Thông tin
Các bài mới
Chúng sinh trong luân hồi sống nhờ vào quả phước, vì thế phải luôn tìm cơ hội tạo phước báu. Nếu hiểu pháp, thì không cần phải có nhiều của cải vẫn tạo được phước báu lớn lao. 1. TÙY HỶ LÀ CÁCH TẠO PHƯỚC DỄ DÀNG NHẤT. Tùy hỷ có nghĩa là "Vui theo". Thấy người làm việc ác liền vui theo thì phải chịu một phần quả báo ác như kẻ đó, thấy người làm việc thiện liền "vui theo", lòng hoan hỷ như thấy chính mình hoặc thân quyến của mình làm thì liền được một phần phước báo như người tạo.
Vào thời Đức Phật Sumedha, Tôn giả Sobhita khi đó tái sinh trong một gia đình dòng dõi Bà la môn cao quý. Ngài thông tuệ, tài năng xuất chúng và thành tựu tất cả các học nghệ của Bà La Môn. Danh tiếng của Ngài vang xa, đến đâu cũng được người đời kính ngưỡng. Thế nhưng, bởi thiện căn đã gieo trồng sâu dày từ nhiều kiếp, vị Bà La Môn ấy chỉ nghĩ đến hạnh xuất ly giải thoát cao thượng.
Nhiều người Việt Nam thích tờ 100 đô của Mỹ, nhưng chắc không mấy ai tò mò tự hỏi:- Chân dung trên tờ tiền này là ai? Một số người đoán có lẽ đó là một vị Tổng thống nào đó của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Thực ra đó không phải chân dung của Tổng thống nào của Hoa Kỳ, mà là chân dung của một người đóng vai trò quan trọng trong Lịch sử Hoa Kỳ còn hơn hầu hết các Tổng thống. Đó là một người khổng lồ của lịch sử nhân loại. Một người đa tài. Một nhà phát minh và sáng chế hàng đầu. Một nhà kinh doanh tài ba. Một nhà tư tưởng xuất sắc.
Hương thơm của đức hạnh và giới hạnh. Đức Phật từng dạy: “Hương hoa không thể bay ngược gió, Nhưng hương người đức hạnh, ngược gió vẫn lan xa.” Lời dạy ấy chính là biểu tượng cho những bậc nữ nhân mẫu mực như Hoàng hậu Mạt Lợi và hai Hoàng hậu triều Trần - những người âm thầm tỏa sáng bằng tâm đức, lòng từ bi và sự tinh nghiêm trong giới hạnh. Trong Kinh Pháp Cú Thí Dụ, Đức Phật đã tán thán Hoàng hậu Mạt Lợi vì bà giữ giới thanh tịnh, sống đời nhân hậu, bao dung. Hương giới đức của bà không chỉ thơm ngát cõi trần mà còn lan tỏa qua mọi thời đại như một tấm gương sáng ngời cho hậu thế.
Tôn giả Kondanna (Kiều Trần Như) đứng trước cửa một căn nhà. Chợt một phụ nữ nhìn thấy và reo lên: Ô kìa chú Kondanna, chú Kondanna đã về. Trong nhà già trẻ lớn bé ùa ra đón chào Tôn giả Kondanna. - Này chú Kondanna à, thế là đã 8 năm từ khi chú xuất gia theo Thái tử Siddhattha đi mãi về phương nam. Gia đình ta được Vua chu cấp đầy đủ, nên anh mua thêm được mấy khoảng ruộng. Hôm trước dân làng nói rằng Thái tử đã trở về và đã thành Phật gì đó. Gia đình nghe vậy rất mong chú cũng trở về. Từ nay chú không phải đi xa vất vả nữa...
Phật đã dạy bài kệ trên tại Kỳ Viên, liên quan đến ba nhóm Tỳ kheo: Trường hợp thứ nhất - con quạ bị chết cháy. Một số Tỳ kheo đi vào làng khất thực, dân làng lấy bát và sắp xếp chỗ ngồi cho các vị nơi nhà nghỉ. Trong khi chờ dâng cúng, chợt có một ngọn lửa bùng cháy và bắt lên mái tranh nhà bếp. Lửa bùng lên, một cơn gió mạnh cuốn lớp mái tranh cháy đỏ bung ra bay lơ lửng trên không. Một con quạ bay ngang đâm trúng nắm tranh ấy, bị đốt cháy trong đau đớn và rớt xuống đất. Mọi việc xảy ra thật khủng khiếp trước mắt các vị Tỳ kheo. Điều kỳ lạ là có rất nhiều đường để bay nhưng con quạ lại bay đúng vào đám lửa để phải chết cháy.
