Thông tin
Các bài mới
Nếu quý vị không tin nhân quả thì khi đến phiên quý vị đi thọ nghiệp, quý vị khó mà tránh được nghiệp cho dù có muốn tránh. - Các vị Thiện tri thức! Quả báo nghê gớm nhất trên thế gian là quả báo của sát sanh. Sáng nay một người đàn ông Việt Nam đem hai đứa con trai đến gặp tôi. Ông ấy nói hai người con của ông bị bệnh và nhờ tôi giúp đỡ để cuộc sống hai người con của ông được dễ dàng hơn. Khi thấy hai đứa nhỏ có chướng bệnh tâm thần, tôi hỏi ông ta có khi nào sát sanh không. Người mẹ của hai trẻ đáp là bà ta thì không có. 
Năm dân quốc thứ 39 (1950-1951) mặc dù đã 111 tuổi, sức khỏe suy kém nhiều , Hoà Thượng Hư Vân vẫn đến chùa Nam Hoa để làm lễ truyền giới, khai thị thiền thất dài hạn. Trong những người tham gia thiền thất lần này có một vài vị được khai ngộ, sau đó Ngài trở về VÂN MÔN. Thâu nạp những bản văn sao, thảo Kinh để chuẩn bị hiệu đính biên tập. Đây là việc làm không dễ vì hầu hết các bản văn thảo kinh sao đó đã được Ngài viết ra từ những thập niên trước. Tại Vân Môn Ngài tiếp tục hoàn tất công trình trùng tu và dạy Tăng chúng phải giữ gìn giới luật cho tinh nghiêm. 
Ông nghe một giọng phụ nữ reo lên :  “Ô! bác đã thức rồi”. Trước mắt ông hiện ra một người phụ nữ trong trang phục y tá; ông chống tay tính ngồi dậy; cô y tá giơ tay ra hiệu cho ông nằm yên. Ông cảm thấy tâm trí ông như vừa qua một cơn say; ông thảng-thốt hỏi : “ Có phải tôi đang nằm trong bệnh viện không?’”- “Đây là nhà bác ạ, trong phòng ngủ của bác đấy”: Ông đảo mắt nhìn quanh, căn phòng ngủ quen thuộc, giống như ông vừa đi du lịch xa về. “Bác nằm yên một lát rồi từ từ ngồi dậy, cháu sẽ kể cho bác việc gì đã xảy ra, xin mời bác dùng chén trà nóng”.
Mẹ ơi ! Con về, như sông về biển Mẹ. Ngõ cũ đường xưa đã đổi nhiều. Đâu cội mai vàng mùi hương nhẹ, Mùi hương gây nhớ - vị thương yêu. Đã mấy năm xa, giờ trở lại. Ngôi nhà kỷ niệm những ngày thơ. Tường vôi mốc bạc cùng năm tháng Như sóng đời trôi những bến bờ. Những dòng thơ nầy, con đã viết cho Mẹ từ một bến bờ rất xa. Bên kia bờ Đại dương, cách quê nhà hơn nửa vòng địa cầu. Con đoán là Mẹ đã đọc, đã nghe nhiều lần và cho dù cách biệt ngàn trùng hai cỏi âm dương khắc nghiệt, con vẫn tin là Mẹ sẽ mang theo về miền đất lạnh bởi vì tình thương của Mẹ cho chúng con là bao la không bờ bến, là cao vút tận trời xanh.
Hòa Thượng Hư Vân tại Vân Nam hoằng pháp độ sanh cứu giúp được rất nhiều người, sau khi thỉnh được Đại Tạng Kinh về Vân Nam, Ngài cho mở các khóa Phật Pháp, giáo hóa chúng dân. Quân dân sĩ thứ vùng địa phương ngày càng thêm kính trọng, ai ai cũng gọi Ngài là " Đại Lão Hòa Thượng Hư Vân". khi cuộc cách mạng Tân Hợi nổi lên, triều Thanh Thoái vị, các tướng lãnh thuộc chính quyền mới ỷ thời thế loạn lạc đánh đuổi tăng ni, cướp phá chùa chiền, làm mưa gió khắp nơi. Lúc ấy vị Tướng Tỉnh Vân Nam là Lý Căn Nguyên chuộng Nho học, ghét  Tăng Sĩ, nhất là những người không chịu giữ giới luật nên thừa cơ kéo quân nên núi đuổi Tăng chúng, phá chùa chiền.
