Thông tin
Các bài mới
“Bạch Tôn giả Tu Bồ Đề, chúng con vẫn thường nghe các vị Thánh Tăng ngợi ca Tôn giả là bậc Giải Không đệ nhất. Hôm nay, Tôn giả đã thỏa lòng chúng con mà soi rọi sáng tỏ chỗ sâu xa của nghĩa Không, để chúng con không còn bị lầm đường nữa. Chúng con xin thành tâm tán dương công đức của Người vô cùng ạ”. – Tác bạch xong, vua trời Đế Thích cùng hàng nghìn Thiên tử, hào quang sáng ngời, chắp tay cung kính hướng về Tôn giả Tu Bồ Đề. Đó là khung cảnh huy hoàng trên cung trời Tam Thập Tam,  
Trong thế giới huyên náo đầy biến động, con người thường tìm kiếm sự bình an, hạnh phúc và giải thoát nơi bên ngoài – qua vật chất, danh vọng, tri thức. Tuy nhiên, Phật giáo chỉ ra rằng chân lý và an lạc vĩnh hằng không nằm đâu xa, mà ẩn tàng ngay trong chính tự tánh của mỗi người. Tự tánh – hay còn gọi là bản tánh, chân tâm, Phật tánh – là nền tảng của sự tu hành, và là cội nguồn của sự giác ngộ. 1. Tự tánh là gì? Tự tánh là bản chất thanh tịnh, sáng suốt và không bị ô nhiễm vốn sẵn có trong mỗi con người. Đây không phải là thứ có thể tạo ra hay tìm thấy từ bên ngoài, mà là thứ luôn hiện hữu, chỉ vì vọng tưởng, si mê mà ta chưa nhận ra.
Thời Đức Phật, tại làng nọ có một gia đình sinh được một cô con gái rất xinh đẹp. Người cha biết coi tướng số. Nhìn con gái quý tướng đầy đặn, ông nói rằng, con gái ông phải làm đến ngôi Hoàng hậu, nghĩa là danh vọng tột đỉnh. Bởi vậy, ông phải kén một chàng rể đàng hoàng, danh giá. Đang trong giai đoạn kén rể, một hôm trên đường đi, cô gái gặp Đức Phật đang đi khất thực. Nhìn Ngài, cô ngạc nhiên quá đỗi vì không ngờ trên đời này lại có một người đẹp trai, hảo tướng đến như vậy. Cô vội vàng chạy về nói với cha:
Khi Thế Tôn đến đất nước Kiều Tát La để giáo hóa, cha mẹ Ngài là một trong những tín chủ thuần thành. Một ngày vào năm hai người đã mãn tuổi, quán sát thấy nhân duyên đã đến, Thế Tôn một mình qua tư gia ông bà trưởng giả để hóa độ. Hôm đó, gia trang dường như ấm áp hơn mọi ngày. Khóm hoa đầu hè đã hé nở đưa hương thơm ngát. Gia nhân xếp hàng dọc hai lối vào, cung kính đón Thế Tôn. Hai ông bà trưởng giả Assalayana chống gậy đón Thế Tôn vào đại sảnh, tòa ngồi bằng gỗ được chuẩn bị sẵn sàng. Thế Tôn ngự trên tòa uy nghiêm mà đầy từ ái. Từ nơi dung nghi của Người tỏa ra vầng hào quang dịu nhẹ, ấm áp vô cùng. 
Mọi vị A La Hán đều đạt được trí tuệ giải thoát tột cùng, phủ trùm pháp giới. Tuy nhiên, Tôn giả Khema được mệnh danh là Đệ Nhất Trí Tuệ bởi Ngài có khả năng thấu hiểu mọi điều trong ba cõi. Từ những kiến thức của thế gian đến bất kỳ điều gì được nói ra bởi trời, người hay quỷ thần. Ngài thâm nhập giáo Pháp của Đức Như Lai và còn có thể tùy theo căn cơ mà giảng giải. Không phải chúng sinh nào cũng đủ căn để tin hiểu và chấp nhận được những điều sâu xa vi tế trong giáo Pháp. Vì thế, Ngài thường dùng những hình ảnh và ví dụ gần gũi để khéo diễn tả tất cả những điều trừu tượng, khó hiểu. Nhờ vậy mà rất nhiều chúng sinh cảm phục và hoan hỷ tu hành theo chánh Pháp.
