Thông tin
Các bài mới
Mùa đông năm ấy tại Vesali, tiết trời buốt lạnh. Tôn giả Ba Xà Ba Đề đã rất lớn tuổi. Ngài đi lại khó khăn hơn nhưng trí tuệ vô cùng linh mẫn. Hàng ngày, Ngài thường ngồi trước khoảng hiên của tinh xá đón ánh nắng mai. Gương mặt Ngài phúc hậu và đôi mắt vẫn ngời sáng. Một hôm, trong lúc nhập định, Ngài biết được đã đến thời khắc phải rời bỏ thế gian hư ảo này. Ngay khi ý niệm vừa khởi lên, cùng lúc mấy trăm vị Thánh Ni đều thấy được suy nghĩ ấy. Tất cả các vị đều muốn theo bước Ni trưởng, an trú trong Niết Bàn. 
Tỳ kheo Rahula ngạc nhiên hỏi: - Ủa, sao thế thưa Tôn giả Sariputta? Con nghĩ chứng được thiền định là đã quá giỏi, cớ sao không chứng được Thánh quả ạ? Chợt có tiếng của Tôn giả Moggallana (Mục Kiền Liên) cất lên: - Này thầy Rahula, chứng được thiền định và chứng được Thánh quả khác nhau là thế này... Tỳ kheo Rahula lật đật đứng dậy thỉnh Tôn giả ngồi xuống sàn tre bên cạnh Tôn giả Sariputta, còn mình thì đứng một bên chắp tay lắng nghe. 
Tâm từ là tình yêu thương không điều kiện, không đòi hỏi phải được đáp trả trở lại. Người có tâm từ bi dễ tạo thành công đức, có uy đức để dạy bảo mọi người, dung mạo xinh đẹp, được ơn trên gia hộ và dễ nhiếp tâm trong thiền định. Do đó, khi được gần một người có tâm từ bi, ta rất dễ chịu, cứ muốn ở gần hoài và có xu hướng nghe người đó chỉ bảo, hướng dẫn, chia sẻ. Khi được tu dưỡng đủ lòng từ bi thì sẽ thể hiện ra bên ngoài thông qua lời nói và việc làm. Người có lòng từ bi hiểu sâu sắc nỗi khổ của tha nhân nên giúp ai là giúp đến cùng, tận tâm, chu đáo và cũng cực kỳ tinh tế.
Tôn giả Maha Moggallana nói với Tôn giả Maha Kassapa: - Thưa Tôn giả Kassapa, chúng ta hãy đến nói chuyện đạo lý với Tôn giả Sariputta. Tôn giả Ananda đang ngồi bên cạnh Tôn giả Revata, bèn chỉ tay về phía bên kia nói: - Thưa hiền giả Revata, chúng ta hãy đến nghe các Tôn giả nói chuyện đạo lý, ắt hẳn sẽ có nhiều điều thú vị. Tôi vừa thấy các Tôn giả Moggallana và Kassapa đến chỗ các Tôn giả Sariputta và Anuruddha (Mục Kiền Liên, Ca Diếp, Xá Lợi Phất, A Nậu Lâu Đà). Khi thấy Tôn giả Ananda đến gần, Tôn giả Sariputta mỉm cười thân ái nói: 
- Này thí chủ, ta muốn anh tha mạng cho con dê này, thì đổi lại ta cho anh cái gì được. - Thưa Sa Môn, nếu Ngài trả tôi 2 đồng tiền bạc đúng như tiền lãi của việc giết thịt con dê này thì tôi sẽ đồng ý tha mạng con dê này. - Này thí chủ, nếu ta đem cho anh cái lợi gấp trăm nghìn lần thì sao? - Thưa Ngài, nếu Ngài cho tôi cái lợi hơn cả trăm ngàn lần, thì tôi sẽ bỏ nghề đồ tể chuyển sang nghề khác không có sát sinh. - Vậy anh hãy cùng đến gốc cây kia ngồi xuống, ta sẽ cho anh thấy cái lợi lớn hơn. - Này thí chủ, anh có biết vì sao một người sinh ra nghèo hèn? 