Tôi vào ‘Viện Phục Hồi’ để thăm mẹ của một người bạn, bà hơn chín mươi tuổi. Gọi là viện ‘phục hồi’ cho lịch sự, chứ đã có mấy ai được hồi phục sức khỏe để mà xuất viện về nhà. Vào đây rồi, thì xem như chờ ngày Trời gọi đi. Toàn cả những người bại liệt toàn thân, bán thân, hoặc đã mê man không còn biết trời đất chi nữa. Những người còn có thể tự dùng xe lăn để di chuyển một mình, chậm chạp như rùa bò, và khó khăn để tiến tới vài ba thước, thì có thể xem như thuộc thành phần khỏe mạnh nhất, có sức khoẻ tốt.
Tôi không hạnh phúc. Vì vội vã kết hôn khi tình yêu chưa chín muồi, tôi và chồng sống với nhau như hai kẻ xa lạ trong cùng một nhà. Điều duy nhất ràng buộc chúng tôi ở lại trong cuộc hôn nhân ảm đạm này là con cái. Tôi biết, để trở thành vợ chồng của nhau, hẳn là giữa chúng tôi phải có một mối duyên nợ nào đó đặc biệt. Tại sao tôi lại lấy người đàn ông này, mà không phải là bất kì ai khác? Mỗi khi buồn nản và tủi thân vì cuộc sống thiếu vắng tình yêu, tôi thường tự hỏi mình câu hỏi đó. 
Pháp âm
Pháp thoại
TÌM KIẾM
- Ðừng nên bị những tướng hư giả làm điên đảo.
- Không thể nhầm lẫn trong lý nhân quả, không thể đình trệ trong việc tu hành.
- Người tu hành thì lánh xa danh lợi. Họ xem phú quý như những giọt sương giữa khóm hoa. Họ xem công danh như hơi nước trên mái ngói, trong khoảnh khắc sẽ tan biến mất dấu tích. Nếu bạn muốn trắc nghiệm xem người nào đó có tu hành hay không thì hãy xem việc làm, hành động của người đó có nhắm về danh với lợi chăng.
- Không khóc không cười, đó gọi là định lực. Không có định lực thì mới hay khóc hay cười.
- Nếu thường tinh tấn thì đó tức là ở trong định. Nếu bạn có thể tùy thuận theo duyên bên ngoài mà không biến đổi, không thay đổi chí hướng nhưng có thể thích ứng với hoàn cảnh, thì đó gọi là Kim Cang Ðịnh. Kim Cang Ðịnh không phải là thứ có hình tướng, nó chỉ là tâm bồ đề không biến hoại mà thôi.
- Nếu mình thấu suốt được thất tình: Vui, giận, buồn, sợ, yêu, ghét, ham muốn - thì có thể hàng phục nó. Ðừng để chúng nổi sóng, nổi gió thì tức là hàng phục tâm mình.
- Hiện tại chuyện tối quan trọng là thế giới quá đầy bọn tiểu quỷ, không biết bao nhiêu mà kể. Vì sao tụi tiểu quỷ nhiều như vậy? Bởi vì người ta phá thai nhiều quá. Thai nhi chưa thành hình mà đã bị giết rồi, nên khi làm quỷ chúng có tâm báo thù rất nặng nề. Do đó giới sát, phóng sinh, ăn chay thì bao quát không được phá thai. Những tiểu quỷ thật không dễ độ thoát chúng đâu, rằng: Diêm Vương dễ gặp, tiểu quỷ khó độ.
- Người thiếu đức hạnh thì có tánh nóng rất lớn, vô minh ngu si cũng sâu dày. Người có đức hạnh thì chẳng có nóng nảy gì cả, vô minh cũng đã hóa trừ thành trí huệ. Do đó người tu hành phải tài bồi đức hạnh là vậy.
- Người thường tự so sánh, cho rằng mình hơn kẻ khác. Kỳ thật, khi thân tâm chưa đạt đến cảnh không thì họ đều chấp trước vào ngã tướng mà thôi. Kẻ tham thiền phải trừ bỏ cái ngã. Chẳng những không có tướng hay quan niệm về cái tôi, mà cần phải không có cái tâm, không có cái thân. Khi thân tâm đều không, bạn sẽ làm vô tâm đạo nhân.
