|
|
|
|
|
|
|
Trong sự nghiệp hoằng hóa độ sinh, việc sử dụng lời nói là chủ yếu và vô cùng quan trọng. Bởi vậy, trong các đệ tử của Đức Thế Tôn, có nhiều bậc A La Hán đã thể hiện hạnh nguyện thuyết Pháp xuất chúng. Trong đó, mỗi vị xuất chúng ở một khía cạnh khác nhau. Nếu như Tôn giả Phú Lâu Na là “Thuyết Pháp Đệ Nhất”, Tôn giả Ca Chiên Diên là “Hùng Biện Đệ Nhất”, Tôn giả Bằng Kỳ Xá là “Đệ Nhất Biện Tài” thì Tôn Giả Sona Kutikanna được mệnh danh là “Đệ Nhất Thuyết Pháp Tinh Xảo”.
Trong thời buổi hiện đại, với sự tiến bộ của khoa học, trong nhịp sống công nghiệp, máy móc và các tiện nghi vật chất đã thay thế sức người. Con người ít vận động, nhưng phải chạy theo nhiều nhu cầu vật chất, nên quay cuồng với bao áp lực, nhất là những vị làm văn phòng và các nghề nghiệp ngồi một chỗ, không có nhiều thời gian để sống thỏa mái với thiên nhiên, khiến tinh thần dễ bị căng thẳng, cơ bắp toàn thân cũng tự nhiên căng cứng theo.
Vạn Phật Thành lấy Sáu Ðại Tông Chỉ làm mục đích cho việc tu học. Ðó là không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, và không nói dối. Nếu quý vị có thể hiểu chân thật nghĩa của Sáu Đại Tông Chỉ này, thì quý vị sẽ không uổng công đến Vạn Phật Thánh Thành. Sáu Ðại Tông Chỉ là sáu con đường sáng (đạo lộ quang minh). Cũng còn gọi là sáu loại trí tuệ, sáu loại chày hàng phục ma, và sáu loại kính chiếu yêu.
Giới luật là khuôn phép chuẩn mực để tu tập, một biểu tượng thiêng liêng của người xuất gia. Nỗ lực thực hành giới pháp sẽ giúp cho các vị tu sĩ có thể dứt khoát, kiên định thúc liễm giữ gìn đức hạnh thanh tịnh, gieo nhân lành chứng Thánh quả về sau. Nhờ có giới pháp mà Tăng đoàn chặt chẽ và vững mạnh, Tăng chúng sống an lạc trong giới pháp chính là sự khẳng định chánh Pháp hưng long. Đức Thế Tôn đã tán dương rằng: “Trong các đệ tử của Như Lai, Đệ Nhất Hành Trì Giới Luật chính là Tỳ kheo Ưu Ba Ly”.
Nếu ta không có một cái phước đặc biệt thì có sửa lỗi trong bốn ngàn kiếp rồi tâm ta vẫn chưa tốt. Ta cứ giằng co giữa cái tốt và cái xấu, cứ sửa từng chút điều xấu điều tốt thì bốn ngàn kiếp ta chưa tốt nếu ta không có một cái phước đặc biệt. Khi nào ta có một cái phước đặc biệt thì tự nhiên ta mạnh mẽ hơn, nhạy bén hơn, nhanh chóng hơn sửa tâm ta và phải đợi đến khi ta sang mức độ thứ hai là chánh niệm thì ta mới hoàn thiện được con người mình trong nội tâm. Qua tới mức độ thứ hai đó là đấu tranh giữa tỉnh giác và bất giác.