Có năm mươi tỳ kheo được Phật dạy: hãy quán thân xác vô thường như đồ gốm dễ vỡ. Đồ gốm thì chỉ cần sẩy tay một chút, rơi xuống là vỡ tan, thân này cũng thế, coi vậy chứ mong manh vô cùng. Không biết lúc nào bị trúng gió, tai biến chết, hoặc va quẹt một chút cũng gãy tay gãy chân, lỡ bị vật gì đâm trúng thì chảy máu liền... Thân xác con người rất mong manh tạm bợ nên Phật đã dạy về phép quán thân như thế. Sau khi nhận đề mục này và thực hành tương đối ổn định, năm mươi vị rủ nhau cùng đến một nơi hoang vắng để nỗ lực tu tập. 
Ngài Kiều Trần Như cùng bốn huynh đệ đến cư trú tại một khu rừng gần bờ sông Hằng, cách thành phố Ba La Nại (Banares) của đất nước Ma Kiệt Đà (Magadha) không xa. Nơi đây ngát một màu xanh, những tàng cây um tùm che tán lá xanh thẫm phía trên, dưới chân là những thảm cỏ non màu xanh mơn mởn, rất nhiều đàn hươu nai tìm về sinh sống. Khung cảnh thật thanh bình, người ta gọi đó là vườn Lộc Uyển (Sarnath).
Pháp âm
Pháp thoại
TÌM KIẾM
- Tại sao chúng ta có phiền não ? Tại sao có sầu lo ? Tại sao có sự không vui ? Là ví tâm ích kỷ đang tác quái ! Tâm nhiễm ô đang tác quái ! Cống cao ngã mạn đang tác quái ! Tập khí mao bệnh đang tác quái ! Do đó, tâm chẳng thanh tịnh, tâm chẳng hoan hỉ, nên có phiền não, có sầu lo. Thậm chí lễ Phật cũng chẳng vui vẻ, nghe Kinh cũng không vui vẻ. Bất cứ làm gì, cũng làm việc phô diễn, chẳng chân thật mà làm. Đó mới là việc khổ thật sự, tuyệt đối không an lạc.
- Do nghiệp cảm khác nhau, cho nên trồng nhân thanh tịnh, thì được quả thanh tịnh; trồng nhân nhiễm ô, thì được quả nhiễm ô. Thứ nghiệp thiện ác hỗn tạp nầy, có lúc trong nghiệp thiện thêm nghiệp ác, có lúc trong nghiệp ác thêm nghiệp thiện. Có lúc trong nghiệp thanh tịnh, xen tạp nghiệp nhiễm ô; có lúc trong nghiệp nhiễm ô, xen tạp nghiệp thanh tịnh. Tương lai nghiệp thiện thành thục, thì sinh vào ba đường lành; tương lai nghiệp ác thành thục, thì sinh vào ba đường ác. Chẳng phải bị người khác bức bách, mà là do chính mình tạo nghiệp, chiêu cảm cảnh giới báo ứng. Do đó, "Mình làm mình chịu", người khác không thể nào thay thế được. Dù có tặng hồng bao, hối lộ vua Diêm Vương, cũng chẳng làm được, tại sao ? Vì vua Diêm Vương đại công vô tư, biện án thanh minh, chỉ nói thiện ác, không nói đến nhân tình, sự việc không thể chuyển đổi được.
- Chúng ta người học Phật, phải khác với những người thế gian, những gì họ ham thích, chúng ta không ham thích, những gì họ tham, chúng ta không tham. Mao bệnh người thế gian có, chúng ta không có. Nếu sinh hoạt tập quán giống với những người thế gian, thì đó chẳng phải là người xuất gia. Họ nhẫn được, bạn nhẫn được; họ chịu được, bạn chịu được, đó chẳng phải là bản sắc của người xuất gia. Phải nhẫn những việc mà người khác không nhẫn được, phải chịu khổ mà người khác chịu không được, làm những việc mà người khác không làm được, đó mới là bản sắc chân chánh của người xuất gia.
- Có tư tưởng tạp nhiễm rồi, nghĩ muốn nghe Kinh, mà tâm không thể thanh tịnh; nghĩ muốn tự tại, mà tâm không thể tự tại. Người học Phật, đừng nên có phiền não. Những thứ tạp nhiễm, phải có trí huệ rất vi tế, mới phân biệt rõ ràng được.