- Khi chân chính chẳng có vọng tưởng thì bạn sẽ vãng sinh thế giới Cực Lạc. Khi không có vọng tưởng thì sẽ không có phiền não, không có thống khổ. Ðó chính là thế giới Cực Lạc.
- Nên biết thiểu dục tri túc (bớt tham muốn, biết mình đủ). Khi biết mình gì cũng đầy đủ thì sẽ không có gì rắc rối.
- Mỗi người chúng ta không nên tụng suông Kinh Kim Cang, Kinh A Di Ðà, Kinh Pháp Hoa, Kinh Lăng Nghiêm. Mình phải tụng cho rõ ràng bộ kinh trong tâm thì mới tốt. Bạn tụng bộ kinh chân thật tức là khi tâm chẳng có đố kỵ, chẳng cống cao ngã mạn, chẳng chấp trước vào cái ngã một cách nặng nề, chẳng chấp cứng vào kiến giải của mình thật sâu. Nếu bạn có những tật xấu trên thì tuy bạn có tụng kinh nhưng bạn không biết tụng.
- Người có tánh nóng nảy thì khổ. Người không có tánh nóng nảy thì sướng. Người hay nổi giận thì có phiền não; kẻ không nóng giận thì thường thường vui vẻ. Tánh nóng giận là kẻ thù lớn nhất của mình. Vì sao người ta sinh bịnh? Bởi vì có nóng giận. Vì sao mọi chuyện không xảy ra thuận lợi? Cũng bởi vì có sự nóng giận. Nếu người ta ở trong mọi thời điểm, lúc nào cũng không nóng nảy giận dữ thì y lúc nào cũng vui sướng khoái lạc, bình an.
- Muốn tu đạo thì phải nuôi dưỡng đạo đức. Không có đức hạnh thì chẳng thể tu đặng.
- Tu đạo cần mình phải thật thà. Nó cũng giống như xe tơ, cần phải từng sợi từng sợi kéo ra thì mới không rối loạn.
- Ðừng nên tìm phương pháp khoa học để đạt tới giác ngộ. Ðừng nên làm cách thông minh.
- Trên thân thể của mỗi người, ai cũng có vô lượng vô biên chúng sinh. Nếu bạn có lòng tham thì những chúng sinh ấy cũng có tâm tham, nếu bạn có lòng tức giận thì mỗi chúng sinh ấy cũng bắt chước nổi lòng tức giận. Tánh tham sân si của mình có thể ảnh hưởng đến những chúng sinh ấy. Những chúng sinh nhỏ ấy lại biến thành rất nhiều con, những con lớn lại càng biến lớn hơn. Ðó chính trăm ngàn ức hóa thân của bạn! Do vậy người tu đạo, cử tâm động niệm phải sửa đổi thói xấu, tu thành thói tốt.
- Ngũ ấm là xiềng xích cột người ta. Vì bị tứ đại, ngũ ấm che phủ nên mình mới không thể giải thoát.
- Nếu không biết hòa nhã, khiêm cung thì làm sao cứu người. Có lẽ tự mình cũng chẳng cứu được nữa là.
- Các bạn làm những người đồng tu , đạo hữu thì nên khuyến khích lẫn nhau, cùng đi trên đường bồ đề. Không tổn hại lẫn nhau. Lúc nào mình cũng nên nói pháp cho nhau nghe. Miệng không nói lời phi lễ, thân không làm chuyện phi lễ.
- Tu hành cần mình phải hồi quang phản chiếu (thâu hồi ánh sáng, chiếu ngược vào tâm). Không phải là phóng quang ra ngoài để kêu người khác nhận thức về mình.
- Tu mà không tranh thì chẳng có ma. Tranh là ma tới liền.
- Khi chọn bạn, mình phải chọn bạn tốt, bạn có ích lợi. Không nên chọn bạn xấu rồi cùng nhau làm việc tệ hại, rồi sau này đôi bên đều cùng phải đọa lạc.
- Chưa tu thành thì hào quang còn non lắm. Hào quang như vậy thì còn yếu ớt, chẳng thể kháng cự lại sóng gió bão táp. Khi hào quang viên mãn, không thiếu không dư, thì lúc đó mới phóng quang. Hiện tại là giai đoạn tu hành, bạn chớ phóng quang.