Khi bạn có nhiều tiền, bạn có thể mua bất kỳ điều gì bạn muốn. Nhưng khi bạn có nhiều phước, bạn sẽ thành tựu được bất kỳ điều gì bạn cầu. Phước báu không thể vay mượn, không thể mua bán, không thể cầu xin mà chỉ có thể tự mình làm. Trong lục độ ba la mật, hạnh bố thí đứng đầu. Bố thí gồm: Tài thí (cho vật chất), Pháp thí (chia sẻ chánh pháp), Vô úy thí (mang lại sự bình an, không sợ hãi). Tình thương (lời nói an ủi, nụ cười, một cái ôm…)
- Này Janussi hãy lắng nghe, Như Lai sẽ nói cho ông nghe Tam Minh trong Chánh Pháp của Như Lai là những gì. - Này Janussi, có một thanh niên đang tuổi xuân, nghe được giáo pháp của Như Lai rồi tự nghĩ cuộc đời đầy những ràng buộc khổ đau, nên đã xin cha mẹ được xuất gia vào trong Pháp và Luật của Như Lai. Sau khi xuất gia làm Tỳ kheo, người này thúc liễm thân tâm trong giáo pháp, biết rõ điều nhân quả tội phước, tránh điều ác và làm điều thiện, giữ tâm hòa ái khiêm cung với mọi người, sống biết đủ với ba y bình bát khất thực ngày một bữa.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
- Thiên địa sinh ra từ trung đạo. Chư Phật, Bồ Tát, La hán cũng sinh ra từ trung đạo. Trung đạo là mẹ chung cho Phật và chư Thánh hiền. Không nghiêng về không, không nghiêng về có, cứ miên mật như vậy mà tu pháp trung đạo. Tham thiền, ngồi lắng lòng đều là tu pháp trung đạo. Nếu luận hình tướng thì trung đạo là số một; nếu luận về vô hình tướng thì trung đạo là số không. Không là nghĩa rốt ráo của trung đạo.
- Tu hành thì phải trầm lặng, yên tĩnh. Không phiền não, không cống cao ngã mạn.
- Người học Phật phải làm cho Phật giáo ngày một thêm sáng lạn rạng rỡ. Làm sao? Ðầu tiên phải có phẩm hạnh đạo đức, tâm chí rộng trùm thái hư, lòng dạ bao la như pháp giới.
- Vì sao nói nếu tâm bạn không có quỷ thì con quỷ bên ngoài chẳng thể hại bạn? Con quỷ bên ngoài có là do tâm bạn có quỷ. Trong tâm bạn không có quỷ thì con quỷ bên ngoài sẽ không tới. Con quỷ bên trong gồm có năm loại: tham lam, sân giận, si mê, kiêu mạn, nghi ngờ. Cũng là năm thứ: thù hằn, oán ghét, áo não, tức giận, phiền muộn.
- Mình không chịu phát khởi trí huệ. Ngày ngày cứ dùng sức mạnh của vô minh phiền não. Ðụng một chút là nổi lửa giận lên rồi. Rằng: Lửa vô minh, ông thần cọp! Nóng giận là do gốc của tội nghiệp kiếp trước. Không có tội nghiệp thì sẽ không có lửa vô minh. Lửa vô minh mà bộc phát thì tham sân si đều tới đủ. Các bạn thử hồi quang tự chiếu, xem có đúng như vậy không.
- Vô minh có hai kẻ đồng lõa giúp sức, kết thành một băng đảng. Cứu cánh chúng là ai? Một ăn uống, hai là dâm sắc. Một cái tham ăn, ham uống. Một cái háo sắc, tham dâm. Hai cái này giúp cho vô minh làm đủ mọi chuyện xấu.
- Tới chỗ chẳng cầu, sẽ hết lo. Biết chuyện càng ít, bớt phiền não.
- Vô luận đối diện với bất kỳ cảnh giới nào, bạn cũng phải có thái độ: Có cũng như không, thật cũng như giả. Phải nhớ đừng nên được chút ít rồi cho là đủ, nhận cái giả cho là thiệt.
- Ăn uống giúp tăng dục vọng. Dục vọng giúp thêm vô minh.
- Bồ Tát sợ nhân không sợ quả, phàm phu sợ quả không sợ nhân. Khi Bồ Tát còn trong lúc trồng nhân thì ngài vô cùng cẩn thận, một chút cũng chẳng làm càn. Ðến lúc quả báo tới thì ngài không sợ hãi. Nhưng kẻ phàm phu thì bình thường lúc gieo nhân chẳng sợ gì cả. Sát sinh, trộm cắp, dâm loạn, dối trá, rượu chè, cờ bạc, hút sách ma túy. Những thứ ấy bạn dám nghĩ dám làm, đến lúc thọ quả báo thì mới than khổ không thôi.
- Trên đời bất luận là ăn cơm, mặc áo, ngủ nghỉ, mình đều ở trong phạm vi của Phật pháp. Tiếc là chúng ta không biết thể hội Phật pháp trong sinh hoạt hàng ngày, cứ hướng ngoại tìm kiếm. Thế nào là kẻ ngoại đạo? Chính là kẻ tìm cầu pháp ở ngoài tâm.
