Thông tin
Các bài mới
I) Hiểu biết về câu nói Đức Phật nhất mạnh trong bài kinh Tứ Niệm Xứ. Bài kinh này khẳng định Tứ Niệm Xứ (Satipaṭṭhāna) là con đường duy nhất đưa đến giác ngộ, chấm dứt khổ đau, đạt đến Niết-bàn. Câu kinh “Đây là con đường duy nhất” (Ekāyano ayaṃ maggo) mang nhiều tầng ý nghĩa quan trọng, giúp hành giả hiểu rõ bản chất và vai trò của việc thực hành thiền Định Samatha và Thiền Minh Sát Vipassana trong việc thanh lọc tâm. Dưới đây là phân tích chi tiết từng ý nghĩa của “con đường duy nhất,” kèm theo ví dụ thực tế và giải pháp thực hành để Phật tử có thể áp dụng trong đời sống.
- Không có ai là người Mỹ “ròng” tại xứ Hoa Kỳ nầy cả. Chỉ có người Da Đỏ thường được xem là người Mỹ Nguyên Gốc (Native American) ở đây thôi. Nhưng thực ra họ cũng là người xứ khác đến đây sớm nhất mà thôi. Đây là đất nước hợp chủng nên mỗi dân tộc trước khi thành người công dân Mỹ đều có tên xứ gốc của mình đứng ở đằng trước như người Mỹ gốc Nhật, người Mỹ gốc Hoa, người Mỹ gốc châu Phi, người Mỹ gốc Anglo... - Tôi không cần biết chuyện của người khác. Tôi chỉ biết tôi là người Mỹ. - Không thể được. Theo luật pháp, cháu không có quyền chọn lựa mà phải xác nhận mình là người Mỹ gốc Việt.
Sống thuận tự nhiên thì tự nhiên sẽ thuận. Theo cả nhà thì Cây cối bộ phận nào quyết định??? Gốc, ngọn, trái hay lá ???? Ngoài vũ trụ ta thấy cây cối bộ phận quan trọng chính là phần gốc phải không a???Nên mới có câu gốc rễ sinh ra hoa trái. Khi chúng ta muốn có trái ngon quả ngọt chúng ta sẽ tưới tẩm ở gốc hay tưới ở lá ???? Vậy với cơ thể con người chân là gốc cây người. Phần hữu hình vật lý của đôi chân mạnh khoẻ rắn chắc để nâng đỡ toàn bộ cơ thể. Nhưng phần vô hình đôi chân( nhiệt độ) vô cùng quan trọng, nó quyết định sức khoẻ mỗi một con người.
Đại sư Hoằng Nhất từng nói: "Đừng ép người khác thức tỉnh, ngay cả người thân của mình." Câu này hàm chứa triết lý nhân sinh sâu sắc. Mỗi người đều có quỹ đạo cuộc sống riêng và thời điểm thức tỉnh của mỗi người cũng khác nhau. Chúng ta không thể áp đặt ý muốn của mình lên người khác, ngay cả những thành viên thân thiết nhất trong gia đình. Trong triết lý Phật giáo, mọi thứ trên thế gian đều phụ thuộc vào sự chín muồi của nhân và duyên. Giống như hạt giống cần đất, nước và nhiệt độ thích hợp để nảy mầm, con người cũng cần thời gian để thay đổi và phát triển.
1 - Tín tài – Niềm Tin Vững Chắc. Tín tài là lòng tin kiên cố vào Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) và vào con đường giải thoát mà Đức Phật đã chỉ dạy. Người có tín tài vững chắc sẽ không bị dao động trước những thử thách và cám dỗ trong cuộc sống. Đây là nền tảng quan trọng để một người tu hành có thể tiến xa trên con đường tâm linh. 2 - Giới tài – Sự Thanh Tịnh Của Đời Sống. Giới tài là sự nghiêm trì giới luật, từ bỏ các hành vi sai trái như sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, nói dối và say sưa. Việc giữ giới không chỉ giúp người tu tránh xa nghiệp xấu mà còn tạo nên sự thanh tịnh trong tâm hồn, giúp họ sống một cuộc đời an lạc, không lo lắng và hối tiếc.