- Lúc đang làm người không chịu tu cho tốt. Ðến lúc làm trâu dê heo ngựa thì có muốn tu cũng chẳng còn cơ hội. Lúc ấy bạn quỳ tại cửa chàng đồ tể khóc lóc năn nỉ: Xin ngài từ bi, đừng giết mạng con! Chàng đồ tể vẫn cứ giết chẳng tha. Do đó chỉ cần mình nghe tiếng rên siết thê thảm ở nhà đồ tể là sẽ hiểu nguyên nhân của tai kiếp, chiến tranh từ đâu mà ra.
- Khi tu thì không nên tùy tiện nói bậy. Nếu không thì sẽ bị quả báo câm ngọng.
- Ðịa chấn (động đất) có thể gọi là nhân chấn (động người) vì đất và người thì thông nhau. Khi nhân chấn thì địa chấn. Nếu nhân không chấn thì địa cũng không chấn. Bạn vui vẻ thì địa chấn, bạn nổi giận thì địa cũng chấn. Bạn có bi ai, buồn lo, sợ hãi, yêu ghét, thì đều sinh địa chấn. Khi có dục vọng, tình ái thì địa chấn càng lớn. Bên trong động nên bên ngoài mới động. Có địa chấn bên trong thì mới có địa chấn bên ngoài. Chúng có quan hệ liên đới. Bạn trồng nhân gây động đất bên trong nên mới có động đất bên ngoài. Khi trồng nhân thì mình không sợ, lúc nó kết thành quả thì mình mới sợ chết luôn.
- Tu hành phải cần chăm chỉ cần khổ.
- Phương pháp dụng công là phải niệm niệm hồi quang phản chiếu. Không phải là niệm chú gì đâu, chỉ cần mình đi đứng nằm ngồi không rời nhà, không chạy ra ngoài truy đuổi. Cũng không phải tìm kiếm nơi sách vở. Cần chú ý tới cái không. Nếu bạn chân chính thể hội thì chuyện gì bạn cũng không tham lam. Bởi vì tự bạn xưa nay vốn đầy đủ. Cái không này tức là chân không. Từ trong nó phát sinh ra diệu hữu. Vì thế: Không làm các việc ác (là chân không), làm hết các việc thiện (là diệu hữu). Giới luật là khuôn phép để người tu nương theo mà tu hành. Khi đạt tới "không" thì tất cả nghiệp chướng đều không, cũng chẳng có tội, chẳng có phước.
- Ma từ bốn phương tám hướng lại thử thách người tu. Nếu ai cứ luẩn quẩn trong vòng thị phi, nhân ngã, vui buồn, yêu ghét mà dụng công thì ma sẽ thừa cơ, nương chỗ sơ hở đó mà chui vào.
- Muốn sinh Cực Lạc thì phải thu nhiếp quét sạch mọi tình cảm.
- Vì sao thế giới có chiến tranh? Khi người ta bắt đầu ăn thịt thì chiến tranh cũng bắt đầu. Ăn thịt cũng chính là ăn người.
- Kẻ thấy lỗi lầm của ta, kẻ ấy là thầy ta. Những ai có thể nói ra thói hư tật xấu của bạn, người ấy là vị thiện tri thức. Bạn nên cám ơn người ấy, đừng nên nhìn họ như thù địch.
- Người mê thì tin phong thủy, người trí tin tâm thủy. Tất cả đều do tâm tạo thành.
- Người đời cho rằng học thì ở nơi chỗ rộng (như núi), nào hay rằng học ở ngay chỗ nhỏ xíu (tâm mình) này đây. Nếu ai có đức hạnh thì phong thủy tự nhiên tốt bởi vì tâm họ tốt.
- Người trí thì nhìn suốt tới cái lý của sự việc, không bị ngăn trệ bởi bề ngoài của sự việc. Người ngu chỉ nhìn thấy tướng trạng bên ngoài của sự việc, chẳng thấy suốt được chân lý bên trong của mọi chuyện.
- Nếu ai muốn biết chư Phật trong ba đời, hãy quán bản tánh của pháp giới: Tất cả đều do tâm tạo.
- Muốn có trí huệ, trước hết đừng chửi bới người ta, cũng đừng đánh đập, giết chóc, tổn hại kẻ khác.
- Mình phải lập công với đời, làm lợi cho người. Nếu chỉ toàn là tính toán lợi ích cho mình, lo cho mình được sung sướng, thì đó nào phải là ý nghĩa của việc làm người.
