Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh
Tam Bo Nhat Bai
Tam Bo Nhat Bai
Tam Bo Nhat Bai Tam Bo Nhat Bai
Tam Bo Nhat Bai
 
Tam Bo Nhat Bai
Tam Bo Nhat Bai
 
 
bg2.gif colSpan=5>

Tam Bộ Nhất Bái

Heng Ju & Heng Yo

Buddhist Text Translation Society

 

 

Tam Bo Nhat Bai

 

Tam Bo Nhat Bai

 

 

- Lời tựa

- Lời Giới Thiệu Của Hằng Cụ

- Lời Giới Thiệu Của Hằng Do

- Chương I: Từ San Francisco đến Garberville

- Chương II:Từ  GARBERVILLE đến COOS BAY

- Chương III: Từ Coos Bay đến Marblemount

 Tam Bo Nhat Bai Một số hình ảnh

Tam Bo Nhat Bai

Lời Tựa


Ngày xưa những bậc Tiền Bối Thánh Hiền tại các nướcĐông Phương thường biểu hiện sự nguyện cầu thành kính của mình qua những nghi thức gian khổ như "Tam bộ nhất bái" (đi ba bước lạy một lạy). Ngày nay chúng ta đang ở vào thế kỷ hiện đại, đầy dẫy vật chất dục lạc, thế mà lại xuất hiện những tâm hồn cao thượng hiếm hoi, đã quan tâm đến vận mạng chúng sanh, không quản ngại khó nhọc, học theo hạnh người xưa thực hiện theo nghi lễ ba bước một lạy hầu cầu nguyện cho thế giới hòa bình.

Vào những năm chiến tranh bùng nổ, nhiều dân tộc trên thế giới đã phải chịu nhiều cảnh ly tan tử biệt. Việt Nam mt quốc gia nhỏ bé cũng không tránh khỏi cảnh loạn lạc lầm than, khiến dư luận xôn xao một thời. Trong những lúc khổ đau cùng đường tuyệt vọng, tinh thần sa sút, người ta chỉ còn một cách duy nhất là cầu nguyện. Đây cũng là lúc lòng tín ngưỡng tôn giáo của mọi người được phát triển một cách mạnh mẽ .

Qua tập truyện hồi ký sinh động nầy, độc giả sẽ cùng hai vị Sư người Mỹ, đệ tử của một Hòa Thượng Trung Hoa là Ngài Tuyên Hóa, thực hành một chuyến bái hương 10 tháng từ San Francisco đến Seattle. Một Thầy phát nguyện đi ba bước một lạy, để cầu nguyện cho hòa bình thế giới, một Thầy phát tâm đi theo hộ trì. Trên khoảng đường hơn một ngàn dặm, quý vị cùng chia sẻ với hai Thầy những đêm đen gió rét, những mưa bão hiểm nguy, hay những trưa hè oi bức, những lời chọc phá, và cũng sẽ thông cảm với những lúc tâm tư phiền não khởi lên từ những tập khí phàm tình. Cho thấy rằng dù phải đối diện với bao thử thách khó khăn, nhưng hai Thầy cũng vẫn dũng mãnh quyết tâm hoàn thành ý nguyện. Hai Thầy đã không quản ngại bao cực khổ, biết nhận khuyết điểm bản thân, và không hề lung lạc bởi những lời chỉ trích phản đối, hay những thuyết phục chuyển đạo. Chuyến bái hương nầy đã nói lên lập trường cứng rắn, và tinh thần tu tập sửa đổi theo chánh đạo của hai Thầy. Ôi! Cả hai nghĩa cử thật đáng quý, thật cao thượng biết bao! Những việc mà chúng ta còn không dám nghĩ đến huống chi là ra công thực hiện.

Chúng ta còn cảm nhận được lòng từ kính, giáo dưỡng chân chánh tu hành của một bậc làm Thầy đã tận tụy tâm sức, khuyến khích, dẫn dắt đám đệ tử cho đến khi viên thành ước nguyện. Ngoài ra chúng ta cũng khó quên những kỷ niệm răn nhắc thâm trầm đượm đầy tình nghĩa thầy trò. Nhờ ảnh hưởng đức hạnh của Ngài mà tánh tình các đệ tử Mỹ cũng thay đổi trong sự kính phục sâu xa. 
Tam Bộ Nhất Bái được diễn tả qua lối thiền quán, phương pháp dụng công của hành giả, hầu dẹp tan mọi vọng tưởng, để nhất tâm chí thành cầu nguyện cho thế giới bình an. Thật lý thú để biết các phản ứng của mọi người khi chứng kiến việc cầu nguyện - ba bước một lạy - một hành động rất đổi xa lạ đối với dân Tây phương trên xứ Mỹ nầy.


Ban Phiên Dịch Việt Ngữ

Tam Bo Nhat Bai     Tam Bo Nhat Bai     Tam Bo Nhat Bai

Lời Giới Thiệu Của Hằng Cụ

Tam Bo Nhat Bai



Cuối năm 1973, do nhiều nhân duyên đưa đến khiến tôi quyết định thực hiện một chuyến bái hương. Phần vì trước đây tôi được nghe câu chuyện của một lão Thiền sư Trung Hoa, Hòa Thượng Hư Vân, người đã trải qua chuyến bái hương bằng đường bộ xuyên ngang lục địa Trung Quốc vào khoảng cuối thế kỷ 20. Trong khi đi, cứ mỗi ba bước Ngài cúi đầu sát đất lạy một lạy và cứ thế kéo dài trong suốt sáu năm trời. Kết quả là Ngài đã Tam Bộ Nhất Bái tổng cộng được ba ngàn dặm đường (tức là hơn bốn ngàn tám trăm kí-lô-mét). Nếu so ra thì bằng khoảng chiều ngang của Trung Quốc. Trong suốt cuộc hành trình nầy, Ngài đã phải đương đầu với bao thử thách khó khăn, cũng như phải cam chịu những cảnh khổ sở vì đói khát và lạnh lẽo, nhưng Ngài không bao giờ thối chí. Cuối cùng Ngài đạt đến cảnh giới "nhất tâm." Nghĩa là Ngài có thể làm dừng lại tất cả những vọng tưởng lăng xăng, và cảm được tâm tĩnh lặng sáng suốt mà trước đây Ngài chưa bao giờ chiêm nghiệm được. Chuyến bái hương nầy cũng đã ảnh hưởng thật sâu sắc đối với những người Ngài đã gặp.

Câu chuyện về cuộc hành trình của lão Hòa Thượng Hư Vân là mối duyên khởi tiếp tục nẩy nở trong tôi. Tôi lại sẵn có bản tánh ưa thích mạo hiểm, cho nên sau nhiều năm làm cư sĩ rồi xuất gia ở một tu viện Phật Giáo, tôi cảm thấy đã đến lúc sẵn sàng để làm một chuyện thay đổi nho nhỏ. Cho nên kể từ đó, tôi bắt đầu có ý nghĩ thực hiện một chuyến bái hương ngay nơi nước Mỹ.

Lịch sử thế giới có ghi lại rất nhiều chuyến hành hương về tôn giáo. Hầu hết sự phát khởi của những chuyến đi nầy là vì đương thời đang có nhiều cuộc đấu tranh và tình trạng đạo đức đang bị suy đồi, nên con người tìm cách để biểu lộ tư tưởng, để diễn tả lòng tín ngưỡng của họ. Rồi có những vị dần dần đạt đến sự an lạc và tỉnh giác, họ tìm cách chia sẻ những kinh nghiệm đó với nhân loại. Vì vậy, khắp trên thế giới đã có vô số chuyến hành hương: bằng ngựa, đường bộ, hay bằng xe buýt, gồm từng nhóm đông hoặc từng cá nhân. Tôi cảm thấy hoàn cảnh đã đến lúc chín muồi, và đây là dịp để tôi góp phần vào một đại nhân duyên: Cầu cho thế giới hòa bình.

Đây cũng là cơ hội thật tốt khiến tôi tăng tiến trên đường tu tập Phật Pháp. Vì trong lúc thân quỳ lạy trên đường cầu nguyện cho thế giới hòa bình, tâm tôi cũng nguyện luôn cố gắng giữ vững hạnh Lục Độ của Bồ Tát: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí huệ. Càng nghĩ, tôi càng quyết tâm hơn.
Tôi không nói cho ai biết về quyết định chuyến lễ bái nầy, vì nghĩ việc nầy chẳng có dính líu với ai hết thì cần gì phải nói chứ? Cho đến ngay cả Sư Phụ tôi cũng không thưa qua.

Rồi khoảng đầu tháng mười, vào một đêm khi mọi người đã yên giấc, tôi chuẩn bị túi hành trang gồm vài cuốn sách, thức ăn, quần áo và bắt đầu lạy từ cửa chùa ra ngoài, dọc theo con đường 15, cách lề đường khoảng một tấc. Tôi bước ba bước dài rồi cúi quỳ đặt hai tay và đầu sát đất. Lúc bấy giờ trời thật tối, nền đường xi măng thật lạnh, đường phố lại vắng tanh, khiến tôi cảm thấy hơi kỳ hoặc.

Túi hành trang nặng khoảng ba chục pound (hơn 13 ký rưỡi) lại là vấn đề trở ngại, vì cứ đến mỗi bước thứ ba là tôi phải liệng nó ra phía trước thì mới có thể cúi lạy xuống được. Tuy nhiên với cách lạy nầy khiến tôi hăng hái vô cùng, vì đây là một cuộc luyện tập quá sức tưởng tượng. Tôi lạy đều đặn để tiến nhanh trên quảng đường và cũng để có thêm kinh nghiệm càng nhiều càng tốt trước khi trời sáng.

Lạy được một lúc, các động tác hình như đã thuần thục, nhưng trong thâm tâm thì còn đầy những ý nghĩ lảng vảng như:

"Trời ơi! Trong đời mình đã từng làm những chuyện lạ đời khó giải thích, nhưng lần nầy mới thật là gay go nhất."

Tôi tiếp tục lạy, quẹo mặt trên đường Dolores, băng qua đường Market, xuyên ngang bãi đậu xe của siêu thị Safeway rồi tiến về phía cầu Golden Gate. Trời vừa sáng thì tôi đã vào đến trung tâm khu Do Thái vùng Tenderloin. Thành phố như đang bừng sống dậy. Tôi cũng nhận ra sự hiện diện của cảnh sát vùng San Francisco, hình như họ đã theo dõi tôi qua nhiều con đường. Tôi cũng tưởng tượng được họ đang nghĩ gì về mình.

Đến trưa thì lên tới đỉnh đồi Russian. Tuy lúc bấy giờ có rất nhiều người đã nhìn thấy, nhưng chưa có ai nói gì đến tôi cả. Đa số là họ chỉ biết há miệng, nhướng mắt nhìn tôi châm bẳm. Có một bà đang lái chiếc Chrysler màu trắng, vừa chạy ngang qua tôi ở giữa ngã tư đường, bỗng thắng gấp và la lên:

"Ối, Chúa tôi!"

Tôi cố hết sức để tập trung tinh thần, đồng thời gạt bỏ những cơn xấu hổ và tiếp tục tiến lên lề đường. Lúc nầy trong tận cõi lòng tôi ẩn chứa những cảm xúc hỗn độn, những tư tưởng rời rạt, rồi chợt lóe lên một tiếng cười bẽn lẽn.

Sau bữa trưa qua loa với cơm nguội và rau dại mọc bên lề, tôi tiếp tục lạy xuống đồi Russian. Đến chiều tối thì tới công viên nhỏ gần phía vào cổng cầu Golden Gate. Vậy là tôi đã lạy được năm miles (khoảng 8 km).

Cảm thấy mệt quá nên tôi tìm một gốc cây để dựa lưng, nhưng lại ngủ liền tức khắc. Được khoảng vài giờ, sau khi thức dậy, tôi cảm như không phải là mình trước đây nữa, vì toàn thân như đã kiệt quệ không còn sức lực. Lúc nầy lòng tôi tràn đầy mối kinh hãi. Trước đây tôi cũng đã từng có những cảm giác lo sợ, nhưng chưa bao giờ tôi cảm thấy quá căng thẳng như bây giờ. Thật không thể nào tiếp tục được như vầy nữa. Tôi ngước nhìn về cái hồ nhỏ phía trước, có những con ngỗng đang bơi lội, chung quanh là những bụi cây xinh xắn, xa xa có những cặp tình nhân tay trong tay dạo quanh bờ hồ. Ôi! đã ba mươi tuổi đầu mà tôi đã xa rời thực tại như thế nầy! Sao tôi lại có thể đi ngược lại với nếp sống bình thường? Quỳ lạy cho hòa bình thế giới! Một kẻ mất hồn như tôi làm sao có thể giúp cho thế giới hòa bình được chớ?

Ngồi đây với tâm trạng chán nản, trong bộ y phục theo kiểu triều đại đời Đường, với cái đầu mới cạo láng bóng, tôi bắt đầu hồi tưởng lại cuộc đời mình.
Tôi được sinh trưởng ở vùng Tây Bắc Thái Bình Dương. Mặc dầu được sanh ra trong một gia đình rất đàng hoàng, nhưng tôi luôn luôn là đứa bé hoang tàng nhất xóm. Nếu không thấy tôi ra ngoài gây lộn xộn phá phách, thì các vị có thể bắt gặp tôi đang bận đắm chìm trong thế giới mộng mơ. Nơi đó, trong những chuyến ảo tưởng, tôi thủ toàn những vai anh hùng nổi tiếng. Tôi đã thắng nhiều trận đua xe quốc tế. Có vô số lần tôi hạ ngã tên du côn ở trường trung học để giải cứu cô bạn gái của hắn, một người múa cổ võ (cheerleader) cho đội banh ở trường. Đã thế, tâm tôi lại cứ mơ mơ mộng mộng vẩn vơ, vậy mà tôi vẫn được tốt nghiệp trung học một cách thành công không khó nhọc chi cả.

Sau khi tốt nghiệp trung học, tôi đánh liều đăng ký sáu năm vào ngành phục vụ cho tàu ngầm (Tiềm Thủy Đĩnh) Hải Quân Hoa Kỳ ở vùng Thái Bình Dương. Tàu tôi với biệt danh là U.S.S. Rock (Khối Đá), đã từng qua lại những hải cảng ngoại quốc dọc theo vịnh Thái Bình Dương, nhờ vậy tôi có dịp thực hiện được một số kế hoạch cuồng dại nhất. Tôi làm việc trong phòng máy rất chật hẹp và nóng bức, với trách nhiệm duy trì ba mươi tấn dầu GMC Diesels và hai bình lọc Badger cũ rít để máy chạy điều hòa. Đôi lúc tôi đóng vai thợ lặn dưới gầm tàu bọc sắt nặng khoảng hai ngàn tấn để làm những cuộc sửa chữa lý thú. Tôi thật thích cuộc sống trong chiếc tầu ngầm nầy, nhưng những ngày cuối tuần lên bờ lại là những ngày suy đồi của tôi. Trong bản báo cáo của các sĩ quan trong ban chấp hành đã viết:

"Anh Tim Testu thật là một nhân viên rất hữu ích cho cả đoàn tầu, nhưng bù vào những phục vụ xuất sắc đó lại là những hạnh kiểm đáng sợ của anh ta lúc lên bờ."

Có lần tôi cùng anh Frank Messerli, sau một đêm dài nhậu toàn rượu mạnh, chúng tôi rủ nhau ăn cắp chiếc ca-nô của hạm đội hải quân thuộc hoàng gia Phi Luật Tân. Khi đang trên đường ra khỏi hải cảng, chúng tôi mới thấy có hai chiếc tàu thủy lôi đang rược đuổi theo sau. Cũng hên là chúng tôi đánh lạc hướng họ bằng cách lái thẳng ra vùng nước cạn. Lúc chúng tôi đem chiếc ca-nô nhỏ đó về đến bến thì thấy có khoảng năm chục ông cùng nhiều vị sĩ quan mặt mày hầm hầm, chờ sẵn chúng tôi từ lúc nào. Tôi không nhớ là mình đã lèo lái ra sao, nhưng chiếc ca-nô đã vọt hết tốc lực vô gần sát bờ rồi lại cấp tốc vụt quầy trở ra. Lúc đó chiếc ca-nô nhỏ bé rúng động, kêu vang ỏm tỏi, phun ra luồng khói đen lớn lan trùm cả một vùng nước xanh trong vắt. Cuối cùng nó dừng lại thật tuyệt hảo, chỉ cách hải cảng vài phân. Mấy anh trên bờ khoái chí hoan hô ầm ĩ, trong khi mấy ông sĩ quan không có vẻ gì là hoan hỉ. Rốt cuộc ngay hôm đó, chúng tôi bị kêu án hai tháng tù giam. Đó là một kiểu trốn đi chơi thôi. Nhưng bù vào, tôi lại nổi bậc trong trách nhiệm phận sự, nên có hồ sơ rất tốt về vấn đề phục vụ và được giải ngũ trong danh dự vẻ vang.

Sau khi trở về Mỹ, tôi hòa vào cuộc sống ồn ào, hỗn độn của cuối thời đại sáu mươi. Tôi học thêm chút ít ở đại học, sau đó thì làm đủ nghề như: thợ mộc, thợ máy đường rầy, thợ lặn, và ngay cả làm đầu bếp nấu ăn cho một nhà hàng topless "hở hang" (từ trong nhà bếp tôi chẳng thấy gì cả). Tôi làm việc cũng khá lắm, nhưng trong lòng lúc nào cũng nặng quằng một nỗi cô đơn, chán nản. Rồi tôi buông mình vào hút sách, bị thất nghiệp và kết bạn với những kẻ không ra gì. Cũng may, không bao lâu tôi thoát ra được lối sống đó, rồi gia nhập vào một cộng đồng có lối sống vô trật tự gần chân núi Rainier ở Washington. Sáu tháng trời sống tại đó, tôi đã không màng gì đến thế giới bên ngoài, cho đến khi cả cộng đồng bị cơn hỏa hoạn cháy rụi.

Khi tôi hai mươi lăm tuổi, nỗi u uẩn trong lòng dâng đến cao điểm, may thay tôi tìm được một ngôi chùa nhỏ ở San Francisco, nơi Phật Giáo đang được truyền vào nước Mỹ. Tôi như đang đi vào một hang động chứa toàn bảo vật, mà hang động đó chính là tâm thức tôi, còn bảo vật kia chính là giáo pháp đa dạng. Điều quan trọng nhất là tôi đã tìm được một vị Thầy tài đức thật sự. Đó là một lão Thiền sư Trung Hoa, cũng là vị Tổ kế thừa Tông Thiền Quy Ngưỡng. Ngài đã truyền vào xứ Mỹ tất cả những thuần túy của Phật Giáo Đại Thừa gồm: Giáo Tông, Mật Tông, Tịnh Độ Tông, Luật Tông và Thiền Tông. Tôi thấy được Ngài là vị gương mẫu sống động, với đầy đủ những phẩm hạnh cao quý, không những chỉ ở Phật Giáo mà còn gồm cả Lão và Khổng giáo nữa.

Trong buổi đầu tiên diện kiến Sư Phụ, lòng tôi dồn dập dâng trào những tình cảm vô cùng hỗn tạp. Theo giáo pháp của Ngài, là dù ở bất cứ trong trường hợp nào cũng đừng để tâm bị chi phối hay lay chuyển. Nhưng qua thái độ của Sư Phụ, Ngài như đã hiểu thấu tận tường những nỗi suy tư trong lòng tôi, khiến tâm tôi được dịp bộc phát tuôn trào như vòi nước. Lúc đầu, sự xúc động tuôn ra thật hừng hực, nóng bỏng, rồi mới từ từ nguội lạnh dần. Lòng tôi cảm thấy yêu thương chan chứa và kính phục Sư Phụ vô cùng. Trí huệ của Sư Phụ cùng lòng từ bi, tánh vui vẻ, khéo léo, đúng giờ giấc, sự am tường về bản tánh của con người, cộng thêm cái nhìn thấu triệt sự vật và những khả năng diệu dụng không thể nghĩ bàn khác, đã khiến Ngài nổi bậc hơn so với những vị thầy khác ở nước Mỹ. Điều đó không có gì thắc mắc cả.

Theo truyền thống, vào mỗi buổi tối Sư Phụ đều thuyết pháp, những gì chúng tôi được nghe thật là tuyệt diệu không thể nghĩ bàn. Nơi đó, trong căn phòng thoang thoảng mùi hương, với khoảng trên dưới ba mươi người, tôi đã nhiều lần cảm nhận được mùi vị pháp hỷ đến rơi nước mắt. Lần đầu tiên trong đời, tôi đã gặp được một người hiểu rõ tận tường, thật sự quan tâm đến nỗi lòng u uẩn của tôi, lại là người có thể dẫn dắt tôi đến nơi cứu cánh rốt ráo.

Không bao lâu, rõ ràng là dù chuyện quá khứ, hiện tại hay tương lai gì đi nữa, Sư Phụ hầu như đọc được tất cả những tư tưởng lớn nhỏ của chúng tôi. Ngài rất ít khi rời khỏi hậu liêu, nhưng luôn luôn biết những chuyện đang xảy ra, để rồi đến giờ thuyết pháp Ngài lại đề cập đến. Phương pháp giảng dạy của Sư Phụ thật sâu sắc, như có thể xé tan bức màng đen tối, và giải quyết trực thẳng những vấn đề mà chúng tôi thường tự mình tạo nên. Đôi khi Sư Phụ cũng quở trách thật gắt gao.

Có lần Ngài bảo: "Ta không la rầy các con, ta chỉ quở mắng những bọn ma quỷ trong tâm các con mà thôi."

Phần lớn, Ngài dành rất nhiều thì giờ giảng dạy cặn kẽ về những căn bệnh của tham chấp, tính toán, rồi chỉ cách để chúng tôi đối trị.