Hôm qua, có một cô Phật tử gọi điện cho tôi. Giọng cô mệt mỏi, nghèn nghẹn: “Sư ơi, con tụng kinh mỗi ngày, cúng dường đủ thứ, lễ lạy cũng nhiều…Vậy mà sao trong nhà vẫn bất an, vợ chồng con cái vẫn hay gây gổ, Bản thân con thì cứ lo lắng mãi, chẳng thấy nhẹ lòng chút nào.” Rồi cô hỏi tôi: “Con đã làm đủ hết… mà sao Phật vẫn chưa độ con hả sư?” Tôi im lặng. Vì tôi biết… Đó không phải là câu hỏi dành cho tôi. Mà là lời thức tỉnh dành cho chính cô – và cho rất nhiều người khác cũng đang đi nhầm đường trong việc tu học.
Pháp âm
Pháp thoại
TÌM KIẾM
- Mệnh vận của nhân sinh là do nghiệp lực chiêu cảm mà ra. Chúng ta không nên để bẩm chất, thói quen dắt dẫn mình, cũng đừng để dục vọng, vật chất làm mê mờ. Mình cần phải sáng tạo vận mệnh, lèo lái vận mạng. Muốn sửa đổi vận mạng thì phải làm cho nhiều việc công đức. Lúc ấy, khi bạn gặp nạn tự nhiên điều lành sẽ tới. Ðiều dữ sẽ biến thành điều kiết tường. Rằng: Hãy làm việc tốt, chớ hỏi sẽ được kết quả gì trong tương lai.
- Ai ai cũng biết nhẫn nhục thì đưa mình tới bờ giải thoát. Nhưng khi gặp phải cảnh giới (chuyện nghịch với lòng mình) thì không thể nhẫn nhịn nổi. Lửa vô minh cao ba thước chỉ trong thoáng chốc đốt sạch hết mọi công đức tích lũy trong bao năm tháng.
- Hễ quán sát mà được tự tại thì thành Bồ Tát. Quán sát mà không được tự tại thì là phàm phu.
- Phải đối xử tốt với mọi người: Dùng lòng từ bi hỉ xả mà đối đãi họ. Với ai mình cũng phải có lòng từ bi. Dù cho y là kẻ xấu xa nhất đi nữa, mình cũng phải tỏ lòng từ bi, để cảm hóa họ. Nếu lần này cảm hóa chẳng đặng thì chờ lần sau sẽ cảm hóa nữa. Ðời này chẳng thể cảm hóa thì mình phát nguyện đời sau nhất định mình sẽ cảm hóa được y, khiến y sửa ác, làm lành. trong Kinh Hoa Nghiêm, Bồ Tát vì muốn độ một chúng sinh mà đi theo kẻ ấy không biết mấy đại kiếp. Bất kể là gian nan khốn khổ, nghịch cảnh gì ngài cũng chẳng thối tâm, một lòng mong muốn cảm hóa kẻ kia mà thôi.
- Muốn thành Phật mình nhất định phải đoạn trừ dục vọng , cắt đứt ái tình, thanh tâm, ít dục thì mới khai đại trí huệ được.
- Tu hành là tu cái gì? Chính là tu cái tâm. Tâm phải ra sao? Phải chuyên nhất. Rằng: Ðược M"T, vạn sự đều xong. Phải chuyên nhất ý chí tu hành. Ý niệm chuyên nhất rồi thì trí huệ mới khai mở. Ý niệm không chuyên nhất thì tâm sẽ hướng ngoại truy đuổi.
- Người tu đạo cần phải đừng nổi nóng. Ai chẳng có tánh nóng nảy thì hợp nhất với đạo, hợp nhất với pháp. Khi bạn không nóng nảy thì lòng sân hận sẽ chẳng có; khi lòng sân hận chẳng có thì bạn chẳng còn ngu si nữa. Vì sao mình ngu si? Bởi vì lòng sân hận của mình quá lớn. Một khi nổi nóng thì chuyện gì cũng không sợ cả: chẳng sợ trời, chẳng sợ đất. Lúc ấy mình bài bác lý nhân quả, điên đảo chuyện trắng đen, làm việc gì cũng không hợp với giới luật, không hợp với pháp luật, không hợp với nhân tình đạo lý.