- Nếu như thấu hiểu tà pháp, tức là minh bạch chánh pháp, tức cũng là minh bạch lý thể chân như thật tướng, không làm việc điên đảo. Ðiên đảo tức là không nên làm mà làm, nên làm mà không làm. Không điên đảo tức là nên làm thì làm, không nên làm thì không làm. Phải biết vọng là từ chân như thật tướng mà sinh ra. Phải biết gốc rễ của vọng là chân, trừ sạch hết vọng thì chân sẽ hiện ra, chỉ cần trừ khử tâm thức phân biệt, thì trí huệ vốn có sẽ hiện tiền. Như thế sẽ đầy đủ mắt thanh tịnh, mới thấy được Phật.
- Tại sao chúng ta chẳng thấu hiểu chánh pháp ? Vì vô minh đang tác quái, khởi tâm tham, có tâm dục niệm, cho nên chẳng phân chánh tà. Nếu phá được vô minh, thì chẳng còn tâm tham, chẳng còn dục niệm, thì sẽ minh bạch gì là chánh pháp ? Tất cả mọi vấn đề đều tiếp nhận mà giải.
- Chúng ta vốn giống như Phật, tự tánh quang minh hay chiếu sáng ba ngàn đại thiên thế giới, vì động một niệm vô minh, mà đến thế giới Ta Bà này, hoặc đến thế giới khác đầu thai làm người. Do đó, tu hành thì có thể thành Phật, không tu hành thì phải làm quỷ.
- Chỉ cần chúng ta trở về cội nguồn, khôi phục lại trí huệ vốn có, thì chẳng còn tâm phân biệt, thì sẽ minh bạch tất cả. Do đó:
 ‘’Thiện ác hai con đường
Tu thì tu, tạo nghiệp thì tạo.’’
- Tu phước tu huệ là Phật, tạo tội tạo nghiệp là quỷ. Phật xem tất cả chúng sinh đều là Phật. Quỷ xem chúng sinh đều là quỷ, đó là hết thảy do tâm tạo. Trong kinh này có nói:
 ‘’Nếu ai muốn biết rõ
Tất cả Phật ba đời
Hãy quán tánh pháp giới
Hết thảy do tâm tạo.’’
Tất cả tánh pháp giới, đều do tâm mà tạo ra.
- Tu đạo là cần phải "quay trở lại". Nghĩa là gì ? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu. Xả "tiểu ngã" để thành tựu "đại ngã".
 - Ðối với ma thì đừng khởi tâm thù nghịch. Hãy xem chúng như các bậc "thiện tri thức" trợ đạo cho mình.
- Người tu hành phải vì cắt đứt] dòng sinh tử luân hồi, vì hoá độ chúng sinh, chứ không vì cầu cảm ứng mà tu đạo.
- Khi tu học phật pháp, điều thiết yếu là phải chân thật. Nơi mỗi hành động, cử chỉ, lời nói đều phải chân thật.
- Sống trong tự viện chúng ta phải biết tiếc kiệm mọi vật dụng. Có câu :"Giữ gìn vật của Chùa như bảo vệ tròng con mắt".
- Không thương và không ghét chính là nghĩa trung đạo.
- Chưa bao giờ có việc : "Ngày nay tu đạo thì ngày mai thành Phật. Mới cuốc một nhát đất đâu có thể đào giếng nước ngay được. Tu hành là đem khối sắc mài thành cây kim. Khi công phu đầy đủ thì tự nhiên sẽ thành tựu.
- Có câu : "Khi muốn làm người tốt thì nghiệp báo hiện, khi muốn thành Phật thì ma đến thử thách." Nếu không muốn trở thành người lành thì nghiệp báo không tìm đến. Càng quyết chí làm người lành (tu hành) bao nhiêu thì nghiệp báo càng tìm tới tấp bấy nhiêu để đòi chúng ta thanh toán nợ nần cho rõ ràng.
- Phật và ma chỉ khác nhau nơi một tâm niệm : Phật thì có tâm từ bi, còn ma thì có tâm tranh hơn thua.
- Người thật sự biết cách tu hành thì nhất cử nhất động đều là tu cả.
- Tu đạo cần phải tập dại khờ. Càng dại khờ bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu. Dại khờ cho đến lúc buông xả muôn việc thì vọng tưởng sẽ không còn nữa.