Trong năm đầu tu học Phật Pháp, tôi đi làm nửa buổi với công việc phụ quét dọn cho một bệnh viện dưỡng lão Do Thái ở San Francisco. Vì mục kích những cảnh đau khổ, bịnh hoạn và chết chóc, tôi có ấn tượng thật mạnh mẽ về sự hư ảo của lối sống chỉ biết có mình. Thấy rất rõ người Tây Phương chúng tôi, mặc dầu rất am tường về cuộc sống, nhưng lại không biết gì về việc chuẩn bị cho sự ra đi, rời bỏ thế gian nầy. Chúng ta mãi lo ôm giữ hàng ngàn bảo vật huyễn hóa và đến phút cuối cùng, trong tuyệt vọng, cũng vẫn cố bám chặt vào chúng. Tôi cảm thấy đạo Phật có thể giúp chúng ta dự bị đúng đắn cho sự chuyển tiếp quan trọng nầy. Sau một năm làm cư sĩ, tôi phát nguyện xuống tóc thành chú Sa Di. Năm sau, 1972, tôi chánh thức thọ Cụ Túc Giới và trở thành một Tỳ Kheo Phật Giáo.

Nhờ sống ở chùa nên tôi dần dần thay đổi rất nhiều. Tôi bắt đầu ngủ ngồi và mỗi ngày chỉ ăn một bữa ngọ. Điều làm tôi ngạc nhiên là thực hành theo cách tu "khổ hạnh" nầy không đến nổi khó khăn như tôi tưởng, vì sau một thời gian thực tập đều đặn, nó tự nhiên trở thành thói quen. Tôi nghĩ chắc đó là lý do mà thiền tông nói: Khổ tận, cam lai - hết khổ đến vui. Trong chùa có nhiều vị còn tu khổ hạnh hơn tôi nhiều. Có vị chỉ ăn rau cải sống, có vị không đụng đến tiền bạc và có những vị hành trì theo những phương pháp khó khăn khác. Nhưng tất cả chúng tôi đều được học giáo lý của đức Phật từ những Tạng Kinh. Ngoài ra, hằng ngày chúng tôi cũng có thời khóa để hành thiền và chấp tác. Cuối năm 1970, chúng tôi dọn về một công xưởng làm nệm rất cũ kỹ thuộc vùng Mission, sau đó được sửa chữa lại thành Kim Sơn Thánh Tự như ngày nay .

 

Và bây giờ, sau ba năm ở chùa, tôi đã rời bỏ gia đình, nghề nghiệp và luôn cả giấc mộng tương lai lúc trước. Hôm nay tôi lại rời bỏ tu viện, bỏ cả Thầy, để thực hiện chuyến bái hương kỳ lạ nầy, hầu mong tìm đến một mục đích khó thành. Ngồi đây trong công viên nhỏ gần cầu Golden Gate với tâm trạng ngấm ngầm lo sợ, tôi không thể tưởng tượng nổi rằng, ngay từ lúc đầu sao mình lại có thể khởi sự được. Tôi cúi lượm túi hành trang, lủi thủi lê gót trở về chùa.
Tôi trở lại ngay với những hoạt động bình thường. Không một ai hay biết gì đến việc tôi đã vắng mặt. Tuy cố tìm vui vào các sinh hoạt ở chùa, nhưng tâm tư như cứ ở tận đâu đâu, cứ nghĩ mãi đến hình ảnh của ngày lễ lạy vừa qua. Mặc dù với bao vọng tưởng và những mối nghi ngờ, tôi cũng đã thực sự lạy được năm dặm đường. VớI chút kinh nghiệm đó đã cho tôi một ấn tượng sâu đậm tận cõi lòng, không sao diễn tả được. Sau đó chẳng bao lâu, tôi quyết tâm thực hiện một chuyến như vậy nữa.

Tuy nhiên, lần nầy tôi dự tính khôn ngoan hơn một tí và cũng bớt đi phần nào bí mật. Tôi tiết lộ nguyện vọng của mình với Sư Phụ, đồng thời cầu xin Ngài chỉ dạy và giúp đỡ. Mới nghe qua, Sư Phụ tỏ vẻ thích thú và hoan hỉ về ý nguyện nầy, rồi Ngài còn ban cho những lời khuyến khích, khiến lòng tôi tràn ngập niềm rung cảm với cái mà Thiên Chúa Giáo gọi là Thánh Linh ỐHoly Spirit. Sư Phụ dạy: Con đường tốt nhất để am tường các pháp là chịu đựng được những hạnh khó hành, "Làm những việc mà người khác không chịu làm, nhẫn những chuyện mà không ai nhẫn nổi, tất cả chỉ có vậy thôi!" Sư Phụ đề nghị tôi nên chờ hai tuần nữa để khởi sự vào ngày 16 tháng 10. Rồi một buổi tối vào giờ giảng pháp, Sư Phụ thông báo nguyện vọng của tôi, trong bầu không khí im lặng, sự nghiêm trọng như phủ xuống cả căn phòng. Khi Sư Phụ nói:

"Hằng Cụ sẽ thực hiện chuyến bái hương một ngàn dặm để cầu cho hòa bình."
Nghe vậy tôi cảm thấy hớn hở làm sao. Lời Ngài tuyên bố như một ủy quyền mạnh mẽ, ra vẻ như bảo đảm một sự thành công. Kể từ đó, tâm hồn tôi như rơi vào cảnh giới thật thư thái và mọi người cũng có vẻ thích thú về ý kiến nầy. Tôi đón nhận những lời khích lệ và nhiều tặng phẩm như: thức ăn, quần áo, dụng cụ cắm trại v.v... Sư đệ Hằng Do với tên đời là David Bernstein, trước cư ngụ ở Providence thuộc vùng Rhode Island, đã tự phát tâm ủng hộ theo tôi để phụ mang hành lý.

Cuốn nhật ký nầy ghi lại những cảm nghĩ và sinh hoạt hằng ngày của chúng tôi trong chuyến lễ bái cầu cho hòa bình thế giới. Những lời nầy đã được nhuận sắc và viết lại từ bản chánh mà sư Hằng Do đã hết sức cẩn thận cất giữ trong suốt chuyến đi. Tất cả những gì xảy ra đều có thật và tên họ không hề bị thay đổi. Chỉ riêng về cái nhìn tổng quát hơi khác khi chúng tôi kiểm lại chuyến đi vừa qua.

Xin đại diện luôn cho sư Hằng Do, chúng tôi nguyện đem công đức của chuyến bái hương nầy, hồi hướng cho chúng sanh trong khắp vũ trụ, mong cho tất cả cùng nhanh chóng đạt đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
 

Tam Bo Nhat Bai     Tam Bo Nhat Bai     Tam Bo Nhat Bai

Lời Giới Thiệu Của Hằng Do

Tam Bo Nhat Bai



Tôi lớn lên với hai người anh trong hoàn cảnh khá tốt nhờ cha mẹ làm việc vất vả cấp dưỡng. Lúc nhỏ, tôi thích hoạt động, nhưng tánh tình khó chịu hay chống đối, nói chung đó cũng là chứng tánh của lứa trẻ đương thờị Cuộc đời tôi đôi lúc cũng bị hạn chế bởi những chuyện phiền phức nho nhỏ do tự tôi gây rÕ

Nhớ có lần trong buổi tụ họp ở trường tiểu học, tôi cố ý đánh vần ngược tên ông hiệu trưởng. Vừa đúng lúc ông đi ngang qua, thấy tôi đang cười to ngắc nghẻo với cái tên đánh vần ngược, nghe dị hợm đó. Rốt cuộc chuyện nầy không còn mắc cười nữa, khi tôi bị nhốt vào văn phòng hiệu trưởng.

Nhưng cũng có lúc vui vẻ, như vào mùa đông cả gia đình tôi đi trượt tuyết ở New Hampshire, hạ đến thì anh em bọn trẻ chúng tôi được nghĩ hè ở vùng Main xinh đẹp. Tôi sống vô tư qua mười tám mùa thay đổi ở New England, cho đến khi rời nhà để vào nội trú trường đại học thực nghiệm nhỏ, vùng ngoại ô Michigan. Nơi đó tôi đã bị ru ngủ bởi những ảo tưởng thú vị của tự do như: Tự ý muốn ngủ trể chừng nào cũng được, hay bất cứ lúc nào muốn ăn gì cũng được và không bị ai sai bảo chị Nhưng đến năm học thứ nhất gần mãn thì sự hưởng lạc của tôi hốt nhiên dừng hẳn. Chẳng ai ngạc nhiên gì cả, chỉ riêng tôi sửng sờ khi thấy mình thi rớt.

Quá buồn bã, tôi bỏ đi đến vùng Cape Cod, cố tìm câu giải đáp về sự hiện hữu của mình và cố gắng trả lời câu hỏi mà chính tôi không thể hỏị Để rồi nhận thấy rằng tôi cũng không thể nào chạy trốn với chính mình được nữa, vì càng chạy xa tâm thức chừng nào, tôi càng bị dồn kéo trở về chỗ cũ chừng ấỵ Sau mấy tháng sống đơn độc như kẻ bụi đời, tôi tự kết luận rằng đời tôi chẳng có giá trị gì. Tôi thật chưa bao giờ có cái thắc mắc rằng tôi phải nên làm gì cho cuộc đời mình ngoài chuyện ăn mặc và ngủ nghỉ. Đối với tôi thế giới nầy thật là vô nghĩa, nó khiến tôi trở thành xa lạ, và tách biệt cuộc sống thực tạị Như danh ca Bob Dylan đã diễn tả tâm trạng đó như sau: "Những thất bại nặng nề và quá bi quan của bạn sẽ không kéo bạn lên nổi đâụ" Tôi cố tìm lối thoát ra khỏi sự dính mắc nầỵ
Có người cho tôi một cuốn sách về đạo Lão, trong lúc đọc đến một đoạn, tôi như muốn vung tay đập bàn và hét lên:

"Đúng đó! Đấy mới chính là những ý nghĩ trong tâm tôi." Rồi tôi thức cả đêm để đọc. Cuốn sách đó còn có ý nghĩa hơn cả cuộc đời tôi. Và như được làn sóng thủy triều cuốn đưa, tôi trở lại trường học. Lúc đầu tôi tự ghi danh học tiếng Hoa, triết lý Á Đông, nhưng rồi dần dần tôi thích đạo Phật và bắt đầu tọa thiền với một người bạn. Tuy vậy, tận cõi lòng tôi lúc nào cũng có cái ray rức nhè nhẹ. Là cái gì chớ?

Vào một đêm, tôi ngồi thiền một mình trong phòng, khi ngoài trời lớp tuyết trắng khoảng hai feet (hơn nửa thước) đang bao phủ tất cả, kể cả âm thanh. Gặp lúc cả trường đang nghỉ lễ Tạ Ơn (Thanksgiving), nên cảnh vật trở nên vắng lặng vô cùng. Tôi chợt có cảm giác là lạ, trong thân và bên ngoài dường như là một, không có sự tách rời, không có sự kết hợp, không phân biệt khoảng cách giữa "của tôi" hay "là tôi" và ánh sáng tỏa chiếu khắp nơị Tâm trạng đó biến mất thật nhanh, đồng lúc với những vọng tưởng đang nổi dậy trong tâm thức. Không biết trạng thái đó kéo dài được bao lâu, nhưng nó để lại trong tôi một ý niệm rất rõ ràng là tôi cần phải tìm một vị Thầy để giảng giải về những kinh nghiệm cũng như hướng dẫn đường lối cho tôị Kể từ đó cái cảm giác âm thầm ray rức trong lòng không còn nữa và tôi nỗ lực học hành gấp đôi lúc trước.
Nghe nói có một vị Thiền sư đã giác ngộ ở San Francisco, nên nhân dịp nghĩ hè năm 1968, tôi tìm đến đó để xem tận tường hư thực. Sau khi đi ngang qua vùng kỳ bí, xa lạ của phố Tàu San Francisco, tôi từ từ bước lên bốn dãy cầu thang để đến một giảng đường Phật Giáo cũ kĩ, tức là Chùa Kim Sơn lúc trước, xưa kia lại là chùa của Lão Giáo. Là một căn phòng nhỏ hẹp, đầy ấp những người đang chăm chú đọc chữ Tàu, tọa thiền và làm việc. Lần đầu tiên tôi được nhìn tận mắt ngôi trường vỏn vẹn chỉ một lớp học đang hiện hành. Tôi cảm thấy khó chịu hơn khi biết rằng những người ở đó mỗi ngày chỉ dùng một bữa trưa và ngủ trong tư thế ngồi thiền trên sân thượng. Rồi sự ray rức ngấm ngầm bắt đầu trở lại. Nhưng tôi không dám thú nhận với chính mình mà trở về miền Tây Trung Phần với chút nỗi niềm bâng khuâng. Tôi cố gạt bỏ những mục kích của chuyến thăm viếng đó, xem như chẳng có gì đáng quan tâm cả.

Nhưng hai năm sau, cuối năm 1970, vừa mãn khóa học, cảm giác khó chịu khi xưa lại dẫn tôi trở lại San Francisco. Và không bao lâu tôi vào phụ giúp ban xây cất Chùa Kim Sơn, tức là trung tâm mới của Tổng Hội Trung Mỹ Phật Giáo (tiền thân của Pháp Giới Phật Giáo Tổng Hội). Động lực thúc đẩy và tính trọng đại của nỗi ray rức trong tôi khi trước thật khó bày tỏ được. Trên căn bản, trạng thái nầy có thể diễn tả như: Nghiệp quả của nhân gieo trồng ngày trước nay đã chín muồi. Chúng ta thường có khuynh hướng quên đi những gì mình đã làm bởi tâm trạng vô minh bị hạn cuộc, nhưng đôi khi do đối chạm sự vật, hoặc nghe một lời nói, rồi chúng như nút bấm tác động vào trí ức vốn đã bị che đậy trước kia, khiến cho chúng ta nhớ lại và thúc đẩy chúng ta hành động.

Tôi trở thành đệ tử của Hòa Thượng Tuyên Hóa, vị trụ trì chùa Kim Sơn. Cuối năm đó tôi được cạo tóc làm Sa Di. Năm 1972, tôi cùng sư huynh Hằng Cụ thọ giới Cụ Túc, trở thành Tỳ Kheo với pháp hiệu Hằng Do. Năm sau, tôi nghe sư Hằng Cụ sắp dấn thân vào chuyến bái hương một ngàn dặm, và dự định sẽ khởi đầu mỗi ba bước lạy một lạy từ San Francisco đến Seattle để cầu nguyện cho hòa bình thế giới. Tôi vô cùng bàng hoàng, cái cảm giác ray rức lúc trong phòng trường nội trú năm 1970, một lần nữa lại kéo về, nhưng cảm giác lần nầy mạnh hơn trước gấp mười lần. Tôi đi vòng vòng trong ngây dại, cố quên đi chuyến bái hương sắp tới, nhưng không cách gì loại bỏ nó ra khỏi tâm tư. Cuối cùng sau ba ngày khổ sở chất chứa nỗi ưu tư, tôi liền bày tỏ ý mình với Sư Hằng Cụ và tự nguyện đi theo để đóng góp bất cứ những gì mà tôi có thể giúp được cho chuyến đi. Đó cũng là lúc tôi quyết định lưu giữ cuốn sổ để ghi chép lại những kinh nghiệm của chúng tôi.

Trước khi rời San Francisco để khởi sự cuộc du hành, vấn đề mà mọi người đều nghi ngại là chúng tôi sẽ tìm đâu ra những nhu cầu thiết yếu cho sự sống còn, như thức ăn, quần áo và nơi ẩn trú.

Nhưng Sư Phụ đã nói: "Người nào thực sự thành tâm và ngay thật trong những chuyện mình làm thì sự sinh tồn sẽ không bao giờ có vấn đề."

Điều nầy Sư Phụ đã chứng minh đầy đủ qua chính cuộc đời Ngài và sau đó không lâu trong chuyến hành trình, chúng tôi cũng đã thấy được, thật quả không sai.

Quyển sách nầy tường thuật lại những nơi chốn sự việc đã xảy ra, cùng cảm tưởng và những quan sát dọc đường của chúng tôi trong mười tháng bái hương. Thật không thể nào kể hết những vị hảo tâm đã từng giúp đỡ chúng tôi về mọi phương diện. Vì vậy cuốn sách nầy cũng là cách bày tỏ lòng biết ơn của chúng tôi đối với: Tất cả những ân nhân, mười phương chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai, Sư Phụ là Hòa Thượng Tuyên Hóa và với cha mẹ cùng các bạn đồng tu của chúng tôi. Hy vọng quyển sách nầy sẽ gợi lại trong lòng đọc giả những sự hồi đáp giống như tôi đã cảm thọ lần đầu trong chuyến viếng thăm giảng đường Phật học cũ kĩ và nên nhớ rằng, sự khởi đầu cho con đường tu tập đó đang rộng mở cho những ai muốn chọn theo nó.

Chương I

Từ San Francisco đến Garberville

 

Ngày 16 Tháng 10 Năm 1973. Ngày khởi sự. Hằng Cụ viết:

Sáng hôm nay tất cả mọi người ở Chùa Kim Sơn tiển đưa chúng tôi đến tận công viên nhỏ gần cầu Golden Gate, nơi mà tôi đã bỏ cuộc lúc trước. Không lãng phí chút thời gian nào, tôi bắt đầu lạy ngay về hướng bắc, Thầy Hằng Do đi liền theo sau, trên lưng mang một túi đầy vật dụng. Lúc đó có khoảng hai mươi vị gồm cả Tăng, Ni và cư sĩ vừa đi chung quanh chúng tôi vừa trì niệm chú Ðại Bi gồm 415 âm vần.

Sau khi lạy qua hai con đường, tôi chuẩn bị băng qua đại lộ phía trước của Marina, thì có đoàn xe cứu hỏa chạy đến và ngừng ngay trước mặt. Hơi một chút sửng sờ vì chúng tôi không biết họ đang muốn làm gì, chắc họ cũng thắc mắc về việc chúng tôi đang làm. Ðường lộ khi ấy lại rất nhiều xe cộ nên khó mà băng qua theo kiểu Tam Bộ Nhất Bái, vì vậy tôi cứ đứng tại chỗ mà lạy. Ðược một lúc, thấy cảnh tượng nầy chắc sẽ gây sự chú ý, nên cuối cùng tôi đành quyết định đi qua lộ như thường, rồi sẽ tiếp tục lạy khi tới bên kia đường. Lúc chúng tôi tiến gần đến lối vào cầu thì nhóm xe chữa lửa lúc nãy mới bỏ đi, còn chúng tôi thì tiếp tục cuộc hành trình. Thầy Hằng Do với túi đồ đi trước khoảng vài trăm thước, ở đó lạy, đợi đến khi tôi đi ngang qua, Thầy lại mang túi hành trang lên, đi về phía trước và lạy tiếp....

Lên đến cầu Goden Gate, chúng tôi gặp mối trở ngại đầu tiên. Một viên chức giữ cầu chạy ra nói rằng nếu chúng tôi cứ tiếp tục làm "như thế" để qua cầu thì ông sẽ đuổi chúng tôi ngay.

Ông bảo: "Hoặc là đi như những con người bình thường, bằng không thì không được qua cầu."

Rồi ông nói tiếp: "Mà cái gì vậy? Mấy ông tính làm gì đây?"

Thấy rõ ông ta muốn kiếm chuyện, nên tôi nói: "Ðể chúng tôi suy nghĩ về chuyện đó chút đã."

Nghe thế ông ta lấy làm bối rối và cũng không nói được thêm gì. Lễ lạy tại chỗ được một lúc, thấy không còn cách nào hơn nên chúng tôi quyết định đi qua cầu như "những con người bình thường." Qua đến bên kia cầu là vùng Marin, trong khi tiếp tục lạy tôi chợt nhớ lời Sư Phụ dạy lúc chia tay:

"Ngày mai chỉ trong một niệm là Hằng Cụ và Hằng Do sẽ qua khỏi cầu."

Từ đây chúng tôi dự định sẽ tiến tới bờ biển Stinson và thẳng lên xa lộ Một (Highway 1), cuối đường là giáp vùng Legget, California. Từ đó sẽ chuyển sang xa lộ 101 để thẳng tiến đến trung tâm của tiểu bang Washington rồi sau đó thì vào nội địa Seattle. Dựa theo bản đồ thì chúng tôi hầu như sẽ không gặp đại lộ (free way) nào cả.

Chúng tôi vừa mới qua cầu Golden Gate và dựng lều dưới những lùm cây gần lối vào khu Sausalito.

 

Ngày 17 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Cụ viết:

Hôm nay trong buổi nắng sáng, chúng tôi rời xa lộ 101 để vào vùng Sausalito. Nhiều đoàn xe như Porsches và Volkswagens chạy vùn vụt ngang qua để vào thành phố lớn làm việc. Khi chúng tôi đến khu phố nhỏ im lìm bên bờ vịnh, tuy hai bên đường đã có nhiều người dừng lại nhìn chòng chọc, nhưng chỉ có một bà cụ đến hỏi chuyện chúng tôi thôi. Ðến trưa, Quả Dung Epstein cùng gia đình và người bạn tên Tom Yager mang đến thức ăn Tàu còn nóng hổi. Tiến sĩ Epstein, giáo sư dạy triết ở trường đại học San Francisco State, tỏ lòng mến mộ về việc làm của chúng tôi. Sau bữa cơm trưa, chúng tôi tiếp tục lạy. Có con chó dại thân đầy ghẻ lở, chạy lon ton vòng quanh theo tôi, vừa rên rỉ vừa tru lên như than thở.

Nói chung, mọi người đều như tránh xa chúng tôi. Có lẽ họ nghĩ rằng đây là một trò ảo thuật quảng cáo gì đó. Tôi tự hỏi không biết có bao nhiêu người ý thức rõ được về những cái hay, có thể biểu hiện trong việc lễ lạy như vầy. Tại Ðông phương, đặc biệt là Ấn Ðộ, Trung Hoa và các nước theo Phật Giáo, lễ lạy là một cách diễn tả sự cung kính, chào hỏi và phục tùng. Trung Quốc thời xưa, xem việc lễ bái gần giống như là sự bắt tay như ở xứ Mỹ ngày nay. Công nhân kính lạy chủ nhân (quý tộc), chủ nhân bái kiến các Lãnh chúa, Lãnh chúa lễ phục Hoàng Ðế, cũng có khi Hoàng Ðế lạy xá những vị Tăng đã giác ngộ và thỉnh cầu sự chỉ dạy cách thức thống trị quốc gia. Tuy nhiên sự lễ lạy đối với chúng tôi lại là phương tiện của thiền định. Phương pháp nầy dẫn đến sự tập trung tư tưởng hơn hết, vì nó không đòi hỏi suy nghĩ hay nói năng gì. Những động tác chầm chậm nhẹ nhàng, lập đi lập lại mới chính là sự luyện tập trong hiểu biết, với chủ ý làm dừng lại những loạn tưởng trong tâm thức. Nhờ vậy tự tánh vốn vượt ngoài cái lý bất nhị sẽ được phơi bày. Tự tánh nầy như hư không, bao trùm tất cả, tức không sanh cũng không diệt. Mục đích tu tập của người Phật tử là để trở về với tự tánh sẵn có của mình. Cho nên thiền tập bằng cách lễ lạy là một trong những phương pháp đưa đến trạng thái đó.