Năm 1964, một tù nhân mới đến Nhà tù Đảo Robben. Giống như những tù nhân khác, anh ta bị cởi quần áo ngay khi bước vào cửa và mặc bộ đồng phục tù nhân có ghi: Số 466. Anh ta là một tù nhân chính trị, vì vậy anh ta bị đẩy vào một phòng giam duy nhất chưa đầy 4,5 mét vuông. Kể từ đó, anh sống một cuộc đời “tối tăm không nhìn thấy ánh sáng”. Trong phòng giam tối om, với ánh đèn mờ ảo treo lơ lửng trên đầu, anh bị giam 23 giờ mỗi ngày, chỉ nửa giờ sáng sớm và nửa giờ chiều tối là được ra khỏi phòng giam. 
Có hai người, cùng mặc một bộ y phục, cùng địa vị, tài sản không sai biệt nhau. Nhưng tại sao khi họ đứng cạnh nhau, một người lại tỏa ra sức hút, khiến người khác thoải mái, còn người kia lại rất đỗi bình thường, thậm chí là dị thường. Vậy điều gì làm họ khác biệt đến như vậy? Điều gì quyết định giá trị thực sự của hai người họ? Bề ngoài không nói lên một người, nhưng cách họ thể hiện ra, lại nói lên tất cả. Ví như một bộ y phục đắt tiền có thể khiến hai người trông giống nhau, nhưng không thể khiến họ ngang hàng về khí chất.
Pháp âm
Pháp thoại
TÌM KIẾM
- Thân thể của ta cũng giống như một xưởng hóa học, thiên biến vạn hóa. Có lúc nó biến mình thành con trùng, có khi con chim, con quỷ đói, hay nếu phản ứng hóa học thành công thì biến mình thành Phật. Nó có thể biến có thành không, biến không thành có; hóa ra vô số sinh mạng khác nhau. Do đó mình phải cẩn thận đừng để nó biến mình thành quỷ đói hay thú vật. Tại xưởng hóa học này mình phải hun đúc, tôi luyện thành Phật, Bồ Tát, Thanh văn, Duyên giác. Biến hóa sai một chút thì kết quả sẽ sai khác xa lắc, muốn trở lại thì cũng chẳng phải dễ đâu.
- Không tu hành mà muốn thành Phật: Chẳng có chuyện đó.
- Vô minh tức là không hiểu biết. Căn bản của vô minh là ái dục.
- Bạn chớ nghĩ rằng mình có cảnh giới rồi cho rằng đó là tốt. Có cảnh giới nhưng bạn không nhận biết nó rõ ràng thì sẽ rước ma.
- Bất luận là bạn thấy việc gì, đừng nên bị cảnh ấy lay chuyển, đừng nên chạy theo cảnh giới ấy. Phải làm sao? Phải xem nó như không có. Gặp cảnh giới và không gặp cảnh giới, tâm bạn phải như nhau. Không sinh tâm vui mừng, cũng không sinh tâm ghét bỏ.
- Rất nhiều người đời chỉ ăn rồi chờ chết, lãng phí thời giờ. Ai cũng vậy: Sáng sớm ngủ dậy, là bận rộn này nọ cho tới tối về lên giường ngủ. Cũng chỉ vì ba miếng cơm mà bôn ba. Sống như cục thịt biết đi, chẳng có chút giá trị, ý nghĩa gì cả, thì sống và chết có gì bất đồng?
- Bởi do con ngưòi có tâm sân nên mới có hỏa tai (nạn cháy). Có tâm tham nên mới có thủy tai (nạn lụt lội). Có tâm si nên mới có phong tai (nạn gió bão). Ba tai nạn vốn do ba độc tham sân si mà ra. Chúng ta ai ai cũng có đủ ba độc trong tâm. Nếu tâm ấy một ngày một lớn mạnh thì tới một lúc nào đó, nó sẽ tạo thành đại tai nạn.