Đức Phật và Tăng chúng từ xa đi đến. Đức Phật và Tăng chúng đi vào khu vườn Aggalava, khung cảnh đã khác hẳn, ra dáng một tinh xá. Nhiều người dân đến ngắm Đức Phật và Tăng chúng, một số người quỳ xuống lạy Đức Phật. Lúc sau một đoàn người gánh đội nhiều thức ăn đến cúng dường Đức Phật và Tăng chúng, bày biện trên các dãy bàn dài, vẫn không đủ, nên chia ra nhiều khu. Tôn giả Kappina chỉ đạo sắp xếp mọi thứ, dành riêng một khu cho cư sĩ sẽ dùng cơm nữa. Nhưng dù các thí chủ quỳ nói lời thỉnh thọ thực, Đức Phật vẫn ngồi yên không nói gì. 
Vị trưởng lão tỳ kheo Sappadasa từ khi xuất gia sống rất đạo đức, không có gì sai sót, tu hành tinh tấn, đúng pháp, đúng giới luật, nhưng trong lòng luôn nổi lên căn bệnh tâm lý kỳ lạ là buồn bã chán nản. Khi nỗi buồn đã quá nặng nề, ngài quyết định sẽ tự tử. Có lần một con rắn độc bò vào trong pháp đường. Lúc bị đuổi đi, nó phùng mang phun khè khè, mọi người lấy gậy ghìm đầu bắt nó bỏ vào bình rồi mang ra xa thả. Thấy vậy, ngài Sappadasa tình nguyện bê chiếc bình đi. Khi đến chỗ vắng, ngài cho tay vào bình khuấy qua khuấy lại hy vọng con rắn sẽ cắn mình. Thế nhưng, nó chỉ né qua né lại chứ nhất định không động vào ngài.
Pháp âm
Pháp thoại
TÌM KIẾM
- Nghe giảng kinh thì phải kiên nhẫn. Dù hiểu hay không cũng phải kiên nhẫn ngồi nghe. Bạn ở trong pháp hội, sáng tối nghe giảng thì tựa như sáng tối được huân hương, chân lý huân tập vào tâm thức. Kết cuộc sẽ có ngày bạn sẽ khai trí huệ hiểu thấu mọi pháp.
- Thế giới là do tâm người tạo thành. Tâm người háo sát thì tạo thành thế giới chiến tranh. Nếu tâm người háo sinh thì thế giới sẽ hòa bình. Tôi hy vọng trong tương lai người phương Ðông và phương Tây đều sửa đổi hiếu chiến thành tâm từ bi.
- Làm thiện mà mong người ta biết thì không phải là chân thiện.
- Làm ác mà sợ người ta hay mới là đại ác.
- Bởi vì có lòng yêu đương nên cái khổ lớn nhất của con người là cái khổ sinh ly tử biệt (sống thì phải xa nhau, chết thì vĩnh viễn chia tay). Yêu đương, tình ái là cái nguồn cội tạo nghiệp. Nếu đoạn được lòng dục vọng, trừ sạch lòng yêu đương thì nghiệp sẽ nhẹ. Khi tình yêu sâu đậm, nghiệp cũng rất nặng. Nên có câu: Nghiệp hết, tình không là chân Phật. Nghiệp nặng, tình mê là phàm phu.
- Tất cả mọi sự mọi vật trên đời đều thuyết pháp. Người thiện nói pháp lành. Người ác nói pháp xấu. Ngựa nói pháp làm ngựa. Bò nói pháp làm bò. Chúng khiến mình hiểu nhân duyên chúng làm ngựa làm bò.