- Mọi người không nên coi thường chính mình, vất bỏ mình đi, tự cam chịu đọa lạc.
- Vô luận là mình phạm giới ở nơi thân như giới sát, đạo, dâm; hoặc phạm giới nơi lời nói: Nói dối, nói hai lưỡi, nói thêu dệt, nói thô ác; hoặc là phạm giới nơi tâm: Khởi tham sân si, mình phải thành tâm sám hối. Nếu không thì mình sẽ đọa vào bùn lầy, càng lún càng sâu, tội nghiệp càng làm càng thêm nghiêm trọng. Mình sẽ bị đè đến nghẹt thở, chẳng sao trốn thoát.
- Các bạn nên biết, mình sống trên đời, chẳng khác gì cá nằm trong vũng nước cạn. Chẳng bao lâu thì ô hô ai tai, nước sẽ cạn khô. Từ vô lượng kiếp tới ngày nay, mình không biết tu hành: Sinh ra rồi chết, chết rồi lại sinh. Thật đau lòng thay. Tại sao cho đến ngày nay mình còn trù trừ chờ đợi, chưa chịu tu hành?
- Ái dục chính là sinh tử. Sinh tử chính là lòng ái dục. Ái dục là gốc của sinh tử. Nếu không trừ bỏ lòng ái dục vô minh thì rốt ráo không thể nào thoát khỏi biển ái sinh tử.
- Vì sao có việc không kiết tường? Vì trong tâm không kiết tường. Một khi bạn trồng nhân xấu thì sẽ gặt quả báo xấu. Nếu mình có thể sửa lỗi làm lành thì có thể biến chuyện xấu thành chuyện tốt. Do đó mà thấy, vận mạng có thể đổi thay, nó hoàn toàn nằm trong tay mình. Nên nói: Ðại thiện, đại ác thì siêu xuất khỏi số mạng.
- Không thể có chuyện là chẳng đoạn trừ lòng dâm mà có thể thành Phật. Trong thiên hạ không có chuyện đó. Ðời nay đa số người ta thích mau chóng, thích có kết quả ngay, nên khi họ nghe nói có pháp huyền diệu thì liền bị mê hoặc rồi rơi vào lưới ma. Ðến lúc chết mà vẫn cho là có pháp bí mật, hay mật pháp! Bí mật? Bí mật! Bí mật đến độ phải vào địa ngục luôn!
- Tu thì phải tu với cái tâm như em bé sơ sinh: Trong lòng chẳng vương vấn một chuyện gì. Phải giống như trẻ thơ, mình phải phản lão hoàn đồng. Nhưng không phải phản lão hoàn đồng là bắt bạn phải uống sữa như con nít, mà là muốn bạn phải hết sạch tham sân si mạn nghi. Ðó gọi là phản bổn hoàn nguyên, nghĩa là tâm trí bạn tựa hồ trẻ thơ, thiên chân hoạt bát, không chút lười biếng, giải đãi, không chút ý tứ muốn tranh giành háo thắng, cũng chẳng có quan niệm về mình về người. Cũng như là: Xưa nay không một vật ở đó, thì bụi trần dựa vào đâu mà dính vào.
- Người ta nói bạn một câu mà bạn khó chịu, không vui. Ðụng một sợi lông là bạn đau đớn tới tim can. Thậm chí nói bạn nhổ một sợi lông để lợi thiên hạ, bạn không chịu đâu. Có tâm ích kỷ như thế thì không thể tu hành gì được. Người tu đạo thì đừng nên có quan niệm về cái tôi, về người khác, đừng có ý niệm về chúng sinh hay về thọ mạng.
- Cái lậu (chỗ lũng) lớn nhất là dục lậu - lòng dâm dục. Khi có ý dâm dục thì cũng như bị giặc cướp tới cắp, cũm hết tài sản bảo vật. Cũng giống như gỗ bị mối ăn thì gỗ thành vô dụng. Lại cũng như món ăn ngon mà bỏ chút phân vào thì chẳng ai dám ăn. Ba ngày nôn mửa là khác!
- Người xuất gia phải đau lòng nhớ nghĩ tới vấn đề sinh tử để phát tâm bồ đề. Không thể ăn no rồi chờ chết. Rằng: Một ngày còn làm sư, một ngày còn phải gõ chuông. Làm sư mà có tư tưởng như vậy thì đối với chuyện sinh tử của mình hoàn toàn không thể tự chủ.