- Người tu đạo cần phải nhẫn những gì mà người khác không] thể nhẫn, nhường nhịn những gì mà người khác không thể nhường nhịn, ăn mặc những gì mà kẻ khác không thể ăn mặc. Nói chung phải thọ nhận những gì mà người khác không thể thọ nhận.
- Khi chúng ta tu đạo, việc quang trọng nhất là không tranh, nghĩa là không cùng với người khác tranh đua hơn thiệt, hay tranh về tốt xấu hoặc về việc đúng sai của kẻ khác.
- Tu hành là phải tu dưỡng dại khờ. Tu hành càng khờ thì càng tốt, khờ đến gì cũng chẳng biết, một chút vọng tưởng cũng chẳng còn.
- Kẻ địch của sự tu đạo là ai ? Chẳng phải là ma vương, mà là tâm ích kỷ. Nếu dụng tâm ích kỷ thì chẳng có việc gì thành công, cũng thuộc về hư vọng.
- Nếu mỗi ngày thành tâm trì tụng Chú Ðại Bi thì dù bệnh AIDS (ái tử bệnh) hoặc bệnh cancer (ung thư) cũng chẳng sợ, nhưng phải thành khẩn.
- Hiện tại chúng ta may mắn có được thân người. Nếu khôngà biết dùng thân người để tu hành thì đợi đến khi nào mới chịu tu ? Chỉ e đến lúc mất thân nầy rồi, dù có muốn tu hành thì đã quá muộn màng !
- Dùng lưỡi để thuyết pháp thì tích luỹ công đức. Ngược lại nếu dùng lưỡi để nói chuyện thị phi thì thì tạo nghiệp xấu. Thay vì thuyết pháp mà lại nói chuyện thị phi vô nghĩa, chính là tạo 1.200 tội lỗi.
- Sống trên thế gian nầy, chúng ta phải luôn luôn làm việc lành. Còn hơi thở và sức lực thì chúng ta nên làm việc lành để tích luỹ công đức.Trong đời nầy chúng ta đừng dựa vào căn lành đã trồng trong những kiếp trước mà hưởng hết phước báo.
- Nếu tâm tham lam tràn trề không biết đủ thì tương lai sẽ bị đoạ vào địa ngục. Nếu từ sáng đến tối với tâm giận dữ nặng nề thì sẽ trở thành ngạ quỷ. Nếu tâm ngu si quá nặng, chỉ làm những việc ngu xuẩn thì sẽ trở thành súc sinh.
- Người chân chánh khai ngộ thì không bao giờ nói mình đã khai ngộ. Các bậc Thánh nhân xuất hiện nơi thế gian tuyệt đối không tiết lộ chân tướng. Phàm là những kẻ tự xưng là Phật hay Bồ Tát đều là hạng tà ma.
- Mỗi người đều có ba tên giặc phiền não ở trongà tâm, đó là tham lam, sân hận và si mê. Chúng ta không cần tiêu diệt chúng mà chỉ cần chuyển hoá chúng thành những hạt giống bồ đề.
- Việc thành Phật vốn không phải dễ dàng ! Chưa chặt đứt tâm tham dục mà mong thành Phật, thì không bao giờ có. Người thời nay đều thích cầu may, thích đi đường tắt, nên dễ dàng bị những việc huyền ảo lạ kỳ lôi cuống và bị mê hoặc rồi lạc vào lưới ma.
- Khoái lạc chân chính là chẳng mong cầu gì nữa, đến chỗ chẳng mong cầu gì nữa thì sẽ hết lo. Bạn chẳng có mong cầu bất cứ thứ gì thì đó mới là khoái lạc thật sự, an ổn tự tánh thật sự.
- Tại sao hiện nay trên thế giới đầy dẫy những tội lỗi do thanh thiếu niên gây ra ? Vì những bậc cha mẹ chỉ lo sinh con chứ không chăm sóc, dạy dỗ.
- Trẻ con không phải sinh ra là hư xấu đâu. Chỉ bởi vì chúng không được dạy dỗ mà ra. Vì thế làm cha mẹ phải coi việc giáo dục con cái là cấp thiết quan trọng nhất. Cho dù kiếm được bao nhiêu tiền cũng không có giá trị bằng dạy dỗ con cái cho tốt.
