lai Dược Sư Lưu Ly Quang đã từng phát nguyện câu “ thì đều an lập nơi pháp Đại thừa ”, nghĩa là Ngài nguyện độ cho họ từ Tiểu thừa mà tiến tu Đại thừa, đặng họ phát tâm tu thành Phật đạo, tới bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

 

Kinh văn:

Hán Việt:

Đệ ngũ  đại nguyện:

Nguyện ngã lai thế, đắc Bồ đề thời, nhược hữu vô lượng vô biên hữu tình, ư ngã pháp trung, tu hành phạm hạnh, nhất thiết giai linh đắc bất khuyết giới, cụ tam tụ giới, thiết hữu hủy phạm, văn ngã danh dĩ, hoàn đắc thanh tịnh, bất đọa ác thú.  

 

Việt:

Nguyện lớn thứ năm:

Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo Bồ đề, nếu có vô lượng vô biên hữu tình, tu hành phạm hạnh trong pháp của ta, thì hết thẩy đều được giới chẳng thiếu, đủ giới tam tụ; nếu có ai đã trót phạm giới, nghe tên ta rồi, lại trở về thanh tịnh, chẳng vào đường ác.

 

Lược giảng:

     Chúng ta ngày nay sở dĩ không bị đọa vào ba đường ác là nhờ danh hiệu của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai đã cứu chúng ta. Giả tỷ tên của Ngài không có trên thế gian này thì e rằng tất cả mọi người đã bị đày vào địa ngục, làm loài quỷ đói, làm súc sanh, khó mà được làm thân người. Thực vậy, với nguyện lực của Ngài thì dầu quý vị có phạm mười điều ác, ăn mặn phá giới, không làm điều lành, song nếu được nghe đến hồng danh vạn đức hạnh của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thì quý vị sẽ được tiêu trừ hết tội nghiệp, lìa khổ, được vui, thoát vòng sanh tử.

      Nguyên do là ngay từ thuở Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai gieo nhân tu đạo Bồ tát, Ngài đã sớm biết đa số chúng ta ngày nay không giữ giới luật, ở trong cảnh thiện ác hỗn tạp, chẳng rõ ràng, ví như nước với đất lẫn lộn, thành một chất bùn nhơ. Nước là trí huệ, bùn là vô minh. Giữ giới luật là trở về nguồn cội, là khôi phục lại trí huệ sẵn có của mình; không giữ giới luật tức là làm đục nước trí huệ bằng chất bùn vô minh vậy.

      Tuy nhiên, giữ được giới luật chẳng phải là điều dễ dàng. Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai vốn biết trước tập khí và lỗi lầm của các chúng sanh là như vậy, nên trong « Nguyện lớn thứ năm, », Ngài đã nói:

      Nguyện đời sau này, khi ta đắc đạo Bồ đề ”, đến đời sau này, khi ta thành Phật, “ nếu có vô lượng vô biên hữu tình ”,  tức là nói hết tất cả - tôi và các vị cũng đều nằm trong cái vô lượng vô biên đó; “ tu hành phạm hạnh trong pháp của ta ”, trong pháp của ta, tức là pháp Phật, pháp chung của chư Phật, tu hành phạm hạnh, tức là tu hạnh thanh tịnh, hay nói khác là nghiêm trì giới luật; “ thì hết thẩy đều được giới chẳng thiếu, ”, đối với bất cứ ai tu Phật Pháp thì nguyện lực của ta là khiến cho tất cả giữ được giới hạnh đầy đủ, viên mãn giống như vầng mặt trăng không bị khuyết hãm; “ đủ giới tam tụ ”, đầy đủ giới tam tụ. Tam tụ giới gồm các giới như sau:

      1.  Trì nhiếp chúng sanh giới.

      2.  Nhiếp thiện pháp giới.

      3.  Nhiếp luật nghi giới thanh tịnh.

      Giữ được mấy điều giới này quả là một sự khó khăn, cho nên nguyện của Ngài là ; nếu có ai đã trót phạm giới, nghe tên ta rồi, lại trở về thanh tịnh, chẳng vào đường ác. ”, nếu phạm giới chẳng hạn, sau khi nghe đến tên ta, liền được thanh tịnh trở lại, không bị đọa vào đường ác như địa ngục, ngạ quỷ hay súc sanh.

       Tại sao gọi là giới tam tụ? Tụ nghĩa là tụ tập và chữ “tụ” nói lên ý nghĩa rằng các giới này không cùng một loại. Thí dụ nói về nhiếp luật nghi tức là nói tới ba trăm lễ nghi, ba ngàn oai nghi. Chữ “nhiếp” có nghĩa là bao quát, gồm thâu hết thảy luật nghi và oai nghi. Thí dụ nói nhiếp thiện pháp, tức nói bao gồm hết thảy các thiện pháp, kể ra thì là vô lượng vô biên, chẳng phải chỉ một loại thiện pháp, như nói trong câu; “ không làm các điều ác, luôn làm các điều lành ”. Còn nhiếp chúng sanh cũng là nghĩa bao gồm hết thảy các chúng sanh, và, theo giới này là độ các chúng sanh thành Phật, nhiếp thâu hết tất cả không trừ một ai.

       Giới tam tụ quả là nhiều, không dễ gì mà giữ được trọn vẹn. Vậy phải làm sao nếu trót lỡ phạm giới? Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai đã nguyện rằng nếu người nào phạm giới luật mà nghe đến danh hiệu của Ngài thì thanh tịnh sẽ trở lại và người đó sẽ khôi phục lại tình trạng như lúc chưa phạm giới, không còn lo bị đọa vào đường ác.

       Các vị nghĩ coi. Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai đối với mỗi người trong chúng ta quan tâm đến như vậy, chu đáo đến như vậy, chúng ta không lẽ không đáp ứng lòng từ bi của Ngài, để cố gắng tu hành, giữ gìn giới luật? Chúng ta có lý nào lại bảo rằng: “Đâu cần giữ giới làm gì, ta cứ việc phá giới! Đàng nào đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai cũng đã phát nguyện cứu nếu chúng ta phạm giới mà!” Nghĩ như vậy là sai lầm. Chúng ta không thể cố ý phá giới rồi ỷ y vào Ngài như vậy.

 

(Còn tiếp)

 
Kinh Duoc Su Giang Giai