Hôm nay chúng tôi lạy thẳng một mạch xuyên qua thành phố Sausalito được năm dặm đường, và đang dựng lều trong bụi cây, giáp ranh vùng Tamalpais. Ngày mai chúng tôi sẽ tiến lên ngọn đồi cao qua con đường nhỏ ngoằn ngoèo dẫn ra bờ biển.

 

Ngày 18 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Do viết:

Con đường chật hẹp lại khúc khuỷu và lõm chỏm đầy sỏi đá. Thầy Hằng Cụ biết ngay những viên sỏi đá bén nhọn nầy sẽ càu rách tay và đầu gối, nên chúng tôi phòng ngừa bằng cách xé áo quấn quanh đầu gối.

Mấy hôm trước, cái quần tôi đang mặc trông cũng còn khá lắm, vậy mà bây giờ đã có nhiều chỗ bị mòn mỏng tanh, tôi lại vô ý không đem thêm cái nào để phòng bị. Sáng nay, khi đứng tại chỗ lạy để chờ sư huynh đến thì phía sau đích quần tôi bị tét ra. Cũng may là nhờ có cái y (cà sa) che khuất chỗ rách. Tôi định lát nữa sẽ vá lại, nhưng càng tiếp tục lạy thì nhiều chỗ khác lại càng rách thêm ra. Thế nầy thì hết phương vá víu. Trong mấy ngày qua, người ta đã thấy có hai Tu sĩ Phật Giáo vừa đi vừa lạy trước công chúng, chỉ vậy cũng đủ làm họ sửng sốt rồi, nói chi bây giờ lại trông thấy một ông Thầy tu lễ lạy với cái quần rách tả tơi thì thật là quá sức tưởng tượng! Chắc tôi sẽ bị bắt về tội phơi bày bất chánh quá! Gió lạnh biển Thái Bình Dương xuyên qua những lỗ rách khiến tôi càng rét buốt thấu xương. Khi Thầy Hằng Cụ vừa lạy tới, tôi đề cập ngay đến thảm trạng đang cần một cái quần, nhưng sư huynh tôi cũng chẳng làm gì được hơn. Chúng tôi không có dư một cái quần nào và cũng không có tiền để mua quần mới. Nhiều người đi ngang qua cho tôi những cái nhìn thiệt là kỳ cục.

Tôi vác túi hành lý lên và bắt đầu đi về phía trước, đến ngay góc đường đầu tiên, chợt thấy một đống vải màu nâu nằm chắn lối. Mừng quá, tôi chạy tới lượm lên, thì ra là cái quần tây đàn ông, cỡ (size) 34. Ðúng là kích thước của tôi, không nhỏ quá, cũng không lớn quá, rất vừa vặn, thật là chuyện khó tin. Tôi nhảy vào bụi rậm để mặc vào, thật hoàn toàn vừa vặn. Không biết vị Bồ Tát nào, hay ai đó đã để cái quần nầy ngay trên lối đi của tôi. Nhưng dầu sao đi nữa, tôi thật biết ơn vô cùng.

Hôm nay chúng tôi lạy xuyên qua ranh giới Tamalpais được sáu dặm và đang cắm trại trên đồi, giữa những hàng cây Bách Hương. Thật ra chúng tôi không có lều chõng gì mà chỉ có được tấm ni-lon, nhưng vậy cũng đủ để tránh những cơn mưa gió phủ phàng.

 

Ngày 19 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Do viết:

Trong ba ngày đầu tiên sống ngoài trời của chuyến đi, tôi đã đối diện với hàng triệu hình dạng của cuộc sống, như cây cỏ, côn trùng và súc vật. Dù cho số lượng có nhiều vô số kể, dù dưới mọi hình thể khác nhau, nhưng tất cả không sớm thì muộn đều cũng phải chết. Mọi cuộc sống đều theo một khuôn mẫu là: Sanh, trụ, hoại và không. Sanh là do các yếu tố hữu duyên hợp lại tạo thành thân thể. Trụ là khoảng thời gian những yếu tố nầy còn trong tình trạng hòa hợp. Hoại là khi các yếu tố nầy tan rã. Không là khi sự liên hệ giữa chúng tuyệt nhiên chấm dứt và thân thể đó không còn tồn tại nữa.

Với khung cảnh bao la ngoài trời nầy, tư tưởng tôi không có những bức tường chướng ngại, nên tâm tôi như tủa vút lên tận trời cao và hòa lẫn vào những vì sao. Không có gì cản trở, tôi tiếp tục suy ngẫm đến những câu hỏi bất hủ về kiếp nhân sanh. Tôi là ai? Tôi đang đi về đâu? Các vị Thánh Hiền bảo rằng câu trả lời thì đang ẩn ở phía bên trong. Vậy thời việc bái hương nầy sẽ là một chuyến đi thuộc về tâm linh đó. Khi nào tôi phá vỡ được cái vỏ hư vọng của bản ngã, thì tất cả những phân biệt trong và ngoài sẽ biến mất, và tôi sẽ thấy thế gian nầy như là chính bản thân tôi. Thế nên đức Phật đã dạy về lòng Từ Bi, một khi biết được rằng bạn thực sự là tất cả, thì bạn sẽ đối xử tốt với tất cả.

 

Ngày 20 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Do viết:

Mưa tầm tả. Chúng tôi chầm chậm xuống đồi để ra xa lộ Một, khi tiến về hướng bắc, bờ biển Stinson, có ông say rượu hét Thầy Hằng Cụ (từ khoảng cách an toàn): "Ê! Thằng hề. Cút đi!"

Sau một ngày mệt mỏi, chúng tôi dựng lều trên một đồi cỏ nuôi bò, hướng về phía bờ biển. Giờ đây, tôi vừa ghi chép vừa nhìn chăm chăm vào ngọn lửa nhỏ mà chúng tôi đã xoay trở lắm mới nhúm cháy được. Sẽ có ai đó thấy được những làn khói bay ra từ mấy nhánh củi ướt, rồi đến bắt chúng tôi về tội cắm trại bất hợp pháp chăng? Không đâu! Gió biển mạnh đã thổi tan cả rồi! Chúng tôi cũng vẫn dựng lều bằng mấy tấm ni-lon để nghỉ cho qua đêm dài lạnh lẽo. Năm dặm thật là một đoạn đường dài để quỳ lạy. Thầy Hằng Cụ nói là lúc nào cũng thích đi du lịch, nhưng theo tôi nghĩ thì chuyến bái hương nầy còn có giá trị hơn là chuyện đi lang thang không mục đích. Vì hiện tại chúng tôi đang làm một việc có lý do, có mục tiêu. Tôi cảm thấy sự hiện diện của chúng tôi ở ngoài nầy thật là chánh đáng. Khi nghĩ lại cuộc đời mình, tôi cảm thấy thật đã lãng phí bao nhiêu là sức lực, và thời gian vô ích trôi qua, nên tự nguyện với lòng mỗi ngày sẽ tinh tấn hơn.

 

Ngày 21 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Do viết:

Cơn gió hú thổi qua cây lá khiến chúng tôi thức giấc. Dù trời vẫn còn tối đen, nhưng chúng tôi đã lo thu dọn lều chõng, lần mò trở ra đường. Thầy Hằng Cụ bị trặc lưng khi nhảy qua hàng rào, mặc dù vậy sư huynh tôi cũng ra tới được mặt đường vừa lạnh lẽo, vừa tối thui để bắt đầu lễ lạy.

Khi Hòa Thượng Hư Vân bắt đầu chuyến bái hương, có nhiều Tăng sĩ cũng tháp tùng theo Ngài. Nhưng chẳng bao lâu, vì mệt mỏi nên họ đã phải quay trở về. Bây giờ chúng tôi chỉ mới đi được có năm ngày thôi mà tôi cũng đã thấy rất rõ việc lễ bái một ngàn dặm (tức 1600 km) sẽ còn khó khăn hơn là tôi tưởng. Tin chắc rằng nếu như không phải vì Thầy Hằng Cụ nhất quyết làm việc chánh đáng, nhằm đem lợi ích cho thế gian thì chuyến đi nầy có lẽ sẽ bị dẹp qua một bên rồi.

Gió thổi mạnh làm gãy đứt những nhánh cây to nằm ngổn ngang trên đường. Tiếng nước mưa chảy ầm ầm vào cống rãnh, hòa vang cùng tiếng mưa rơi ào ạt. Chiều nay có ông cảnh sát đến khám xét, xem chúng tôi có phải là tội nhân vượt ngục, hay là bọn khùng điên. Ông bỏ đi với gương mặt thất vọng vì không tìm được lý do để bắt bớ. Chúng tôi căng lên tấm lều đơn sơ gần lối quẹo ra vùng Bolinas.

 

Ngày 22 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Do viết:

Trời mùa thu vùng biển nầy thật là lạnh lẽo và ướt át. Như những chúng sanh, bò, ngựa, chúng tôi cũng thích nghi ngay vào cuộc sống ở đây. Khi đi qua vùng Five Rivers (Ngũ Hà) có cô gái đem cho trà nóng.

Tôi lại nghĩ về chuyến Du hành nội tâm, thật ra nó có ý nghĩa gì? Nghĩa là chúng ta đừng nhìn ra ngoài, phải quan sát sự diễn biến ngay mỗi ý niệm của mình. Tâm ta nên trở thành những tấm gương, chớ đừng giống như những cái máy chụp hình, chỉ chụp được các vật khác, vì ảnh hưởng đến sự ngược dòng tập trung. Tâm phải được phát triển trên phương diện không bị động khi đương đầu với những xúc cảm. Là Phật tử nên quan sát rằng, mặc dù tâm hoạt động đôi khi cực kỳ phức tạp, nhưng tiến trình của nó có thể phân chia làm hai loại:

Thứ nhất là Chấp trước: Tâm có xu hướng về trạng thái khoái lạc (như trà nóng), và cố duy trì những cảm thọ đó.

Thứ hai là khuynh hướng Chối bỏ: Tâm cố thối lùi những hoàn cảnh bất như ý (như thời tiết ướt lạnh). Tâm bị xao động giữa hai sự đối nghịch nầy, đấy là nguyên nhân làm chúng ta lạc mất trí huệ căn bản, vốn bất động không ô nhiễm, luôn sẵn có trong ta.

Tu hành cốt yếu là trực tâm xoay trở về "bên trong" và tập quan sát những biến chuyển cùng nguyên nhân của nó. Kế đến nên phát triển định lực để khi đối diện bất kỳ những cảnh vui buồn gì, tâm sẽ không bị xao động. Như vậy, dần dần trí tuệ sẽ sanh trưởng. Giờ đây tôi thấy rõ là chính ngoài xa lộ nầy là nơi có rất nhiều cơ hội để khảo nghiệm lại những đạo lý trên.

 

Ngày 23 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Cụ viết:

Hôm nay chúng tôi lạy qua vùng Olema, một làng nhỏ nằm yên tĩnh phía trong bờ biển Point Reyes National. Tôi quên nhắc là trước đây đã có mấy gia đình từ tu viện vẫn thường đến và cúng dường những bữa cơm chay nóng hổi. Như gia đình Quả Ðôn Schweig, Quả Dung Epstein và Quả Tả Linebarger, họ luân phiên đến với chúng tôi, mỗi lần chào mừng gặp gỡ là mỗi lần lý thú bất ngờ.

Trưa nay khi lạy ngang qua vùng đồng bằng hoang vu, có ông lữ hành đơn độc cùng với con chó nhỏ gia nhập vào chuyến bộ hành kỳ hoặc của chúng tôi. Bây giờ chúng tôi ba người dựng lều dưới gốc cây sồi trên đất tư nhân, cách xa lộ khoảng một phần tư dặm. Chuyện kiếm chỗ dựng lều ở chung quanh vùng nầy vốn không gì dễ, nhưng Thầy Hằng Do lúc nào cũng tìm được chỗ. Cứ mỗi buổi chiều, khoảng nửa giờ trước khi tôi kết thúc lễ lạy, là Thầy đi trước để tìm chỗ. Hầu như mỗi tấc đất chung quanh vùng nầy đều thuộc về tư nhân, nên việc lựa chọn địa điểm cũng rất găng. Lúc trước Thầy Hằng Do không tự chọn lấy mà chờ tôi đến để quyết định. Bây giờ sau bảy ngày trên đường, Thầy đã thay đổi hoàn toàn. Khi tôi vừa lạy tới nơi thì Thầy đã dựng lều xong, đôi khi nếu điều kiện cho phép, Thầy còn nhóm sẵn lửa lên nữa. Thật là một phần thưởng xứng đáng sau một ngày dài lễ lạy.

Quyết định sự việc là một phương diện quan trọng của sự tăng trưởng về tinh thần. Nhớ có lần ở Chùa Kim Sơn, khi tôi cố làm một cú quyết định, nhưng không ổn gì mấy. Lúc đó vừa mới làm chú Sa Di và còn sót lại bảy chục đồng, tiền tôi làm được khi chưa xuất gia. Số tiền nầy đã làm tôi nôn nóng như muốn đốt lủng túi, nên tôi chỉ muốn tiêu quách nó đi cho rồi. Chuyện xảy ra là vào một hôm khi tôi đang đứng ở hành lang trên lầu ba của Chùa Kim Sơn, cách phòng Sư Phụ khoảng một trăm bước (feet), tay đang mân mê số tiền trong túi áo và cố nghĩ cách sẽ làm gì với số tiền đó. Lúc đầu tôi định sẽ cúng hết vào chùa, nhưng lại có chút ý tưởng tham lam nổi lên:

"Có lẽ nên nhín lại cho mình một chút chớ! ờ, mà nên giữ lại bao nhiêu hở?" Tôi nghĩ thầm như vậy, rồi cả một chuỗi dài ý tưởng suy tính, biện luận về tiền bạc cứ vậy mà nổi lên. Tôi đứng ù lì ra vì không thể quyết định được gì, trong khi tay cầm tiền thì rịn chảy mồ hôi càng lúc càng nhiều. Tôi cảm thấy mình giống như con lừa khùng đang bị điêu đứng giữa hai bó cỏ khô ngon như nhau, rồi nổi cơn lên vì không biết nên ăn bó nào.

Ðứng đó mà nhìn đầu óc mình đang chiến đấu, tôi chợt nghe từ xa tiếng cửa mở từ phòng Sư Phụ. Hình như cánh cửa tâm tôi cũng đang được mở ra. Tôi biết ngay là Sư Phụ đã "rà đúng" ngay tôi rồi.

Sư Phụ có lần nói: "Khi một người có được thần thông về thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm và túc mạng thông, thì người đó sẽ không cần dùng đến truyền hình, radio, máy ra-đa, hay so-na gì hết. Vì tâm người đó đã không còn những vọng tưởng điên đảo, nên có thể thấu đáo một cách nhiệm mầu về tất cả mọi việc xảy ra trong vũ trụ, như mỗi tế bào trong cơ thể sẽ là một máy truyền hình và mỗi sợi tóc sẽ là một nút bấm điều khiển."

Lúc đó tôi nghe Sư Phụ lớn tiếng sai bảo điều gì cho một trong những Thầy người Mỹ đang đứng gần bên. Không đầy một phút, vị Thầy đó chạy dọc theo hành lang về phía tôi, vừa hớn hở ve vẩy tờ giấy mười đồng vừa nói:

"Hằng Cụ! Sư Phụ muốn biết đệ có tiền lẽ để đổi mười đồng không?"

Tôi đứng trân mình một lúc, không nói được lời nào, đầu óc như muốn vỡ tung. Vẫn như đang ngẩn ngơ, tôi lôi ra hai tấm giấy năm đồng và trao cho Thầy.

Thầy nầy nói: "Ủa! Mặt đệ sao giống như vừa mới gặp ma vậy!"

Tôi đáp: "Dạ! Thấy con ma của chính đệ đấy!"

Một vị Thầy có trí huệ sẽ dạy đệ tử theo nhiều trình độ khác nhau, điều nầy khó mà diễn tả được hết. Như về lãnh vực tư tưởng và ngôn ngữ chỉ là một khía cạnh của việc giảng dạy. Phải hiểu rằng một khi tâm thầy trò tương ưng như một, thì tất cả đều là phương tiện của sự giáo hoá. Tiếng đóng cửa bất thình lình vừa đúng lúc với sức đẩy cũng có thể là một cách rất tốt để một người trực nhận và bừng ngộ. Cũng vậy, tiếng điện thoại reo, tiếng ho khan, giọng cười gằn, sự làm lơ, sự quở mắng, lời khen quá đáng, những câu hỏi nan giải và nhiều phương pháp thiện xảo khác. Mặc dầu mới xem qua, chúng như có vẻ tầm thường, nhưng nếu sự việc xảy ra đúng lúc thì nó chính là dịp của mối liên hệ trực tiếp không chướng ngại giữa thầy và trò, thật không thể lầm lẫn được.

 

Ngày 24 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Cụ viết:

Thời tiết trở nên giá buốt khi chúng tôi lạy từ Olema về hướng bắc, đến một tỉnh lỵ khá lớn Point Reyes Station. Lúc 9 giờ sáng, có ký giả tờ báo địa phương vùng Point Reyes Light đến phỏng vấn, và chúng tôi đã trả lời những gì mình hiểu biết. Có lẽ lúc nầy đã có nhiều người hiểu thêm phần nào về việc chúng tôi đang làm. Có lần ở trong phố, tôi đang lạy dọc theo lề đường, Thầy Hằng Do ở gần bên nghe được câu chuyện đối thoại khi đi ngang qua tiệm bán máy móc (hardware) như sau:

- Ê, Matha! Nhìn kìa! Mình có nên gọi cảnh sát không?

- Thôi đi George à! Mặc kệ ông ta, ổng đâu có làm gì hại đâu!

Sau mười lăm phút dụng công, chúng tôi ra tới ngoại thành thì gặp một nữ cư sĩ Phật giáo tên Katy Powell (Quả Tánh), hiện ở vùng Point Reyes với hai đứa con. Bà ngỏ ý muốn được cùng lễ bái một đoạn đường. Và bà đã lạy theo phía sau cách chúng tôi khoảng hai trăm bước. Lạy được một dặm trên con đường lỏm chỏm đầy sỏi đá thì bà quay trở về nhà. Quả Ðôn Schweig và gia đình mang cơm trưa đến, gồm cơm gạo lức, canh rau, bánh mì, bánh tây và trái cây.

Buổi chiều ông Ben Williams đến cùng với đoàn ký giả San Francisco của đài truyền hình CBS số 5, họ quay phim rất nhiều về cảnh chúng tôi đang lễ lạy dọc theo những dốc đá bờ biển. Tối đến, vừa lúc chúng tôi tìm được một cái chòi bỏ hoang nằm ẩn trong rừng thì cơn mưa bão cũng vừa đổ ập xuống. Tôi mất cả nửa giờ lượm củi khô để nhóm lửa. Giờ đây chúng tôi đang hong khô đồ đạc và nấu nước pha trà.

 

Ngày 25 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Do viết:

Hôm nay Ưu Bà Tắc Quả Chu Rounds, chủ tờ báo Napa County Record, đem đến cho vài vật dụng và viết một bản tin ngắn về chuyến bái hương nầy.

Chúng tôi khởi sự lạy từ vịnh Tomales, đến cuối ngày lại tìm được một căn nhà hoang. Nhà nầy dù đã đổ nát, nhưng cũng giúp chúng tôi tránh mưa qua đêm. Tuy nhiên trong đêm tối đen đó, chúng tôi mới nhận ra căn chòi hoang nầy lại là nơi dung chứa bao loài thú rừng như: chồn, chuột, sóc và nhiều loài bận rộn khác đang ở chung với chúng tôi. Trong đêm tối vắng lặng, tiếng kêu vang rền của bọn chúng như càng được khuếch đại thêm. Có lúc tôi cũng cảm thấy thật sợ hãi. Như rủi ở đây có gấu thì sao? Nếu đem tinh thần lý trí ra để hiểu rằng thế gian nầy là hư ảo, đó là một chuyện, còn sống ở cuộc đời mà thật không lo sợ thì lại là một chuyện khác. Tôi thầm niệm Phật và cố giữ tâm an định lại. Rồi một ý tưởng chợt loé lên khỏa lấp sự lo sợ vô lý của tôi: Ồ! Tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật, thành người giác ngộ mà! Trong cuộc đời của Hòa Thượng Hư Vân, có nhiều trường hợp các thú hoang tìm đến lễ bái Ngài. Vì đức độ của Hòa Thượng như có quyền lực làm khơi dậy cái khả năng hiểu biết tiềm ẩn ngay cả ở những loài cọp, sói và chồn. Ngài giảng dạy cùng ban truyền Tam Quy, rồi thâu nhận chúng làm đệ tử, chẳng thế mà còn dạy cho chúng thêm về những giới luật, đạo đức nữa. Nhờ vậy mà tánh nết chúng thay đổi tốt hơn, bảo đảm sau nầy sẽ được tái sanh về cảnh giới khá hơn và sẽ có nhiều cơ hội hơn để tu hành.

Sau khi ngẫm nghĩ như vậy, thì những tiếng động ban đêm trong chòi đã không làm tôi kinh sợ nữa. Tôi ngủ thiếp đi với ý tưởng vui vui, rằng đang có hàng ngàn vị Phật nho nhỏ tương lai hiện đang vất vả lo tích trữ lương thực cho mùa đông sắp tới.

 

Ngày 26 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Cụ viết:

Phật tử Quả Thông Almassy (còn gọi là Gia Gia), chủ tiệm bán thực phẩm dinh dưỡng (health food) ở bãi biển Stinson, hôm nay đem cơm trưa đến. Khoảng xế trưa, có ông chạy xe gắn máy (motorcycle) ngừng lại trò chuyện. Ông nầy nhắc đi nhắc lại mấy lần về việc chúng tôi đang làm là "việc của Chúa." Sau đó có anh ở vùng Inverness đem đến cho chúng tôi mấy trái cây tươi, và thắc mắc muốn biết thế nào là lễ lạy. Chúng tôi cùng ngồi xuống trên lề cỏ dọc bên xa lộ để giảng sơ ý nghĩa cho anh ta hiểu.