- Bên ngoài có máy vi tính (computer), bên trong tự tánh chúng ta cũng có máy vi tính, gọi là thần não, thánh não hay Phật não. Cũng tức là đại trí huệ. Tuy khoa học tiến bộ, song phương hướng của nó hướng ngoại, nên càng truy tìm chân lý thì càng rời xa chân lý. Các vị khoa học gia chỉ dụng công nơi ngoài da, do vậy dường như có điều sở đắc, nhưng kỳ thật thì đã quên mất trí huệ bổn hữu. Ðó gọi là bỏ gốc, theo ngọn.
- Lúc tu đạo không cần mình phải dùng sức mạnh để đối phó với chướng ngại. Nếu bạn chân thành thì tự nhiên mọi chuyện sẽ giải quyết êm đẹp.
- Không thể muốn tu pháp xuất thế, đồng thời chẳng chịu buông bỏ pháp thế gian. Hai chân đạp lên hai chiếc thuyền: Một thuyền đi Giang Bắc, một thuyền đi Giang Nam. Ðó là chuyện không thể làm đặng.
- Nếu muốn cái độc trong thế giới tiêu trừ thì mọi người phải ăn chay, không ăn thịt.
- Ai mà không chấp trước? Chớ nghĩ rằng, lúc tôi không có việc gì làm, tức là tôi không chấp trước. Xem thử lúc có việc, cảnh giới tới, thì bạn sẽ ra sao. Lúc không có việc gì, bạn không có phiền não, thì đó chưa phải là thiệt. Phải chờ lúc cảnh giới tới, nếu bạn nhận thức được nó, thì đó mới đáng kể.
- Người học Phật chúng ta cần thiết phải thâm nhập kinh tạng, thì mới có trí huệ rộng lớn như biển. Không thâm nhập kinh tạng thì trí huệ không sao rộng sâu như biển. Không thâm nhập kinh tạng thì cái gì sẽ như biển? Phiền não của bạn sẽ rộng như biển. Chấp trước của bạn cũng sẽ sâu như biển. Tà kiến của bạn cũng đầy như biển. Do đó việc đọc tụng kinh điển đại thừa thật vô cùng trọng yếu.
- Người xưa nói: Vạn ác, dâm đứng đầu. Ðó là đường chết, không thể đi. Bạn cứ làm chuyện dâm dục thì cũng như đi vào đường chết.
- Ðừng cho việc thiện quá nhỏ nên không làm, đừng cho việc ác nhỏ quá nên làm luôn. Việc tốt dù nhỏ đến đâu, mình cũng phải làm. Việc xấu tuy là nhỏ song mình chớ làm.
- Tu hành thì phải nhịn khổ.
- Không tranh, không tham, không truy cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối: Ðó là việc vốn rất dễ làm, chẳng ai cưỡng bách bạn làm cả. Nhưng bởi vì bạn không chịu làm nên nghịch cảnh mới tới. Nghịch cảnh đó là việc tranh giành, việc tham lam, truy cầu, ích kỷ, tự lợi, dối trá. Từ đó mới có nạn hoạnh nghịch. Khi gặp nghịch cảnh thì bạn chịu không nổi. Vậy thì khi bạn nói dối trá, sao chẳng cảm giác là chịu không nổi chớ?
- Giới tức là cử tâm động niệm, bạn không được sinh tất cả thứ gì xấu ác.
- Ðịnh tức là thành tích của tu giới. Nếu bạn trì giới cho lâu thì sẽ có định lực. Ðịnh lực tiếng Phạn gọi là samadhi hay tam muội, nghĩa là chính định hay chính thọ. Chính định thì khác với tà định. Chính thọ thì cũng khác với tà thọ. Chính định chính thọ thì mới hợp với chánh pháp. Còn tà định và tà thọ thì không phù hợp với pháp.