- Người học Phật chúng ta trước hết siêng năng tu giới định huệ, trừ diệt tham sân si. Ðây là việc mỗi người cá nhân mình phải thực hành, áp dụng nơi thể xác này, thật sự dụng công. Không phải rằng mình kêu kẻ khác siêng năng tu giới định huệ, trừ diệt tham sân si, mà là phải tự mình chân thật tu hành.
- Không nên có tâm cuồng vọng, dã tâm, ngu si vọng tưởng nhiều như vậy. Cứ suy nghĩ loạn xạ là việc chẳng giúp ích gì trong chuyện tu hành.
- Muốn hiểu thấu cái mê muội của chính mình thì phải biết phản văn, văn tự tánh - xoay cái nghe lại để lắng nghe tự tánh.
- Tu thì phải biết từ tâm hạ khí. Từ tâm nghĩa là đối với ai mình cũng hiền từ, từ bi. Hạ khí nghĩa là không có cống cao ngã mạn, không có chấp trước vào bốn tướng. Phá trừ hết tất cả chấp trước đó thì mới tu Bồ Tát đạo được.
- Bạn hãy đọc kinh Không Nổi Nóng, đọc kinh Không Chửi Bới, đọc kinh Không Sân Giận. Ðọc được ba bộ kinh này rồi thì rất mau sẽ thành Phật.
- Người chân chính tu đạo thì: Cử động hành vi tự kiểm thúc, đi đứng nằm ngồi chẳng rời nhà. Ðừng nên làm cái gương, chỉ chuyên môn phản chiếu ảnh người ta (hiện lên trên gương) nhưng không tự phản chiếu chính mình.
- Người tu tập thiền định thì nơi nào lúc nào cũng phải tu tập thiền định. Nghĩa là cần phải thu nhiếp thân tâm, không buông lung, không tán loạn.
- Người xuất gia là gương tốt cho kẻ tại gia. Nếu bạn không làm gương tốt thì người tại gia sẽ không tin tưởng. Lúc ấy sức ảnh hưởng của bạn sẽ chẳng còn. Do đó người xuất gia cần phải làm gương tốt cho người tại gia.
- Người tu chúng ta nên ăn đồ đạm bạc, chẳng có mùi vị gì cả. Vậy thì mới phá được chấp trước, trừ được tật xấu của mình.
- Nếu mình không hao tán tinh khí thần thì có hay không có ăn uống không thành vấn đề nữa. Chính bởi vì mình ngày ngày cứ xoay chuyển trong cảnh giới hữu lậu nên mới cần phải ăn uống.
- Bạn nên thâm nhập tu trì một pháp môn: Người tọa thiền thì phải chuyên tâm trì chí học thiền tông. Người học giáo thì phải chuyên tâm trì chí học Giáo tông. Người học luật thì phải chuyên môn học Luật tông. Người tu trì chú thì phải chuyên tâm học Mật tông. Người tu niệm phật thì cũng phải chuyên tâm niệm Phật. Khi niệm tới chỗ nhất tâm không tạp loạn thì tuyệt đối bạn sẽ vãng sinh thế giới Cực Lạc. Bạn chớ nên vừa học thiền, lại muốn học giáo, lại muốn học luật, lại muốn học mật, lại muốn học tịnh. Khi bạn tham nhiều món thì khó mà nhai cho kỹ. Mình phải chuyên nhất tâm chí, dụng công tu hành thì mới thành tựu. Giống như bạn chỉ có một cái miệng, ngậm đầy mồm thức ăn, thì không làm sao nhai cho nát được. Miệng quá đầy, muốn ăn cơm cũng nuốt không vô. Học Phật cũng vậy: Bạn phải từ từ từng bước từng bước tuần tự, chầm chậm tiến lên. Ðừng ham mau ham lẹ. Rằng: Dục tốc, bất đạt - Muốn mau thì chẳng tới nơi.
- Chân chính nhẫn nại là sao? Ðối với những người không như bạn, địa vị của họ thấp hơn bạn, trí huệ của họ cũng kém bạn, học vấn cũng chẳng bằng: Thứ gì họ cũng thua bạn. Khi họ chẳng lịch sự, nhã nhặn tử tế đối xử với bạn, bạn có thể nhẫn nại thì đó chính là sự nhẫn nhục chân chính. Sự nhẫn nhục này không phải là sự nhẫn nhục đối với kẻ địa vị cao hơn bạn. Ðối với kẻ địa vị cao hơn: Bạn gọi là bị khuất phục, không phải nhẫn nại.