Tôi nói: Sự quỳ lạy chỉ xem như là sự vận động của thân thể. Nhưng sau một thời gian, khi toàn thân đã thuần thục, thì thân và tâm có thể bắt đầu dung hòa hợp nhất. Thân quỳ lạy, tâm niệm danh hiệu Bồ Tát, những tác dụng nầy hổ tương lẫn nhau như một bài chú, như một phương pháp làm dừng những dòng tư tưởng. Qua cách nầy sẽ giúp tôi tỉnh giác trước những diễn biến ở nội tâm, và ngoại cảnh chung quanh. Ðồng thời nó không để tâm tôi xao lãng về những cảnh giới quá khứ hay vị lai. Trong kinh Lăng Nghiêm có giảng: "Khi tâm mê dừng lặng thì chính ngay sự dừng lặng đó là giác ngộ." Người ngộ nhập được trình độ nầy rồi sẽ không có những ý nghĩ gì về việc lễ lạy, sự an lạc, sự phân tán hay nguyên vẹn, mà đối với họ tất cả là một thể đồng nhất. Người có tâm trực nhận được như vậy tức là tâm Phật rồi đó.

Anh nầy chăm chú lắng nghe và sau một hồi suy nghĩ, anh ta xác định mục đích việc làm của chúng tôi rất đáng quý, nhưng theo ý anh thì chúng tôi cũng có thể thực hiện theo nhiều cách khác tốt hơn.

Hôm nay chúng tôi lạy dọc theo vịnh Tomales. Khi đi ngang qua một cộng đồng đông đúc vùng Synanon, có mấy người từ trên đỉnh đồi kêu la chế nhạo. Sau đó chúng tôi tiếp tục lạy qua một làng nhỏ ở Marshal, rồi dựng lều trên sườn đồi nghiêng thoai thoải hướng ra vịnh.

 

Ngày 27 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Cụ viết:

Sáng thứ bảy hôm nay trời thật đẹp, chúng tôi lễ lạy vào một quận nhỏ Tomales. Mặc dầu chỉ mới 8 giờ sáng, vậy mà đã có hơn trăm người chen chút dọc theo con đường chánh. Thấy tình hình ở đây có vẻ hơi là lạ, vì chẳng có chiếc xe nào trên mặt lộ cả. Ngay ngã tư đường chánh của trung tâm phố, đám đông như cố giữ một sự im lặng tuyệt đối, tôi cảm thấy như có nguồn khí lực của hàng trăm đôi mắt đang lặng lẽ hướng nhìn tôi chòng chọc. Quang cảnh lúc nầy thật nặng nề. Thình lình từ trong đám đông, một bà lão mặt mày đầy son phấn, chạy ra và trao cho tôi một hộp bánh mứt (jelly-filled donut: loại bánh mà tôi thường ưa thích.) Bà hỏi với giọng hơi run sợ: "Ông có nhận cái nầy không?" Tôi ngừng quỳ lạy và từ từ đứng lên.

Tôi tin rằng trong cuộc đời của mỗi chúng ta, ai cũng có một vài kỷ niệm, hoặc những giây phút đáng ghi mãi trong ký ức. Ðối với tôi, lúc nầy có lẽ là một trong những giây phút khó quên. Tôi đã lễ lạy suốt trên hai tiếng đồng hồ, và khi đứng lên để tiếp nhận hộp bánh, tôi cảm thấy ánh mặt trời như đang tỏa chiếu khắp cả vùng. Cảm giác ấm áp như đang chạy rần rần từ da thịt đến tận cõi lòng tôi, thật là an lạc.

Trong lúc đó, tôi nhớ lời Sư Phụ vẫn thường nói: ."Quý vị ráng tập xem tất cả mọi sự như là vô sự, xem mọi chuyện như là không có chuyện gì cả.." Ít ra lần nầy tôi cũng có thể nhận ra được ý đó của Ngài.

Bà lão và đám đông im lặng đó như đang chờ đợi phản ứng của tôi. Tôi gật đầu tỏ ý nhận lấy hộp bánh, rồi bỏ vào cái túi lớn mà tôi đã may dính liền vào cái quần rộng thùng thình của tôi. Bà lão vô danh chạy trở về chỗ an toàn rồi lẫn khuất trong đám người càng lúc càng đông. Tôi còn nghe văng vẳng lời bà nói: "Cũng được! Ít ra ông ta cũng còn ăn!"

Tôi tiếp tục lạy và Thầy Hằng Do cũng ở gần bên, khi vừa đến cuối phố, về hướng bắc, bỗng nghe tiếng còi hú chát chúa, tiếp đó là những tiếng trống bập bùng vang lên. Tôi thầm nghĩ chắc là mình đang tưởng tượng thôi. Nhưng ngay ngã tư cuối cùng, chúng tôi lại nghe có hai chiếc xe mô-tô lớn (motorcycle) hiệu Harley Davidson đang chạy ào đến. Phía bên trái con đường là cả một đoàn diễn hành với những bước đi nhịp nhàng của từng tốp một, gồm: ngựa, ban nhạc, xe hoa và còn nhiều nữa, đủ thứ, đủ loại! Thì ra đó là cuộc diễn hành đón mừng người về tỉnh nhà Tomales, và họ đã ngừng lại khoảng nửa giờ để đợi chúng tôi lễ lạy ngang qua. Thật là những người quá lịch sự. Chỉ có ở xứ Mỹ nầy mới có thể xảy ra những chuyện như vậy. Hai chúng tôi ngừng lạy để nghỉ xả hơi và xem đoàn diễn hành. Có rất nhiều người tỏ vẻ thân thiện đến trò chuyện với chúng tôi.

Quả Tôn đem cơm trưa đến cho chúng tôi. Anh nầy sống bằng nghề giao chuyển dược phẩm thẩm mỹ chế tạo bằng chất hữu cơ cho các tiệm bán thức ăn dinh dưỡng lành mạnh. Buổi chiều chúng tôi lễ thẳng một mạch không ngừng nghỉ, đến cuối ngày thì được năm dặm, rồi dựng lều dưới gốc sồi to lớn, độc nhất trên cánh đồng cỏ của ai đó. Sau buổi tọa thiền tối, Thầy Hằng Do tản bộ đến nông trại gần nhất để mua về một bình sữa tươi, trong khi đó thì tôi lo nhóm lửa. Giờ đây, tôi vừa ngồi nhâm nhi sữa nóng vừa ghi lại những hàng nhật ký.

 

Ngày 28 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Cụ viết:

Bạn Quả Tôn là Quả Diện đem thức ăn trưa đến (sau đó bà nầy cũng thỉnh thoảng đến). Bà luôn luôn đem đến những thức ăn rất quân bình đã được nấu theo phương pháp dưỡng sinh (macrobiotic), kỹ lưỡng nhất. Chúng tôi lạy qua vùng Valley Ford, phố nhỏ nầy được thành lập quanh ngã tư đường chánh. Sau đó chúng tôi tiếp tục đến vùng đồng bằng lồng lộng gió, rồi thẳng đến ranh giới quận Marin-Sonoma.

Lễ lạy ở miền đồng ruộng nầy có vẻ thật thuận lợi, nếu so với trong thành phố thì thật là một chuyện khác hẳn. Chúng ta luôn có khuynh hướng tự ý thức về mình, thì nơi đây đem lại cơ hội tốt đẹp để quán tưởng về pháp vô ngã. Trong thiền viện Phật giáo dùng công án gọi là "Ai?" Ở bất cứ lúc nào, nơi nào, thiền sinh chỉ với câu hỏi đơn giản: "Ai là người đang biết đây?" Phương pháp nầy gọi là hồi quang phản chiếu, nghĩa là quan sát những tư tưởng nổi lên với tánh cách thật vô tư, đồng thời cố gắng truy xét trở lại tận nguồn gốc sự phát sinh của những tư tưởng đó. Dù có tìm kiếm thế nào, nó không có nguồn phát xuất từ đâu cả. Kinh Hoa Nghiêm diễn tả: "Không có người suy nghĩ mà cũng không có gì để suy nghĩ, chỉ có những tư tưởng nổi lên do nghiệp lực hạn buộc mà thôi." Tiến trình của sự truy tầm nầy được người Hoa gọi là tham thiền.

Một phụ nữ trẻ tên Melissa từ trung tâm thiền đường Blue Mountain mang đến cho chúng tôi một ổ bánh mì. Sau đó có cặp vợ chồng trẻ trên chiếc xe cam nhông cũ kĩ ngừng lại bảo rằng, mười năm về trước, mọi người chung quanh đây có thể nghĩ rằng chúng tôi là đồ điên, nhưng bây giờ hầu hết là họ đã chấp nhận việc chúng tôi làm, có người còn cho rằng đây là việc làm rất hay.

 

Ngày 29 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Cụ viết:

Quả Ðôn Schweig cùng vợ là Quả Kim, gấp rút lái chiếc xe van Ford đến, nhưng đã hơn 12 giờ trưa. Hai chúng tôi vừa mới ăn cơm xong và sắp sửa bắt đầu cho buổi lạy chiều thì họ tới, ngừng xe một bên nói:

"Chúng con tìm quý Thầy khắp nơi để đem thức ăn trưa nầy!"

Ôi! thấy họ quá thành tâm, vì rõ ràng là họ đã vất vả lắm mới đem được cơm trưa cho chúng tôi. Thầy Hằng Do và tôi lại không nỡ lòng bảo họ là vừa mới ăn xong. Thế là để tỏ lòng lịch sự, chúng tôi ngồi xuống dùng cơm trưa thêm một lần nữa. Quả Ðôn cứ nhắc chừng chúng tôi ăn thêm nhiều và tôi đã ăn hết hủ bơ đậu phộng (peanut butter) hiệu Deaf Smith như mỗi lần họ đến.

Chiều nay lại có nhiều người đến trò chuyện. Chúng tôi nhận thấy những người nầy đang rơi vào các hạng khác nhau. Hầu hết là họ đã có định kiến trong tâm trước khi đến nói chuyện với chúng tôi. Họ hoặc là ủng hộ hay chống đối chúng tôi, chỉ khác nhau về cường độ. Những người nầy tự họ cho rằng mỗi cá nhân phải được phân loại rõ ràng. Có nghĩa là một người nếu không là Thiên Chúa Giáo thì phải là Do Thái Giáo, Phật Giáo hoặc gì khác nữa. Ðó là một trong những sự phân biệt giữa trắng và đen, giữa đúng hay sai. Mặc cho những phong trào về tư tưởng mới lạ nầy biến chuyển, chúng tôi chỉ lấy làm ngạc nhiên khi thấy còn có bao nhiêu người lại bảo thủ quá đáng như thế.

 

Ngày 30 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Cụ viết:

Chúng tôi hiện đang trên xa lộ nhỏ hẹp, cong ngoằn dẫn trở ra bờ biển và bị một hoạn nạn. Nguyên là còn gần một dặm nữa mới đến quận vùng biển ở Bodege Bay, tôi bỗng cảm thấy có lệnh đòi đi cầu. Khỏi phải nói cũng biết là ở đây làm gì có nhà vệ sinh, bởi vậy tôi đành phải tuột xuống khỏi xa lộ và lủi đại vào bụi rậm để làm tròn bổn phận hằng ngày. Rủi thay lại không có giấy để chùi, nên tôi vói tay quơ đại mớ lá vàng tươi gần bên. Ðó chính là một lầm lỗi thật đáng giá, vì sau đó tôi mới nhận ra những chiếc lá xinh xắn nầy lại là lá cây Sồi Ðộc, poison oak (tôi cứ nghĩ lá Sồi Ðộc màu xanh). Nhưng nghĩ gì đi nữa cũng không giúp ích chi trong lúc nầy. Chúng tôi lại tiếp tục lễ lạy, nhưng đến tối toàn thân tôi ngứa ngáy dữ dội. Hầu như suốt cả đêm tôi không chợp mắt được một phút nào. Tuy nhiên, nhờ nhớ niệm hồng danh Bồ Tát Quán Thế Âm nên đã giúp tôi quên đi cơn đau nhức.

Sáng hôm sau, khi tôi di chuyển còn thấy khó khăn huống chi là quỳ lạy! Thế nên tôi và Thầy Hằng Do chỉ còn cách là ngồi xuống trên gò đất bên vệ đường. Cả hai chúng tôi hoàn toàn tuyệt vọng. Một lần nữa, lòng tôi tràn ngập những mối nghi ngờ về việc làm không thực tế, khó thành công của chúng tôi. Vì hiện tại còn phải lạy thêm phân nửa vùng California; cả vùng Oregon và Washington, lại thêm vấn đề là tôi tự mình chùi mông còn không xong.

Chúng tôi ngồi đó cả mấy tiếng đồng hồ. Không thể nào trở về, (mà có thể chăng?) nhưng nhất định là chúng tôi không thể nào tiếp tục được nữa. Cho nên chúng tôi vẫn cứ ngồi nhìn xe cộ qua lại. Vấn đề nầy coi như vô phương giải quyết. Ðột nhiên như có cảm ứng nhiệm mầu đến cứu giúp chúng tôi. Ðó là hai chiếc xe Van quen thuộc đang ngừng trước mặt. Thì ra là cả nhóm người thân thuộc từ Kim Sơn! Có cả Sư Phụ nữa! Chúng tôi bèn di chuyển đến bãi đậu xe trống của công xưởng đồ hộp bỏ hoang. Họ đem đến nào là thức ăn, quần áo, thuốc men, tất cả những thứ mà chúng tôi cần dùng. Có cả giấy vệ sinh nữa! Tôi có cảm giác sung sướng đến tận mây xanh.

Mọi người ngồi thành vòng tròn, rộng khoảng mười lăm bước. Trước hết tôi và Thầy Hằng Do báo cáo những diễn biến trong mấy ngày qua. Sau đó mấy vị Tăng Ni lần lược thuyết những bài pháp ngắn. Trong lúc họ nói, Sư Phụ nắm lấy bàn tay phải của tôi và bắt đầu xoa xoa. Ngài vừa nhè nhẹ xoa bóp vừa đọc chú. Tôi cảm thấy cái căng thẳng đau nhức dần dần như rời khỏi thân mình, còn tai như không còn nghe gì cả, chỉ cảm nhận được sự ấm áp của buổi nắng chiều. Ngoài ra không có gì đáng để cho tôi bận tâm đến.

Buổi họp mặt kéo dài khoảng một tiếng, sau đó mọi người lên xe ra về. Sư Phụ dạy chúng tôi nên nỗ lực chú tâm thêm vào việc lễ lạy. Ngài bảo trong hoàn cảnh nầy, cách tốt nhất là niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Sư Phụ lại nói: Với thần lực của Ngài Quán Thế Âm, không những chỉ cứu giúp riêng từng cá nhân, mà Ngài còn hổ trợ rất nhiều trong việc đem lại hòa bình cho thế giới bằng nhiều phương pháp thật không thể nghĩ bàn.

Trước khi chia tay, tôi có hỏi Sư Phụ rằng: "Tối hôm qua con đã cầu đức Bồ Tát Quán Thế Âm cứu con, và hôm nay Sư Phụ cùng mọi người từ Kim Sơn đã đến để cứu giúp. Như vậy có phải là chuyện trùng hợp không?"

Sư Phụ liền trả lời: "Ðây chỉ là chuyện nhỏ thôi! Bất cứ lúc nào con muốn, chỉ cần gọi điện thoại là ta đến ngay."

Hôm nay tôi đã học được rất nhiều. Có một việc là cho đến hết cuộc đời nầy tôi sẽ không bao giờ quên được cái hình dáng của cây Sồi Ðộc, và tôi sẽ cố giúp những người khác đừng bị cái cảnh đau ngứa như tôi. Nhưng điều quan trọng hơn nữa là tôi đã hiểu thêm được cái gọi là trung điểm triết lý của Sư Phụ:

"Mọi sự đều O.K!" (Everything is OK!).

Ðây là những lời dạy thiết yếu của Sư Phụ mà tôi cũng đã từng nghe mọi người lập đi lập lại hàng trăm lần. "Mọi sự đều O.K ." không có nghĩa là muốn làm gì thì làm theo sở thích của mình. Không phải thế đâu! "Mọi sự đều O.K," là tâm trí của một người ở vào giai đoạn đã được luyện tập thuần thục, có thể quán sát thấu triệt những sự thăng trầm của các pháp mà tâm hoàn toàn vô chấp không bị vướng mắc, vì đó là nơi không chỗ trụ. Không xa lìa sự vô chấp nầy, người đó  có thể hoàn toàn sống một cuộc đời có trách nhiệm, chín chắn, trưởng thành. Đây là điều ai cũng có thể theo đuổi để đạt được. Ở thế gian nầy dù cho ở hoàn cảnh nào, có xấu tệ gì đi chăng nữa, cuối cùng thì "Mọi sự đều o.k."

Trước khi trở về Kim Sơn, Sư Phụ đã cho mỗi chúng tôi những lời dạy dỗ như sau:

"Khuyến tiễn Thiền sinh Hằng Cụ,

Phát nguyện Tam Bộ Nhất Bái,

Cầu cho thế giới hòa bình:

Tăng đoàn tại thiền viện Kim Sơn ở xứ Mỹ nầy rất đông và trẻ tuổi. Tất cả đều chú trọng vào việc duy trì, bảo hộ nền chánh pháp. Riêng mỗi cá nhân đều có những ưu điểm riêng biệt. Hiện nay con đã lập lời nguyện mà trước đây con chưa từng nguyện, hành theo hạnh Thánh Nhân mà con đã chưa từng hành, là mỗi ba bước lạy một lạy hướng về mười phương Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng. 

Vì lòng thành đầy nhiệt huyết của con cho việc cầu nguyện thế giới hòa bình là chân thật, chắc chắn con sẽ được sự cảm ứng nhiệm mầu. Mặc dầu sự phát tâm lúc ban đầu thì dễ dàng, tuy nhiên nó cũng có thể rất khó đạt được tròn ý nguyện của con. Ðừng bỏ cuộc, hãy giữ vững sự kiên trì, thành tâm và cần mẫn lên. Một ngàn dặm mà con sẽ đi qua chỉ là một bước nhỏ trong pháp giới. Hãy quyết tâm, đừng bao giờ ngừng thối cho đến khi đạt đến mục đích của con. Hãy phấn chấn tinh thần lên nhé con! Ta để lại cho con bài thơ từ giả nầy:

Nan hành năng hành thị Thánh hạnh

Nan nhẫn năng nhẫn cập chân nhẫn

Thập phương chư Phật tùng thử xuất

Bát vạn Bồ Tát tiếp chủng lai

Xuy đại pháp loa thí hiệu lịnh

Chấn bảo tích trượng hóa kiên tham

Công viên quả mãn khải triền nhật

Nạp vi ngô đồ tống bính xan.

Nghĩa là:

Hay làm việc khó là hạnh Thánh

Hay nhẫn việc khó tức thật nhẫn

Mười phương chư Phật từng như thế

Tám vạn Bồ Tát tiếp truyền lại

Thổi đại pháp loa ra hiệu lịnh

Khua bảo tích trượng tiêu tham xẻn

Ngày thành công trong khúc khải hoàn

Tặng đệ tử bữa ăn bằng bánh (berry pie).

 

Lời dặn dò thiền sinh Hằng Do,

Người hộ pháp cho Hằng Cụ.

Vì chúng sanh phát nguyện lễ Phật,

Thỉnh cầu thế giới hòa bình:

 

Từ lúc bắt đầu cho đến khi viên mãn, đừng ngập ngừng. Khi gặp khó khăn chớ chuyển lòng. Hành động như người bảo vệ, giúp Hằng Cụ tự cảm nhận được sức mạnh của lời nguyền. Những bậc quân tử tài đức thời xưa đáng được kính mến, nhân vì các Ngài có lòng quên mình để bảo hộ người khác. Nhưng thời bây giờ những bậc đáng kính đó rất hiếm hoi. Và đây là phương pháp thực hành theo hạnh Bồ Tát, cũng là một trong các cửa đưa đến giải thoát. Ðừng bao giờ, dù chỉ trong chốc lát mà quên đi chí nguyện dũng mãnh thuở ban đầu, phải luôn luôn nhất tâm giữ vững lập trường cho đến cuối cùng. Hãy dũng mãnh tinh tấn đánh tan bọn quỷ ma. Dù cho Thiên Long có đến tỏ lòng kính phục, cũng chớ vui mừng. Dù có gặp hoàn cảnh chướng ngại, cũng chớ sân giận. Tâm không phân biệt, cũng không có sự thành đạt. Sự lễ bái tuyệt diệu nầy sẽ là những khó nhọc gian nan, có thể đưa đến sự kiệt sức. Nhưng khi con biết áp dụng những điều đã học thì con sẽ được viên minh châu quý. Ráng ghi nhớ những lời chỉ dạy nầy và đừng phụ lòng ta nhé! Ta để lại cho con bài thơ từ giả:

 

Giai hành lệ chí tiến chinh đồ

Quả Ðạo, Hằng Do tác hộ phù

Du kinh tam thiên túc hoa lý

Cụ việt tám vạn bộ đang xe

Khoa học thời đại thượng cổ lão

Phật giáo cảm ứng tỉnh chúng mê

Nỗ lực nỗ lực cánh nỗ lực

Bất hưu bất hưu thường bất hưu.

Nghĩa là:

Cùng nhau tiến bước trên đường xa

Quả Ðạo Hằng Do chuyên hộ trì

Quả Du qua đủ ba ngàn dặm

Hằng Cụ vượt tám vạn bước xe

Tuy thời đại nhưng hành theo xưa

Phật giáo cảnh tỉnh chúng mê lầm

Cố gắng cố gắng càng cố gắng

Ðừng ngừng đừng ngừng thường đừng ngừng."

 

Ngày 31 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Cụ viết:

"Mọi sự đều o.k!" không có nghĩa là một tay cầm lon bia (beer) đi lang thang trên bãi biển, còn tay kia với cuốn kinh Kim Cang. Ngày nay có rất nhiều người sống như những con lợn ngu dốt mà cứ nghĩ là mình đã giác ngộ rồi. Người thật sự am tường đạo Phật đều nên biết rằng pháp quan trọng độc nhất là dứt bỏ lòng tham dục.

