Thông tin
Các bài mới
Lúc trẻ tôi chuyên môn trị bệnh cho người ta. Hễ có người bệnh là tôi nhất định phải trị cho lành mạnh, hầu giải quyết nổi đau đớn của họ. Bởi vậy tôi đã đắc tội với rất nhiều thiên ma ngoại đạo và ngưu quỷ xà thần. Bọn chúng đều có đại thần thông và đợi chờ cơ hội tấn công, hễ quý vị mở cửa là chúng xông vào công kích ngay, gọi là: “Khai môn” tức là tự mở cửa để yêu ma hay phi tinh nhập vào người mình – (Kinh Lăng Nghiêm, đoạn nói về Ngũ Ấm Ma). 
Trong khai sanh nó tên là Loan. Ở nhà gọi nó là con Mén, vì hồi sanh nó ra nó chỉ cân được có hai kí lô tư. Bà nội nó bồng nó trên tay, nhỏ xíu như một con mèo. Bà cười văng cốt trầu: “Đu họ nó! Thứ gì mà như con chí mén!” Từ đó, gọi nó là con Mén luôn. Nó bú sữa mẹ, nhưng vì nhà nghèo nên má nó không đủ sữa, dặm thêm cho nó bằng nước cháo, cho nên nó không bụ bẫm như phần đông các trẻ nít khác. Nó cứ đèo đèo, lớn chậm và ốm tong ốm teo. Bà nội nó cưng nó lắm. Bởi vì ba má nó chỉ sanh có con trai, một dọc ba đứa, phá phách đánh lộn tối ngày.
Đang lang thang với mấy người bạn trên bờ biển Alicante ở Tây Ban Nha, tôi bàng hoàng khi nhận được tin nhắn từ cô em gái của Cường: “Anh Cường vừa mới ra đi! Thùy đang khóc đây.” Tôi không nghĩ là bạn tôi lại trút bỏ cuộc đời phiền muộn này nhanh như thế. Vì chỉ cách đây vài hôm, khi biết Cường vừa phải vào bệnh viện, tôi gọi thăm. Hai thằng vui vẻ chuyện trò, cười đùa với nhau, và tôi rất mừng khi nghe Cường khoe là bác sĩ bảo nằm dưỡng sức để chờ giải phẫu. Cùng trang lứa bọn tôi, ai cũng biết đã đến lúc xếp hàng để lần lượt chờ đến phiên mình rời khỏi thế gian này. Bởi đó là luật trời, không ai ngăn được. 
Ngày xửa ngày xưa, có một ngôi chùa trên núi có một vị sư già và một tiểu hòa thượng. Chùa tuy nhỏ, nhưng hương khói lúc nào cũng nghi ngút, nhìn trụ trì bận rộn với việc tiếp đón khách thập phương, tiểu hoà thượng nảy sinh lòng muốn giúp đỡ. Tiêu hoà thượng tiến đến và nói: "Sư phụ ơi, con muốn giúp người ạ. Con có thể làm gì cho người?". Lão hoà thượng trầm ngâm suy nghĩ một lát rồi đáp: "Được thôi. Con có thể giúp ta tiếp đón các vị khách đến viếng chùa. Tuy nhiên, con phải ghi nhớ một điều, dù con nhìn thấy hay nghe thấy gì, cũng không được phép nói một lời nào”.
Chiếc xe lửa nghiến bánh ken két trên đường sắt, nghe như tiếng rên than đau đớn, rồi rùng mình, chầm chậm và dừng lại ở ga Huế. Đám hành khách xơ xác, lôi thôi như lũ ăn mày, nhốn nháo, hốt hoảng tranh nhau đổ ào xuống sân ga. Hoàng nhảy xuống theo, hành lý trên tay chỉ có một cái bao nhỏ đựng bộ áo quần đã sờn rách tả tơi. Anh vừa được ‘cách mạng khoan hồng’ cho về đoàn tụ với gia đình, sau bốn năm ‘học tập tốt, lao động tốt’. Hoàng cười, trong tù, anh là thằng chậm chạp, trễ nải nhất thì được về trước, mấy anh chăm chỉ tích cực lao động, triệt để tuân thủ kỷ luật tù, thì còn mãi nằm lại trong đó. Thế mới biết, bạn anh nói không sai: ‘cách mạng’ thường làm ngược với lời nói.