- Lòng người có thể thiện, có thể ác. Nó có thể bao trùm thái hư, rộng bằng vũ trụ. Nó cũng có thể làm ta đắp lông đội sừng, nó cũng có thể khiến ta thành Phật, làm Tổ.
- Ðiều tôi nói với các bạn là những đạo lý rất thông thường. Hệt như nước trắng rau luộc, thật rất lạt lẽo vô vị. Tuy chẳng có mùi vị gì, nhưng các bạn ăn những thứ cơm lạt canh lạt ấy bạn có thể trừ khử được rất nhiều độc khí.
- Bởi vì có lòng dâm dục nên mới phát sinh ra những chuyện ác trên đời. Nếu bạn có thể làm những việc lành, tự mình thanh tịnh, không có hành vi dâm loạn thì đó tức là chúng thiện phụng hành.
- Phật là chính khí của thế giới. Ma là tà khí, làm không khí ô nhiễm. Chính khí là bầu trời trong sáng, ngàn dặm xanh thẳm, chẳng chút mây mờ. Bị ma trước thì bầu trời u ám liền. Có phiền não bầu trời cũng tối sầm lại. Khi không dính vào ma, không sinh phiền não thì bầu trời trong xanh. Mọi vật trên đời đều có ý nghĩa tượng trưng.
- Phần lớn nền giáo dục bây giờ tuy dạy học trò, nhưng thật ra lại chú trọng đến việc bán sách (thâu học phí) kiếm lời. Họ dạy làm sao để kiếm được chức vị cho cao, kiếm thật nhiều tiền, thành bậc danh nhân hay bậc nhất trên thế giới. Ðó là họ đã chẳng dạy con em căn bản đạo đức làm người. Mà cứ dạy con em tranh danh đoạt lợi. Ðó chính là bỏ gốc theo ngọn, đi ngược lại với đạo. Làm việc ngược lại với đạo thì thật là sai lầm lớn lao vô cùng.
- Làm việc gì thì cũng chỉ một tâm, một lòng. Làm xong rồi liền buông tay. Việc tới, thì ứng biến. Việc qua rồi, lòng lại yên tĩnh.
- Không nên tham tiền tài vật chất. Hợp với đạo nghĩa thì mới lấy. Rằng: Tiền tài phải hợp với đạo thì người quân tử mới nhận.
- Chú Lăng Nghiêm thì mầu nhiệm không thể tả. Ai niệm thì người đó có cảm ứng. Ai trì tụng thì người đó có Bồ Tát Kim Cang Tạng bảo vệ. Do đó tu hành chú này đòi hỏi bạn phải hiểu thấu đáo chân lý, thành khẩn, chính lòng tu thân. Vậy thì bạn mới có cảm ứng lớn lao.
- Có vọng tưởng thì sẽ không tự tại.
- Sống trên đời, bạn nên cẩn thận trong mỗi hành vi cử chỉ. Bạn hãy giữ quy củ. Một khi trồng nhân sai lầm, (sai nhân quả), bạn sẽ hối hận vô cùng.
- Lúc tu, điều tối trọng yếu là đừng tranh. Nghĩa là không cùng người khác tranh chấp đúng hay sai, thật hay giả, phải hay trái.
- Muốn tu cho có thiên thủ thiên nhãn thì không phải một ngày một đêm mà thành. Tu pháp này, bạn phải ngày ngày dụng công không gián đoạn. Ngày ngày y pháp tu hành thì mới có thể thành tựu diệu dụng bất khả tư nghì. Nếu hôm nay tu, ngày mai nghỉ thì chẳng có ích gì đâu.
- Nếu người xuất gia không tinh tấn tu thiền, tập định, trì chú, tụng kinh, nghiêm thủ giới luật mà lại dựa vào Phật để kiếm ăn, bám vào Phật để có áo mặc thì chắc chắn sẽ đọa vào ba đường ác.