- Do định phát huệ. Có trí huệ mình mới nhận thức được Phật pháp. Nhận thức được Phật pháp rồi thì mới có thể thành Phật. Do vậy tu giới định huệ là điều kiện tối căn bản để thành Phật.
- Vì sao thế giới càng ngày càng tệ? Bởi vì người ta ai cũng tranh: Bao gồm tranh danh, tranh lợi, tranh quyền hành, tranh địa vị. Nghiêm trọng nhất là tranh sắc.
- Các bạn xem: Chư đại đức cao tăng từ ngàn xưa đều từ trong khổ hạnh mà tu hành đắc đạo. Không có một vị nào do hưởng thọ mà khai ngộ. Các bạn đọc hết Ðại Tạng Kinh, cũng tìm không ra một vị.
- Nếu bạn có thể làm ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh, thì niệm Phật giống như bỏ viên ngọc (làm lắng bùn) vào trong nước đục vậy. Nước đục không thể nào chẳng lắng trong. Khi tiếng niệm Phật vào tâm loạn, thì tâm ấy vốn đầy dẫy vọng niệm, cũng sẽ từ từ theo tiếng niệm Phật mà hóa mất, thành duy nhất một tiếng niệm Phật.
- Ðối với ma, bạn không nên có tâm xem nó là thù địch, mà phải xem nó là vị thiện tri thức giúp bạn tu hành.
- Học Phật thì phải đem chân tâm ra học. Nhất cử nhất động, mỗi lời mỗi việc, phải hướng về điều chân thật mà làm.
- Nhiều đời nhiều kiếp mình tạo nghiệp khác nhau, nên vọng tưởng cũng không giống nhau. Nghiệp nặng thì vọng tưởng nhiều, nghiệp nhẹ thì vọng tưởng ít. Ðó là tỷ lệ giữa nghiệp và vọng tưởng.
- Trong chùa, mình phải tiết kiệm tất cả mọi thứ, vì rằng: Thương tiếc vật của thường trụ (chùa), như bảo vệ con mắt mình.
- Không yêu không ghét là trung đạo. Tu đạo là tu cái gì? Chính là tu trung đạo. Ðối với ai mình cũng đối xử bình đẳng, từ bi quan hoài. Song le bạn phải cẩn thận trong hành động, không để lọt vào lưới tình, rọ ái.
- Tâm của mình thì kẻ khác (tha) ở (tại). Không phải là mình (tự) ở (tại). Vì kẻ khác ở nên dù mình có đó nhưng tâm mình không ở đó.
- Người tu phải làm sao khôi phục trở lại cái không. Nghĩa là mình phải phản bổn, hoàn nguyên để viên mãn bản tánh là tạng đại quang minh, là trí huệ tròn đầy như kính (đại viên kính trí), không có gì thiếu sót.
- Thế nào là động đất? Tức là khi lòng dục vọng động. Không động đất tức là Niết Bàn.
- Có người nói: Tâm tôi già rồi. Tâm này là tâm sinh ra do sự tương giao của căn (giác quan) với trần (cảnh bên ngoài), không phải là cái chân tâm thường trụ, viên minh tịch chiếu. Nếu bạn thật sự thương yêu chúng sinh, bỏ mình giúp người, thì dù có tuổi tác cao niên tới đâu , cũng biến thành thanh xuân hạnh phúc.
- Ở bất kỳ trường hợp nào người tu cũng phải biết dấu đi ánh sáng (che đi trí huệ, tài năng), không thể chơi nổi, làm vẻ ta đây hay giỏi để người ta thấy.
- Có chấp trước thì đó là nhân tâm. Không chấp trước thì mới là đạo tâm.