Vùng quê nhỏ bé nằm bên bờ sông Tiền này được thiên nhiên ưu đãi về địa thế. Cây trái và đồng ruộng do phù sa bù đắp quanh năm thành một vùng trù phú. Nơi đây người ta không cần biết đến địa chỉ vẫn có thể tìm được nhà nhau một cách dể dàng bằng phương thức hỏi thăm tên. Vì thế khi hỏi nhà Hai Cua Đồng thì sẽ có ngay một cậu nhóc dẫn bạn đến tận nhà. Không phải chị Hai là người nổi tiếng hay giàu có gì, thậm chí chị khá nghèo so với những người khác và hình thức thì cũng không hơn ai. Không nhiều người biết tên thật của chị nên từ ngày còn nhỏ, khi chị chuyên đi bắt cua bán cho mấy bà bún riêu ở chợ, cái tên Hai Cua Đồng có từ đó.
Tôi sinh ra không biết cha mẹ mình là ai. Từ bé tí, tôi đã ở cùng với mõ già trong một ngôi chùa ở làng. Mọi người vẫn quen gọi nơi đây là chùa làng, nhưng nó bé lắm, do làng xây dựng từ thời xa xưa để cho bà con dân làng thờ Phật. Phía ngoài chùa có một am nhỏ mõ nói là thờ Thành Hoàng làng, và một cái chái phía bên cạnh am để cho mõ già và tôi ở. Chùa làng không có sư, chỉ có mõ già được làng cắt cử ra trông coi chùa. Có việc lễ cúng gì thì người làng gọi mõ, sai mõ sửa soạn để các cụ trong làng ra cúng. Mõ không phải làm nghề đi thông báo công việc của làng xã, nhưng không hiểu sao người làng lại gọi là mõ.
Pháp âm
Pháp thoại
TÌM KIẾM
- Phật Pháp là gì? Nói vắn tắt, Phật Pháp là chìa khóa. Hiện tại giảng Kinh, tức là giảng về chiếc chìa khóa này. Hiện tại thuyết Pháp, tức là thuyết về chiếc chìa khóa này. Ðây là chìa khóa trí huệ mở tung ống khóa vô minh.
- Phật Pháp vẫn còn tại thế gian. Nếu chúng ta có thể dõng mãnh vượt ra khỏi dòng thác điên đảo, phát tâm Bồ-đề rộng lớn, chí thành khẩn thiết mà tu trì Phật Pháp, thì vẫn còn có cơ hội vượt thoát ra khỏi thế giới Ta-bà. Bằng ngược lại, chúng ta cứ xoay chuyển trong sáu đường không ngưng nghỉ, vĩnh viễn không thể thoát khỏi khổ nạn trong cõi này.
- Làm thế nào để diệt trừ tâm sân hận do vô minh sai khiến? Phải tu pháp môn Nhẫn-nhục Ba-la-mật, tuyệt đối không nên khởi tâm nóng giận. Ðây là việc quan trọng nhất. Nếu không khởi tâm nóng giận thì sẽ phát sinh trí huệ.
- Ðời Mạt Pháp, người người đều phạm một lỗi lầm chung là quá cao ngạo, lấy tai thay mắt, nghe có gì hay thì liền chạy đuổi theo.
- Chúng ta, những người tin Phật, chớ nên mê tín quá đáng, mà cần phải dẹp bỏ mê tín. Mê tín là gì? Là tin bậy tin cuồng, tin tưởng ngay những gì người khác vừa nói, tin một cách mê muội.
- Tại sao chúng sanh lại điên đảo? Vì nhận lầm vô minh là ông chủ nhà, tống khứ trí huệ đi mất. Vô minh đưa ra mệnh lệnh: "Cho việc đúng là sai; cho việc sai là đúng."