- Bạn tới chỗ nào, phải xem chỗ đó là trường học. Không có chỗ nào chẳng phải là chỗ để học tập. Không có lúc nào chẳng phải là lúc tu học.
- Phật pháp có tám vạn bốn ngàn pháp môn. Môn nào cũng là số một. Pháp nào tương ưng với bạn thì pháp ấy là nhất. Pháp chẳng hợp với bạn thì nó không là đệ nhất. Phải thâm nhập vào một pháp môn thì mới đạt tới quả vị Phật.
- Nếu người ta biết hiếu thảo với cha mẹ thì chính khí mới tồn tại. Không hiếu thảo thì tà khí tràn ngập thế gian. Hiếu thảo thì phải thành khẩn, lúc nào cũng chuyên tâm, cung kính. Con cái nên tôn kính cha mẹ hệt như tôn kính Phật sống trong nhà vậy. Do đó con cái biết cúng dường cha mẹ là một việc hết sức cát tường.
- Người tin Phật hay không tin Phật đều sẽ thành Phật.
- Còn tâm tham là còn khổ. Tới khi nào không còn gì mong cầu thì lúc đó sẽ hết âu lo.
- Nhà có máy truyền hình (Ti Vi) cũng giống như nhà có yêu quái vô hình. Nó dạy con trẻ hư hỏng, hút mất hết tinh thần sinh lực của chúng. Vì vậy học trò không có bao nhiêu thời gian học hành. Không có ảnh hưởng gì hư hoại thâm sâu bằng ảnh hưởng của truyền hình.
- Phàm sự không có gì là nhất định, sai biệt chỉ ở một niệm. Khởi một niệm thiện có thể chuyển việc xấu thành kiết tường. Lão Quân có câu rằng: Hồi tâm hướng thiện, thiện tuy chưa làm mà thiện thần đã tùy thân. Chuyển tâm hướng ác, việc ác chưa làm, mà ác thần đã theo sát.
- Ðừng vì túi thịt thối này mà lo lắng! Mỗi một tâm niệm muốn ăn cắp đồ cho nó ăn. Mỗi một tâm niệm muốn làm đẹp túi thịt thối này. Mỗi một tâm niệm cứ muốn túi thịt thối này hưởng thụ, được chút khoái lạc. Thật là điên đảo.
- Tu đạo không nên hưởng phước.
- Phải dùng lòng chân thật để học Phật pháp. Mỗi một cử chỉ hành động, phải hướng về điều chân thật. Không nên như người đời: Nửa thật nửa giả; có lúc nói thật, có lúc nói láo. Người tu đạo thì lúc nào cũng phải nói thật, làm việc chân thật, không nói dối.
- Mình không phải là khổ tu mà là lạc tu. Ai tu hành chịu khổ cũng là cam tâm tình nguyện, không phải miễn cưỡng. Mình hết sức mong muốn buông bỏ điều giả, chỉ lấy điều thật.
- Một ngày không nóng giận là một ngày bạn đã tu hành. Mười ngày không nổi giận là mười ngày tu hành. Hễ bạn nóng giận tức là không có tu hành.
 
- Học chú Lăng Nghiêm tức là có hóa thân của Phật. Không những là hóa thân, mà còn là hóa Phật trên đỉnh đầu của Phật, hóa thân trong hóa thân của Phật. Do đó đây là chỗ mầu nhiệm không thể nghĩ bàn của chú Lăng Nghiêm. Nếu có người có thể trì tụng chú Lăng Nghiêm thì trong phạm vi 40 dặm sẽ chẳng có tai nạn, nguy hiểm sẽ biến thành an ổn.
- Sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỷ thuật sẽ đưa người ta tới tử vong ngày càng nhiều. Thậm chí toàn thể nhân loại có thể bị hủy diệt. Nếu nhân loại hủy diệt hết thì khoa học, triết học có ích gì?