- Mắt quán tưởng đức Quan Âm Bồ Tát ở trước mặt, ngàn mắt nhìn mình, ngàn tay bảo vệ. Tai nghe danh hiệu Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát đưa vào trong tâm. Miệng niệm tên ngài rõ ràng từng chữ. Nhớ ngài cũng rõ ràng. Nơi sáu căn, tai mắt mũi lưỡi thân ý, bạn đều phải niệm đức Quan Thế Âm.
- Không có công đức thì khi chết sẽ rất đau khổ.
- Tu thì không được đeo mặt nạ, treo đầu dê nhưng bán thịt heo, làm những chuyện không chân thật, không đúng đạo lý. Tu thì phải chân thật, bước cho chắc chắn, thật sự dụng công tu trì.
- Chú Ðại Bi và Quán Thế Âm Bồ Tát là hai mà không phải hai. Không hai mà là hai. Không thể tách rời hai thứ ấy được. Tôi hy vọng các vị thiện tri thức có thể thành tâm tụng trì chú Ðại Bi, để tiêu tai trừ nạn.
- Tu thì không được rao bán việc tu của mình, cũng không được quảng cáo mình. Khi rao bán việc tu hành thì mình sẽ bị ma chướng.
- Phật và ma thì chỉ cách nhau một niệm. Phật có lòng từ bi, còn ma thì có lòng hiếu thắng hơn thua.
- Thiên địa sinh ra từ trung đạo. Chư Phật, Bồ Tát, La hán cũng sinh ra từ trung đạo. Trung đạo là mẹ chung cho Phật và chư Thánh hiền. Không nghiêng về không, không nghiêng về có, cứ miên mật như vậy mà tu pháp trung đạo. Tham thiền, ngồi lắng lòng đều là tu pháp trung đạo. Nếu luận hình tướng thì trung đạo là số một; nếu luận về vô hình tướng thì trung đạo là số không. Không là nghĩa rốt ráo của trung đạo.
- Tu hành thì phải trầm lặng, yên tĩnh. Không phiền não, không cống cao ngã mạn.
- Người học Phật phải làm cho Phật giáo ngày một thêm sáng lạn rạng rỡ. Làm sao? Ðầu tiên phải có phẩm hạnh đạo đức, tâm chí rộng trùm thái hư, lòng dạ bao la như pháp giới.
- Vì sao nói nếu tâm bạn không có quỷ thì con quỷ bên ngoài chẳng thể hại bạn? Con quỷ bên ngoài có là do tâm bạn có quỷ. Trong tâm bạn không có quỷ thì con quỷ bên ngoài sẽ không tới. Con quỷ bên trong gồm có năm loại: tham lam, sân giận, si mê, kiêu mạn, nghi ngờ. Cũng là năm thứ: thù hằn, oán ghét, áo não, tức giận, phiền muộn.
- Mình không chịu phát khởi trí huệ. Ngày ngày cứ dùng sức mạnh của vô minh phiền não. Ðụng một chút là nổi lửa giận lên rồi. Rằng: Lửa vô minh, ông thần cọp! Nóng giận là do gốc của tội nghiệp kiếp trước. Không có tội nghiệp thì sẽ không có lửa vô minh. Lửa vô minh mà bộc phát thì tham sân si đều tới đủ. Các bạn thử hồi quang tự chiếu, xem có đúng như vậy không.
- Vô minh có hai kẻ đồng lõa giúp sức, kết thành một băng đảng. Cứu cánh chúng là ai? Một ăn uống, hai là dâm sắc. Một cái tham ăn, ham uống. Một cái háo sắc, tham dâm. Hai cái này giúp cho vô minh làm đủ mọi chuyện xấu.
- Tới chỗ chẳng cầu, sẽ hết lo. Biết chuyện càng ít, bớt phiền não.
- Vô luận đối diện với bất kỳ cảnh giới nào, bạn cũng phải có thái độ: Có cũng như không, thật cũng như giả. Phải nhớ đừng nên được chút ít rồi cho là đủ, nhận cái giả cho là thiệt.