- Chúng ta phải quyết định mãnh liệt, nhất định rửa lòng đổi dạ, phá trừ sắc thái mê tín, tiêu diệt thái độ ích kỷ, tự lợi.
- Tôi xin đem Vạn Phật Thành cống hiến cho toàn nhân loại và tất cả tín đồ Phật giáo ở toàn thế giới.
- Các bạn chớ nên suốt ngày sầu muộn, chẳng thể dương mày. Việc gì cũng phải nhìn nó một cách nhẹ nhàng, xem như mộng như huyễn. Hãy thảnh thơi, điềm đạm xử lý mọi sự. Trên đời mọi sự đều là hư vọng, chỉ cần bạn hết lòng tận lực làm tròn bổn phận là đủ. Ai sinh ra đời cũng chỉ là để trả nợ mà thôi.
- Hồi quang phản chiếu, tìm đáp án nơi bản thân. Hãy xem mình đã sinh ra bao nhiêu niệm lành, bao nhiêu niệm ác, khởi bao nhiêu vọng tưởng. Niệm lành chưa sinh, hãy làm nó sinh ra. Niệm lành đã sinh ra thì làm nó tăng trưởng. Chưa sinh niệm ác thì đừng sinh nó. Ðã sinh niệm ác thì diệt nó đi. Không tùy tiện, bừa bãi, khiến lãng phí thời gian, mạng sống. Vọng tưởng nào có giá trị nhưng không thể thực hiện được thì đừng nghĩ ngợi lăng xăng. Vọng tưởng nào chẳng chút giá trị, đương nhiên càng không nghĩ tới. Người chân chính biết dụng công thì lúc nào cũng kiểm thúc chính mình. Ði đứng nằm ngồi chẳng hề tách rời nhà (chân tâm hay bồ đề tâm).
- Ở đời, nếu bạn không vất bỏ được cái giả thì không thể thành tựu được cái chân thật. Không xả bỏ đặng cái chết (vọng tưởng, chấp trước), thì không đổi được cái sống (trí huệ, tự tại). Nếu muốn mình không chết, thì phải làm người chết giả. Nghĩa là nếu bạn tuy sống nhưng xem mình hệt như người chết (không còn tranh giành, tham lam...) thì bạn sẽ chân chính hiểu rõ:
- Tất cả pháp hữu vi,
như mộng, huyễn, bọt, bóng;
như sương, như điện chớp,
phải quan sát như vậy.
- Tham sân si của mình rất khó dập tắt, khó diệt trừ, do đó mình càng phải dập tắt và diệt trừ. Nếu trừ nó quá dễ thì mình đâu có phải mất sức phí lực.
- Bố thí thì phải bố thí Tam Bảo. Không phải là để Tam bảo bố thí cho mình.
- Vọng tưởng là cục đá buộc chân người tu hành, chướng ngại sự thành tựu đạo nghiệp.
- Tiền bạc, bất quá chỉ là một tờ giấy, trên đó in hình ảnh màu mè. Thế mà tờ giấy màu ấy làm mê hoặc người ta khiến họ quên mất nhân nghĩa đạo đức. Ðó cũng chỉ vì tham mấy tấm giấy này cho rằng nó là chân thật. Bạn ngu si hay không?
- Sân là nóng giận, cũng là phiền não. Khi có lòng sân giận thì bạn thấy ai cũng không tốt. Nếu có một người làm lỗi với tôi thì tôi nổi giận đối với tất cả mọi người. Thật là giống như xem phiền não là cơm. Ăn một chén rồi lại ăn tiếp một chén. Ăn xong lại ăn tiếp chén nữa. Vĩnh viễn không bao giờ ăn thấy no.
- Si là tâm ngu dốt, vọng tưởng, ngu si. Không được lấy mà cứ lấy, đó là ngu si. Không được ăn mà cứ ăn, đó là ngu si. Không được có mà cứ muốn có, đó là ngu si. Không được làm mà cứ làm, đó là ngu si.