Chính đức Phật đã dạy: "Ý thức cứu cánh nhất, chỉ đơn giản là không có lòng tham dục."

Sư Phụ ở Kim Sơn cũng đã dạy như vậy, nhưng không có mấy ai thực lòng muốn nghe, huống chi nói đến việc thực hành theo đó. Chẳng hạn như tôi là một thí dụ điển hình. Câu cuối bài thơ mà Sư Phụ vừa mới cho tôi có nhắn nhủ đến bánh dâu (berry pie), mà tôi sẽ kể câu chuyện cái bánh đó như sau.

Khi mới đến Kim Sơn, tôi mang theo bao nhiêu là thói hư tật xấu, mà tôi đã từng thâu thập suốt hai mươi lăm năm qua. Tệ nhất là mười năm hút sách và sáu năm nhậu nhẹt. Bây giờ vào chùa lại là nơi có kỷ luật nghiêm khắc, buộc tôi phải dứt bỏ những tật xấu đó. Và tôi đã dẹp đi được tật hút sách, nghiện rượu. Nhưng sức mạnh lòng tham của tôi lại quá nặng nề, nên nó bắt đầu chuyển sang lãnh vực ăn uống. Tôi nhanh trí nghĩ rằng: Ít ra để tạm thời thỏa mãn lòng tham thì mình phải ăn cho thật nhiều vào. Vì theo pháp thực hành ngày ăn một bữa, nên tôi buộc phải vận dụng hết tinh thần năng lực vào bữa ăn trưa với thời gian giới hạn bốn mươi phút. Cho nên nếu chuyển đưa hết tất cả những tập khí xấu nầy vào việc tọa thiền và làm việc thiện, thì quả là một thử thách quá xá cở đối với tôi.

Thế nên đã có nhiều lúc vì không tự chủ, kiềm chế được mình nên tôi thường trốn ra ngoài, và đi thẳng đến tiệm bánh gần bên để mua cả bao bánh ngọt. Tôi nghĩ rằng chỉ như vậy mới có thể giải tỏa được hết những phiền não của mình. Chuyện xảy ra như sau:

Một hôm tôi lén ra ngoài mua bánh, sau khi đã ăn gần hết cả bao, chỉ chừa lại một cái bánh berry pie vì bụng không còn chỗ nào chứa thêm được nữa. Tôi cẩn thận dấu cái bánh đó trong áo khoát, rồi trở về tu viện. Bấy giờ ở Kim Sơn, mọi người đều tuân theo quy luật là không ăn sau giờ ngọ, chỉ có vài người ăn thêm bữa sáng, còn hầu hết đều tu theo lối khổ hạnh, mỗi ngày chỉ ăn một bữa ngọ thôi. Hôm đó trong suốt buổi tọa thiền chiều, tôi bắt đầu cảm thấy đói bụng, nên tư tưởng cứ nhắm hướng về cái bánh đó. Rồi suốt buổi tối giờ nghe kinh, trong khi Sư Phụ đang thao thao giảng pháp, thì đầu óc tôi chỉ còn biết đến hình ảnh của cái bánh đó thôi. Tôi định bụng là sau giờ nghe pháp, sẽ xơi quách nó cho rồi, còn luật lệ khỉ gì chớ!

Ðến khoảng mười giờ đêm, khi mọi người đã đi ngủ, tôi nhẹ nhàng chuồn ra cửa sổ nhà tắm trên lầu ba, cẩn thận đóng cửa lại rồi leo thang lên nóc nhà (thang nầy phòng bị khi có hỏa hoạn). Tôi mở gói bánh và nhe răng cắn một cái dòn ngọt lịm, rồi nhai ngấu nghiến những trái dâu (berry) chín đỏ. Trong lòng thầm nghĩ: "Chúa ơi! Nếu đây không phải là Niết Bàn thì còn là cái gì nữa chứ?"

Nhưng ngay lúc đó, tôi chợt nhìn về phía cầu thang treo, bổng thấy có người đang leo lên. Tôi hốt hoảng đứng thừ ra trong khi cái miệng đang ngồn ngào đầy cả bánh. Nơi nầy thiệt tình là chẳng có lối nào để tôi trốn thoát cả. Người đó lại chính là Sư Phụ! Tôi đứng bất động một lúc, đầu óc như muốn nổ tung. Rồi tôi bắt đầu đi vòng quanh trên sân thượng, ra vẻ như đang tập trung trong pháp quán thiền hành. Và Sư Phụ cũng làm vậy, cũng đi vòng vòng như đang tập trung quán tưởng thiền hành, nhưng lại đi ngược chiều với tôi. Chúng tôi đi ngang qua nhau hai lần mà không ai nhìn đến ai cả. Ðến vòng thứ ba khi tôi nhìn lên thì thấy Sư Phụ nhăn răng cười trừ như con mèo Cheshire. Rồi Ngài chỉ nói bốn chữ: "Sao nó thế nào?"

Thật là quá xá đủ rồi! Tôi biết là không có cách gì hơn chỉ ngoại trừ do những năng lực thần thông, ông Già mới có thể biết rằng tôi đang ở trên đây thôi. Sau đó vì tức cười quá nên chúng tôi đồng phát cười vang, cười luôn cho tất cả sự vật của thế giới vô tận nầy. Rồi Sư Phụ bỏ đi để tôi ăn hết cái bánh.

Ðó là câu chuyện về cái bánh berry mà Sư Phụ rất thích thú, nên thường bảo tôi kể lại. Bây giờ Ngài lại treo cái bánh khác trước mắt tôi, và chắc chắn chúng tôi sẽ đạt đến mục đích.

Eric Weber (Quả Hồi) lái chiếc Van nhỏ đến, cũng vừa lúc chúng tôi bắt đầu trở ra đường để lạy. Anh ta đem đến mấy đôi giầy cao ống (boot) và một chiếc xe kéo có thể xếp lại, của Sư Phụ gởi cho sư Hằng Do (loại xe nầy người Hoa thường dùng để đi chợ). Tôi lạy được bốn dặm, qua khỏi thành phố Bodega Bay thì chất độc cây Sồi lại bắt đầu hành tôi ngứa ngáy. Ðến chiều tối, khắp người tôi sưng phù lên, có chỗ nứt nẻ và chảy mủ. Chúng tôi phải ngừng lạy và ngồi xuống bên vệ đường. Trời lại bắt đầu mưa.

May thay Quả Ðôn Schweig đến, thấy tôi đang trong tình trạng như vậy nên đề nghị đưa chúng tôi về nhà ở Inverness để dưỡng bệnh một thời gian. Ðến nơi tôi liền đi tắm và xức thuốc khắp toàn thân. Hình như chứng bệnh nầy trông như càng lúc càng tệ hơn trước khi nó chịu bình phục. Hiện chúng tôi đang đóng đô trong nhà xe của Quả Ðôn. Từ biển Thái Bình Dương đang thổi đến một trận bão khốc liệt mà tôi chưa từng thấy qua.

 

Ngày 1 tháng 11 Năm 1973. Hằng Cụ viết:

Chúng tôi vẫn còn ở trong nhà xe. Càng tuyệt vọng hơn vì toàn thân tôi như một khối lớn đầy mụn ban, và tâm tư lại đầy ấp những mối nghi ngờ. Ngoài kia cơn bão vô cùng khủng khiếp. Tôi lo rằng nếu bây giờ dầm mình ra ngoài thì e sẽ bị ướt sũng, rồi lại bị mọi người trợn trừng chỉ trỏ hoặc hỏi những câu mà tôi thật sự không biết làm sao để trả lời.

Lúc tôi còn phục vụ cho tiềm thủy đỉnh trong Hải Quân, cũng có những lúc như vậy. Khi đó tâm tư đầy ấp mối lo sợ chết chìm. Khi tàu ở dưới độ thật sâu, tôi có thể nghe tiếng vỏ tàu kêu rên răng rắc dưới sức ép của biển. Tôi lại tưởng tượng như có một bức tường nước rộng bao la đang tiến đến để nghiền nát mọi người. Và tôi thấy chiếc tàu như vỡ tung ra, rồi chìm xuống dưới lòng biển cả. Về sau, qua mấy tháng suy ngẫm tôi đã không còn sợ hãi nữa. Vì cuối cùng tôi đã tìm ra phương pháp để làm tâm mình an dịu lại.

Trước hết, tôi luôn xem xét kỹ càng để biết chắc công chuyện của mình không có gì sơ sót. Tôi học cách đối phó theo từng dự đoán, và kiểm soát tất cả những sơ hở có thể xảy ra cho mọi người, hoặc máy móc có thể bị hư hỏng. Tôi cố gắng tìm tòi và sắp xếp lại những sơ hở trục trặc trước khi bị chúng hoành hành. Ðúng ra mọi người trên tàu đều phải cảnh giác như vậy cả, vì trong sáu tháng đầu, tất cả chúng tôi đều được học về hệ thống của chiếc tàu, để biết cách đương đầu khi có những trường hợp khẩn cấp. Chúng tôi canh chừng nhau như những con diều hâu vậy! Thật ra, làm chuyện gì mà biết thận trọng, kỹ lưỡng, thì chắc chắn nó sẽ cho kết quả là đa số mọi người đều hài lòng vì cảm thấy được an toàn hơn.

Kế đến là tôi học được cách chuyển hướng những tư tưởng của mình. Khi tàu ngầm đang xuống sâu thì mọi việc coi như suông sẻ, mỗi người có thể thoải mái tự do theo đuổi những ý tưởng riêng tư. Nhưng bầu không khí êm ả nầy hầu như bị tan biến khi chiếc tàu càng xuống độ sâu hơn. Lúc tàu xuống độ sâu nhất (312 feet tức 95 thước, độ sâu nhất mà tàu chúng tôi có thể chịu đựng nổi, nên nó còn có tên là Khối Ðá), thì cũng là lúc sự hiện diện cận kề của chết chóc. Cái chết như treo lơ lửng trong trong bầu không khí ảm đạm, tựa hồ như con rồng đang trầm mình trong đám khói nhang. Trong khi những anh chưa tới phiên trực, thường để tâm vào việc đánh bài, đọc sách, không thì tán dóc hay đi ngủ. Chỉ cần nghĩ sơ sơ đến những tai nạn có thể xảy ra như: hàng trăm xú bắp và những ống dẫn có thể bể tung ra bất cứ lúc nào, hoặc lớp vỏ bằng đồng mạ kền mỏng manh bọc quanh tàu từ hai mươi sáu năm qua, nay đã mục sét, chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ làm người ta sợ rụng rời tan nát cõi lòng rồi. Thật là xấu hổ, vì đối với những anh nhạy cảm hơn, khôn lanh hơn trong đoàn thì lại tỏ vẻ lo sợ hơn hết. Trong khi những anh biếng nhác, khù khờ thì tỉnh bơ, thoải mái hơn nhiều. Có lần tôi chợt nghĩ: Ồ! Ngu ngơ không biết gì cũng có lợi lắm chớ! Nhưng cũng quá trễ rồi, vì tôi đã lỡ chịu cực khổ để ra công học hỏi về những công việc phức tạp của chiếc tàu cũ kỹ nầy. Ðể rồi tôi cũng chỉ biết phòng bị chuyện chết chóc vô chừng có thể xảy ra. Tôi lại biết chỉ cần một chút sơ hở, hay chỉ có một máy móc nào đó bị trục trặc thì cũng đủ đưa bảy mươi người trên tàu xuống dưới mồ nước nầy.

Tuy nhiên, chuyển đổi tư tưởng cũng không phải là rốt ráo. Lướt nhìn về quá khứ hay mơ tưởng đến tương lai chỉ là một lối nhẹ dạ để đối diện đến cái chết của mình. Tốt hơn là trở về với thực tại và tâm tự nhìn thẳng vào sự chết. Khi máy móc được ngưng nghỉ, trong yên lặng tôi thường ngồi dựa lưng vào ghế trong phòng máy và thầm tưởng tượng: "A! đây rồi, cái ống nước nầy có thể bể ra bất cứ lúc nào. Thời quá khứ tôi đã làm nhiều điều không tốt, ước gì tôi đã không phạm những lỗi lầm xấu xa đó, nhưng nay thì đã quá trễ rồi. Nếu có duyên may nào đưa đến giúp tôi thoát qua cơn nguy hiểm sẽ xảy ra như dự đoán, tôi nhất định sẽ thay đổi lối sống và bắt đầu làm việc thiện, giúp đỡ mọi người trong thế giới mê muội nầy. Hiện tại, tôi đã làm hết sức những gì mà tôi có thể làm, nhưng nếu vận số tôi đến lúc phải chết thì cứ để nó đến vậy!" Nghĩ như thế xong, tôi đứng lên làm việc lại như thường. Như trong Kinh Thánh, Job đã diễn tả:

"Phúc báo thay! cho một người đã biết chuẩn bị cái chết đang đến với mình."

Ðâu có gì khó khăn! Tôi đã chuẩn bị một cách đơn giản để ra đi.

 

Ngày 2 Tháng 11 Năm 1973. Hằng Cụ viết:

Chúng tôi vẫn ở trong nhà xe. Tâm tôi cứ nghĩ về sự thối lui (không phải thối chuyển về chuyện tu đạo). Phát tâm tầm giác ngộ là một chuyện, còn giữ vững sự phát tâm đó lại là chuyện khác. Một ngày mà bạn cố tâm hăng hái, nhưng qua ngày sau có việc xảy đến thì bạn bị nó quay mồng mồng thối sụt qua một bên. Như hôm nay tôi đã có ý nghĩ:

"Ơ! Chúng tôi đã lạy được hơn năm mươi dặm rồi (50 miles), và ở xứ Mỹ nầy từ trước đến nay chưa từng có ai làm được như vậy cả, cho nên nếu chúng tôi có bỏ cuộc tại đây thì sẽ không có gì là khác biệt."

Rồi tôi lại hồi tưởng đến tu viện, những cảnh vật mà trước đây tôi cho là tầm thường như mái nhà, tường vách, thiền đường, những bài pháp giảng. Những vọng tưởng đó cứ thay nhau kéo đến lởn vởn trong tâm tư. Hay là tôi có thể chạy trốn vào núi sâu, với túi gạo nầy mình cũng có thể sống sót được tới vài tháng lận!

 

Ngày 3 Tháng 11 Năm 1973. Hằng Cụ viết:

Lại vẫn còn ở đây. Ngứa, ngứa, ngứa, ngứa quá, ngứa quá! Nghĩ chắc là mình phải đi tắm mới được. Hôm nay vọng tưởng lại kéo tôi về chuyện phục vụ tiềm thủy đỉnh và dự định chuyện tái nhập ngũ, nhưng tôi sẽ là ông thầy tu bí mật. Tôi cũng sẽ giống như mọi người, chỉ có khác ở chỗ là tôi sẽ không hút thuốc, nhậu nhẹt, ăn thịt, hay có tánh nóng giận. Tôi sẽ dùng tiền lương của mình để sắm chiếc mô-tô gắn máy Big Norton (motorcycle), rồi mướn một căn phòng nho nhỏ xinh xinh và ... có lý thật...!

 

Ngày 4 Tháng 11 Năm 1973. Hằng Cụ viết:

Hôm nay chúng tôi đã trở ra đường, trời mưa tầm tả. Tuy toàn thân vẫn còn đầy những mụn sưng, nhưng tôi không thể nào ngồi yên được nữa.

Hồi sáng nầy, Quả Ðôn đưa chúng tôi về chỗ cũ, sau khi chăm chỉ lễ lạy được năm dặm thì dựng lều trên bãi biển gần Jenner. Lúc 10 giờ sáng, chúng tôi đi ngang qua cửa sông Russian, là nơi tập trung những giòng nước đầy bùn đổ ra biển Thái Bình Dương. Ðến trưa, Quả Chu Rounds cùng vợ là bà Sue đã chuẩn bị thức ăn trưa cho chúng tôi gồm: canh cà chua nóng hổi, những lát bánh mì trét mứt và bơ đậu phộng (peanut butter and jelly sandwiches). Ở đây chuyện kẹt xe rất hiếm hoi, vì có lẽ một tiếng đồng hồ mới có hai chiếc xe chạy ngang qua. Chiều nay tôi đang trên đường dụng công dưới bầu trời nặng quằng những đám mây đen, như báo hiệu trận bão sắp đến, khi ngước mắt nhìn lên thấy cả một đàn chim hải âu vào khoảng mấy trăm con đang bay lượn. Tôi ngừng lạy, thấy chúng hình như đang biểu diển để tôi xem. Chúng sát cánh nhau thành hàng, bay vút lên trời, rồi tách rời nhau và bay chúi thẳng xuống gần sát đất. Trong tích tắc, chúng lại bay vút lên để bắt đầu cho vòng kế tiếp. Chúng xếp thành hình vòng lớn quây tròn giống như bánh xe sanh tử luân hồi vậy! Tôi đứng ngắm nhìn cũng mất vài phút, hình như bọn chúng đang nhắn nhủ: "Bạn hãy hăng hái tinh thần lên! Hãy tiến bước lên!"

 

Ngày 5 Tháng 11 Năm 1973. Hằng Do viết:

Tối qua chúng tôi dựng lều mới trên bãi biển, nhưng khi trời gần sáng thì giựt mình thức giấc vì cơn gió hú từ vịnh Sonoma. Tấm lều dường như bị gió cuốn thổi đi. Mới tối hôm qua nước biển vùng Thái Bình Dương còn dịu dàng mơn trớn cát, vậy mà bây giờ nó trở nên hung tợn, giận dữ chuyển mình nổi sóng. Những lợn sóng lớn dập dồn tràn đến sát bên lều, chỉ còn cách độ mười bước, nên chúng tôi vội vã thu dọn lều chõng, trong khi cơn mưa đang trút xuống tầm tả. Dù vậy chúng tôi cũng ráng chầm chậm khởi hành. Hoàn cảnh như vầy thật khó mà tiến bước, nên chỉ được vài dặm sau đó thì chúng tôi quyết định ngừng nghỉ đợi qua cơn mưa. Gần bên con lộ thấy có nhà xe trông giống như đã bị bỏ hoang nên chúng tôi tấp vào. Thầy Hằng Cụ có ý kiến rất hay, bèn lôi ra một túi đồ để trước nhà xe làm dấu hiệu để nếu ai muốn tìm chúng tôi thì sẽ biết chỗ mà đến. Ðồ ướt được treo lên nhưng vì không khí quá ẩm nên chúng chỉ treo lòng thòng, ủ rũ chẳng khô chút nào.

Sau đó, trong lúc chúng tôi đang tọa thiền, nghe có tiếng xe ngừng phía trước. Lúc đó bao nhiêu thiền định của tôi hình như đang dọn đường cho tiếng mừng reo hớn hở trong lòng, thầm đoán có lẽ mình sẽ được một bữa ăn nóng do gia đình Quả Ðôn cúng dường. Nhưng có ngờ đâu! chỉ vì cái túi đồ để phía trước, đã khiến cho chủ nhà xe và ông cảnh sát ở quận chú ý. Cũng may là họ đã nghe tin về chúng tôi rồi. Và bà chủ Michell vốn là chuyên viên mua bán địa ốc, đã đưa chúng tôi đến một tiệm giặt để sấy khô đồ đạc. Bà càng tỏ vẻ ngạc nhiên hơn khi nghe về mục đích và cách thức của chuyến bái hương, rồi lộ vẻ hơi tức cười khi thấy chúng tôi hiện đang trong hoàn cảnh ướt át như vầy. Bà có ý khuyên nên dừng chuyến du hành, đợi đến mùa xuân trời sẽ ít mưa hơn. Thêm một ngày cố gắng trôi qua, chúng tôi dựng trại ở Jenner. Tuy căn nhà tạm trú là một chuồng bò dột nát, nhưng ít ra chúng tôi cũng tránh được những cơn gió táp.

 

Ngày 6 Tháng 11 Năm 1973. Hằng Do viết:

Trời vẫn đổ mưa, nên chuồng bò cũ kỹ bị dột ướt khắp nơi. Hôm nay chúng tôi lạy qua khỏi vùng Jenner, nơi nầy lưa thưa chỉ có mấy căn nhà nghỉ mát và một tiệm tạp hóa nhỏ. Vài cặp mắt mũi đang dí sát vào kiếng cửa sổ. Có con chó đi theo chúng tôi suốt khoảng đường đầy ảm đạm. Ngoài vấn đề thời tiết, thì hầu như không có chuyện gì xảy ra cả. A! Về vấn đề thời tiết. Có lẽ thời tiết bên trong quan trọng hơn thời tiết bên ngoài thường là những đám mây, những cơn gió, hoặc mấy trận mưa thôi. Thật ra khí tiết tâm tánh con người có nhiều ảnh hưởng liên quan về nội tâm hơn là về ngoại cảnh. Những cơn bão của tham, sân, si mà trong Phật giáo gọi chúng là Tam Ðộc, lại có quyền năng rộng lớn ví như có thể che lấp cả trí huệ cố hữu vốn trong sáng như ánh thái dương của chúng ta. Tất cả năng lực không đáng chấp nhận nầy chỉ nhằm tập trung vào sự thấy có một cái Ngã đang tồn tại trên một "thế giới." Bản lai vốn không có ngã và cũng không có thế giới, vậy mà chúng ta cứ để phí bao nhiêu sức lực để phục vụ cho lòng tham, mà lòng tham nầy giống như ngọn lửa hung hãn dữ dằn. Mỗi lần chúng ta bị lòng tham áp đảo là mỗi lần như đổ thêm dầu vào ngọn lửa. Sân phát lên khi chúng ta không đạt được điều mình mong muốn. Si lừa phỉnh bằng cách làm chúng ta biết và hiểu những điều mà thật ra chúng ta không hiểu không biết. Vậy nếu chúng ta có thể tăng cường được sự kiểm soát khí tiết ở nội tâm thì có xá chi đến mưa sa, sương mù hay những trận gió bão bên ngoài. Coi chúng chỉ như là trò chơi trẻ con thôi. Trong khi chúng tôi ráng ghi nhận trong tâm những điều nầy thì ngoài kia cơn mưa vẫn đổ xuống ồ ạt.

Hôm nay chúng tôi lạy được khoảng ba dặm dọc theo bờ dốc cao đầy gió lốc.

