|
|
|
|
|
|
Bước vào đời sống xuất gia, người anh Mahapanthaka siêng năng tu hành và chứng được Thánh quả Alahán, được tràn đầy niềm hoan hỷ trong pháp lạc. Ngài nghĩ đến người em Culapanthaka của mình và quan sát thấy em mình cũng có đầy đủ căn cơ để chứng Alahán. Thế là ngài liền quay về xin ông ngoại cho em cũng được đi xuất gia. Ông ngẫm đi ngẫm lại rồi cũng đồng ý bởi nhà ông rất đông kẻ hầu người hạ, ông không sợ chẳng có ai chăm, vả lại đi tu theo Phật là điều cao quý, mọi người đều kính ngưỡng, ông xem đó cũng là vinh dự.
...Khi Phật nhập Niết bàn – cõi tịch tịnh không hình không sắc, thì sẽ không ai còn có thể thấy Người được nữa. Biết chỉ còn cơ hội cuối cùng để gặp Phật, vua trời Đế Thích đã gác lại công việc, hiện xuống trần gian, thu thân mình nhỏ lại bằng với thân của con người xin được chăm sóc Đức Phật. Thân hình của các chư Thiên trên cõi trời lớn gấp nghìn lần so với con người, do đó để tiếp xúc với cõi người, họ đều phải thu nhỏ thân hình lại. Vua trời Đế Thích cũng vậy, ông hiện thân bằng thân người và tha thiết xin được hầu Phật những ngày cuối cùng. Ông nấu cơm, rửa chén, và đặc biệt là phần phân mà Phật bài tiết ông đều giành đi đổ, không cho ai làm.
Vào mùa an cư kiết hạ, chư Tăng thường tập trung lại một nơi để tĩnh tu. Sau mùa an cư, ngài Xá Lợi Phất dẫn một nhóm tỳ kheo đến từ giã Phật và đại chúng để lên đường đi giáo hóa ở một nơi khác. Trong cung cách khiêm cung hòa ái, ngài đắp y mang bát đến đảnh lễ Phật và chào hết các tỳ kheo huynh đệ của mình, từ những vị lớn cho đến các tỳ kheo trẻ. Do ngài là bậc lãnh chúng nên mọi người cũng kính trọng và chen chúc đến chào. Nhưng trong lúc đông người, ngài đã chào sót một vị. Và khi ngài đang xoay người đi thì túi y ở phía sau vô tình chạm vào mặt vị tỳ kheo kia,
Một buổi chiều ở tinh xá Kỳ Viên, chư Tăng vân tập về giảng đường dần. Các tỳ kheo Ni cũng qua rất đông để mong được nghe Đức Phật thuyết pháp. Đức Phật đến, chư Tăng quỳ chắp tay xá chào. Đức Phật ngồi lên pháp tòa, và nói chuyện. Đức Phật bảo: - Này các tỳ kheo, thế nào là người ngu si? Đừng nghĩ rằng người ngu si là người ít hiểu biết các kiến thức trên đời. Người ngu si là người chọn làm điều ác độc, sai trái trong khi lẽ ra có thể chọn làm điều thiện lành hơn. Đủ tam nghiệp thân khẩu ý đều bất thiện thì đây đúng là kẻ ngu si hoàn toàn.
Có nhiều độc giả ở vào lứa tuổi trên dưới 70 gửi thư cho tôi hỏi là có nên về Việt Nam sống nốt những ngày còn lại trên cõi thế này không? Vì dù sao quê hương vẫn là nơi ta sinh ra tại đó. - Biết bao kỷ niệm thân thương, yêu dấu dù đi khắp bốn phương trời hằng mấy chục năm vẫn không thể nào quên. Nhất là khi tuổi đời chân đã vấp hoàng hôn, thân thể hao mòn không còn đủ “nội lực” để đi tiếp, để thực hiện những giấc mộng vàng nơi xứ người.