- Nổi nóng là ác. Không nổi nóng là thiện.
- Người học Phật không nên hướng ngoại: Ðông tây nam bắc, chỗ nào cũng đi đây đi đó, lãng phí hết thời gian.
- Vì sao người ta có bịnh? Vì lúc bình thường không chú trọng đến sức khỏe. Người tại gia nên bớt làm việc dâm dục, tăng cường việc thể dục, vận động. Ðó là căn bản của sức khỏe. Nếu bạn cứ suốt ngày hành dâm, không giữ phép tắc quy củ thì thân thể vĩnh viễn không thể khỏe khoắn được.
- Vật cực tất phản, bỉ cực thái lai - việc phát triển tới cực điểm thì sẽ quay ngược hướng, bế tắc đến cực điểm thì sẽ hanh thông. Phản giả: Ðạo chi động, nhược giả đạo chi dụng - Có việc tương phản thì (đạo) mới có chuyển động, cái hữu dụng (của đạo) nằm trong sự mềm yếu. Nếu bạn có thể nhìn bề trái của mọi chuyện để tìm điều hay điều tốt thì mọi sự sẽ OK, không có gì rắc rối.
- Lúc ăn uống, bất luận là đồ chín đồ sượng, đồ ngon đồ dở, không nên chấp trước vào mùi vị của nó.
- Người tu đạo ở nơi nào cũng phải biết tiết kiệm giữ phước, không nên lãng phí tiền bạc của cải. Làm như vậy lâu ngày chày tháng thì sẽ tích lũy đức hạnh cho chính mình. Do hạt giống tiết kiệm như vậy, sẽ sinh ra cây lá sum sê, quả trái cũng tràn đầy. Nếu không phân bón, tưới nước chăm sóc thì cây lá rất dễ khô héo rồi chết mất. Do đó người tu đạo phải chú trọng đến đức hạnh, là giới điều căn bản đệ nhất.
- Ở đời này, kẻ muốn cái giả thì vất bỏ cái thật đi. Bạn muốn tìm cái thật thì phải buông bỏ cái giả. Chẳng thể muốn tu pháp xuất thế mà chẳng buông bỏ pháp thế gian.
- Phật pháp là tôn giáo đề xướng lý vô ngã, không tán thành việc xem tướng, coi tử vi, bói toán, càng không tin vào phong thủy. Bởi vì những thứ ấy đi ngược lại với Phật pháp, ngược với đạo. Do đó mới cấm chỉ không phổ biến trong đạo. Khi mình tin vào những thứ ấy thì sẽ tồn tại cái ngã. Từ đó tất mọi chuyện đều từ cái ngã này có, đều vì cái ngã này mà tính toán. Có ngã, không có người, là lý chẳng phù hợp với Phật pháp.
- Pháp mà tôi thuyết thì giản dị nông cạn lắm. Pháp gì? Là pháp ăn uống, mặc áo quần, ngủ nghỉ. Do đó có người tới cầu pháp, tôi liền dạy họ nên ăn ít một chút, mặc ít một chút, ngủ ít một chút. Bởi vì: Bớt mặc thì tăng phước, bớt ăn thì tăng thọ, bớt ngủ thì tăng lộc. Nếu ba ngôi sao này (phước lộc thọ) cùng chiếu vào, chẳng phải đó cũng là Phật pháp sao?
- Trong gan nếu không lửa, (không nổi giận)
Bịnh gì cũng tránh thoát.
Ðây là thuốc nhiệm mầu,
Lại bị cất một xó. (không chịu dùng)
Ta bà ha!
- Chấp trước nghĩa là gì? Khi không tin vào nhân quả bạn sẽ sinh lòng chấp trước sâu dày. Thứ chấp trước này đưa tới việc hủy báng, cho rằng chẳng có lý nhân quả. Do vậy người Phật tử phải nhận diện rõ lý nhân quả. Vì sao cần tin sâu nhân quả? Không tin nhân quả, bạn khó làm người Phật tử. Không đọc tụng đại thừa kinh điển, thì sẽ không khai trí huệ.
- Thế nào là vọng tưởng? Tức là dục vọng tràn ngập.