- Ăn uống giúp tăng dục vọng. Dục vọng giúp thêm vô minh.
- Bồ Tát sợ nhân không sợ quả, phàm phu sợ quả không sợ nhân. Khi Bồ Tát còn trong lúc trồng nhân thì ngài vô cùng cẩn thận, một chút cũng chẳng làm càn. Ðến lúc quả báo tới thì ngài không sợ hãi. Nhưng kẻ phàm phu thì bình thường lúc gieo nhân chẳng sợ gì cả. Sát sinh, trộm cắp, dâm loạn, dối trá, rượu chè, cờ bạc, hút sách ma túy. Những thứ ấy bạn dám nghĩ dám làm, đến lúc thọ quả báo thì mới than khổ không thôi.
- Trên đời bất luận là ăn cơm, mặc áo, ngủ nghỉ, mình đều ở trong phạm vi của Phật pháp. Tiếc là chúng ta không biết thể hội Phật pháp trong sinh hoạt hàng ngày, cứ hướng ngoại tìm kiếm. Thế nào là kẻ ngoại đạo? Chính là kẻ tìm cầu pháp ở ngoài tâm.
- Mọi người không nên coi thường chính mình, vất bỏ mình đi, tự cam chịu đọa lạc.
- Vô luận là mình phạm giới ở nơi thân như giới sát, đạo, dâm; hoặc phạm giới nơi lời nói: Nói dối, nói hai lưỡi, nói thêu dệt, nói thô ác; hoặc là phạm giới nơi tâm: Khởi tham sân si, mình phải thành tâm sám hối. Nếu không thì mình sẽ đọa vào bùn lầy, càng lún càng sâu, tội nghiệp càng làm càng thêm nghiêm trọng. Mình sẽ bị đè đến nghẹt thở, chẳng sao trốn thoát.
- Các bạn nên biết, mình sống trên đời, chẳng khác gì cá nằm trong vũng nước cạn. Chẳng bao lâu thì ô hô ai tai, nước sẽ cạn khô. Từ vô lượng kiếp tới ngày nay, mình không biết tu hành: Sinh ra rồi chết, chết rồi lại sinh. Thật đau lòng thay. Tại sao cho đến ngày nay mình còn trù trừ chờ đợi, chưa chịu tu hành?
- Ái dục chính là sinh tử. Sinh tử chính là lòng ái dục. Ái dục là gốc của sinh tử. Nếu không trừ bỏ lòng ái dục vô minh thì rốt ráo không thể nào thoát khỏi biển ái sinh tử.
- Vì sao có việc không kiết tường? Vì trong tâm không kiết tường. Một khi bạn trồng nhân xấu thì sẽ gặt quả báo xấu. Nếu mình có thể sửa lỗi làm lành thì có thể biến chuyện xấu thành chuyện tốt. Do đó mà thấy, vận mạng có thể đổi thay, nó hoàn toàn nằm trong tay mình. Nên nói: Ðại thiện, đại ác thì siêu xuất khỏi số mạng.
- Không thể có chuyện là chẳng đoạn trừ lòng dâm mà có thể thành Phật. Trong thiên hạ không có chuyện đó. Ðời nay đa số người ta thích mau chóng, thích có kết quả ngay, nên khi họ nghe nói có pháp huyền diệu thì liền bị mê hoặc rồi rơi vào lưới ma. Ðến lúc chết mà vẫn cho là có pháp bí mật, hay mật pháp! Bí mật? Bí mật! Bí mật đến độ phải vào địa ngục luôn!