 

Ngày 7 Tháng 11 Năm 1973. Hằng Do viết:

Không giống như khuôn khổ thời tiết của trời đất là chúng ta chẳng thể làm gì được. Còn đối với thời tiết của nội tâm thì chúng ta có thể kiểm soát đến mức độ tối đa. Nhưng trước hết, chúng ta phải có ý muốn xoay nhìn vào trong và ý thức rằng khí tiết nội tâm có lẽ sẽ không theo như ý mình muốn. Ví như khó mà thừa nhận được cái sân giận thường là căn gốc của hành động, nhưng đợi đến khi chúng ta hiểu ra, thì cái khí tiết sân giận đó có thể vẫn không tiêu hết. Vì vậy chúng ta phải từ từ xoay nhìn trở vào nội tâm, thêm vào sự quán sát bằng thái độ thật đúng đắn. Những giới đức do đức Phật đặt ra nhằm hướng dẫn chúng ta cách sinh hoạt trong đời sống hàng ngày, cũng như trong những hoàn cảnh đặc biệt. Thâm nhập được những tánh đức nầy tức là chúng ta đã giảm dần được sự ham muốn và cuối cùng sẽ loại bỏ chúng ra. Khi dục vọng không còn thì tham muốn cũng tiêu tan. Thay vì những khí lực mà chúng ta thường phung phí cho cơn nóng giận hoặc hận thù, thì nay có thể đem nó thực tập về định lực.

Ðịnh lực có được mở mang thì mới có khả năng chịu đựng được bộ mặt khiêu khích, sỉ nhục hay thời tiết xấu. Hơn nữa, định lực lại là chìa khóa khai mở trí tuệ sẵn có, để rồi từ từ làm sáng tỏ cái vô minh u ám. Cho nên nhằm tăng trưởng dần sự kiểm soát khí tiết nội tâm, chúng ta phải hồi quang phản chiếu và phát triển Giới, Ðịnh, Huệ. Như vậy mới dứt được Tham, Sân, Si. Dĩ nhiên học thì dễ nhưng thực hành mới là rất khó.

Căn cứ theo bảng ghi cây số treo dọc theo cống nước và mấy cây cầu, thì hôm nay Thầy Hằng Cụ lạy được hơn ba dặm.

 

Ngày 8 Tháng 11 Năm 1973. Hằng Do viết:

Chúng tôi có ý đi theo lộ trình nội địa để tránh bớt bị dầm mưa, nhưng sau đó lại đồng lòng là tốt hơn cứ đi dọc theo bờ biển. Nhận thấy tiến trình trong mấy ngày qua không mấy gì tăng tiến, nên chúng tôi quyết chí sẽ nỗ lực thêm, chỉ ngừng nghỉ khi nào thời tiết quá xấu thôi.

Lề đường dọc trên Xa Lộ Một, hầu như không có lối đi. Chúng tôi phải can đảm lắm mới có thể phủ phục quỳ lạy, khi chỉ cách vài gang tấc từ những chiếc xe vận tải chở hàng ngàn tấn gỗ vội vã chạy vụt qua. Lúc đầu tôi tưởng mấy anh tài xế cố ý chạy gần để đụng, vì đối với họ chúng tôi như hai đứa khùng đang cản trở sự lưu thông. Nhưng về sau tôi mới hiểu, thường là phải vậy thôi, họ không làm sao khác hơn để tránh những chiếc xe đang ngược chiều cũng chạy sát gần bên. Con đường không đủ rộng để cùng một lúc chứa vừa cho hai chiếc xe, lại vừa có chỗ cho một ông Tỳ Kheo quỳ lạy. Cho nên nhiều khi chúng tôi phải tuột xuống lộ để tránh ra xa, khi thấy có nhiều xe đang ào ào chạy tới.

Qua cảnh nầy khiến tôi nhớ đến câu chuyện về Hòa Thượng Hư Vân. Trong chuyến bái hương có lần Ngài gặp một vị Tỳ Kheo đang đắp sửa con đường, mà lối nầy có rất nhiều Phật tử thường hay hành hương ngang qua. Vị sư quyết tâm bền chí lo sửa sang, gìn giữ con đường luôn được bền tốt, nên ngày ngày Sư lo khiêng lót những hòn đá, những lớp cát v. v... để tu bổ mà chẳng một lời đòi hỏi gì riêng cho Sư cả. Lúc đó Sư đã hơn tám mươi tuổi, đã làm việc không ngừng nghỉ cho con đường nầy hơn bốn mươi năm qua. Làm việc vất vả để đem lợi ích cho chúng sanh mà chẳng màng đến sự đền bù báo đáp thì quả thật là hạnh vô ngã của Bồ Tát.

Chúng tôi cắm lều trên một sườn đồi có những con cừu đang nhai cỏ. Mấy lúc mưa gió tạm cơn trút nước, nghe văng vẳng từ phía dưới vọng lên những tiếng sóng biển đập mạnh liên hồi vào ghềnh đá. Những khi nhớ lại câu chuyện vị Sư già sửa đường, tôi cảm thấy bao mệt mỏi trong ngày lại dịu bớt đi.

 

Ngày 9 Tháng 11 Năm 1973. Hằng Do viết:

Có ông lái chiếc cam nhông trắng chạy rà rà theo quan sát chúng tôi lễ lạy, rồi bỏ đi. Nhưng sau đó ông vòng trở lại và chạy thẳng về phía tôi. Lúc đó Thầy Hằng Cụ đang lạy phía trước. Tấp xe vào lề đường, anh tài xế khoảng ba mươi tuổi, tắt máy, bước xuống khỏi xe. Tôi thường có ý nhạy cảm phớt qua trước những lời đối thoại đầu tiên, hoặc là trước khi chạm mặt với bạn thân thiện hay thù nghịch.

Anh nầy xã giao: "Chào ông! Cảm phiền ông xin cho tôi hỏi một câu được không?"

Anh có vẻ thích thú chuyến du hành của chúng tôi, vì anh sẵn sàng chịu lạnh đứng dưới cơn mưa phùn lất phất để trò chuyện.

Trong lúc đối thoại, anh tỏ vẻ ngạc nhiên về nhiều chuyện, nhất là khi biết rằng Chùa Kim Sơn đang tọa lạc ngay trung tâm thành phố San Francisco. Anh nói:

"Tôi không hiểu tại sao các ông không chịu rời bỏ cái thành phố ô nhiễm, ồn ào đầy dẫy những tội ác đó đi. Tôi tin chắc là các ông đã từng đi ngang qua những vùng ngoại ô êm đềm xinh xắn quanh đây, vì đó mới chính là chỗ lý tưởng để lập tu viện mà."

Anh nói cũng có cái lý, tôi lại thầm nghĩ: Chúng tôi đã đi qua gần một trăm dặm trên xa lộ ngoằn ngoèo dọc bên bờ dốc Thái Bình Dương, đã từng chứng kiến dù ngay cả trong cơn mưa tầm tả, vẻ đẹp thiên nhiên cũng hiện thấy rõ. Lắm lúc huyền bí thật thắm thía. Như mưa có thể biến chuyển khói từ xe cộ thành cầu vòng lóng lánh, lại có thể tưới nhuần cây cỏ khiến chúng vươn cao tươi tốt, và làm những khối tuyết tan, trút chảy ra những con sông vòng quanh các thung lũng. Tuy đã thấy rõ những điều đó, nhưng tôi không mấy gì tán thành về ý kiến của anh nầy. Tôi giải thích như sau: Ở đạo Phật, sự tu tập chỉ cốt nhằm ở tâm địa, chỉ là như vậy thôi! Những gì thuộc về vật chất như thân thể con người thì không thể quan trọng hơn những gì đang xảy ra ở nội tâm. Mục đích tu hành hay dụng công về tín ngưỡng là nhằm quét sạch những chuyện bên ngoài cùng những vọng tưởng đang tuôn chảy như vòi nước ở trong tâm. Công phu tu tập nầy có thể đem áp dụng ở bất cứ nơi đâu và vào bất cứ lúc nào.

Lần nọ có người hỏi Sư Phụ rằng trong khi làm việc văn phòng ngoài xã hội thì ngưng niệm chú, như vậy có thích hợp không? Sư Phụ đáp: Nếu ông làm việc với thái độ đúng đắn thì kết quả cũng giống như ông đang trì chú vậy. Thật ra thiền cũng giống như thế, nếu những tiếng ồn ào của thành phố làm chúng ta cảm thấy phiền phức (sẽ càng thấy rõ hơn khi chúng ta rời xa thành phố), và nếu chúng ta không thể nào tập trung để tọa thiền vì những tiếng động, thì phải học cách vượt qua những tiếng động đó! Nếu sự an tịnh của tâm lại tùy thuộc vào sự yên lặng của cảnh vật chung quanh thì chúng ta vẫn còn "chỗ để trụ vào," đó là một vướng mắc. Chúng ta nên dọn sạch các âm thanh ồn náo, những ô nhiễm, và những tội lỗi chính trong tâm ta, như vậy chúng ta đến bất cứ nơi nào cũng đều là thanh tịnh cả, bởi tại thế gian nầy không gì hơn là sự soi chiếu lại bản tâm của chúng ta mà thôi.

Anh nầy có vẻ chăm chú lắng nghe những điều quý báu có giá trị hiếm hoi như vậy. Rồi anh từ giả với lời chúc may mắn. Sau đó Quả Ðôn lại đến và tìm giúp chúng tôi nhà xe cũ đã đổ nát của xưởng máy ở Timber Cove để nghỉ qua đêm.

 

Ngày 10 Tháng 11 Năm 1973. Hằng Do viết:

Hôm nay nước mưa tuôn xuống như bắn đạn, làm đồ đạc ướt chèm nhẹp. Buổi sáng nầy chúng tôi lạy tới vùng Fort Ross thì Quả Diện mang đến bữa cơm trưa nóng hổi.

Tôi phải từ từ lắm mới tập quen dần với việc vừa đi vừa kéo theo chiếc xe hành lý. Thật lòng mà nói, lúc đầu tôi đã không thích gì mấy cái ý kiến nầy. Tuy nhiên có chiếc xe kéo, nó cũng giúp chúng tôi chở được thêm nhiều đồ đạc, dụng cụ, đi từ tỉnh nầy qua tỉnh khác. Sau khi lạy được bốn dặm, chúng tôi lại trở về nhà xe hoang ở Timber để ngủ thêm một đêm. Cảnh vật nơi đây thật buồn áo não. Mưa gió không dứt hoành hành đã khiến cả tòa nhà trở nên đổ nát tiêu điều. Mấy đống máy móc rỉ sét nằm ngổn ngang khắp nơi, lại thêm một cái vỏ sườn hình nón to lớn nặng nề của cái lò hỏa táng thật là buồn ảm đạm.

 

Ngày 11 tháng 11 Năm 1973. Hằng Do viết:

Sáng hôm nay sư huynh một mình trở lại chỗ hôm qua để lễ lạy, chúng tôi đồng lòng đêm nay cũng sẽ nghỉ đêm ở chỗ cũ. Tôi ở lại treo phơi các đồ ướt, nhưng vì không khí quá ẩm nên chẳng mấy gì khô. Tôi đọc lại những trang nhật ký đã được ghi chép từ buổi đầu đến nay, rồi tọa thiền và lo nghĩ không biết sư huynh mình có chuyện gì không? Sau đó có chiếc xe chạy tới, thì ra vợ chồng Quả Chu Rounds đang giải cứu sư huynh tôi thoát khỏi cơn mưa. Họ cung cấp thức ăn và vài vật dụng thường dùng, có cả bánh sô cô la (chocolate) nữa. Nghe chuyện chúng tôi bị hoạn nạn về vụ lá sồi độc, nên Quả Chu động lòng tặng thêm hai cuồn giấy vệ sinh.

Hôm nay là chủ nhật, con đường đã hẹp lại đông xe hơn ngày thường. Những hố rãnh bên đường đầy những cây sồi độc, và sư huynh tôi ghi thêm được ba dặm rưỡi đường nữa.

 

Ngày 12 Tháng 11 Năm 1973. Hằng Cụ viết:

Ðường xa lộ nầy dẫn xuyên qua dãy núi đá, có những dốc núi lửa cao thẳng sừng sửng hằng trăm feet phía trên bờ biển. Phong cảnh ở đây thật hùng vĩ dễ sợ, và thời tiết cũng vậy. Những ngọn gió bão từ biển thổi ập đến, dĩ nhiên là chúng tôi bị nước mưa ngấm ướt lạnh đến tận xương.

Ðể chuyển hướng một chút cho khuây khỏa, hôm nay chúng tôi đi dạo quanh vùng sườn núi. Nghe lúc trước Quả Diện bảo là cách đây bốn dặm, có một lãnh địa của nhóm dân da đỏ sẽ đón chào chúng tôi. Vì vậy buổi sớm trưa nầy, chúng tôi tạm ngưng lễ lạy để đến tiệm tạp hóa vùng Stewarts Point mua ít vật dụng, rồi tiến thẳng vào nội địa bằng con đường nhỏ ngoằn ngoèo. Trời sụp tối rất nhanh, lại trút xuống cơn mưa hung bạo, như mang đến những con rồng tung quậy lồng lộn. Trời chuyển tối đen như mực, vì ánh trăng đã bị những đám mây nặng nề che phủ, khiến tối đến mức độ bàn tay của mình mà còn chẳng thấy, hà huống gì còn nhìn thấy đường xá. Nước mưa như bắn xối xả hàng triệu viên đạn nước vào chúng tôi. Từng bước ngập ngừng dò dẫm lên núi, trong khi bên trái tôi là dòng suối đang ào ạt tuôn chảy, bên phải là vách núi dốc thẳng sừng sựng. Tôi đi trước, Thầy Hằng Do theo phía sau. Thình lình tôi có cảm giác hình như Thầy không còn theo phía sau tôi nữa, nên tôi đã gào to lên:

"Do!"

Không có tiếng trả lời, nỗi sợ hãi tràn khắp trong tôi.

"Do! Ðệ đâu rồi?"

Chỉ có âm thanh hung hãn của mưa bão cùng tiếng hét nổi cơn của con suối mà thôi. Sau cùng tôi nghe được tiếng của Thầy Hằng Do. Chúng tôi bắt đầu la hú kêu nhau cho đến khi bắt được hướng của âm thanh mới tìm được nhau. Thật ra tôi đã không thấy gì hết, chỉ biết chạy ào đến rồi đụng vào Thầy Hằng Do. Thầy Hằng Do bảo là trong cuộc đời chưa bao giờ sợ hãi như thế vì bị trượt té xuống hố, lại trong đêm tối mù mịt cứ thế mà lăn, lăn mãi xuống tận chân núi mới thôi. Chúng tôi khờ khạo đã bỏ quên cây đèn pin ở chỗ lạy, nhưng cũng đở là có mang theo sợi dây nhỏ. Lần mò một lúc mới cột được lẫn nhau, với khoảng cách mười bước, rồi tiếp tục leo lên. Tôi đi trước, thận trọng từng bước giầy dò dẫm, cọ sát mặt đường. Trong khi sư Hằng Do phía sau luôn chuẩn bị sẵn sàng chụp bắt nếu tôi trợt té qua một bên. Ði ì ạch như thế suốt mấy tiếng đồng hồ, vừa bị lạnh, lại vừa bị ướt và lạc loài ngay trên quả đất mình. Ðã quá xa rồi, không thể nào trở lại được. Chỉ hy vọng là còn tiếp tục được đi thôi. Chúng tôi hoang mang lo ngại không biết mình còn được sống sót qua khỏi cơn hiểm nghèo của chuyến đi nhỏ nhoi nầy hay không nữa.

Trời đã quá nửa đêm rồi. Chúng tôi ngừng lại, mở banh tấm ni-lon rồi ngồi đùn cục vào nhau ngay giữa lộ. Tuy cả hai đều lạnh run và ướt loi ngoi, nhưng cũng ráng thắp sáng được ngọn đèn cầy và mở bản đồ tìm vị trí. Theo bản đồ thì chúng tôi phải đi thêm một dặm nữa, nhưng nếu đi theo kiểu nầy chắc cầu cả đêm mới tới nơi. Bỗng đâu xa xa có ánh đèn nhấp nháy từ phía dưới chân núi. Thì ra có chiếc xe đang chạy tới. Ðó là chiếc cam nhông của ông già dân da đỏ. Chúng tôi được ông chở về, nhưng vùng dân da đỏ nầy lại không cho phép người da trắng xâm nhập vào.

Chẳng làm được gì khác hơn vì quá lạnh lại bị ướt nên chúng tôi đành quày trở lại và đi thẳng xuống núi. Lúc nầy thật là khổ sở, nhưng ánh trăng bắt đầu tỏa chiếu xuyên qua những đám mây, và chúng tôi cũng tìm ra đường trở về vùng Stewarts Point trước khi ánh bình minh xuất hiện. Gặp được dãy nhà (motel) với những phòng ngủ cho mướn đã bỏ hoang, nên chúng tôi lẻn vào. Mặc kệ cái xác mèo chết hôi thối nằm chình ình trên chiếc ghế bành, chúng tôi vẫn cảm thấy như mình đang được ở trong khách sạn Hilton sang trọng.

 

Ngày 13 Tháng 11 Năm 1973. Hằng Do viết:

Sau buổi lễ lạy dưới cơn mưa rào cùng mưa đá, chúng tôi dừng lại ở chuồng trừu để dùng cơm trưa. Từ ngày khởi sự lên đường tính đến nay đã gần một tháng rồi, vậy mà chúng tôi chỉ lạy được hơn một trăm dặm mà thôi. Tối đến, chúng tôi quyết định trả hai đồng rưỡi để mướn phòng ngủ ở ký túc xá Stillwater Cove Resort, chỗ nầy trước đây vốn là ngôi trường cũ kỹ, được xây bằng đá và những cây bách hương chạm khắc. Sau đó chúng tôi nhóm lên ngọn lửa hồng ấm áp bằng cái lò sưởi to lớn. Căn phòng được tô điểm thêm bằng những đồ đạc quần áo, lều bộng phơi máng trên những khúc cây gác ngang trên bàn ghế. Ngọn lửa xì xèo, nổ vang lách tách khiến đồ đạc thật khô ráo. Ngày mai là sinh nhật của đại sư huynh Hằng Cụ. Thật tốt quá, sau một đêm an nghỉ ấm áp, tinh thần chúng tôi lại phấn chấn thêm lên, sẵn sàng bắt đầu cho một ngày mới trong bộ quần áo khô ráo.

Tịnh Thủy (Stillwater) cái tên thật hay, không những nó truyền cho ta một cảm giác an lành của chốn nầy, với những hàng thông cao chót vót hướng ra bờ biển, mà nó còn nhắc tôi nhớ đến câu kệ Sư Phụ vẫn thường ngâm nga:

Tâm tịnh thủy hiện nguyệt.

Nghĩa là:

Tâm lặng, nước hiện bóng trăng.

Tâm chúng ta luôn bị những vọng tưởng, tình cảm, dục niệm làm xáo trộn, như mặt nước bị khuấy động không phản chiếu được gì. Chỉ khi nào tâm ta an tịnh thì mới phản ảnh được ánh trăng, tức Phật tánh của chúng ta đó. Tịnh Thủy Tâm, tức là giữ tâm như mặt nước lặng yên vùng Stillwater Cove.

 

Ngày 14 Tháng 11 Năm 1973. Hằng Do viết:

Mấy ngày qua lòng tôi như có một cảm giác đang lớn dần, chỉ sau lần kinh nghiệm trong mấy tiếng sờ soạng, ướt át trong đêm tối, trên đường núi vùng dân da đỏ, cũng đủ rõ cho tôi diễn tả.

Ðó không phải là sự xúc động, cũng không phải là kết luận về triết học, mà hơn thế nữa, tôi cảm thấy nó sâu sắc hơn so với mức độ hoạt động thường ngày. Hay nhất có thể gọi đó là "Sự biết", nó không có những chi tiết tạp nhạp, không một sự việc gì, mà là một cảm giác bất chấp tất cả để xác thực chắc chắn rằng chúng tôi sẽ hoàn toàn thành công trong chuyến bái hương nầy. Từ đây sẽ không còn thắc mắc gì về chuyện chúng tôi có vượt qua nổi hay không nổi, mà chỉ với câu hỏi làm sao đối phó khi có vấn đề đặc biệt xảy đến, và sẽ phản ứng thế nào đối với những chuyện xảy ra trong những ngày sắp tới.

Chúng tôi lạy qua khỏi vùng Stewarts Point, rồi nghỉ qua đêm trong một cái chòi cũ. Cứ vài phút là có chuột chạy ngang qua mình Thầy Hằng Cụ, khiến Sư huynh tôi giựt mình thức giấc cả đêm.

 

Ngày 15 Tháng 11 Năm 1973. Hằng Cụ viết:

Trời lại đổ mưa. Theo trên bản đồ thì xa lộ chạy dài dọc theo bờ biển có đến hơn tám mươi dặm nữa, nó sẽ uốn cong vào nội địa Rock Port. Thỉnh thoảng mới có một căn nhà, còn chung quanh đây hầu như là những dãy đồi xanh mướt và dĩ nhiên cả biển nữa. Xe cộ chỉ lưa thưa không mấy gì nhiều.

Chiều nay tôi lạy qua Sea Ranch, một cộng đồng vùng biển đang phát triển. Có hàng chục căn nhà được xây lên bằng những vật dụng thiên nhiên trên những khoảnh đất cách đều nhau, khiến phong cảnh trông rất đẹp. Trong lúc Thầy Hằng Do đi trước tìm chỗ cắm lều, có chiếc xe Ford cũ chạy tới rồi đạp thắng ngừng ken két bên tôi. Trong xe có năm ông đã say mèm. Tôi vẫn tiếp tục lạy, chí tâm thầm niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát như lời Sư Phụ thường dạy. Song tôi vẫn cảm thấy phần thận tuyến tố trong người như đang ra sức bơm mạnh lên, đồng thời toàn bộ các cơ quan trong cơ thể như sẵn sàng chuyển mình vào cuộc chiến. Nhưng sau đó tôi lại nhớ đến bài thơ mà Sư Phụ thỉnh thoảng có nhắc đến:

Ðạo cao nhất xích, ma cao nhất trượng

Ðạo cao nhất trượng, ma tại đầu thượng.

Nghĩa là:

Ðạo cao một gang, ma cao một tầm

Ðạo cao một tầm, ma trên đầu ta.