- Người có đẹp lộng lẫy đến đâu, cũng chỉ là bọc da thối. Người xấu xí tới đâu cũng chỉ là bọc da thối. Bên ngoài tuy không giống nhau nhưng bên trong thì một thứ, chẳng gì đẹp đẽ hay xấu xí. Nếu càng tìm bên trong càng thấy toàn là máu, mủ, đờm, dãi, nhớp nhúa. Xét đến năm tạng, thì toàn là phân và nước tiểu. Bên ngoài đẹp đẽ, bên trong thối không thể chịu được, có gì khác đâu? Cần gì mình phải chấp trước vào cái thân này chớ! Người ngu si thì chú ý vẻ đẹp bên ngoài, chấp trước vào cái tướng đẹp đẽ mỹ miều, rồi ghét bỏ cái tướng xấu xí. Ðây chẳng phải là ngu si sao?
- Người tu phải nhớ đừng ham ăn uống đồ ngon, ham hưởng thụ. Lúc nào mình cũng phải lấy đạo hạnh của đức Thích Ca Mâu Ni làm gương để tự khuyến khích, tự cảnh giác. Bất kỳ lúc nào cũng không được buông lung.
- Nam hay nữ, khi tu thì phải dứt sạch thất tình. Thất tình là gì? Là vui, giận, buồn, sợ, yêu, ghét, dục vọng. Bị bảy thứ này khống chế thì định lực của bạn sẽ tiêu tan mất. Khi bị gió của cảnh thổi đến, tâm bạn dao động, không thể tự chủ, như nhà không chủ, lúc ấy thì là điên đảo.
- Ở trên đời nếu mình làm gì không đúng thì cũng giống như sống trong địa ngục vậy. Làm chuyện gì không đúng đạo lý, có lòng ích kỷ tự lợi thì là ở tại địa ngục rồi. Cứ vui việc này việc kia, giận chuyện này chuyện nọ, cứ dùng tình cảm giải quyết vấn đề, thì cũng như là ở trong địa ngục vậy.
- Thế nào là điên đảo? Tức là cho khổ là sướng, cho đúng là sai, trắng đen chẳng phân, chân giả không rõ, cho vô thường là hằng thường.
- Người tu phải thành thật với nhau, khuyến khích lẫn nhau, dạy nhau tiến tới chỗ quang minh. Không thể đồng lõa làm xấu, che chở chuyện xấu, hoặc giả nịnh hót người, vuốt ve người, làm tôi tớ cho người.
- Biển khổ mênh mông, quay đầu là bến. Chớ nên tại trong biển khổ chìm xuống nổi lên trôi dạt mãi mãi. Thế thì chẳng có ngày giải thoát xuất ly.
- Thân của mình ô uế vô cùng. Nhưng người ta cứ xem nó như bảo bối, đeo vào nó nào là hột xoàn, châu báu lại xức dầu thơm, đánh son phấn. Chẳng phải đó là đem bảo vật, hương hoa tới trang điểm cái cầu tiêu sao?
- Người tu đạo nhất định phải trừ sạch những vọng tưởng về thất tình, lục dục. Quét cho thật sạch sẽ.
- Tại sao nói không thể nắm bắt được ba tâm? Không thể nắm bắt được tâm quá khứ; không thể nắm bắt được tâm hiện tại; không thể nắm bắt được tâm vị lai. Quá khứ thì đã qua rồi, qua rồi thì còn gì nữa đâu. Không có quá khứ thì ta nghĩ về nó cũng không thể có. Hiện tại thì không dừng trụ, niệm niệm trôi qua, niệm niệm di động, niệm niệm chẳng hề ngừng nghỉ đi qua, do đó tâm hiện tại cũng chẳng thể nắm bắt. Vị lai thì chưa tới, thì mình làm được gì nó? Do đó tâm vị lai cũng không thể nắm bắt. Nếu bạn có thể không nắm bắt ba tâm, chẳng sinh bốn tướng chấp trước (vào cái ngã, vào người, vào chúng sinh, vào thọ mạng), thì có thể hợp nhất với tự tánh, viên mãn bồ đề, về chỗ không sở đắc.
- Khi tu hành, bạn có tư tưởng ý niệm gì thì sẽ có thứ quỷ tương ứng. Quỷ là một thứ âm khí. Khi bạn có tư tưởng tốt lành thì âm khí tiêu mất. Nếu bạn sửa đổi nề nếp suy nghĩ, để cho ánh sáng chiếu rọi thì sẽ có trí huệ.
- Tuy rằng chúng sinh ai cũng miệng nói là tìm cầu an lạc, nhưng bất hạnh thay, càng tìm càng đau khổ.