- Muốn tiêu trừ tất thảy mọi tai nạn, mình cần phải nghiên cứu chân lý của nhân sinh. Một khi hiểu rõ chân lý trong đời sống hàng ngày rồi thì mình mới có thể hiểu nguồn gốc của những tai nạn ấy.
- Chí công vô tư thì mới là chánh pháp. Có lòng ích kỷ tự lợi thì là tà pháp.
- Ðừng cần để ý tới cảnh giới là thật hay giả, chỉ có sự dụng công của bạn mới là thật. Nếu bạn chân chính thấu hiểu thì bạn chẳng chấp trước vào bất kỳ thứ gì, cảnh giới gì.
- Từ kiếp vô thỉ tới nay, trong thức A Lại Gia hay thức thứ tám của mình, chủng tử gì cũng có. Khi tâm bạn yên tĩnh thì chúng hiện ra cho thấy. Ví như nước đục, bạn cứ quấy động nó hoài thì nó sẽ chẳng lắng trong. Nếu để yên một chỗ không xáo động, bụi bặm cặn bã từ từ lắng xuống, nước sẽ trong.
- Trẻ thơ không phải sinh ra là hư xấu đâu. Chỉ bởi vì chúng không được dạy dỗ mà ra. Vì thế, làm cha mẹ, phải coi việc giáo dục con cái là cấp thiết quan trọng nhất. Cho dù kiếm thật nhiều tiền cũng không có giá trị bằng dạy con cho tốt.
- Tham thiền tốt nhất là không có cảnh giới. Không có gì hết, chỉ là không. Các bạn lúc ấy chớ có sợ cũng chớ sinh vui mừng. Sợ hay vui đều làm bạn dính vào ma, như đã nói trong phần 50 ấm ma của Kinh Lăng Nghiêm. Do đó bạn cần nên hiểu để không bị cảnh giới làm động tâm. Cần nhất là bạn không được chấp trước.
- Muốn phát tâm bồ đề thì bạn phải nghe giảng kinh cho nhiều. Một khi hiểu Phật pháp thì tự nhiên bạn sẽ biết cách phát tâm bồ đề.
- Mình nên mở rộng tầm nhìn, khoáng đại tâm tư suy nghĩ. Ðừng nên chỉ biết có mình, hoặc chỉ biết có gia đình mình, đất nước mình. Phải để tâm lượng rộng mở trùm khắp hư không, biến hết pháp giới. Mình phải suy nghĩ lợi ích cho toàn nhân loại, không nên chỉ tính toán cho riêng cá nhân mình.
- Nếu bạn chẳng có tâm đấu tranh thì sẽ đoạn tuyệt vãng lai với loài A Tu La. Nếu bạn không có tâm tham lam thì sẽ đoạn tuyệt qua lại với loài súc sinh thú vật.
- Làm sao để có niềm vui? Nơi tự tánh phải thường cảm thấy đầy đủ. Rằng: Biết đủ thì thường vui, nhẫn nại thì an ổn.
- Tiền là thứ dơ bẩn nhất. Nếu bạn gần gủi với nó quá nhiều thì bạn dính bụi trần. Nếu bạn chẳng cần tiền bạc thì thật trong sạch nhất; bạn có thể nhảy ra khỏi vòng bụi bặm.
- Người công dân chào cờ, là bày tỏ lòng cung kính đối với đất nước, với tổ quốc. Tượng Phật thì đại biểu cho đức Phật. Do đó mình lễ lạy tượng Phật để tỏ bày lòng cung kính với Phật.
- Ma mà sở dĩ thành ma là vì nó có tâm tranh hơn thua, háo thắng. Có thơ rằng: Tranh là tâm háo thắng, ngược lại với đường tu, nó sinh bốn tướng chấp, thì sao đắc tam muội? Khi ma không tranh được bậc nhất thì nó sinh lòng sân hận, tâm đố kỵ, tâm chướng ngại cản trở. Do đó ai có tư tưởng và hành vi như thế đều là ma. Vĩnh viễn không thể thành Phật.