- Tôi biết được điều gì? Tôi biết thế nào là chịu thua thiệt, không chiếm tiện nghi. Nếu bạn thật sự hiểu rõ thì bạn sẽ biết rằng: Chịu thua thiệt chính là được tiện nghi (thắng thế), mà chiếm tiện nghi (giành hơn, giành thắng) chính là bị thua thiệt.
- Không phải dễ sửa những lỗi lầm tật xấu nho nhỏ đâu. Nếu bạn sửa đổi được chúng thì bạn sẽ có định lực.
- Người đời xem chuyện phát tài là vui sướng nhất. Có tiền rồi lại phải dùng óc não tính toán làm sao giữ gìn nó để nó không mất, không hết. Cứ cho rằng tiền là thật của mình, nên ngày ngày lo lắng. Song le, bất luận tiền nhiều hay ít, chết rồi chẳng đem được một xu. Thế rồi lại hai tay trắng! Bạn xem nó có vui sướng gì?
- Chúng ta ai cũng bị nghiệp dắt dẫn, rằng: Thân không tự chủ. Mình sinh vào đời này chính là để trả nợ. Bởi vì xưa kia tạo nghiệp không giống nhau, nên đời này chịu quả báo khác nhau. Ðó là: Lưới nghiệp đan kết.
- Làm việc quỷ thì tức là quỷ. Làm việc người thì là người. Làm việc Phật thì là Phật.
- Bây giờ mình được nghe mấy chữ chú Ðại Bi thì nên sinh lòng hoan hỉ, rằng thật may mắn, thật hân hạnh, thật khó gặp được chú Ðại Bi. Thật vậy, rất khó mà bạn có thể gặp được chú Ðại Bi. Nay gặp được chú rồi, bạn nên nhớ, đừng coi thường nó rồi vất qua một bên.
- Người học Phật phải bỏ ít thời gian ra học tập Phật pháp, không nên hiểu mường tượng chẳng rõ ràng, tợ hồ biết nhưng lại không biết. Có người nghĩ rằng: Tôi đã không biết, do đó tôi không cần muốn biết. Tôi đã không thông đạt, do đó cứ không thông đạt luôn. Ðó là thái độ tự mình đầu hàng, không chịu bước chân tới trước, tự vất bỏ tiền đồ của chính mình.
- Người mới phát tâm tu hành, cái chướng ngại lớn nhất cho việc dụng công là: Tâm dâm dục, con trai tham luyến con gái, con gái tham luyến con trai. Ðây là vấn đề căn bản nhất.
- Giảng kinh là tu huệ; tọa thiền là tu định; Không mở miệng nói lăng nhăng là tu giới.
- Làm người trên đời mình phải hành thiện cho đúng lúc, cho kịp thời. Còn một chút hơi thở, một chút sức lực, mình phải hành thiện, tích đức, không nên phung phí căn lành mình đã trồng trong kiếp trước, bằng cách đời này cứ việc hưởng thụ cho hết những phước báo ấy.
- Người tu mà sợ cô độc thì chẳng thể tu.
- Trong tâm ta, tuyệt đối không được có quỷ. Cũng đừng có sân hận, oán ghét, buồn bực, khó chịu. Khi có những thứ ấy thì không xong, bởi vì có chúng tức là quỷ vào nhà rồi vậy.
- Làm bậc thiện tri thức, bạn không được nịnh hót người ta, không được tìm cách làm vui lòng người ta, khiến người bạn của mình mê mờ chân lý mà cũng chẳng hay biết.
- Quỷ vương chuyên môn nóng giận, không giữ quy củ. Quan Âm Bồ Tát chuyên môn chịu bị hà hiếp, luôn giữ quy củ.
- Bạn suy nghĩ những việc không có giá trị, thì tương lai sẽ gặt những quả báo không có giá trị. Mọi thứ ẩm thực đều chỉ có một mùi vị. Cứ nghĩ về chuyện ăn uống thì tâm sẽ buông lung, không thể kiềm thúc được sáu căn.
- Nếu vũ trụ đầy tràn khí kiết tường thì địa cầu sẽ không vỡ tung.
- Các bạn chú ý: Phàm là cảnh giới từ bên ngoài tới, mình đừng chú ý vào nó, đừng can thiệp tới nó, cứ để tự nhiên, nhưng đừng để nó lay động tâm mình. Trong Kinh Lăng Nghiêm có giảng rất rõ ràng, hy vọng các bạn tham thiền nghiên cứu tường tận phần giảng về 50 Ấm Ma.