Khu hội chợ rất náo nhiệt, buôn bán tấp nập, người xem đông đúc. Sau đó các thanh niên dừng lại xem diễn kịch. Người xem nức nở, buồn vui theo các diễn viên. Sariputta và Moggallana đứng nhìn đầy ưu tư. - Moggallana à, trò đời vui buồn bất ổn, thương ghét đổi thay, chẳng có gì là vĩnh cửu cả. Có lẽ chúng ta phải tìm đường tu hành giải thoát. - Sariputta à, tôi nghĩ ta nên đến với tôn sư Sanjaya, một du sĩ điềm đạm chuẩn mực được nhiều người kính trọng. Còn Nigantha sống lõa lồ không thích hợp với chúng ta, trông có vẻ man rợ hơn là siêu thoát.
Nói đến Tài Chính tức là nói đến tiền bạc, vật chất. Và nói đến tiền bạc, vật chất chính là nói đến những điều hết sức trần tục, khô khan dễ tạo thành cái tà kiến trong vô số người rằng. Tu hành đừng bận tâm về tiền bạc, tài chính vì đó là tham lam, ích kỷ. Tu là phải bố thí sạch, còn để dành tiền tức là còn ích kỷ. Còn vấn vương sự nghiệp tức là còn vướng bụi trần. Chính vì hiểu sai về Tài Chính nên rất đông Phật Tử mắc quả báo Nghèo Khổ. Và nghèo khổ là gì? Là thiếu phước. Tại sao thiếu phước? Vì hiểu sai, hiểu tà, hiểu nhầm về đạo lý.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
- Kinh Lăng Nghiêm là cốt tủy của đạo Phật. Người không có xương cốt thì hẳn phải chết. Ðạo Phật mà thiếu Kinh Lăng Nghiêm thì có thể nói rằng không có Phật pháp.
- Bạn ăn chúng sinh nào nhiều thì bạn có nhiều chủng tử của chúng sinh đó trong người mình. Tức là bạn thành bà con với chúng. Khi nhân duyên với chúng quá sâu thì sự gắn bó sẽ không thể nào tách rời được.
- Ăn thịt heo nhiều thì bạn có cơ hội rất lớn sẽ làm heo. Ăn thịt bò nhiều thì bạn cũng sẽ có nhiều cơ hội làm bò. Ăn nhiều cơm, phải chăng biến thành gạo? Gạo là loài vô tình, còn chúng sinh là loài hữu tình. Nếu ăn chúng sinh hữu tình thì mình sẽ sinh làm loài chúng sinh hữu tình ấy. Ăn thứ vô tình, chẳng những mình không biến thành gạo, thành rau, thành cỏ, mà thật sự nuôi dưỡng pháp thân huệ mạng đúng đắn nhất.
- Kinh Lăng Nghiêm là bảo giám của người tham thiền. Ai tu đạo cũng nên nghiên cứu sâu xa kinh này.
- Không nên xía vào chuyện người khác. Cứ nói: Cô ta không tốt, anh ta ác lắm! Ðừng tìm lỗi lầm của người khác, mà nên trừ vọng tưởng thành kiến trong đầu mình. Dù là chuyện xứng tâm duyệt ý đi nữa, nó cũng chỉ là một vọng tưởng vui sướng trong đầu. Do đó phải nhìn cho thủng, buông xả nó, để chứng đắc trung đạo liễu nghĩa.
- Ðời mạt Pháp, căn tánh của chúng sinh rất thấp kém, không thích hợp với nhiều pháp môn. Chỉ có pháp Niệm Phật là thích hợp với hết thảy căn cơ. Ba hạng căn cơ (cao, vừa, thấp) đều hợp, kẻ ngu người trí đều được.
- Ðôi khi chúng ta cho mình là làm việc tốt, nhưng kỳ thật thì không phải như vậy. Ðó là vì sao? Vì chủng tử (của việc mình làm) là bất tịnh.
- Vì sao có sinh tử? Vì có vọng tưởng.