- Con người sửa ác làm lành thì thế giới không còn tam tai bát nạn. Người hiền lành thân mến đối xử với nhau, không tranh không tham thì thế giới sẽ biến thành thế giới đại đồng.
- Người học Phật tu đạo không nên tính toán nhiều quá. Ai đó chửi tôi, nhưng tôi là ai? Ai đó đánh tôi, nhưng tôi là ai? Tự hỏi xem, bạn sẽ chẳng tìm thấy một cái tôi nào đâu. Như vậy thì tại sao không buông bỏ nó chớ.
- Tu thì phải xoay trí huệ tự chiếu lòng mình, tự hỏi mình có lòng tham chăng? Có thì chẳng phải là tu. Không có thì tức là tu. Tự hỏi mình có lòng sân hận không? Có thì chẳng phải là tu. Không có thì chứng minh rằng cái ngã đã bớt một chút. Bị đánh thì bạn coi như không thấy biết; bị chửi thì bạn dùng đạo lý để thấu triệt. Nếu trong lòng sinh phiền não, nổi sân giận thì sẽ chẳng thể tu hành được. Tự hỏi mình có ngu si không? Phải chăng mình thông đạt một thứ thì thông đạt mọi thứ, chẳng hề chướng ngại? Rằng: chân không thì chẳng có nhân ngã; đại đạo thì chẳng hình tướng.
|
Kinh sách mới
Chú Lăng Nghiêm là Chú quan trọng nhất, hơn hết thảy trong các Chú. Bao gồm hết thảy thể chất và diệu dụng của Phật Pháp. Chú này chia làm năm bộ : Kim Cang bộ, Bảo Sinh bộ, Liên Hoa bộ, Phật bộ và Nghiệp bộ. Năm bộ Kinh này thuộc về năm phương : 1. Kim Cang bộ : Thuộc về phương Ðông, Ðức Phật A Súc là chủ. 2. Bảo Sinh bộ : Thuộc về phương Nam, Đức Phật Bảo Sinh là chủ. 3. Phật bộ : Thuộc về chính giữa, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là chủ. 4. Liên Hoa bộ : Thuộc về phương Tây, Đức Phật A Di Ðà là chủ. 5. Nghiệp bộ : Thuộc về phương Bắc, Đức Phật Thành Tựu là chủ.
Nếu người không có căn lành, thì đừng nói đến tụng niệm, dù ba chữ « Chú Lăng Nghiêm » cũng không nghe được, cũng không có cơ hội nghe được. Các vị bây giờ dùng máy vi tính tính thử xem, dùng thần não của bạn tính thử xem, hiện tại trên thế giới nầy, người tụng Chú Lăng Nghiêm nhiều, hay là người không biết tụng Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Người nghe được tên Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Hay là người không nghe được tên Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Cho nên các vị đừng xem mình là người rất bình thường, bạn đã nghe được Phật pháp, đây đều là trong vô lượng kiếp về trước đã từng gieo trồng căn lành, đắc được diệu pháp thâm sâu vô thượng, các vị đừng để pháp môn nầy trôi qua.
Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy còn gọi là Kinh Pháp Giới, cũng gọi là Kinh Hư Không, tận hư không khắp pháp giới, chẳng có một nơi nào mà chẳng có Kinh Hoa Nghiêm ở đó. Chỗ ở của Kinh Hoa Nghiêm tức cũng là chỗ ở của Phật, cũng là chỗ ở của Pháp, cũng là chỗ ở của Hiền Thánh Tăng. Cho nên khi Phật vừa mới thành chánh giác, thì nói bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, để giáo hoá tất cả pháp thân Ðại Sĩ . Vì bộ Kinh nầy là Kinh vi diệu không thể nghĩ bàn, do đó bộ Kinh nầy được bảo tồn ở dưới Long cung, do Long Vương bảo hộ giữ gìn. Về sau do Ngài Bồ Tát Long Thọ, xuống dưới Long cung đọc thuộc lòng và ghi nhớ bộ Kinh nầy, sau đó lưu truyền trên thế gian.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử ở chỗ Dạ Thần Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sinh, nghe môn giải thoát Phổ hỉ tràng, tin hiểu hướng vào, biết rõ tuỳ thuận, suy gẫm tu tập. Nhớ hết những lời dạy của thiện tri thức, tâm không tạm xả, các căn chẳng tán, một lòng muốn gặp được thiện tri thức. Siêng cầu khắp mười phương không giải đãi. Muốn thường gần gũi sinh các công đức, đồng một căn lành với thiện tri thức. Đắc được hạnh phương tiện thiện xảo của thiện tri thức. Nương thiện tri thức vào biển tinh tấn, trong vô lượng kiếp thường chẳng xa lìa. Nguyện như vậy rồi, bèn đi đến chỗ Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sinh Diệu Đức.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử một lòng muốn đi đến chỗ Ma Gia phu nhân, tức thời đắc được trí huệ quán cảnh giới Phật.Bèn nghĩ như vầy: Thiện tri thức nầy xa lìa thế gian. Trụ nơi không chỗ trụ, vượt qua sáu xứ. Lìa tất cả chấp trước. Biết đạo vô ngại, đủ tịnh pháp thân. Dùng nghiệp như huyễn mà hiện hoá thân. Dùng trí như huyễn mà quán thế gian. Dùng nguyện như huyễn mà giữ thân Phật. Thân tuỳ ý sinh, thân không sinh diệt, thân không đến đi, thân chẳng hư thật, thân chẳng biến hoại, thân không khởi tận, thân hết thảy tướng đều một tướng, thân lìa hai bên, thân không y xứ, thân vô cùng tận, ...