- Buồn một chút: Là mình dạo chơi địa ngục. Cười một cái: Là già biến thành trẻ. Khóc một hơi: Thì địa ngục có một phòng nhỏ thật đen thui.
- Việc quan trọng đối với người tu là đừng sinh phiền não, ở bất kỳ tình huống nào cũng vậy. Ngồi cũng không sinh phiền não; nằm cũng không sinh phiền não. Cốt yếu là phải đoạn phiền não. Rằng: Phiền não vô tận, thề nguyện biến; biến phiền não thành bồ đề. Phiền não tức là không giác ngộ. Bồ đề tức là giác ngộ.
- Chú Ðại Bi tức là đại chú của tâm đại bi. Nó có thể thông thiên triệt địa. Nếu bạn có thể mỗi ngày trì tụng 108 biến, liên tục trong suốt ba năm, thì sau đó bạn có thể dùng chú Ðại Bi để trị bịnh. Lúc ấy, tay tới là bịnh trừ. Tôi biết nói về công hiệu của chú Ðại Bi. Hy vọng các bạn mỗi người dùng sức mạnh của chú Ðại Bi để vãng cứu hạo kiếp (tai ương, đại nạn) của thế giới, khiến cho người ta vĩnh viễn không còn tai nạn, và chánh pháp vĩnh viễn ở mãi trong thế gian.
nh điển hình
Kinh sách mới
Chú Lăng Nghiêm là Chú quan trọng nhất, hơn hết thảy trong các Chú. Bao gồm hết thảy thể chất và diệu dụng của Phật Pháp. Chú này chia làm năm bộ : Kim Cang bộ, Bảo Sinh bộ, Liên Hoa bộ, Phật bộ và Nghiệp bộ. Năm bộ Kinh này thuộc về năm phương : 1. Kim Cang bộ : Thuộc về phương Ðông, Ðức Phật A Súc là chủ. 2. Bảo Sinh bộ : Thuộc về phương Nam, Đức Phật Bảo Sinh là chủ. 3. Phật bộ : Thuộc về chính giữa, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là chủ. 4. Liên Hoa bộ : Thuộc về phương Tây, Đức Phật A Di Ðà là chủ. 5. Nghiệp bộ : Thuộc về phương Bắc, Đức Phật Thành Tựu là chủ.
Nếu người không có căn lành, thì đừng nói đến tụng niệm, dù ba chữ « Chú Lăng Nghiêm » cũng không nghe được, cũng không có cơ hội nghe được. Các vị bây giờ dùng máy vi tính tính thử xem, dùng thần não của bạn tính thử xem, hiện tại trên thế giới nầy, người tụng Chú Lăng Nghiêm nhiều, hay là người không biết tụng Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Người nghe được tên Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Hay là người không nghe được tên Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Cho nên các vị đừng xem mình là người rất bình thường, bạn đã nghe được Phật pháp, đây đều là trong vô lượng kiếp về trước đã từng gieo trồng căn lành, đắc được diệu pháp thâm sâu vô thượng, các vị đừng để pháp môn nầy trôi qua.
Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy còn gọi là Kinh Pháp Giới, cũng gọi là Kinh Hư Không, tận hư không khắp pháp giới, chẳng có một nơi nào mà chẳng có Kinh Hoa Nghiêm ở đó. Chỗ ở của Kinh Hoa Nghiêm tức cũng là chỗ ở của Phật, cũng là chỗ ở của Pháp, cũng là chỗ ở của Hiền Thánh Tăng. Cho nên khi Phật vừa mới thành chánh giác, thì nói bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, để giáo hoá tất cả pháp thân Ðại Sĩ . Vì bộ Kinh nầy là Kinh vi diệu không thể nghĩ bàn, do đó bộ Kinh nầy được bảo tồn ở dưới Long cung, do Long Vương bảo hộ giữ gìn. Về sau do Ngài Bồ Tát Long Thọ, xuống dưới Long cung đọc thuộc lòng và ghi nhớ bộ Kinh nầy, sau đó lưu truyền trên thế gian.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử ở chỗ Dạ Thần Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sinh, nghe môn giải thoát Phổ hỉ tràng, tin hiểu hướng vào, biết rõ tuỳ thuận, suy gẫm tu tập. Nhớ hết những lời dạy của thiện tri thức, tâm không tạm xả, các căn chẳng tán, một lòng muốn gặp được thiện tri thức. Siêng cầu khắp mười phương không giải đãi. Muốn thường gần gũi sinh các công đức, đồng một căn lành với thiện tri thức. Đắc được hạnh phương tiện thiện xảo của thiện tri thức. Nương thiện tri thức vào biển tinh tấn, trong vô lượng kiếp thường chẳng xa lìa. Nguyện như vậy rồi, bèn đi đến chỗ Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sinh Diệu Đức.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử một lòng muốn đi đến chỗ Ma Gia phu nhân, tức thời đắc được trí huệ quán cảnh giới Phật.Bèn nghĩ như vầy: Thiện tri thức nầy xa lìa thế gian. Trụ nơi không chỗ trụ, vượt qua sáu xứ. Lìa tất cả chấp trước. Biết đạo vô ngại, đủ tịnh pháp thân. Dùng nghiệp như huyễn mà hiện hoá thân. Dùng trí như huyễn mà quán thế gian. Dùng nguyện như huyễn mà giữ thân Phật. Thân tuỳ ý sinh, thân không sinh diệt, thân không đến đi, thân chẳng hư thật, thân chẳng biến hoại, thân không khởi tận, thân hết thảy tướng đều một tướng, thân lìa hai bên, thân không y xứ, thân vô cùng tận, ...