- Siêng năng trì giới cần thực hành ở chỗ người ta không thể thấy. Không phải là siêng năng trước mặt kẻ khác, giữ giới trước mặt người ta. Phải tại nơi một mình bạn đơn độc, mà siêng năng trì giới.
- Hôm nay tu, nghĩ rằng mai thành Phật! Vừa cuốc đất đã tưởng đào xong giếng! Không có việc đó đâu! Tu hành thì như mài sắt thành kim, công phu đầy đủ thì tự nhiên thành tựu.
- Tôi sửa chữ Phật giáo thành Tâm giáo vì rằng ai ai cũng có tâm. Tu hành là bỏ vọng tâm, tồn chân tâm. Còn vọng tâm thì còn là phàm phu, có chân tâm thì là Phật.
- Khi tham thiền tới chỗ chín mùi thì chẳng những không còn vọng tượng mà tánh nóng cũng tiêu tan, phiền não giảm bớt, nhân phẩm sẽ cao vút, khí độ cũng thêm vĩ đại.
- Tông chỉ của Phật giáo là ai cũng có thể thành Phật. Những chúng sinh trong hiện tại là cha mẹ của mình trong quá khứ, đồng thời cũng là chư Phật trong tương lai. Nếu mình sinh lòng sân hận với chúng sinh thì cũng chính là sinh lòng sân hận cha mẹ và chư Phật vậy. Mình sẽ trở thành kẻ đại bất hiếu.
- Khi mình đang ở trong thời tai nạn bịnh hoạn nhiễu nhương, mình nên chân thật, thành khẩn dụng công tu hành thì mới biến khí xấu xa thành kiết tường, tai kiếp hóa ra bình an.
- Khi ở trong vòng sinh tử, mình muốn thoát sinh tử thì phải bỏ ra chút sức lực. Chẳng dễ dàng thoát sinh tử đâu. Dùng sức lực nghĩa là sao? Tức là làm bất kỳ chuyện gì mình phải chân thật làm nó. Gặp phải nghịch cảnh, càng khó khăn trắc trở, càng phải không động tâm, không nổi giận nóng nảy. Ðó tức là chăm sóc miếng đất trong tâm mình, hàm dưỡng bầu trời của tự tánh. Làm như vậy thì mình thêm vào chính khí giữa trời đất. Mình mới đúng là người chân chính tu đạo, thật sự tin Phật.
- Nhìn thủng tức là hiểu suốt; buông xả tức là giải thoát. Có giải thoát thì bạn mới tự tại. Không thể giải thoát thì bạn không thể tự tại. Tự chẳng tại là vậy.
- Tu hành chẳng phải chuyện gì khác đâu: Ngay nơi thân tâm tính mạng này mà dụng công phu.
- Pháp này là trừ tham sân si, tu giới định huệ. Bạn muốn đi tìm thứ huyền diệu, thì chỉ đi ngược lại với đạo. Ðạo này là: Tâm bình thường là đạo, tâm chính trực là đạo tràng.
- Người tu phải nhớ: Chẳng nên có nhân duyên quan hệ ô nhiễm với kẻ khác. Vì như vậy sẽ sinh triền nhiễm, trói buộc, rối bù, rốt cuộc sẽ làm bạn đọa lạc.
- Tôi chỉ hóa duyên lớn, không hóa duyên nhỏ (hóa duyên tức là đi xin). Thế nào là hóa duyên lớn? Tức là tôi muốn xin vô minh, sân giận, phiền não của các bạn. Khi các bạn không có ba thứ vô minh, sân giận, phiền não thì sẽ hưởng kiết tường như ý. Nếu có ba thứ ấy thì có hung thần, việc xấu. Do vậy các bạn à! Hãy buông xả chuyện bạn chẳng thể buông xả, việc bạn vất bỏ được càng nên vất bỏ gấp! Vất bỏ vô minh, nóng giận, phiền não thì bạn sẽ tốt thôi.
- Mục đích chủ yếu của tu hành là để liễu thoát sinh tử, không phải vì cầu cảm ứng.
- Người tham thiền cần nhận thức vấn đề căn bản. Ðó là gì? Tức là thói quen tật xấu. Khi mình đả thất, tức là đả (nghĩa là đánh) bẹp thói hư tật xấu.
- Bất kỳ việc gì nếu bạn xem nó thật bình thường, chẳng có gì quan trọng lắm thì bạn sẽ chẳng có gì rắc rối. Khi bạn cho chuyện này việc nọ là trọng yếu, là quan trọng lắm thì nó sẽ rắc rối.