Chiếc xe cứ chạy rà rà bên tôi, trong khi mấy ông say chồm ra cửa xe la lối những lời thô tục. Khoảng vài phút, không thấy tôi có phản ứng gì nên xe ngừng hẳn, rồi một ông bước ra khỏi xe, bắt đầu đi theo phía sau tôi. Không biết là ông ta có muốn đá tôi không nữa, vì ông có vẻ đã say lết bết, miệng thì la lối om sòm:

"Ê! Mầy đang bày cái trò khỉ gì vậy? Mầy nghĩ nó tốt cái....gì mà làm như vậy hả?"

Chẳng thèm để ý chi đến hắn, tôi chỉ lo chăm chú quan sát tâm mình. Thật ra lúc đó tôi không cảm thấy sợ sệt gì, mà cũng chẳng giận hờn chi và tâm rất tập trung. Pháp nầy thật hiệu nghiệm!

Vài phút sau, tôi biết là ông ta đang dịu dần và ông nói:

"Ê! Mà ông làm gì vậy chớ? Ông đã làm như vậy được bao lâu rồi?"

Cuối cùng tôi cũng phải ngừng lạy và đứng lên từ từ đi về phía ông ta.

Tôi trả lời với thái độ bình tĩnh, thân mật. Thấy dáng điệu ông ta từ một kẻ say sưa cao ngạo, trong phút chốc đã trở thành một người đàng hoàng, tỉnh rượu hẳn ra. Thật ra hắn ta cũng có vẻ là người tốt chớ. Sau mấy phút trò chuyện, ông trở lại phía xe đậu với mấy người bạn đang nao nức chờ đợi kết quả. Khi xe chạy ngang qua, tôi nghe giọng nói như muốn hét to:

"Một trăm dặm à? Mãi tận từ San Francisco ư?"

Lúc sự việc đang diễn biến, có một bà trên chiếc Volkswagen cũng đang chú ý và định sẵn sàng xen vào can thiệp nếu thấy có chuyện bị áp bức hay bạo động xảy ra. Sau đó bà chạy trờ tới và tự giới thiệu là Judy Bruff, là giáo đồ thuộc phái Tân Giáo Quaker ở Anh Quốc, hiện sống trên đồi. Bà nói ở vùng Sea Ranch nầy không cắm trại được vì toàn là đất của tư nhân, nên mời chúng tôi về nhà nghỉ qua đêm, riêng Bà sẽ đến tá túc với người thân.

 

Ngày 16 Tháng 11 Năm 1973. Hằng Do viết:

Qua khỏi ranh giới quận Sonama Mendocino, khi trên đường về phía Gualala, một ông chạy xe kiểu đời mới rà tấp vào lề, chăm chú nhìn Thầy Hằng Cụ lạy. Ông chạy rề rề theo để có thể quan sát thêm. Nhưng sau đó ông ngừng hẳn bên lề chờ tôi đi tới. Ông nầy độ khoảng năm mươi, tóc hai bên màng tang đã điểm bạc. Trong bộ quần áo tươm tất, qua tư cách, trông ông như một thương gia phát đạt.

Với thái độ dè dặt hỏi: "Xin lỗi cho tôi hỏi, anh bạn của ông đang làm gì vậy?"

Tôi giải thích ngắn gọn về chuyến bái hương, và trả lời quả quyết sẽ thành công khi ông thắc mắc nghi ngờ không biết chúng tôi có làm nổi hay không.

Ông lại hỏi: "Mấy ông có còn cách nào khác để cũng có thể diễn đạt giống hệt nguyện vọng này không? Có nghĩa là tại sao các ông lại tự hành hạ khổ sở đến như vậy?"

Sư Huynh tôi vẫn tiếp tục lạy không ngừng nghỉ, đôi giầy và bao tay Thầy chà sát mặt lộ, khiến vang lên những tiếng sột soạt như để nhấn mạnh thêm câu hỏi của ông nầy.

Tôi đáp: Ðau khổ hay vui sướng chỉ là những danh từ đơn giản, quan trọng là ở cái nhìn của ông về cảnh giới. Ví như nếu ông đeo kính đỏ thì thế giới hiện rõ cảnh tươi thắm hồng hào. Nếu ông nghĩ những hành động có tác dụng đưa đến đau khổ thì sẽ thấy khổ đau. Riêng tôi không nghĩ việc mình đang làm là đau khổ, dù đã từng bị ướt ngoi ngóp dưới cơn mưa, vì đó chỉ là bị ướt mà thôi. Tôi tiếp với câu thơ mà Sư Phụ thường dùng để giải thích rất thấm thía:

Thọ khổ tức thị liễu khổ, hưởng phước tức thị liễu phước.

Nghĩa là:

Chịu khổ thì dứt khổ, hưởng phước thì hết phước.

Tôi định sẽ giải thích thêm về ý nghĩa mấy câu thơ, dẫn chứng đến nghiệp lực và luật nhân quả, và cũng để trả lời thắc mắc của ông. Nhưng ông ta liếc mắt nhìn quanh rồi ngắt lời xin lỗi và cám ơn. Ông bảo là rất vui khi được trò chuyện với tôi, rồi lên xe chạy tuốt.

Có lẽ tôi đã nói gì làm đụng chạm đến ông chăng! Hay là ông đã nghe đủ những gì ông muốn biết! Hoặc ông chợt nhớ ra cái hẹn gì đó! Tôi bắt đầu hiểu ra rằng con người cũng giống như cái bình đựng nước. Có cái chứa được nhiều, có cái thì chứa rất ít. Một khi cái bình đựng gần đầy thì người ta cảm thấy tinh thần bất an, đến khi cái bình bắt đầu đầy tràn thì thường cũng là lúc họ thay đổi cuộc đời. Chúng ta nắm giữ được bao nhiêu tức cũng có thể trực tiếp xả ra bấy nhiêu. Ðến khi bạn đã buông bỏ hết thì bạn sẽ được tất cả.

 

Ngày 17 Tháng 11 Năm 1973. Hằng Cụ viết:

Một trận bão ác liệt khác lại đổ ập xuống, chúng tôi phải dò dẫm từng bước một dọc theo những bờ dốc. Mưa trút xuống xối xả lúc chúng tôi đi ngang qua khu phố Gualala. Ðường xá vắng vẻ, không một bóng người. Nhưng khi đi ngang qua căn nhà màu vàng về hướng nam khu phố, có anh chạy ra tự giới thiệu là Greg, mời vào nhà. Chúng tôi từ chối vì muốn tiếp tục lễ lạy. Anh ta hứa hẹn đến tối sẽ trở lại rước chúng tôi. Vừa vào đến vùng Anchor Bay, sau bốn dặm dầm mình lễ lạy dưới cơn mưa tầm tả, một ông từ quán rượu duy nhất trong vùng đã chạy ào đến, một tay vừa chùi bọt bia dính cằm, một tay đưa cho Thầy Hằng Do hai đồng và nói:

"Ông cũng phải ăn chứ, phải không?" Rồi chạy trở về quán rượu còn nói như hét vọng lại từ phía cửa tiệm: "Nếu ông cám ơn tôi, tức là ông điên đó!"

Chiều tối anh Greg dùng chiếc cam nhông chở chúng tôi và luôn cả chiếc xe kéo về nhà anh. Cơn bão làm cúp điện, nên trong nhà phải thắp đèn cầy. Anh vốn độc thân nhưng hiện sống chung với cô bạn gái. Cô nầy phụ nấu nướng và đang nghiên cứu môn Chiêm Tinh Thuật. Tôi nhận ra cô nầy trước đây vốn là bạn gái của anh họ tôi, Mike Kenedy ở Seattle, chúng tôi đã từng sống chung trong một cộng đồng gần vùng núi Rainier. Thật là một sự trùng hợp lạ kỳ! Chúng tôi trò chuyện được một lúc, nhưng thấy câu chuyện bắt đầu hơi xa đề về những chuyện thị phi nên chúng tôi về phòng để tọa thiền. Sáng hôm sau anh Greg đích thân pha nước sô cô la nóng (chocolate) mời chúng tôi dùng và còn đưa về địa điểm cũ.

 

Ngày 18 Tháng 11 Năm 1973. Hằng Cụ viết:

Lễ lạy dưới cơn mưa cũng giống như đang mặc bộ đồ nhái lặn xuống biển vậy. Nhẹ nhàng như trong thế giới mộng trầm, là nơi bạn tạm thời được tự do không gì ràng buộc. Nơi đây lại có một thế giới khác hầu như đang quét sạch tất cả những ý niệm. Ở đây không có gì là thế giới, không hòa bình, không xung đột, không phóng thích, không nô lệ. Vì đây là nơi vô sở trụ. Thật không ai biết đến nó thì làm gì có được nó chớ! Tất cả những gì đang trông thấy đều không thực thể, không có tánh chất riêng biệt. Những gì được nhìn thấy rồi chúng cũng mờ dần như những giấc mơ ngày hôm trước. Chẳng có gì để vương vấn cả. Cũng như con đường nầy, việc tương lai luôn chờ phía trước, và những công đức thời quá khứ đã để lại phía sau. Hiện tại chúng tôi không có gì cả, nhưng ngay cái không đó lại có một cái gì huyền diệu!

Chiều nay lúc gần kết thúc buổi lạy - thật ra là buổi lạy chót trong ngày - vừa lúc tôi nhìn lên thấy có chiếc xe nâu đỏ sậm Mercury đang tống ga chạy ào về phía chúng tôi, với mấy cánh tay và những cái đầu say thò ra cửa sổ. Có lẽ xe nầy đang chạy với tốc độ ít nhất cũng cả trăm cây số một giờ. Bỗng có lon bia còn nguyên bay phớt ngang đầu tôi, chỉ cách trong phân tấc, rồi rơi xuống đất nổ banh, văng tung tóe vào mình sư Do. Nếu ai bị trúng lon bia nầy chắc phải bỏ mạng liền. Chúng tôi vội vã vào rừng cắm trại. Sau khi an ổn ngồi uống trà, tôi mới bắt đầu nhận ra là mình đã gần với tử thần trong tích tắc.

Qua chuyện nầy khiến tôi nhớ lại lời Sư Phụ như đã báo trước trong lần điện thoại với chúng tôi gần đây: "Trong chuyến du hành, nếu chúng con thành tâm và thanh tịnh giữ giới thì chư Phật, chư Bồ Tát mười phương cùng các vị Trời, Rồng sẽ đến bảo hộ,không ai có thể hãm hại được các con đâu!"

 

Ngày 19 Tháng 11 Năm 1973. Hằng Cụ viết:

Hôm nay Quả Ðôn Schweig lại đến. Có lẽ anh đã lái hơn chín mươi dặm đường để đem đến cho chúng tôi chẳng những một bữa ăn quân bình, mà còn có nước nóng, khăn, vớ khô, và dĩ nhiên có cả hộp bơ đậu phộng hiệu Deaf Smith nữa.

Theo lời báo cáo của dân trong vùng, nên ông cảnh sát quận Mendocino đến chặn chúng tôi lại để chất vấn. Sau một tua gọi máy điều tra, nhưng vì không tìm ra lý do nào để bắt nhốt. Cuối cùng ông bỏ đi, lắc đầu ra vẻ như nói rằng chúng tôi quả thật là một lũ khùng nặng.

Chúng tôi ngừng lạy lúc đến gần vùng Point Arena vì gặp cô Jo Ann, bạn Quả Ðôn. Cô nầy có tiệm bán thức ăn chay dinh dưỡng. Cô đã dọn riêng một phòng để chúng tôi nghỉ qua đêm. Kiểm tính lại thì chúng tôi đã qua được một trăm ba mươi dặm đường rồi.

 

Ngày 20 Tháng 11 Năm 1973. Hằng Cụ viết:

Chúng tôi tiến về phía bắc theo con đường chánh của quận Point Arena, ngang qua nhiều cửa tiệm, dọc theo các rãnh nước phía hai bên đường. Sau năm dặm hăng say lễ lạy, chúng tôi đến vùng Manchester thì tìm được căn nhà hoang với những cửa kiếng bể nát và những nhánh dây berry đen leo giăng đầy mấy căn phòng bẩn thỉu. Ðúng ra nhà nầy cũng không đáng là chỗ để nuôi heo, nhưng đối với chúng tôi nó như là một tòa lâu đài vậy.

Sau một ngày dài lễ lạy, tôi thật trông mong mau tới buổi tọa thiền tối. Mỗi ngày dù ở trong lều, chuồng nuôi súc vật, trên bãi biển, ngoài đồng ruộng, hay trên đỉnh đồi: dù ở bất cứ nơi nào, chúng tôi đều luôn hành thiền. Trong bộ áo quần ấm áp, phủ tấm mền trên chân, chúng tôi ngồi thẳng và tỉnh giác trong lúc khí huyết tự do lưu chuyển. Với tư thế kiết già, thời gian ngồi như đốt tàn một cây nhang Ố khoảng một tiếng Ố Sau đó chúng tôi được phục hồi, tỉnh táo, khỏe khoắn và tinh thần tập trung hơn. Buổi thiền nầy như một phần thưởng đáng giá cho một ngày tiêu hao vất vả. Nó xoa dịu đau nhức, giúp tâm an định lại và san bằng những sự phân biệt. Trong sự trầm tĩnh huyền dịu lúc tọa thiền, chúng tôi nhận rõ cuộc sống nhỏ bé của mình giống như một giấc mơ và tất cả những phiền hà đều được giải trừ, giống như con đường ngoằn ngoèo ướt át bị bỏ lại sau lưng. Hành thiền là để trở thành "Ðạo nhân vô tâm," danh từ mà người Hoa vẫn thường dùng trong thiền môn. Một khi tâm không còn gì để chấp trước, không dính mắc thì sẽ được tất cả. Dù trong trạng huống nào đi nữa, cũng không bao giờ mất đi lợi điểm của mình. Ta luôn cảm thấy hòa hợp với mọi duyên cảnh, không ôm giữ hay vói bắt theo đuổi chi. Xem tất cả những gì hiện có, chỉ như giấc mơ, như hư ảo, nhờ vậy giúp tâm ta không bị vướng mắc, không chướng ngại và giải thoát. Ðược vậy thì ai có thể trói buộc được ta?

 

Ngày 21 Tháng 11 Năm 1973. Hằng Do viết:

"Ðọc xong vạn cuốn sách, bạn nên đi vạn dặm đường." Ðây là một trong những câu tục ngữ căn bản rất quan trọng đã được người Hoa thời xưa khởi xướng. "Mười ngàn cuốn sách" ý nói tinh thần học hỏi về lý thuyết và kinh nghiệm của người khác. Trong khi "mười ngàn dặm đường" ám chỉ do thực hành mà có, và những kinh nghiệm thực sự của chính mình. Câu châm ngôn nầy có nghĩa là người tu đạo nên chú ý đến cả hai, lý thuyết và thực hành. Bạn nên nhận rõ tầm quan trọng về mối liên hệ hỗ tương của chúng. Ðọc mười ngàn cuốn sách là để nghiên cứu, học hỏi giáo lý Phật Pháp như: Kinh, Luật, Luận, vốn được bàn luận bao gồm cả về Giới, Ðịnh, Huệ. Nhưng hiểu mà không thực hành là không thực sự hiểu, còn hành mà không hiểu là vô ích. Nếu chúng ta có thật hiểu biết thì mới có thể áp dụng cái hiểu đó, vì những kiến thức hiểu biết là để thực hành và những thực hành nầy sẽ luôn chánh đáng.

Một trong những thành quả của chuyến du hành nầy là cơ hội để thực sự đi khoảng đường của mười ngàn dặm, sau khi đã đọc xong một ít sách trong số mười ngàn quyển sách. Khi nào chuyến đi viên mãn thì cũng là lúc kiến thức trong những cuốn sách sẽ được đem ra sử dụng tốt hơn, đồng thời sẽ rõ thấu hơn những danh từ căn bản trong những cuốn sách đó. Chẳng hạn như trong chuyến đi nầy, chúng tôi càng ý thức rõ ràng hơn là dù thế nào cũng không nên để cơ hội tốt nầy vuột khỏi tầm tay, nếu không chúng tôi sẽ tự mình tìm đọc mười ngàn cuốn sách sai lầm, để rồi đi theo mười ngàn dặm đường lầm lẫn.

 

Ngày 22 Tháng 11 Năm 1973. Hằng Cụ viết:

Hôm nay là ngày lễ Tạ Ơn (Thanksgiving), Quả Ðôn và gia đình Quả Dung Epstein hội tụ đến với chúng tôi ở công viên bên đường. Sau đó chúng tôi có một bữa ăn thật ngon, nó còn ngon hơn những bữa ăn thuở xưa khi tôi còn ăn thịt, cá, trứng, hành tỏi nữa. Nhưng hôm nay theo phong tục thường lệ thì hầu hết mọi người chắc đang ăn thịt gà tây (turkey) vậy. Thế nên sau bữa ăn chúng tôi chia sẻ với mọi người bằng câu chuyện như sau:

Mấy năm về trước, khi tôi vẫn còn là cư sĩ tại gia và chúng tôi đang lo chuẩn bị buổi lễ phóng sanh. Trong dịp lễ hàng năm nầy, nhiều Phật tử mua những con vật sắp bị làm thịt, đem đến chùa, rồi sau buổi lễ được tụng chú, chúng nó sẽ được phóng sanh ở vùng đồng ruộng. Nhưng đặc biệt là năm đó tôi và Quả Quy Nicholson quyết định lái xe về miền nam San Francisco, xa năm mươi dặm để mua hai mươi mốt con bồ câu. Những chim nầy đang sắp bị dùng như mồi sống làm mục tiêu cho hội săn bắn bằng súng. Tôi lái chiếc Chevrolet đời 1951, chạy xuống tận vùng biển vào buổi chiều thứ bảy thật đẹp trời, đó là lần đầu tiên chúng tôi rời chùa sau mấy tuần lễ tu học. Lúc ở chỗ bắn súng, chúng tôi biết rõ là không có cách nào để chở hết mấy con chim nầy, nhưng ông chủ bán chim đã dồn nhét hết chúng vào một cái bao bố và nói rằng trong một thời gian ngắn chúng sẽ "không sao đâu!" Trên đường trở về chùa, trời cũng đã xế chiều và nếu chúng tôi chạy thẳng về một mạch thì có lẽ mọi chuyện sẽ "không sao đâu!" Nhưng chúng tôi đã không làm như vậy, vì đã bị lòng tham phục kích khi đang chạy ngang qua tiệm thực phẩm La Honda.

Thông thường tôi và Quả Quy đều không ăn chiều như những người khác tại tu viện, vì kiêng cữ như vậy sẽ giúp cho việc tọa thiền có kết quả tốt hơn. Nhưng khi nhìn thấy tiệm nầy, chúng tôi cầm lòng không đặng nên đã phá luật. Sau khi ăn ngấu nghiến mấy cân phô-mát (cheese), bánh ngọt (donut), nước ngọt, cà rem và nhiều thứ ác liệt khác nữa, cho đến khi sực nhớ ra thì đã quá trễ, không sao về kịp giờ thuyết pháp tối của Sư Phụ. Chúng tôi bèn ào ra xe hối hả chạy về chùa. Về tới nơi mới biết là Sư Phụ đã đình lại buổi giảng chỉ vì đợi chúng tôi. Ðau đớn vì tội lỗi quá! Tôi vội vã vác bao bồ câu lên lầu nhì và bỏ chúng vào cái phòng trống đã dành sẵn. Khi mở bao ra, thấy tất cả đều bay ào ra, nhưng .... chỉ trừ có hai con đã chết queo! Bịch! Bịch! rớt lăn ra sàn nhà.

"Ứ hự! Nếu chúng tôi đừng vì tham lam ích kỷ đi ăn như vậy thì đến bây giờ chắc hai con chim nầy vẫn còn sống."

Nghĩ thầm như vậy, rồi tôi lại tự an ủi: "Ối vậy cũng còn đỡ! Ít ra chẳng có ai hay biết chuyện nầy!"

Tôi xuống giảng đường, ngồi cạnh Quả Quy, và xúi anh chỉ nên thưa với Sư Phụ là có hai con chim bị chết, nhưng nhớ đừng nói gì về cái tiệm bán hàng đó. Ðến cuối giờ giảng, Quả Quy rụt rè mon men đến Pháp tòa, chắp tay thưa:

"Bạch Sư Phụ, trên đường về chùa có hai con chim bị chết. Chúng con nên phải làm sao với chúng?"

Ðối với chúng tôi những giây phút im lặng nầy thật là kinh hoàng. Rồi Sư Phụ chậm rãi nhìn về phía Quả Quy nói với giọng như hét lên:

"Ăn chúng!" Hai tiếng nầy như có thể bầm nát tất cả những dối trá nửa thật nửa dấu của chúng tôi.

Mọi người trong giảng đường cứ ngỡ là Sư Phụ đang nói đùa, nhưng chỉ riêng tôi và Quả Quy biết rõ là Ngài đang nói với hai chúng tôi. Cảm thấy quá xấu hổ và hối hận, nên qua ngày hôm sau, chúng tôi thu hết can đảm để ra thú tội trước đại chúng. Chúng tôi đã không ăn hai con chim chết nầy mà đem thủy táng chúng xuống biển, rồi nhịn ăn luôn ba ngày để đền bù tội lỗi. Chuyện nầy tôi sẽ không bao giờ quên được. Sau khi nghe qua câu chuyện, Quả Ðôn bảo rằng thật là không biết nên cười hay nên khóc nữa.

Tìm được cái chái nhà để tá túc, hiện còn bảy dặm nữa sẽ tới vùng Elk. Tôi đi tắm ở con suối gần bên. Lạnh quá!