Tôi tin rằng bộ Kinh nầy được giảng lần đầu tiên tại nước Mỹ, các vị cũng là những người đầu tiên được nghe. Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, là vua trong các Kinh Phật, cũng là vua trong vua. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa cũng là vua trong các Kinh, nhưng không thể gọi là vua trong vua. Bộ Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật nầy, là vua trong vua, là bộ Kinh dài nhất trong Kinh điển đại thừa mà đức Phật nói, nhưng thời gian nói không dài quá, chỉ trong hai mươi mốt ngày, thì đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói xong bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ở trong năm tầng nghĩa lý huyền diệu, thì huyền nghĩa thứ nhất là giải thích tên Kinh. Bộ Kinh nầy dùng Diệu Pháp Liên Hoa làm tên. Diệu Pháp là pháp, Liên Hoa là ví dụ, vì Phật Pháp vi diệu thâm sâu, một số người không dễ gì hiểu nổi, cho nên dùng liên hoa (hoa sen) để ví dụ, do đó bộ Kinh nầy lấy pháp và dụ làm tên. Cứu kính thì diệu pháp là gì ? diệu đến cỡ nào ? tốt đến cỡ nào ? Nay tôi nói cho bạn biết, sự diệu nầy không thể dùng tâm suy nghĩ, không thể dùng lời bàn luận, không thể dùng tâm để dò, nghĩ cũng nghĩ không hiểu nổi; nghĩ muốn hiểu biết thì nói không đến được sự diệu của nó.
Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất hớn hở vui mừng, bèn đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, mà bạch Phật rằng : Hôm nay nghe đức Thế Tôn nói pháp nầy, tâm con rất hớn hở được chưa từng có. Tại sao ? Vì xưa kia con theo Phật nghe pháp như vầy : Thấy các vị Bồ Tát được thọ ký sẽ thành Phật, mà chúng con chẳng được dự vào việc đó, rất tự cảm thương, mất đi vô lượng tri kiến của Như Lai. Ðức Thế Tôn ! Con thường một mình ở dưới gốc cây nơi rừng núi, hoặc ngồi hoặc đi kinh hành, bèn nghĩ thế nầy : Chúng con đồng vào pháp tánh, tại sao đức Như Lai dùng pháp tiểu thừa mà tế độ ? Ðó là lỗi của chúng con, chứ chẳng phải đức Thế Tôn vậy.
Quyển Ý Nghĩa Đời Người này rất thâm thuý, tuy cố H.T Tuyên Hoá thuyết giảng lời lẽ giản dị, mộc mạc, nhưng nghĩa lý rất cao thâm huyền diệu, đi vào tâm người. Nếu người tu học, đọc hết quyển sách này, y theo trong đó mà thực hành, thì sẽ giác ngộ được ít nhiều ngay trong đời này, không cần phải tìm cầu đâu xa vời. Đặc biệt cố Hoà Thượng nhấn mạnh về Sáu Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thành đó là : Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tư lợi, không nói dối. Sáu đại tông chỉ này cũng có thể nói là kim chỉ nam của người tu hành, dù xuất gia, hay tại gia, đều lợi lạc vô cùng, nhất là thời đại ngày nay.
|
|
|