- Khi bạn lạy đức Quan Âm, Niệm danh đức Quan Âm, bạn hãy phản tỉnh xem mình có tánh nóng giận không? Phải chăng thói hư tật xấu của mình chưa trừ? Nếu như vậy thì dù mình lạy tới kiếp vị lai, niệm danh hiệu đến hết kiếp thì cũng không sao gặp đức Quan Âm đâu.
- Nếu bạn hiểu giới luật thì sẽ thâm nhập vào mọi pháp Phật. Nếu bạn không hiểu giới luật thì bạn cũng giống như mây phiêu dạt trên trời, chẳng chút nền tảng cơ bản gì hết.
- Vì sao bây giờ thế giới vấn đề của em trẻ rắc rối tràn lan như vậy? Vì cha mẹ sinh con mà không biết dạy con.
- Nếu bạn có đầy lòng nhân, nghĩa, lễ, trí thì mặt bạn sẽ hiện ra một thứ đức tướng, một thứ công đức.
- Trí huệ bát nhã của người ngu và kẻ trí thì chẳng khác nhau. Cái khác là một người thì biết dùng, một người thì chẳng biết dùng (trí bát nhã).
- Nếu bạn thường hồi quang phản chiếu, thấy tự tánh, thường sinh trí bát nhã thì đó là công. Bạn dùng trí bát nhã ấy ứng dụng khắp nơi, biến hóa vô cùng, nhưng không bị nhiễm trước, không làm việc bất tịnh, thì đó là đức.
- Phải nhận biết cảnh giới, chớ chấp trước vào cảnh giới. Vô luận là cảnh thiệt hay giả, bạn không thể chấp trước. Nếu bạn chấp trước thì cảnh thiệt cũng biến thành giả. Nếu không chấp trước, cảnh giả cũng biến thành thiệt.
- Chú Lăng Nghiêm là vua của các chú, cũng là chú dài nhất. Chú này có quan hệ đến sự hưng suy của Phật giáo. Trên thế giới nếu còn có người trì tụng chú Lăng Nghiêm thì còn tồn tại chánh pháp. Không ai trì tụng chú Lăng Nghiêm thì chánh pháp diệt mất. Chú Lăng Nghiêm là do hóa Phật trong quang minh phóng ra từ đỉnh đầu của đức Thích Ca. Do đó chú này kỳ diệu không thể tả xiết. Mỗi chữ mỗi chữ đều áo diệu khôn lường.
- Tham cầu danh thì bị lửa đốt chết. Tham cầu lợi thì bị nước dìm chết. Tham cầu vinh hoa phú quý thì bị gió thổi chết.
- Bất luận là sám hối với ai, bạn cũng phải nói cho rõ ràng, không được nói mơ hồ, khiến người nghe diễn dịch đàng nào cũng được.
- Không ai tránh đặng sinh, lão, bịnh, tử. Sinh là do đâu? Từ trời sinh ra? Ðất sinh ra? Người sinh ra? Tự nhiên sinh ra? Sinh ra rồi thì ta là gì? Trách nhiệm của ta là gì? Nghĩa vụ ta phải làm là gì? Thiên chức của ta là gì? Những việc trên mình phải nghĩ cho rõ, đừng uổng phí kiếp làm người.
- Bạn phải nhất định học thuộc chú Lăng Nghiêm. Không những bạn có thể liễu thoát sinh tử, mà còn tránh được ma nạn, tai họa và cứu độ chúng sinh.
- Ðồng tính luyến ái là yêu nghiệt, đi ngược lại với thiên tánh, ngược lại luân lý, ngược lại sinh lý.
- Muốn thành Phật thì phải học Phật pháp.