- Tu thì phải tu với cái tâm như em bé sơ sinh: Trong lòng chẳng vương vấn một chuyện gì. Phải giống như trẻ thơ, mình phải phản lão hoàn đồng. Nhưng không phải phản lão hoàn đồng là bắt bạn phải uống sữa như con nít, mà là muốn bạn phải hết sạch tham sân si mạn nghi. Ðó gọi là phản bổn hoàn nguyên, nghĩa là tâm trí bạn tựa hồ trẻ thơ, thiên chân hoạt bát, không chút lười biếng, giải đãi, không chút ý tứ muốn tranh giành háo thắng, cũng chẳng có quan niệm về mình về người. Cũng như là: Xưa nay không một vật ở đó, thì bụi trần dựa vào đâu mà dính vào.
nh điển hình
Kinh sách mới
Chú Lăng Nghiêm là Chú quan trọng nhất, hơn hết thảy trong các Chú. Bao gồm hết thảy thể chất và diệu dụng của Phật Pháp. Chú này chia làm năm bộ : Kim Cang bộ, Bảo Sinh bộ, Liên Hoa bộ, Phật bộ và Nghiệp bộ. Năm bộ Kinh này thuộc về năm phương : 1. Kim Cang bộ : Thuộc về phương Ðông, Ðức Phật A Súc là chủ. 2. Bảo Sinh bộ : Thuộc về phương Nam, Đức Phật Bảo Sinh là chủ. 3. Phật bộ : Thuộc về chính giữa, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là chủ. 4. Liên Hoa bộ : Thuộc về phương Tây, Đức Phật A Di Ðà là chủ. 5. Nghiệp bộ : Thuộc về phương Bắc, Đức Phật Thành Tựu là chủ.
Nếu người không có căn lành, thì đừng nói đến tụng niệm, dù ba chữ « Chú Lăng Nghiêm » cũng không nghe được, cũng không có cơ hội nghe được. Các vị bây giờ dùng máy vi tính tính thử xem, dùng thần não của bạn tính thử xem, hiện tại trên thế giới nầy, người tụng Chú Lăng Nghiêm nhiều, hay là người không biết tụng Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Người nghe được tên Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Hay là người không nghe được tên Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Cho nên các vị đừng xem mình là người rất bình thường, bạn đã nghe được Phật pháp, đây đều là trong vô lượng kiếp về trước đã từng gieo trồng căn lành, đắc được diệu pháp thâm sâu vô thượng, các vị đừng để pháp môn nầy trôi qua.
Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy còn gọi là Kinh Pháp Giới, cũng gọi là Kinh Hư Không, tận hư không khắp pháp giới, chẳng có một nơi nào mà chẳng có Kinh Hoa Nghiêm ở đó. Chỗ ở của Kinh Hoa Nghiêm tức cũng là chỗ ở của Phật, cũng là chỗ ở của Pháp, cũng là chỗ ở của Hiền Thánh Tăng. Cho nên khi Phật vừa mới thành chánh giác, thì nói bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, để giáo hoá tất cả pháp thân Ðại Sĩ . Vì bộ Kinh nầy là Kinh vi diệu không thể nghĩ bàn, do đó bộ Kinh nầy được bảo tồn ở dưới Long cung, do Long Vương bảo hộ giữ gìn. Về sau do Ngài Bồ Tát Long Thọ, xuống dưới Long cung đọc thuộc lòng và ghi nhớ bộ Kinh nầy, sau đó lưu truyền trên thế gian.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử ở chỗ Dạ Thần Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sinh, nghe môn giải thoát Phổ hỉ tràng, tin hiểu hướng vào, biết rõ tuỳ thuận, suy gẫm tu tập. Nhớ hết những lời dạy của thiện tri thức, tâm không tạm xả, các căn chẳng tán, một lòng muốn gặp được thiện tri thức. Siêng cầu khắp mười phương không giải đãi. Muốn thường gần gũi sinh các công đức, đồng một căn lành với thiện tri thức. Đắc được hạnh phương tiện thiện xảo của thiện tri thức. Nương thiện tri thức vào biển tinh tấn, trong vô lượng kiếp thường chẳng xa lìa. Nguyện như vậy rồi, bèn đi đến chỗ Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sinh Diệu Đức.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử một lòng muốn đi đến chỗ Ma Gia phu nhân, tức thời đắc được trí huệ quán cảnh giới Phật.Bèn nghĩ như vầy: Thiện tri thức nầy xa lìa thế gian. Trụ nơi không chỗ trụ, vượt qua sáu xứ. Lìa tất cả chấp trước. Biết đạo vô ngại, đủ tịnh pháp thân. Dùng nghiệp như huyễn mà hiện hoá thân. Dùng trí như huyễn mà quán thế gian. Dùng nguyện như huyễn mà giữ thân Phật. Thân tuỳ ý sinh, thân không sinh diệt, thân không đến đi, thân chẳng hư thật, thân chẳng biến hoại, thân không khởi tận, thân hết thảy tướng đều một tướng, thân lìa hai bên, thân không y xứ, thân vô cùng tận, ...