- Người tín đồ Phật giáo không nên đi du ngoạn quá nhiều! Dùng thời gian du ngoạn ấy để nghiên cứu Phật lý, bạn xem, không phải là tốt sao? Có thể dùng thời gian ấy tụng kinh, niệm chú, lạy Phật, càng tốt hơn.
- Phá thai là việc rất nghiêm trọng. Phá thai là một trong những nhân tố tạo ra nhiều bịnh khó trị, tai nạn khủng khiếp thời nay. Bạn nghĩ xem: Một sinh mạng chưa ra đời đã biến thành oan hồn. Con quỷ nhỏ ấy tới đâu cũng đòi mạng, thì xã hội làm sao an ninh đặng. Những con quỷ nhỏ ấy chỉ có các vị đạo hạnh, không tham tiền tài mới có thể siêu độ chúng.
- Ở đây mình niệm Phật thì điện thoại của đức A Di Ðà Phật sẽ reo.
- Các em trẻ! Các em biết căn bản của việc làm người là ở đâu chăng? Là ở nơi tám đức hạnh:
- Hiếu (hiếu thảo, cung kính với cha mẹ)
Ðể (tình anh em chân thành đùm bọc, nhường nhịn lẫn nhau)
Trung (lòng trung thành với chân lý và lý tưởng)
Tín (sự đáng tin cậy, đáng tín nhiệm trong lời nói và hành động)
Lễ (xử thế một cách lễ phép, lịch sự và đứng đắn)
Nghĩa (biết theo chân lý, quên mình vì chân lý, vì nghĩa vụ cao thượng)
Liêm (không tham lam, ăn hối lội, làm việc tồi bại trái lương tâm để tự lợi)
Sĩ (lòng hổ thẹn với lương tâm, với thánh hiền khi làm quấy)
- Không nên chấp lầm rằng thân này thật là thân của ta. Bây giờ đã gặp Phật pháp, được thiện tri thức chỉ điểm cho pháp môn niệm Phật, mình phải dốc lòng hết dạ niệm Phật, tu hành để được giải thoát.
- Tu thì lúc nào cũng phải chuyên tâm nhiếp niệm. Không thể buông lung, dù trong tích tắc.
- Người ngu thì chẳng biết nhân quả lợi hại ra sao. Cứ tùy tiện làm bậy, cho đến không tin rằng có nhân quả, hủy báng nhân quả. Kẻ có trí huệ thì biết sự lợi hại của luật nhân quả cho nên sợ làm sai trái trong vòng nhân quả. Bất luận làm việc gì mình cũng nên suy nghĩ ba lần rồi hãy làm.
- Người đời nay không biết được tiền nhân hậu quả của việc trước mắt. Hệt như người mù cởi ngựa đui đi trật đường, mà tự mình chẳng hay biết. Gia đình, quyến thuộc (là chỗ ràng buộc) nhưng họ cho rằng đó là chỗ ân ái thân thiết. Do đó họ không thể nhìn thủng, buông xả. Thật ra thế giới này thật là chỗ vô cùng thống khổ.
- Do sát sinh nên oán khí kết tụ, tràn đầy vũ trụ, rồi dẫn tới đủ thứ tai nạn. Nếu người ta không sát sinh mà phóng sinh, không ăn thịt bất kỳ chúng sinh nào thì những tư tưởng bạo lực ác ôn sẽ tiêu trừ. Vì sao có những người hung tợn, bạo động, dữ dằn? Là bởi do họ ăn thịt. Ăn thịt làm tăng thêm dục vọng, tăng thêm tánh nóng nảy, không còn chút từ bi.
- Giới luật là sinh mạng của người tu hành.