- Thứ mình xứng đáng có, thì mình sẽ được nó. Thứ mà mình không xứng đáng có thì mình chớ vọng tham cầu. Mình phải giữ khoảng cách, trách nhiệm. Không nên ích kỷ, không nên tự lợi hay nói dối. Làm vậy thì thế giới mới hòa bình. Bạn không muốn nó thái bình, nó cũng thái bình. Không muốn nó bình an, nó cũng bình an. Vì sao bây giờ không bình an? Vì ai cũng hướng ngoại truy cầu, không biết hồi quang phản chiếu, tìm đáp án nơi chính mình.
- Lúc nào mình cũng phải có tâm trong sạch như trẻ thơ. Giữ như em trẻ, lúc nào cũng không già, thì mình sẽ không bao giờ chết. Do vậy muốn mạnh khỏe, trường thọ, thì chỉ cần bạn buông bỏ tài sắc danh thực thùy, thì cái chân thật sẽ hiện bày ngay.
- Bất luận là tiểu thừa, đại thừa hay Phật thừa, thừa nào cũng dạy mình đầu tiên phải trừ bỏ thói hư tật xấu, vô minh phiền não, tham sân si. Nếu bạn bỏ những thứ thói xấu ấy đi thì tự nhiên sẽ tương ưng với ý nghĩa trong kinh. Nếu tật xấu không trừ thì sẽ không hiểu được nghĩa kinh đâu.
- Bạn nhìn xem: Bạn là bậc nhất rồi đó, nhưng có làm sao đâu? Bạn phát tài rồi đấy, nhưng có ích gì?
- Khi quan sát người tu đạo, bạn nhìn chỗ nào? Bạn xem y có giữ giới luật hay không. Nếu y không giữ giới luật, y nhất định là ma. Nếu y giữ giới, đặc biệt nghiêm minh, thì y đúng là tín đồ của Phật.
- Rắc rối ở trên đời do đâu mà ra? Do người ta ai cũng ích kỷ. Ích kỷ bắt nguồn từ đâu? Bắt đầu từ nơi dục Niệm.
- Tu đạo, bất kỳ thứ gì cũng đừng tham. Tốt không tham, xấu càng không tham. Lấy tâm bình thường làm đạo tràng. Lúc nào cũng bình thường, chẳng tham muốn gì cả. Hễ tham là sai lầm.
- Nếu nhận thức của bạn về nóng và lạnh không khác biệt thì nóng lạnh không tồn tại. Nếu nóng lạnh không tồn tại thì có ai đó để cảm giác về nó? Các cặp đối tượng khác thì đạo lý cũng như vậy. Nếu mình chẳng khởi tâm phân biệt sự vật thì sự an tĩnh vốn có của tự tâm sẽ không bị quấy nhiễu.
- Hậu quả của nghiệp sát nặng nề là sẽ hình thành thiên tai nhân họa. Hoặc là động đất, hoặc là sóng thần, hoặc là thời tiết thất thường, quá nóng, quá lạnh, cho tới mưa gió bất định, đủ hiện tượng mà đất nước, nhân dân không chút thanh bình an lạc.
- Trẻ em thì giống như cây non lớn lên. Cành nhánh mọc lộn xộn thì phải tém cho gọn để nó có thể mọc cao lớn, sau này gỗ có thể dùng làm rường cột.
- Con người nằm mộng thì không biết mình đang mộng. Tỉnh dậy mới biết là mộng. Lúc nào thì tỉnh mộng? Khi khai ngộ. Tu làm sao? Thì tu học Phật pháp. Phật pháp là gì? Nói gọn là cái chìa khóa. Ngày ngày mình chạy đi tìm cái chìa khóa này. Chìa khóa này là gì? Là trí huệ bát nhã. Tìm ra chìa khóa trí huệ thì mình có thể mở tung ổ khóa vô minh. Lúc ấy mình sẽ giải thoát, tức là tỉnh dậy từ cơn mộng giả huyễn.
- Ðồ còn dùng được mà mình vất đi thì tức là lãng phí vật chất. Trên thế giới này vật chất dùng đã hao tổn gần hết. Nếu mình không biết tiết kiệm thì tương lai thật nguy hiểm.