- Tu đạo thì phải tu đạo đức chân chính, không trở ngại kẻ khác, cũng chẳng lo sợ kẻ khác trở ngại mình.
- Việc khó khăn nhất trong lúc tu là chặt đứt phiền não. Chặt đứt có nghĩa là biến, biến phiền não thành bồ đề.
- Xem nhẹ tài sắc danh thực thùy, coi nó chẳng có gì, quên nó đi, đó mới chính thật là người tu hành.
- Thế giới Cực Lạc là do tâm hiện ra. Tự tánh của ta là Tịnh Ðộ, tự tánh của ta là đức A Di Ðà. Khi không có vọng tưởng, thì tâm đó chính là Tịnh Ðộ. Khi không có phiền não, thì tâm ấy chính là A Di Ðà.
- Ðạo quý tại tâm chuyên nhất. Cũng như dụng binh quý ở tinh luyện, không phải ở số đông. Mỗi cử chỉ hành vi của mình không được rời xa tự tánh. Khi ở trong đại chúng thì phải giữ gìn lời lẽ, đề phòng sáu tên giặc (tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý). Ðừng để sáu tên giặc lôi đi.
nh điển hình
Kinh sách mới
Chú Lăng Nghiêm là Chú quan trọng nhất, hơn hết thảy trong các Chú. Bao gồm hết thảy thể chất và diệu dụng của Phật Pháp. Chú này chia làm năm bộ : Kim Cang bộ, Bảo Sinh bộ, Liên Hoa bộ, Phật bộ và Nghiệp bộ. Năm bộ Kinh này thuộc về năm phương : 1. Kim Cang bộ : Thuộc về phương Ðông, Ðức Phật A Súc là chủ. 2. Bảo Sinh bộ : Thuộc về phương Nam, Đức Phật Bảo Sinh là chủ. 3. Phật bộ : Thuộc về chính giữa, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là chủ. 4. Liên Hoa bộ : Thuộc về phương Tây, Đức Phật A Di Ðà là chủ. 5. Nghiệp bộ : Thuộc về phương Bắc, Đức Phật Thành Tựu là chủ.
Nếu người không có căn lành, thì đừng nói đến tụng niệm, dù ba chữ « Chú Lăng Nghiêm » cũng không nghe được, cũng không có cơ hội nghe được. Các vị bây giờ dùng máy vi tính tính thử xem, dùng thần não của bạn tính thử xem, hiện tại trên thế giới nầy, người tụng Chú Lăng Nghiêm nhiều, hay là người không biết tụng Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Người nghe được tên Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Hay là người không nghe được tên Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Cho nên các vị đừng xem mình là người rất bình thường, bạn đã nghe được Phật pháp, đây đều là trong vô lượng kiếp về trước đã từng gieo trồng căn lành, đắc được diệu pháp thâm sâu vô thượng, các vị đừng để pháp môn nầy trôi qua.
Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy còn gọi là Kinh Pháp Giới, cũng gọi là Kinh Hư Không, tận hư không khắp pháp giới, chẳng có một nơi nào mà chẳng có Kinh Hoa Nghiêm ở đó. Chỗ ở của Kinh Hoa Nghiêm tức cũng là chỗ ở của Phật, cũng là chỗ ở của Pháp, cũng là chỗ ở của Hiền Thánh Tăng. Cho nên khi Phật vừa mới thành chánh giác, thì nói bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, để giáo hoá tất cả pháp thân Ðại Sĩ . Vì bộ Kinh nầy là Kinh vi diệu không thể nghĩ bàn, do đó bộ Kinh nầy được bảo tồn ở dưới Long cung, do Long Vương bảo hộ giữ gìn. Về sau do Ngài Bồ Tát Long Thọ, xuống dưới Long cung đọc thuộc lòng và ghi nhớ bộ Kinh nầy, sau đó lưu truyền trên thế gian.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử ở chỗ Dạ Thần Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sinh, nghe môn giải thoát Phổ hỉ tràng, tin hiểu hướng vào, biết rõ tuỳ thuận, suy gẫm tu tập. Nhớ hết những lời dạy của thiện tri thức, tâm không tạm xả, các căn chẳng tán, một lòng muốn gặp được thiện tri thức. Siêng cầu khắp mười phương không giải đãi. Muốn thường gần gũi sinh các công đức, đồng một căn lành với thiện tri thức. Đắc được hạnh phương tiện thiện xảo của thiện tri thức. Nương thiện tri thức vào biển tinh tấn, trong vô lượng kiếp thường chẳng xa lìa. Nguyện như vậy rồi, bèn đi đến chỗ Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sinh Diệu Đức.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử một lòng muốn đi đến chỗ Ma Gia phu nhân, tức thời đắc được trí huệ quán cảnh giới Phật.Bèn nghĩ như vầy: Thiện tri thức nầy xa lìa thế gian. Trụ nơi không chỗ trụ, vượt qua sáu xứ. Lìa tất cả chấp trước. Biết đạo vô ngại, đủ tịnh pháp thân. Dùng nghiệp như huyễn mà hiện hoá thân. Dùng trí như huyễn mà quán thế gian. Dùng nguyện như huyễn mà giữ thân Phật. Thân tuỳ ý sinh, thân không sinh diệt, thân không đến đi, thân chẳng hư thật, thân chẳng biến hoại, thân không khởi tận, thân hết thảy tướng đều một tướng, thân lìa hai bên, thân không y xứ, thân vô cùng tận, ...