Tôi tin rằng bộ Kinh nầy được giảng lần đầu tiên tại nước Mỹ, các vị cũng là những người đầu tiên được nghe. Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, là vua trong các Kinh Phật, cũng là vua trong vua. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa cũng là vua trong các Kinh, nhưng không thể gọi là vua trong vua. Bộ Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật nầy, là vua trong vua, là bộ Kinh dài nhất trong Kinh điển đại thừa mà đức Phật nói, nhưng thời gian nói không dài quá, chỉ trong hai mươi mốt ngày, thì đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói xong bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ở trong năm tầng nghĩa lý huyền diệu, thì huyền nghĩa thứ nhất là giải thích tên Kinh. Bộ Kinh nầy dùng Diệu Pháp Liên Hoa làm tên. Diệu Pháp là pháp, Liên Hoa là ví dụ, vì Phật Pháp vi diệu thâm sâu, một số người không dễ gì hiểu nổi, cho nên dùng liên hoa (hoa sen) để ví dụ, do đó bộ Kinh nầy lấy pháp và dụ làm tên. Cứu kính thì diệu pháp là gì ? diệu đến cỡ nào ? tốt đến cỡ nào ? Nay tôi nói cho bạn biết, sự diệu nầy không thể dùng tâm suy nghĩ, không thể dùng lời bàn luận, không thể dùng tâm để dò, nghĩ cũng nghĩ không hiểu nổi; nghĩ muốn hiểu biết thì nói không đến được sự diệu của nó.
Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất hớn hở vui mừng, bèn đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, mà bạch Phật rằng : Hôm nay nghe đức Thế Tôn nói pháp nầy, tâm con rất hớn hở được chưa từng có. Tại sao ? Vì xưa kia con theo Phật nghe pháp như vầy : Thấy các vị Bồ Tát được thọ ký sẽ thành Phật, mà chúng con chẳng được dự vào việc đó, rất tự cảm thương, mất đi vô lượng tri kiến của Như Lai. Ðức Thế Tôn ! Con thường một mình ở dưới gốc cây nơi rừng núi, hoặc ngồi hoặc đi kinh hành, bèn nghĩ thế nầy : Chúng con đồng vào pháp tánh, tại sao đức Như Lai dùng pháp tiểu thừa mà tế độ ? Ðó là lỗi của chúng con, chứ chẳng phải đức Thế Tôn vậy.
Quyển Ý Nghĩa Đời Người này rất thâm thuý, tuy cố H.T Tuyên Hoá thuyết giảng lời lẽ giản dị, mộc mạc, nhưng nghĩa lý rất cao thâm huyền diệu, đi vào tâm người. Nếu người tu học, đọc hết quyển sách này, y theo trong đó mà thực hành, thì sẽ giác ngộ được ít nhiều ngay trong đời này, không cần phải tìm cầu đâu xa vời. Đặc biệt cố Hoà Thượng nhấn mạnh về Sáu Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thành đó là : Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tư lợi, không nói dối. Sáu đại tông chỉ này cũng có thể nói là kim chỉ nam của người tu hành, dù xuất gia, hay tại gia, đều lợi lạc vô cùng, nhất là thời đại ngày nay.