- Ở đời bất luận là việc tốt hay xấu đều dạy mình giác ngộ. Việc tốt thì dạy mình chuyện tốt. Việc xấu thì dạy mình chỗ sai lầm của nó.
- Hãy đặc biệt chú ý đến mỗi câu chú Lăng Nghiêm. Ðừng khinh thường nó. Ðây là diệu pháp tất khó gặp trong trăm ngàn vạn ức kiếp đó. Các bạn cho rằng trên thế giới có rất nhiều người thuyết giảng về chú Lăng Nghiêm ư? Chẳng có ai.
- Vọng niệm là ý tưởng không chân thật, hư vọng không tự tánh. Kẻ điên đảo thì biết việc này không đúng mà cứ cố ý làm, lại còn biện hộ, nói việc này là đúng.
- Người đời ai cũng bận rộn, lăng xăng hoài. Xuất phát điểm của họ không ngoài lòng ích kỷ, rằng phải bảo vệ sinh mạng và tài sản của mình. Phật pháp thì đại công, không riêng tư, chỉ nhắm vào lợi ích kẻ khác thôi.
- Nghe giảng kinh thì bạn sẽ có cái kính chiếu yêu. Yêu ma quỷ quái hiện hình là bạn biết ngay.
- Người tu phải phát nguyện cho chân chánh. Phát nguyện từ lòng thành, rồi theo nguyện ấy mà nỗ lực thật hành.
- Nếu bạn chỉ còn một tâm thái đại công vô tư, không ham mau, không muốn hơn kẻ khác, chỉ chuyên tâm nhất chí, thì ma gì cũng không thể hại bạn.
- Người tu phải thanh tịnh như tròng mắt của mình, không thể để dính bụi. Nếu mắt có bụi thì chắc hẳn sẽ khó chịu, phải tìm cách rửa cho sạch. Nếu không thì thâm tâm không an. Tu đạo thì cũng tương tợ. Bụi là gì? Là lòng tham. Có lòng tham thì mọi chuyện sẽ dấy khởi biến động. Mình vốn thanh tịnh, nhưng vì ý niệm tham lam, nên phản ứng hóa học phát sinh, khiến nước trong biến đục, tâm thanh thành trược. Lúc ấy mình chẳng thể giúp ai, mà ngược lại còn tự hại. Mục đích chủ yếu của người tu là liễu sinh thoát tử, không phải vì cầu có cảm ứng mới tu hành. Bạn nên nhớ: Chẳng thể có mưu đồ lúc tu hành. Vì mong cầu thành tựu, mong cầu cảm ứng mà tu: Ðó là sai lầm to lớn lắm.
- Nếu có trí thì bạn như mặt trời. Có huệ thì bạn như mặt trăng.
- Nếu nói động vật là để người ta ăn. Vậy loài người thì để loài gì ăn?
- Mỗi lời nói mỗi hành động của chúng sinh trong cõi Ta Bà này đều là tham, sân si. Trong phạm vi pháp thế gian, họ dùng tham sân si mà hành sự. Ðến khi tu pháp xuất thế gian, họ cũng dựa vào tham sân si mà tu hành. Nào là họ tham khai ngộ; ngồi thiền hai ngày rưỡi là đã muốn khai ngộ. Tu chút xíu là muốn thần thông. Niệm Phật mới mấy ngày là muốn đắc niệm Phật tam muội. Bạn xem tâm tham lam lớn như vậy, đều là do con quỷ tham lam biểu hiện đó.
- Tu thì như trèo cây sào trăm trượng: Tuột xuống thì dễ, trèo lên thì khó như lên trời. Bất luận gặp cảnh giới gì, nếu bạn không xuyên thủng được nó thì rất dễ gặp ma chướng. Sơ hở chỉ tại một niệm mà thôi. Một niệm sai là một niệm tà, thiên ma ngoại đạo liền vào tâm phủ của bạn. Nếu có chánh niệm thì Phật sẽ hợp nhất với bạn. Lục Tổ Ðàn kinh dạy: Lúc chánh niệm thì Phật trong phòng; Lúc tà niệm thì ma tại nhà. Chính là đạo lý như thế.