Tôi tin rằng bộ Kinh nầy được giảng lần đầu tiên tại nước Mỹ, các vị cũng là những người đầu tiên được nghe. Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, là vua trong các Kinh Phật, cũng là vua trong vua. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa cũng là vua trong các Kinh, nhưng không thể gọi là vua trong vua. Bộ Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật nầy, là vua trong vua, là bộ Kinh dài nhất trong Kinh điển đại thừa mà đức Phật nói, nhưng thời gian nói không dài quá, chỉ trong hai mươi mốt ngày, thì đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói xong bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ở trong năm tầng nghĩa lý huyền diệu, thì huyền nghĩa thứ nhất là giải thích tên Kinh. Bộ Kinh nầy dùng Diệu Pháp Liên Hoa làm tên. Diệu Pháp là pháp, Liên Hoa là ví dụ, vì Phật Pháp vi diệu thâm sâu, một số người không dễ gì hiểu nổi, cho nên dùng liên hoa (hoa sen) để ví dụ, do đó bộ Kinh nầy lấy pháp và dụ làm tên. Cứu kính thì diệu pháp là gì ? diệu đến cỡ nào ? tốt đến cỡ nào ? Nay tôi nói cho bạn biết, sự diệu nầy không thể dùng tâm suy nghĩ, không thể dùng lời bàn luận, không thể dùng tâm để dò, nghĩ cũng nghĩ không hiểu nổi; nghĩ muốn hiểu biết thì nói không đến được sự diệu của nó.
Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất hớn hở vui mừng, bèn đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, mà bạch Phật rằng : Hôm nay nghe đức Thế Tôn nói pháp nầy, tâm con rất hớn hở được chưa từng có. Tại sao ? Vì xưa kia con theo Phật nghe pháp như vầy : Thấy các vị Bồ Tát được thọ ký sẽ thành Phật, mà chúng con chẳng được dự vào việc đó, rất tự cảm thương, mất đi vô lượng tri kiến của Như Lai. Ðức Thế Tôn ! Con thường một mình ở dưới gốc cây nơi rừng núi, hoặc ngồi hoặc đi kinh hành, bèn nghĩ thế nầy : Chúng con đồng vào pháp tánh, tại sao đức Như Lai dùng pháp tiểu thừa mà tế độ ? Ðó là lỗi của chúng con, chứ chẳng phải đức Thế Tôn vậy.
Quyển Ý Nghĩa Đời Người này rất thâm thuý, tuy cố H.T Tuyên Hoá thuyết giảng lời lẽ giản dị, mộc mạc, nhưng nghĩa lý rất cao thâm huyền diệu, đi vào tâm người. Nếu người tu học, đọc hết quyển sách này, y theo trong đó mà thực hành, thì sẽ giác ngộ được ít nhiều ngay trong đời này, không cần phải tìm cầu đâu xa vời. Đặc biệt cố Hoà Thượng nhấn mạnh về Sáu Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thành đó là : Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tư lợi, không nói dối. Sáu đại tông chỉ này cũng có thể nói là kim chỉ nam của người tu hành, dù xuất gia, hay tại gia, đều lợi lạc vô cùng, nhất là thời đại ngày nay.