- Tâm tham của chúng ta là cái hố không đáy; nó cao hơn trời, dày hơn đất và sâu hơn biển, nên mãi mãi không bao giờ lấp đầy nó được.
- Người không có đạo đức mới là kẻ nghèo cùng.
- Nếu có người đến cầu pháp, tôi sẽ bảo họ nên ăn ít, mặc ít và ngủ ít một chút. Vì mặc ít thì tăng phước, ngủ ít thì tăng lộc và ăn ít thì tăng thọ.
- Con ngườià sống không phải vì miếng ăn, mà sống để làm lợi ích cho xã hội, ban phước đức cho nhân dân và hỗ trợ cho thế giới.
- Nếu Còn chấp trước thì đó là tâmà người thế tục, nếu chẳng chấp trước thì đó là tâm đạo.
- "Phiền não tức bồ đề", nếu biết cách tu hành thì phiền não tức là bồ đề, bằng ngược lại thì bồ đề biến thành phiền não.
- Người tu hành phải tu tướng vô ngã, tu đếnà cảnh giới chẳng còn cái ta thì nhẫn chịu được hết tất cả, bất cứ cảnh giới gì đến tâm đều an nhiên bất động và tâm thanh tịnh giống như hư không.
- Tại sao nói dối ? Vì sợ mình mất quyền lợi và bị thua thiệt.
- Giữ năm giớià và làm mười điều lành thì sẽ sinh về cõi trời cõi người. Nếu còn tham lam, sân hận, và si mê thì sẽ sinh về ba đường ác.
- Tu học Phật pháp chính là tuà học việc không làm đau khổ phiền não cho kẻ khác.
- Bất cứ tu pháp môn gì, phải có tâm nhẫn nại thì sự tu hành mới mong thành tựu. Bằng ngược lại thì không thể thành tựu bất cứ pháp môn gì.
- Tại sao chúng ta không nhận ra cội gốc và bộ mặt thật của chính mình ? Vì chúng ta chưa xả bỏ tâm chấp cái ta, và tâm ích kỷ của chính mình.
- Người chân chánh tham thiền là người chânà chánh niệm Phật. Ngược lại người chân chánh niệm Phật cũng là người tham thiền. Người chân chánh trì giới cũng là người chân chánh tham thiền. 
- Cờ bạc thì tạo nghiệp nặng. Bố thí thì tích luỹ công đức. Ngồi thiền thì trừ ngu si, phát sinh trí huệ.
- Thọ khổ thì hết khổ, hưởng phước thì hết phước.
- Chủ yếu chúng ta nghiên cứu Phật Pháp là gì ? Cần nhất là không khởi vọng tưởng, thu nhiếp thân tâm. Thu nhiếp thân tâm lại với nhau, không tưởng đông, không nghĩ tây, không nghĩ về quá khứ, cũng không nghĩ hiện tại, cũng không nghĩ về vị lai. Một lòng một dạ nghiên cứu Phật pháp. Như thế thì bạn chẳng có phiền não gì cả, chẳng có lo âu gì cả. Tại sao bạn có phiền não ? Vì việc gì bạn cũng nhìn chẳng thấu, buông chẳng đặng, thấy việc nầy cũng quan trọng, thấy việc kia càng quan trọng hơn. Sự quan trọng đó sẽ sinh ra tâm chấp trước. Có tâm chấp trước thì có phiền não sinh ra. Do đó chúng ta là người nghiên cứu Phật pháp thì đừng có tâm chấp trước, đừng có tâm chấp trước nào cả.
- Người tu hành mà không thể nhẫn nại, chẳng có công phu nhẫn nại thì tất cả các pháp môn, bất cứ tu hành đến trình độ nào cũng sẽ không thành tựu, đồng thời sẽ càng biến thành ngu si.
- Trẻ con không phải sinh ra là hư hỏng đâu. Chỉ bởi vì chúng không được dạy dỗ mà ra. Vì thế, bậc làm cha mẹ phải coi việc giáo dục con cái là cấp thiết quan trọng nhất. Cho dù kiếm được bao nhiêu tiền cũng không có giá trị bằng dạy dỗ con cái cho tốt.