- Thích ăn ngon cũng là do có một cái oan nghiệp dắt dẫn. Nó khiến bạn vui thích hy sinh tánh mạng của vật khác để bồi bổ cho tánh mạng của chính mình.
- Ðịa ngục không phải tự nhiên có sẵn, chuẩn bị sẵn sàng để mình rớt xuống đó đâu. Làm sao có nó? Do nghiệp của mình hiện ra. Nếu bạn tạo nghiệp địa ngục thì có địa ngục hiện ra.
- Nếu bạn chân thành đọc tụng kinh điển thì thường có chư thiên tán hoa, mùi hương thơm lạ tỏa khắp, quỷ thần cung kính cúng dường.
- Bạn muốn biết cảnh giới ấy thật hay giả, người đó là Bồ Tát hay là ma. Bạn có thể từ chỗ này mà nhìn: Thứ nhất, y có lòng dâm dục hay không? Thứ hai y có lòng tham lam hay không? Tham lam tức là tham tài, tham sắc. Nếu có y chẳng phải là của thật.
- Tết năm nay tôi cho các bạn thấy tờ giấy lau miệng của tôi đã dùng bốn lần rồi mà vẫn còn xài. Bạn nghĩ xem trên đời còn ai hà tiện như tôi chăng? Không phải chỉ có giấy, bất kỳ thứ gì tôi cũng không lãng phí. Tuy việc này nhỏ, song hy vọng các bạn chú ý, đừng nên lãng phí tài nguyên của thế giới.
- Chữ nhục gồm có hình một người bị ăn và một người ăn thịt. Người ăn thịt thì ở bên ngoài, và vẫn còn là người. Người bị ăn thì ở bên trong, nhưng đã biến thành con vật. Người ăn thịt và kẻ bị ăn thì có một mối quan hệ mật thiết, một mối oan kết không thể giải trừ, ràng buộc lẫn nhau.
- Trí huệ và ngu si không phải là hai thứ. Chúng như hai mặt của bàn tay. Lật bên này: Trí huệ; trở qua bên kia: Ngu si.
- Mê tín phật pháp thì tuy là mê tín, không hiểu biết gì, nhưng ít ra vẫn còn có lòng tin. Nếu bạn tin mê thì tuy có lòng tin nhưng bạn tin vào thứ tà đạo, thứ đạo mê hoặc lòng người, thứ đạo không chân chính. Lòng tin ấy mới là nguy tai.
- Nhà cần nhỏ một chút, tiền cần ít một chút, người cần tốt một chút, nghiệp cần sạch một chút.
- Kinh Hoa Nghiêm là kinh của Pháp Giới, của hư không. Tận cùng hư không trùm phủ khắp pháp giới, không chỗ nào mà chẳng có Kinh Hoa Nghiêm. Kinh này ở đâu thì Phật ở đó, pháp cũng ở đó và chư Thánh hiền tăng cũng ở đó.
- Nếu trên thế giới còn một người niệm chú Lăng Nghiêm thì thế giới sẽ không bị hủy diệt. Pháp cũng không bị hủy diệt. Chừng nào trên đời chẳng còn ai trì tụng chú Lăng Nghiêm nữa thì khi đó Phật pháp sẽ phải tận diệt.
- Tôi thường nói với các bạn: Chết cho mau! Ý là nói bạn phải làm chết vọng tưởng đi, chớ nên ngày ngày khởi vọng tưởng. Khởi vọng tưởng thì làm sao tu hành? Tâm vọng tưởng chết rồi thì tâm từ bi sẽ lớn mạnh, trí huệ và nguyện lực cũng lớn mạnh.