Tôi tin rằng bộ Kinh nầy được giảng lần đầu tiên tại nước Mỹ, các vị cũng là những người đầu tiên được nghe. Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, là vua trong các Kinh Phật, cũng là vua trong vua. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa cũng là vua trong các Kinh, nhưng không thể gọi là vua trong vua. Bộ Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật nầy, là vua trong vua, là bộ Kinh dài nhất trong Kinh điển đại thừa mà đức Phật nói, nhưng thời gian nói không dài quá, chỉ trong hai mươi mốt ngày, thì đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói xong bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ở trong năm tầng nghĩa lý huyền diệu, thì huyền nghĩa thứ nhất là giải thích tên Kinh. Bộ Kinh nầy dùng Diệu Pháp Liên Hoa làm tên. Diệu Pháp là pháp, Liên Hoa là ví dụ, vì Phật Pháp vi diệu thâm sâu, một số người không dễ gì hiểu nổi, cho nên dùng liên hoa (hoa sen) để ví dụ, do đó bộ Kinh nầy lấy pháp và dụ làm tên. Cứu kính thì diệu pháp là gì ? diệu đến cỡ nào ? tốt đến cỡ nào ? Nay tôi nói cho bạn biết, sự diệu nầy không thể dùng tâm suy nghĩ, không thể dùng lời bàn luận, không thể dùng tâm để dò, nghĩ cũng nghĩ không hiểu nổi; nghĩ muốn hiểu biết thì nói không đến được sự diệu của nó.
Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất hớn hở vui mừng, bèn đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, mà bạch Phật rằng : Hôm nay nghe đức Thế Tôn nói pháp nầy, tâm con rất hớn hở được chưa từng có. Tại sao ? Vì xưa kia con theo Phật nghe pháp như vầy : Thấy các vị Bồ Tát được thọ ký sẽ thành Phật, mà chúng con chẳng được dự vào việc đó, rất tự cảm thương, mất đi vô lượng tri kiến của Như Lai. Ðức Thế Tôn ! Con thường một mình ở dưới gốc cây nơi rừng núi, hoặc ngồi hoặc đi kinh hành, bèn nghĩ thế nầy : Chúng con đồng vào pháp tánh, tại sao đức Như Lai dùng pháp tiểu thừa mà tế độ ? Ðó là lỗi của chúng con, chứ chẳng phải đức Thế Tôn vậy.
Quyển Ý Nghĩa Đời Người này rất thâm thuý, tuy cố H.T Tuyên Hoá thuyết giảng lời lẽ giản dị, mộc mạc, nhưng nghĩa lý rất cao thâm huyền diệu, đi vào tâm người. Nếu người tu học, đọc hết quyển sách này, y theo trong đó mà thực hành, thì sẽ giác ngộ được ít nhiều ngay trong đời này, không cần phải tìm cầu đâu xa vời. Đặc biệt cố Hoà Thượng nhấn mạnh về Sáu Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thành đó là : Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tư lợi, không nói dối. Sáu đại tông chỉ này cũng có thể nói là kim chỉ nam của người tu hành, dù xuất gia, hay tại gia, đều lợi lạc vô cùng, nhất là thời đại ngày nay.