- Phá thai là việc rất nghiêm trọng. Phá thai là một trong những nguyên nhân tạo ra nhiều chứng bệnh khó trị và những tai nạn khủng khiếp thời nay. Bạn nghĩ xem : Một sinh mạng chưa ra đời mà đã biến thành oan hồn. Con quỷ nhỏ ấy tới đâu cũng đòi mạng thì xã hội làm sao an ninh đặng ? Những con quỷ nhỏ ấy chỉ có các vị đạo hạnh không tham tiến tài mới có thể siêu độ được chúng.
- Bạn dụng công tu hành, bất cứ tu đến trình độ nào cũng đừng sinh tâm hoan hỉ, cũng đừng sinh tâm sợ hãi. Ðây là biện pháp cơ bản quan trọng nhất của người tu đạo để giải quyết ma chướng.
- Nếu hết thảy mọi người trên thế gian không ăn thịt chúng sinh ; đều ăn chay, không giết hại mà phóng sinh. Ðược như vậy thì tai nạn của thế giới sẽ tiêu diệt ư vô hình, sẽ vãn hồi được kiếp vận.
nh điển hình
Kinh sách mới
Chú Lăng Nghiêm là Chú quan trọng nhất, hơn hết thảy trong các Chú. Bao gồm hết thảy thể chất và diệu dụng của Phật Pháp. Chú này chia làm năm bộ : Kim Cang bộ, Bảo Sinh bộ, Liên Hoa bộ, Phật bộ và Nghiệp bộ. Năm bộ Kinh này thuộc về năm phương : 1. Kim Cang bộ : Thuộc về phương Ðông, Ðức Phật A Súc là chủ. 2. Bảo Sinh bộ : Thuộc về phương Nam, Đức Phật Bảo Sinh là chủ. 3. Phật bộ : Thuộc về chính giữa, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là chủ. 4. Liên Hoa bộ : Thuộc về phương Tây, Đức Phật A Di Ðà là chủ. 5. Nghiệp bộ : Thuộc về phương Bắc, Đức Phật Thành Tựu là chủ.
Nếu người không có căn lành, thì đừng nói đến tụng niệm, dù ba chữ « Chú Lăng Nghiêm » cũng không nghe được, cũng không có cơ hội nghe được. Các vị bây giờ dùng máy vi tính tính thử xem, dùng thần não của bạn tính thử xem, hiện tại trên thế giới nầy, người tụng Chú Lăng Nghiêm nhiều, hay là người không biết tụng Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Người nghe được tên Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Hay là người không nghe được tên Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Cho nên các vị đừng xem mình là người rất bình thường, bạn đã nghe được Phật pháp, đây đều là trong vô lượng kiếp về trước đã từng gieo trồng căn lành, đắc được diệu pháp thâm sâu vô thượng, các vị đừng để pháp môn nầy trôi qua.
Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy còn gọi là Kinh Pháp Giới, cũng gọi là Kinh Hư Không, tận hư không khắp pháp giới, chẳng có một nơi nào mà chẳng có Kinh Hoa Nghiêm ở đó. Chỗ ở của Kinh Hoa Nghiêm tức cũng là chỗ ở của Phật, cũng là chỗ ở của Pháp, cũng là chỗ ở của Hiền Thánh Tăng. Cho nên khi Phật vừa mới thành chánh giác, thì nói bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, để giáo hoá tất cả pháp thân Ðại Sĩ . Vì bộ Kinh nầy là Kinh vi diệu không thể nghĩ bàn, do đó bộ Kinh nầy được bảo tồn ở dưới Long cung, do Long Vương bảo hộ giữ gìn. Về sau do Ngài Bồ Tát Long Thọ, xuống dưới Long cung đọc thuộc lòng và ghi nhớ bộ Kinh nầy, sau đó lưu truyền trên thế gian.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử ở chỗ Dạ Thần Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sinh, nghe môn giải thoát Phổ hỉ tràng, tin hiểu hướng vào, biết rõ tuỳ thuận, suy gẫm tu tập. Nhớ hết những lời dạy của thiện tri thức, tâm không tạm xả, các căn chẳng tán, một lòng muốn gặp được thiện tri thức. Siêng cầu khắp mười phương không giải đãi. Muốn thường gần gũi sinh các công đức, đồng một căn lành với thiện tri thức. Đắc được hạnh phương tiện thiện xảo của thiện tri thức. Nương thiện tri thức vào biển tinh tấn, trong vô lượng kiếp thường chẳng xa lìa. Nguyện như vậy rồi, bèn đi đến chỗ Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sinh Diệu Đức.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử một lòng muốn đi đến chỗ Ma Gia phu nhân, tức thời đắc được trí huệ quán cảnh giới Phật.Bèn nghĩ như vầy: Thiện tri thức nầy xa lìa thế gian. Trụ nơi không chỗ trụ, vượt qua sáu xứ. Lìa tất cả chấp trước. Biết đạo vô ngại, đủ tịnh pháp thân. Dùng nghiệp như huyễn mà hiện hoá thân. Dùng trí như huyễn mà quán thế gian. Dùng nguyện như huyễn mà giữ thân Phật. Thân tuỳ ý sinh, thân không sinh diệt, thân không đến đi, thân chẳng hư thật, thân chẳng biến hoại, thân không khởi tận, thân hết thảy tướng đều một tướng, thân lìa hai bên, thân không y xứ, thân vô cùng tận, ...