- Mình tu thì phải dốc thân thực hành, dựa vào công phu chân thật. Ðừng nên tìm danh, kiếm lợi. Cũng chớ tự mình quảng cáo. Mình phải học tinh thần hộ trì đạo tràng, giáo hóa chúng sinh của bốn vị Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Ðịa Tạng.
- Trong đạo Phật, thường nghe đến câu: Bần tăng! Bần tăng (thầy nghèo)! Chẳng hề có: Phú tăng! Phú tăng (thầy giàu)!
nh điển hình
Kinh sách mới
Chú Lăng Nghiêm là Chú quan trọng nhất, hơn hết thảy trong các Chú. Bao gồm hết thảy thể chất và diệu dụng của Phật Pháp. Chú này chia làm năm bộ : Kim Cang bộ, Bảo Sinh bộ, Liên Hoa bộ, Phật bộ và Nghiệp bộ. Năm bộ Kinh này thuộc về năm phương : 1. Kim Cang bộ : Thuộc về phương Ðông, Ðức Phật A Súc là chủ. 2. Bảo Sinh bộ : Thuộc về phương Nam, Đức Phật Bảo Sinh là chủ. 3. Phật bộ : Thuộc về chính giữa, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là chủ. 4. Liên Hoa bộ : Thuộc về phương Tây, Đức Phật A Di Ðà là chủ. 5. Nghiệp bộ : Thuộc về phương Bắc, Đức Phật Thành Tựu là chủ.
Nếu người không có căn lành, thì đừng nói đến tụng niệm, dù ba chữ « Chú Lăng Nghiêm » cũng không nghe được, cũng không có cơ hội nghe được. Các vị bây giờ dùng máy vi tính tính thử xem, dùng thần não của bạn tính thử xem, hiện tại trên thế giới nầy, người tụng Chú Lăng Nghiêm nhiều, hay là người không biết tụng Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Người nghe được tên Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Hay là người không nghe được tên Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Cho nên các vị đừng xem mình là người rất bình thường, bạn đã nghe được Phật pháp, đây đều là trong vô lượng kiếp về trước đã từng gieo trồng căn lành, đắc được diệu pháp thâm sâu vô thượng, các vị đừng để pháp môn nầy trôi qua.
Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy còn gọi là Kinh Pháp Giới, cũng gọi là Kinh Hư Không, tận hư không khắp pháp giới, chẳng có một nơi nào mà chẳng có Kinh Hoa Nghiêm ở đó. Chỗ ở của Kinh Hoa Nghiêm tức cũng là chỗ ở của Phật, cũng là chỗ ở của Pháp, cũng là chỗ ở của Hiền Thánh Tăng. Cho nên khi Phật vừa mới thành chánh giác, thì nói bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, để giáo hoá tất cả pháp thân Ðại Sĩ . Vì bộ Kinh nầy là Kinh vi diệu không thể nghĩ bàn, do đó bộ Kinh nầy được bảo tồn ở dưới Long cung, do Long Vương bảo hộ giữ gìn. Về sau do Ngài Bồ Tát Long Thọ, xuống dưới Long cung đọc thuộc lòng và ghi nhớ bộ Kinh nầy, sau đó lưu truyền trên thế gian.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử ở chỗ Dạ Thần Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sinh, nghe môn giải thoát Phổ hỉ tràng, tin hiểu hướng vào, biết rõ tuỳ thuận, suy gẫm tu tập. Nhớ hết những lời dạy của thiện tri thức, tâm không tạm xả, các căn chẳng tán, một lòng muốn gặp được thiện tri thức. Siêng cầu khắp mười phương không giải đãi. Muốn thường gần gũi sinh các công đức, đồng một căn lành với thiện tri thức. Đắc được hạnh phương tiện thiện xảo của thiện tri thức. Nương thiện tri thức vào biển tinh tấn, trong vô lượng kiếp thường chẳng xa lìa. Nguyện như vậy rồi, bèn đi đến chỗ Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sinh Diệu Đức.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử một lòng muốn đi đến chỗ Ma Gia phu nhân, tức thời đắc được trí huệ quán cảnh giới Phật.Bèn nghĩ như vầy: Thiện tri thức nầy xa lìa thế gian. Trụ nơi không chỗ trụ, vượt qua sáu xứ. Lìa tất cả chấp trước. Biết đạo vô ngại, đủ tịnh pháp thân. Dùng nghiệp như huyễn mà hiện hoá thân. Dùng trí như huyễn mà quán thế gian. Dùng nguyện như huyễn mà giữ thân Phật. Thân tuỳ ý sinh, thân không sinh diệt, thân không đến đi, thân chẳng hư thật, thân chẳng biến hoại, thân không khởi tận, thân hết thảy tướng đều một tướng, thân lìa hai bên, thân không y xứ, thân vô cùng tận, ...