 

Ngày 23 Tháng 11 Năm 1973. Hằng Do viết:

Hôm nay tương đối không có chuyện gì xảy ra, vài người ngừng lại hỏi chuyện chúng tôi. Mưa rơi từng cơn, lúc có lúc không. Những ngày bình thản như vầy thì khó mà diễn tả được, dù vậy chúng vẫn có sự quan trọng như thường nhật. Sự quan trọng đó chính là phải luôn tinh tấn. Tinh tấn đứng hàng thứ tư của Lục Ðộ Ba La Mật. Tinh Tấn Ba La Mật có nghĩa là sau khi chọn được pháp môn hoặc phương pháp tu hành thích hợp thì ta phải cương quyết thực hành. Chẳng hạn như phải có cái nhìn xa về lợi ích của sự tọa thiền đều đặn theo đúng thời gian quy định, hơn là hôm nay ngồi thật lâu, rồi ngừng cho đến hai, ba ngày sau mới tiếp tục. Thật ra nên giống như từng bước đi vững vàng đều đặn theo nhịp độ trong lúc lễ lạy vậy. Nhưng những bước tiến mạnh mẽ nầy sẽ bị tổn hao mỗi khi có sự ngừng thối, dù chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi. Tinh tấn không có nghĩa là chạy vòng vòng để rồi tán loạn khí lực trong mê sảng, mà nên dụng công bền bỉ như cái chìa khóa để khai mở. Nếu tu trì giới luật thì sự tinh tấn cũng sẽ luôn tăng tiến. Chúng ta sẽ ngủ ít hơn và nhanh chóng biết cách khống chế nguồn năng lực mới phát hiện nầy.

Con đường dẫn vào nội địa rất ngoằn ngoèo vì những bờ dốc núi vịnh Thái Bình Dương. Nó bị ngắt đứt một khoảng thành khe hở rất rộng ngay chỗ giòng suối Elk chạy đổ ra biển. Nhưng khi qua khỏi suối thì con đường lại uốn vòng trở về phía biển. Thấy có căn chòi, dù không cửa nẻo, nhưng mái nhà cũng còn kha khá nên chúng tôi dọn vào để được một đêm nghỉ ngơi khô ráo.

 

Ngày 24 Tháng 11 Năm 1973. Hằng Do viết:

Chúng tôi ra khỏi quận Elk vào sáng thứ bảy đầy nắng ấm. Vài người ngừng lại hỏi chuyện, hoặc chào hỏi, không có gì đáng xảy ra. Tuy nhiên trên đường ra khỏi quận, mấy bánh xe bằng nhôm nhựa của chiếc xe kéo trung thành của tôi bị xẹo mẹp xuống. Nó không chịu nổi sức nặng của đồ đạc, hoặc vì mỗi ngày chúng tôi lo kiếm chỗ cắm trại nên đã rời đường cái và lôi nó đi trên những nơi gập ghềnh lổm chổm. Tôi phải dọn hết đồ trong xe ra và tìm nơi cất dấu, rồi sau đó đi ngược trở lại chỗ sửa xe ở Elk. Tôi bày cách ông thợ máy dùng bánh xe máy cắt cỏ để lắp thế vào. Ông thợ kể lể rằng: Trong đời ông đã từng thấy qua mấy cuộc du hành kỳ cục trên tuyến lộ nầy rồi. Chẳng hạn như có lần ông sửa chữa một thùng đựng bia mà người ta đã lăn từ San Francisco tới vùng Olympia ở Washington. Và bây giờ thì sửa cái xe kéo của chúng tôi. Chỗ sửa xe nầy cũng là nơi tụ tập của dân rảnh rang trong quận, kế bên lại là quán rượu. Lúc bấy giờ có một số người đã bắt đầu kéo đến để nghe ngóng "chuyện" chúng tôi. Có ông nói việc chúng tôi làm là tuyệt diệu, ông khác lại đưa ý rằng ThầyHằng Cụ dùng vải để bao đầu gối, cách đó có vẻ như là gian lận. Tôi lễ phép bảo rằng mọi người làm việc theo nhiều cách khác nhau, và khi Thầy Hằng Cụ phát nguyện lạy một ngàn dặm thì Thầy có thể tùy ý thực hiện bằng bất cứ phương pháp nào.

Hôm nay chiếc xe kéo đã được sửa xong. Chúng tôi cắm trại gần bên con suối, về hướng bắc quận nầy. Tối đến tôi tắm toàn bằng nước lạnh như đá. Ái da!

 

Ngày 25 Tháng 11 Năm 1973. Hằng Do viết:

Chúng tôi chầm chậm tiến về hướng bắc, đến mỗi tỉnh nhỏ, tôi như càng quen thuộc hơn với những tiệm giặt và bưu điện, vì thường đến đó là để sấy khô đồ đạc, hoặc điện thoại liên lạc về Kim Sơn.

Hôm nay Pháp Sư Hằng Thủ và hai vị Ưu Bà Tắc là Quả Quy và Quả Hồi đến lúc giờ ăn trưa. Khoảng mười phút sau gia đình Klein cũng đến để cúng dường bữa ăn. Sau đó Quả Hồi ở lại cùng chúng tôi lễ lạy được một khoảng đường.

Tôi lật bản đồ ra nghiền ngẫm và cố ghi lại trong tâm địa điểm hiện tại, đồng thời cũng xem xét đường xa phía trước. Những giới luật mà Phật tử trì giữ bằng nhiều cách ví như tấm bản đồ vậy. Khi chúng ta muốn đến một nơi nào thì bản đồ sẽ chỉ dẫn trực thẳng đường hướng. Cũng như chúng ta quyết tâm tìm giác ngộ cứu cánh thì những lời chỉ dạy của những bậc Hiền Thánh cũng giống như sự hướng dẫn đưa đường cho chúng ta vậy. Giới luật nầy còn có thể gọi là "Bản đồ dẫn đạo," nó chỉ rõ cho chúng ta con đường trực chỉ nhất để đến quả vị Phật. Một khi theo đúng lời chỉ dẫn, chúng ta sẽ tránh được những lầm lẫn và khỏi phải lãng phí công sức.

Giới luật là những điều răn có tính cách luân lý đạo đức, nhằm ngăn ngừa những hành động có thể làm tổn hại chính bản thân hoặc kẻ khác. Giới luật cũng là nền căn bản thực hành thiền định để phát sanh trí huệ, đã được giảng rõ trong Tam Tạng Kinh Luật Luận. Cách tốt nhất để học giới luật là phải đăng đàn thọ giới từ những bậc cao tăng tịnh hạnh, đã có công phu tu tập từ hai mươi hoặc ba mươi năm. Vì những vị nầy đã tu trì những giới đức tịnh hạnh thuần thục nên tâm đã không còn dính mắc, phân biệt. Các thầy Tỳ Kheo ở Trung Hoa, sau khi thọ giới thường có ít nhất năm năm đầu, phải chuyên tâm tu học để tận tường giới luật và biết cách áp dụng vào những sinh hoạt trong cuộc sống hằng ngày. Sau đó họ mới được phép bước chân vào thiền đường.

 

Ngày 26 Tháng 11 Năm 1973. Hằng Cụ viết:

Tôi và Quả Hồi lạy được bốn dặm thì phải dừng lại, vì mục nhọt ở đầu gối tôi bị sịt bể. Chúng tôi đành quay về căn chòi nhỏ, vốn là một cái vỏ mục nát, nằm trên bờ dốc cao ba trăm feet (khoảng 91 mét), hướng thẳng xuống bãi cát. Thầy Hằng Do dọn dẹp gọn ghẻ được một phòng, phần còn lại thì không khác gì cái chuồng heo. Có cái giường sắt đã hư gãy nằm nghiêng ngã trên mấy khúc cây gần bên cửa sổ phía tây. Xưa kia chắc đã có những cặp tình nhân từng ngồi đây ngắm nhìn bờ biển mênh mông. Bây giờ thì lại là những dây leo mỏng mảnh bằng ngón tay, bò dán sát xuyên vào những khe cửa kiếng bể. Ngoài phòng khách có cặp nệm mục nằm im lìm trên sàn nhà, chung quanh đầy những dĩa bể, muỗng nỉa rĩ sét và những cái lon không. Tôi dọn sạch được cái ghế bành để ngồi nghỉ, khi ngoài kia tiếng gió đêm đang vi vu len lỏi vào chòi.

 

Ngày 27 Tháng 11 Năm 1973. Hằng Cụ viết:

Ðêm qua tôi mơ thấy mình lội qua một con sông sâu thăm thẳm, và khi tới giữa sông thì bị nước xoáy cuốn nhận chìm lỉm xuống. Tôi nhớ là khi nhìn lên thì thấy mặt nước từ từ xa dần, xa dần, rồi chìm sâu xuống cả hàng trăm hải lý. Ðược một lúc tôi chợt có ý nghĩ là mình đã chết, nhưng đó chẳng là vấn đề vì tôi không đau đớn chi mà chỉ cảm thấy rất an lạc. Sau đó tôi từ từ trồi lên mặt nước và đi trở lại chỗ có nhóm người đang tụ họp. Việc đầu tiên tôi cảm nhận rằng mình như khác hẳn, và thấy những người đó vẫn còn đang vẫy vùng khổ sở trong thế giới mộng ảo của chính họ. Riêng tôi khi trở về từ nơi sâu thẳm, sau khi rời bỏ cái chết của chính mình, nên mới được tự do. Vẫn trong sự hiểu biết nầy tôi giựt mình thức giấc và thấy mình còn ngồi trơ trơ trong chòi. Bây giờ việc lễ lạy một ngàn dặm chỉ là chuyện nhỏ nhoi thôi.

Vì cơn bão vẫn hoành hành nên chúng tôi ở lại trong chòi để dụng công tham thiền.

 

Ngày 28 Tháng 11 Năm 1973. Hằng Cụ viết:

Chúng tôi vẫn còn kẹt lại trong chòi vì trận bão. Ồ! Dĩ nhiên là trong lúc nầy chúng tôi mới hiểu được bài học biết ơn về giá trị quý báu của bốn bức tường và một mái nhà.

 

Ngày 29 Tháng 11 Năm 1973. Hằng Cụ viết:

Quả Hồi sau khi lạy được ba dặm thì phải trở về San Francisco. Chiều nay lúc chúng tôi đi ngang qua ngọn đồi để vào quận nhỏ Albion, thì được bốn cậu thanh niên đến mời về tạm trú ở một thị xã vùng Thiên Chúa Giáo, tọa lạc trên dãy đồi Albion. Lúc đó trời lại bắt đầu mưa nên chúng tôi nhận lời, nhưng trong lòng tôi cảm thấy nghi ngờ làm sao. Thị xã nằm về phía tây, cách xa lộ khoảng một dặm. Vừa đến nơi chúng tôi được sự đón tiếp rất nồng hậu, lại được đưa đi tham quan đất đai chung quanh vùng của họ. Ở đây tất cả đều thuộc của chung, như vườn tược, hàng quán, kể cả những việc canh tác ruộng rẫy. Tất cả đàn ông đều để râu, tóc dài, quần áo giản dị. Ðàn bà thì lặng lẽ và hòa nhã. Từng gia đình sống rải rác chung quanh khu vực, trong những túp lều nho nhỏ, hoặc những dãy nhà chung cư. Chúng tôi lại được dẫn đến chỗ ở của đàn ông, là một căn nhà rộng hai tầng cất bằng cây, đã có khoảng ba mươi anh độc thân đang trú ngụ. Sau khi được chỉ định chỗ ngủ, tôi lo treo máng mớ quần áo ướt và ngồi thiền cạnh lò sưởi. Thật là một lỗi lầm, vì chẳng bao lâu thì có khoảng tám người đến vây quanh và ráng khuyên tôi chuyển đạo. Thầy Hằng Do cũng ngồi kế bên cùng tôi cố giải thích, nhưng dù chỉ một lời họ cũng chẳng chịu nghe. Họ cố thuyết phục đủ mọi khía cạnh như tình cảm, tranh luận, an ủi khuyên giải, hoặc vạch bày những chứng cớ v.v.... Chúng tôi phải chịu đựng như vậy cũng khoảng hai tiếng đồng hồ, cuối cùng đành phải cắt ngang bỏ đi ngủ. Sáng hôm sau, chúng tôi thức dậy trước hơn mọi người để trở ra đường, con đường cũ thân thương.

 

Ngày 30 Tháng 11 Năm 1973. Hằng Do viết:

Chúng tôi lễ lạy dưới cơn mưa rỉ rả suốt cả buổi sáng nầy, nên vừa vào đến làng Tiểu Hà (Little River), định tìm một nơi khô ráo để ăn trưa. Thấy có căn chòi lụp xụp bên đường trông cũng còn khá đấy, nhưng một ông từ căn nhà kế bên chạy ra ngăn cản bảo nó thuộc của tư nhân. Chúng tôi đành quầy quả trở ra xa lộ. Bỗng nhiên cánh cửa trước nhà ông vụt mở và tiếng nói người đàn bà vọng về phía chúng tôi:

"Mấy Thầy định đi về đâu vậy, xin hãy trở vô đây uống tách cà phê mà! Thời tiết như vầy còn đi đâu được nữa chứ!"

Ðó là bà Gert Dailey, mời chúng tôi vào và lo chuẩn bị bữa ăn gồm cơm gạo Lousiana và đậu. Sau đó bà và chồng là Bill mời chúng tôi ở lại nghỉ qua đêm. Họ có tất cả mười đứa con, bọn chúng đều rất say mê võ công phu mà sư Hằng Cụ dạy chúng. Sau đó có mấy vị Phật tử vốn là bạn của bà Daileys cũng đến cùng chúng tôi thảo luận rất lâu, hầu để củng cố thêm lòng tin. Bà Daileys còn chất đầy lương thực vào chiếc xe kéo, chúng tôi cũng chuẩn bị sẵn sàng để sớm mai lên đường.

 

Ngày 1 Tháng 12 Năm 1973. Hằng Do viết:

Lúc rời khỏi vùng Tiểu Hà, chúng tôi có nhận lời mời về nghỉ đêm ở trại thiền Little River Zen Farm, tọa lạc trên dãy đồi gần làng Mendocino. Vì sau buổi lễ lạy trong ngày, chúng tôi lại phải đi bộ thêm mấy dặm vào nội địa, nên khi đến nơi mặt trời đã khuất bóng. Quận nhỏ chuyên thiền Zen nầy có nhiều giới trẻ đang cư ngụ. Vì cách tổ chức theo truyền thống Nhật - Mỹ nên ngay trong thiền đường còn có một hệ thống giàn máy hát lớn có âm thanh nổi.

Nhiều người khi nghe đến danh từ Phật Giáo thì nghĩ là Zen. Zen nầy đang thịnh hành và phát triển ở Tây Phương. Thật ra Zen nguyên chữ là Zenna, được người Nhật phát âm lại từ chữ Thiền Na của người Hoa. Thiền Na hay gọi là Thiền, đã được Trung Hoa chuyển dịch từ chữ Phạn Dhyana (Thiền-na). Thiền-na có nghĩa là làm tâm lắng tịnh, là phương pháp căn bản của người Phật tử chuyên hành thiền. Rất nhiều người cảm thấy thiền là cốt lõi chủ yếu, là trung điểm mạnh mẽ của tất cả, đã được lồng ẩn dưới danh từ Phật Giáo.

Tóm lại khởi nguyên của tông thiền là trực tiếp nối gót từ đức Phật Thích Ca mà thành. Có lần đức Phật im lặng đưa lên cành hoa của vua trời Phạm Thiên cúng dường, chỉ có đệ tử là ngài Ca Diếp thấy vậy chúm chím mỉm cười. Nụ cười đó biểu hiện rằng Ngài đã hiểu ý đức Phật. Ðiểm chủ yếu của sự im lặng nầy chính là lối truyền tâm ấn tâm, đã được tiếp tục truyền từ đời nầy sang đời kế, từ những vị Sư Tổ chứng ngộ ở Ấn Ðộ. Cho đến đời thứ hai mươi tám là Tổ Ðạt Ma mới mang những giáo lý cùng "Pháp Truyền Tâm Ấn" đến Trung Hoa và trở thành vị Tổ đầu tiên, cách nay đã hơn một ngàn năm trăm năm qua. Phật giáo được khai mở ở Trung Hoa và truyền thừa chân lý của đức Phật tiếp tục cho đến ngày hôm nay. Giáo lý chủ yếu của đạo Phật tiếp tục lan truyền đến các quốc gia khác là do các vị Sư ngoại quốc đến Trung Hoa thâu gặt những hạt giống giác ngộ rồi đem về gieo cấy lại những giáo pháp đó trên chính mảnh đất quê hương của họ.

Mặc cho sự tàn phá của thời gian, nhưng tông thiền vẫn tồn tại. Bởi điểm cốt yếu của thiền không những chỉ tìm được qua những ảnh tượng thiêng liêng, những kinh sách hay ở những tu viện, mà nó còn ngự trị ngay trong lòng mọi người. Thật ra tông thiền nầy không có đặc tính gì riêng biệt để có thể định nghĩa được, nhưng tổng quát thì có bốn loại để mô tả truyền thống về thiền là:

  1. Trực chỉ nhân tâm;
  2. Kiến tánh thành Phật;
  3. Giáo ngoại biệt truyền;
  4. Bất lập văn tự.

Một ngày nào đó khi mọi việc yên ổn, tôi sẽ trở lại vấn đề nầy.

 

Ngày 2 Tháng 12 Năm 1973. Hằng Cụ viết:

Hôm nay khi chúng tôi vừa đi qua khu phố nhỏ ở Mendocino, thì chủ bút tờ báo Mendocino Beacon tới nơi phỏng vấn. Ðến trưa, Quả Ðôn Schweig chuyển tặng chúng tôi cái lò SVEA của Craig và Sunny Bạch ở San Francisco. Chúng tôi cùng ăn trưa trên đỉnh dốc đá cao khoảng 100 feet (hơn 30 thước), dưới ánh nắng chan hòa tĩnh lặng.

Tâm hồn tôi như bồi hồi rung động mỗi khi nhìn những làn sóng mạnh mẽ đập dội lên những cồn đá đầy phún thạch lâu năm nầy. Tôi thường cảm thấy kinh sợ trước cái quyền năng vô hạn, độc nhất của thiên nhiên. Không những chỉ ở đại dương, mà bất cứ ở nơi nào có sự biểu dương quyền lực vô hạn, đều làm tôi kinh sợ cả. Tôi lớn lên được xã hội dạy là xem thiên nhiên như những vật ở ngoài mình Ố xã hội đã tập con người chỉ biết lợi dụng thiên nhiên và coi chúng như một đồ vật tách rời con người. Nhưng ngày nay phần lớn những ý tưởng đó đối với Phương Tây đang có một chuyển hướng, con người bắt đầu nhận thấy rằng thiên nhiên bên trong và thiên nhiên bên ngoài hoàn toàn chỉ là một, họ lại ít có hứng thú đến những sự việc có tính cách điều khiển bên ngoài, họ chỉ muốn an trú nơi không giao động (trung đế) mà thôi.

Ðể đạt tới nơi đó, theo truyền thống Phật Giáo có dạy về Tam "Vô Lậu" Học: Giới, Ðịnh, Huệ. Giới là đặt mình vào khuôn khổ kỷ luật, giống như xây đắp bờ đê bên con sông. Vì khi ta chận giữ giòng nước đang cuộn chảy, thì lập tức năng lực của giòng nước sẽ tăng gia, cũng như khi dứt bỏ được những tập khí xấu thì sẽ phát sanh nguồn năng lực tương đương với lòng kích động. Lúc đầu có khi giống như kẻ bệnh thần kinh trầm lặng, nhưng sau một thời gian dụng công thiền định, tinh thần sẽ trở nên sâu sắc thâm diệu.

Ðịnh còn gọi là sự tập trung, có nghĩa là giữ tâm không cho chạy ra khỏi các cửa của sáu thức: nhãn; nhĩ; tỷ; thiệt; thân và ý thức. Phương pháp nầy phải được thực hành trong mọi thời điểm, cách tốt nhất là ngồi trong tư thế kiết già. Huệ hay Huệ vô lậu sẽ phát sanh khi ta không còn bị lúng túng hay rối loạn bởi những sự tình làm kích động, mà thường an trụ vững vàng trên mảnh đất bất động của tự tánh.

 

Ngày 3 Tháng 12 Năm 1973. Hằng Do viết:

Thực hành chuyến hành hương là biểu hiện lối sống của người tu sĩ Phật Giáo. Nhiều tu viện ở các nước Á Châu đã được dựng lên để tiếp đón những tu sĩ du phương nầy, vì trong cuộc đời tu hành, những vị nầy ít ra họ cũng có nhiều năm đi du hành từ nơi nầy đến nơi khác để tham vấn học hỏi với những bậc cao tăng. Ðó cũng là một phương cách luyện tập rất hay để đào tạo tu sĩ, không những chỉ giúp cho các Ngài có cơ hội thăm viếng và chiêm bái những thánh tích, mà còn là dịp để học hỏi cách đối phó về vấn đề tự lực sinh tồn trong thế giới vô thường nầy. Rất dễ có tình trạng khi cư ngụ ở một nơi và vừa cảm thấy nơi đó an nhàn thoải mái, nhưng không lâu vô thường đến thì những gì mình chấp giữ cũng đều mất hết cả. Ðó có thể là nguyên nhân đau khổ. Cho nên không tham luyến nơi nào, thì ta mới có thể tùy thuận lưu chuyển với những đổi thay. Ðược vậy mới là người biết chuẩn bị sẵn sàng trước những cái bất ngờ xảy ra, và ta mới có thể phát triển định lực dù trong cảnh động loạn.

Việc hành hương ở Mỹ trong thời đại tân tiến ngày nay, có nhiều khác biệt so với những chuyến hành hương của những vị tu sĩ ở Á Châu. Ðiểm trước nhất, là việc xây cất tu viện và chùa chiền để tiếp rước Tu sĩ du phương chưa được phát triển ở Phương Tây. Vì thế chúng tôi phải lợi dụng phương kế kỹ thuật Ố cắm trại, để thuận tiện cho việc trú ngụ ở bất cứ nơi nào. Thứ nhì, đường xá đi lại tiện lợi, mặc dù có lúc con lộ không đủ rộng để cho chúng tôi và xe cộ. Nhưng nếu so sánh những chuyến hành hương ở Á Châu với những con đường nhỏ xíu, lún hõm, thì có lẽ chúng tôi được lợi thế hơn. Thứ ba, dân xứ nầy còn rất xa lạ với những tập tục của chúng tôi, cho nên chúng tôi phải mất rất nhiều thời gian để giải thích những thắc mắc về chuyến bái hương nầy. Về hình thức tuy có nhiều điểm khác biệt, nhưng những động cơ thúc đẩy để dấn thân vào cuộc du hành thì đều giống nhau cả.

Hiện chúng tôi đang cắm lều trong đám cây rậm rạp, và đang tọa thiền cùng với những âm thanh làm việc đều đặn ngày đêm của xưởng cây gần bên.

(Xin xem tiếp theo 1)


Tải về xem
Tam Bo Nhat Bai