Tôi tin rằng bộ Kinh nầy được giảng lần đầu tiên tại nước Mỹ, các vị cũng là những người đầu tiên được nghe. Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, là vua trong các Kinh Phật, cũng là vua trong vua. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa cũng là vua trong các Kinh, nhưng không thể gọi là vua trong vua. Bộ Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật nầy, là vua trong vua, là bộ Kinh dài nhất trong Kinh điển đại thừa mà đức Phật nói, nhưng thời gian nói không dài quá, chỉ trong hai mươi mốt ngày, thì đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói xong bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ở trong năm tầng nghĩa lý huyền diệu, thì huyền nghĩa thứ nhất là giải thích tên Kinh. Bộ Kinh nầy dùng Diệu Pháp Liên Hoa làm tên. Diệu Pháp là pháp, Liên Hoa là ví dụ, vì Phật Pháp vi diệu thâm sâu, một số người không dễ gì hiểu nổi, cho nên dùng liên hoa (hoa sen) để ví dụ, do đó bộ Kinh nầy lấy pháp và dụ làm tên. Cứu kính thì diệu pháp là gì ? diệu đến cỡ nào ? tốt đến cỡ nào ? Nay tôi nói cho bạn biết, sự diệu nầy không thể dùng tâm suy nghĩ, không thể dùng lời bàn luận, không thể dùng tâm để dò, nghĩ cũng nghĩ không hiểu nổi; nghĩ muốn hiểu biết thì nói không đến được sự diệu của nó.
Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất hớn hở vui mừng, bèn đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, mà bạch Phật rằng : Hôm nay nghe đức Thế Tôn nói pháp nầy, tâm con rất hớn hở được chưa từng có. Tại sao ? Vì xưa kia con theo Phật nghe pháp như vầy : Thấy các vị Bồ Tát được thọ ký sẽ thành Phật, mà chúng con chẳng được dự vào việc đó, rất tự cảm thương, mất đi vô lượng tri kiến của Như Lai. Ðức Thế Tôn ! Con thường một mình ở dưới gốc cây nơi rừng núi, hoặc ngồi hoặc đi kinh hành, bèn nghĩ thế nầy : Chúng con đồng vào pháp tánh, tại sao đức Như Lai dùng pháp tiểu thừa mà tế độ ? Ðó là lỗi của chúng con, chứ chẳng phải đức Thế Tôn vậy.
Quyển Ý Nghĩa Đời Người này rất thâm thuý, tuy cố H.T Tuyên Hoá thuyết giảng lời lẽ giản dị, mộc mạc, nhưng nghĩa lý rất cao thâm huyền diệu, đi vào tâm người. Nếu người tu học, đọc hết quyển sách này, y theo trong đó mà thực hành, thì sẽ giác ngộ được ít nhiều ngay trong đời này, không cần phải tìm cầu đâu xa vời. Đặc biệt cố Hoà Thượng nhấn mạnh về Sáu Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thành đó là : Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tư lợi, không nói dối. Sáu đại tông chỉ này cũng có thể nói là kim chỉ nam của người tu hành, dù xuất gia, hay tại gia, đều lợi lạc vô cùng, nhất là thời đại ngày nay.