Tôi tin rằng bộ Kinh nầy được giảng lần đầu tiên tại nước Mỹ, các vị cũng là những người đầu tiên được nghe. Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, là vua trong các Kinh Phật, cũng là vua trong vua. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa cũng là vua trong các Kinh, nhưng không thể gọi là vua trong vua. Bộ Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật nầy, là vua trong vua, là bộ Kinh dài nhất trong Kinh điển đại thừa mà đức Phật nói, nhưng thời gian nói không dài quá, chỉ trong hai mươi mốt ngày, thì đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói xong bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ở trong năm tầng nghĩa lý huyền diệu, thì huyền nghĩa thứ nhất là giải thích tên Kinh. Bộ Kinh nầy dùng Diệu Pháp Liên Hoa làm tên. Diệu Pháp là pháp, Liên Hoa là ví dụ, vì Phật Pháp vi diệu thâm sâu, một số người không dễ gì hiểu nổi, cho nên dùng liên hoa (hoa sen) để ví dụ, do đó bộ Kinh nầy lấy pháp và dụ làm tên. Cứu kính thì diệu pháp là gì ? diệu đến cỡ nào ? tốt đến cỡ nào ? Nay tôi nói cho bạn biết, sự diệu nầy không thể dùng tâm suy nghĩ, không thể dùng lời bàn luận, không thể dùng tâm để dò, nghĩ cũng nghĩ không hiểu nổi; nghĩ muốn hiểu biết thì nói không đến được sự diệu của nó.
Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất hớn hở vui mừng, bèn đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, mà bạch Phật rằng : Hôm nay nghe đức Thế Tôn nói pháp nầy, tâm con rất hớn hở được chưa từng có. Tại sao ? Vì xưa kia con theo Phật nghe pháp như vầy : Thấy các vị Bồ Tát được thọ ký sẽ thành Phật, mà chúng con chẳng được dự vào việc đó, rất tự cảm thương, mất đi vô lượng tri kiến của Như Lai. Ðức Thế Tôn ! Con thường một mình ở dưới gốc cây nơi rừng núi, hoặc ngồi hoặc đi kinh hành, bèn nghĩ thế nầy : Chúng con đồng vào pháp tánh, tại sao đức Như Lai dùng pháp tiểu thừa mà tế độ ? Ðó là lỗi của chúng con, chứ chẳng phải đức Thế Tôn vậy.
Quyển Ý Nghĩa Đời Người này rất thâm thuý, tuy cố H.T Tuyên Hoá thuyết giảng lời lẽ giản dị, mộc mạc, nhưng nghĩa lý rất cao thâm huyền diệu, đi vào tâm người. Nếu người tu học, đọc hết quyển sách này, y theo trong đó mà thực hành, thì sẽ giác ngộ được ít nhiều ngay trong đời này, không cần phải tìm cầu đâu xa vời. Đặc biệt cố Hoà Thượng nhấn mạnh về Sáu Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thành đó là : Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tư lợi, không nói dối. Sáu đại tông chỉ này cũng có thể nói là kim chỉ nam của người tu hành, dù xuất gia, hay tại gia, đều lợi lạc vô cùng, nhất là thời đại ngày nay.