- Tu thì cũng như bơi lội. Nếu bạn có sức lực, kỷ thuật bơi giỏi, thì có thể bơi ngược giòng, tới bờ bên kia an toàn. Nếu bạn sức yếu, bơi không giỏi, thì sẽ bị giòng nước nghịch đẩy lùi. Chẳng những không tới được bờ, có khi còn chết chìm.
- Người tốt thì không oán ghét ai. Kẻ xấu mới oán ghét người khác.
|
Kinh sách mới
Chú Lăng Nghiêm là Chú quan trọng nhất, hơn hết thảy trong các Chú. Bao gồm hết thảy thể chất và diệu dụng của Phật Pháp. Chú này chia làm năm bộ : Kim Cang bộ, Bảo Sinh bộ, Liên Hoa bộ, Phật bộ và Nghiệp bộ. Năm bộ Kinh này thuộc về năm phương : 1. Kim Cang bộ : Thuộc về phương Ðông, Ðức Phật A Súc là chủ. 2. Bảo Sinh bộ : Thuộc về phương Nam, Đức Phật Bảo Sinh là chủ. 3. Phật bộ : Thuộc về chính giữa, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là chủ. 4. Liên Hoa bộ : Thuộc về phương Tây, Đức Phật A Di Ðà là chủ. 5. Nghiệp bộ : Thuộc về phương Bắc, Đức Phật Thành Tựu là chủ.
Nếu người không có căn lành, thì đừng nói đến tụng niệm, dù ba chữ « Chú Lăng Nghiêm » cũng không nghe được, cũng không có cơ hội nghe được. Các vị bây giờ dùng máy vi tính tính thử xem, dùng thần não của bạn tính thử xem, hiện tại trên thế giới nầy, người tụng Chú Lăng Nghiêm nhiều, hay là người không biết tụng Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Người nghe được tên Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Hay là người không nghe được tên Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Cho nên các vị đừng xem mình là người rất bình thường, bạn đã nghe được Phật pháp, đây đều là trong vô lượng kiếp về trước đã từng gieo trồng căn lành, đắc được diệu pháp thâm sâu vô thượng, các vị đừng để pháp môn nầy trôi qua.
Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy còn gọi là Kinh Pháp Giới, cũng gọi là Kinh Hư Không, tận hư không khắp pháp giới, chẳng có một nơi nào mà chẳng có Kinh Hoa Nghiêm ở đó. Chỗ ở của Kinh Hoa Nghiêm tức cũng là chỗ ở của Phật, cũng là chỗ ở của Pháp, cũng là chỗ ở của Hiền Thánh Tăng. Cho nên khi Phật vừa mới thành chánh giác, thì nói bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, để giáo hoá tất cả pháp thân Ðại Sĩ . Vì bộ Kinh nầy là Kinh vi diệu không thể nghĩ bàn, do đó bộ Kinh nầy được bảo tồn ở dưới Long cung, do Long Vương bảo hộ giữ gìn. Về sau do Ngài Bồ Tát Long Thọ, xuống dưới Long cung đọc thuộc lòng và ghi nhớ bộ Kinh nầy, sau đó lưu truyền trên thế gian.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử ở chỗ Dạ Thần Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sinh, nghe môn giải thoát Phổ hỉ tràng, tin hiểu hướng vào, biết rõ tuỳ thuận, suy gẫm tu tập. Nhớ hết những lời dạy của thiện tri thức, tâm không tạm xả, các căn chẳng tán, một lòng muốn gặp được thiện tri thức. Siêng cầu khắp mười phương không giải đãi. Muốn thường gần gũi sinh các công đức, đồng một căn lành với thiện tri thức. Đắc được hạnh phương tiện thiện xảo của thiện tri thức. Nương thiện tri thức vào biển tinh tấn, trong vô lượng kiếp thường chẳng xa lìa. Nguyện như vậy rồi, bèn đi đến chỗ Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sinh Diệu Đức.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử một lòng muốn đi đến chỗ Ma Gia phu nhân, tức thời đắc được trí huệ quán cảnh giới Phật.Bèn nghĩ như vầy: Thiện tri thức nầy xa lìa thế gian. Trụ nơi không chỗ trụ, vượt qua sáu xứ. Lìa tất cả chấp trước. Biết đạo vô ngại, đủ tịnh pháp thân. Dùng nghiệp như huyễn mà hiện hoá thân. Dùng trí như huyễn mà quán thế gian. Dùng nguyện như huyễn mà giữ thân Phật. Thân tuỳ ý sinh, thân không sinh diệt, thân không đến đi, thân chẳng hư thật, thân chẳng biến hoại, thân không khởi tận, thân hết thảy tướng đều một tướng, thân lìa hai bên, thân không y xứ, thân vô cùng tận, ...
Tôi tin rằng bộ Kinh nầy được giảng lần đầu tiên tại nước Mỹ, các vị cũng là những người đầu tiên được nghe. Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, là vua trong các Kinh Phật, cũng là vua trong vua. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa cũng là vua trong các Kinh, nhưng không thể gọi là vua trong vua. Bộ Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật nầy, là vua trong vua, là bộ Kinh dài nhất trong Kinh điển đại thừa mà đức Phật nói, nhưng thời gian nói không dài quá, chỉ trong hai mươi mốt ngày, thì đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói xong bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ở trong năm tầng nghĩa lý huyền diệu, thì huyền nghĩa thứ nhất là giải thích tên Kinh. Bộ Kinh nầy dùng Diệu Pháp Liên Hoa làm tên. Diệu Pháp là pháp, Liên Hoa là ví dụ, vì Phật Pháp vi diệu thâm sâu, một số người không dễ gì hiểu nổi, cho nên dùng liên hoa (hoa sen) để ví dụ, do đó bộ Kinh nầy lấy pháp và dụ làm tên. Cứu kính thì diệu pháp là gì ? diệu đến cỡ nào ? tốt đến cỡ nào ? Nay tôi nói cho bạn biết, sự diệu nầy không thể dùng tâm suy nghĩ, không thể dùng lời bàn luận, không thể dùng tâm để dò, nghĩ cũng nghĩ không hiểu nổi; nghĩ muốn hiểu biết thì nói không đến được sự diệu của nó.
Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất hớn hở vui mừng, bèn đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, mà bạch Phật rằng : Hôm nay nghe đức Thế Tôn nói pháp nầy, tâm con rất hớn hở được chưa từng có. Tại sao ? Vì xưa kia con theo Phật nghe pháp như vầy : Thấy các vị Bồ Tát được thọ ký sẽ thành Phật, mà chúng con chẳng được dự vào việc đó, rất tự cảm thương, mất đi vô lượng tri kiến của Như Lai. Ðức Thế Tôn ! Con thường một mình ở dưới gốc cây nơi rừng núi, hoặc ngồi hoặc đi kinh hành, bèn nghĩ thế nầy : Chúng con đồng vào pháp tánh, tại sao đức Như Lai dùng pháp tiểu thừa mà tế độ ? Ðó là lỗi của chúng con, chứ chẳng phải đức Thế Tôn vậy.
Quyển Ý Nghĩa Đời Người này rất thâm thuý, tuy cố H.T Tuyên Hoá thuyết giảng lời lẽ giản dị, mộc mạc, nhưng nghĩa lý rất cao thâm huyền diệu, đi vào tâm người. Nếu người tu học, đọc hết quyển sách này, y theo trong đó mà thực hành, thì sẽ giác ngộ được ít nhiều ngay trong đời này, không cần phải tìm cầu đâu xa vời. Đặc biệt cố Hoà Thượng nhấn mạnh về Sáu Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thành đó là : Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tư lợi, không nói dối. Sáu đại tông chỉ này cũng có thể nói là kim chỉ nam của người tu hành, dù xuất gia, hay tại gia, đều lợi lạc vô cùng, nhất là thời đại ngày nay.
|
|
|