- Từ trong Thiền-định, gạn lọc tâm tư, trừ bớt tham dục, khiến trí huệ nảy sinh.
- Người thường thích khởi tâm nóng giận đa số là người ngu si, vô minh nặng nề, không một chút công phu hàm dưỡng.
- Vọng niệm là niệm hư dối, không chân không thật. Người luôn khởi vọng tưởng điên đảo tức là người tuy biết rõ việc đó là không đúng nhưng vẫn cứ cố làm, lại còn xảo quyệt biện luận cho là đúng.
- Nếu chư vị thường xuyên hồi quang phản chiếu, thấy rõ tự tánh, thường sanh Trí Huệ Bát Nhã, thì đó là tạo công. Ứng dụng Trí Huệ Bát Nhã mọi nơi mọi chốn, biến hóa không cùng tận, mà không nhiễm trước, không tạo những việc không thanh tịnh, đó là tạo đức.
- Thật ra, Trí Huệ Bát Nhã của kẻ ngu si và người đại trí vốn không khác biệt. Có sai khác là kẻ ngu thì không biết dùng trí huệ, còn người trí thì biết vận dụng nó.
- Nếu không chấp trước trong ngoài thì "đến" và "đi" đều được thong dong tự tại, biết được mình từ đâu đến và sẽ đi về đâu. "Ðến" có thể nói là trở về--trở về lại thân tâm của mình. "Ði" tức là đi đến Pháp-giới.
- Nếu chư vị chấp trước vào "có đến có đi," thì sẽ bị chướng ngại, không thể tự do.
- Nếu có "trí" thì chư vị sẽ giống như mặt trời, có "huệ" thì chư vị sẽ tựa như vầng trăng.
- Hy vọng được khai ngộ hoặc hy vọng được thành Phật đều là những vọng tưởng. Mọi người phải ghi nhớ: Chỉ cầu tu hành, không cầu hy vọng hão huyền.
- Nếu Bồ-tát có thần thông mà không thị hiện, thì có thần thông để làm gì?
- Bồ-tát dùng thần thông để giáo hóa chúng sanh, như dựng cây để thấy hình, khiến chúng sanh tăng lòng tín ngưỡng. Như thế, được lợi ích hai chiều. Ðó là pháp môn thiện xảo phương tiện.
- Chư vị hãy chú ý! Ma cũng hiện thần thông, khiến những người tham cầu thần thông và không có Ðịnh-lực sa vào cạm bẫy, mất đi Ðạo-nghiệp, trở thành quyến thuộc của ma. Về điểm này, mọi người đều phải đặc biệt chú ý, không thể không cẩn thận!
- Người nào muốn có thần thông thì trước hết phải xả bỏ muôn sự, chuyên tâm tham Thiền tịnh tọa. Ðến khi công phu chín muồi thì tự nhiên có thần thông. Thần thông không phải là thứ có thể tìm cầu ở bên ngoài, mà chỉ có được khi nội tâm mình chứng đắc.
- "Nhìn xuyên suốt, xả bỏ, tự tại." Nhìn xuyên suốt tức là hiểu vấn đề một cách rõ ràng. Xả bỏ tức là giải thoát. Chỉ khi đạt được giải thoát rồi thì mới có được sự tự tại chân chánh.
- Học Phật Pháp thì cần phải dùng trí huệ chứ không thể dùng tình cảm. Dùng trí huệ để học Phật Pháp thì đó là Chánh Pháp. Dùng tình cảm mà học Phật Pháp thì đó là Mạt Pháp.
- Nhiều người nghĩ rằng đời người là vui sướng. Kỳ thật, những sự vui sướng ấy đều là giả dối. Sự vui sướng chân chánh phải được tìm thấy từ trong tự tánh, chứ không phải đến từ bên ngoài.
- Vì sao con người ai cũng ở trong trạng thái mê mờ? Ðó là do họ không hiểu được mình từ đâu tới, chết đi về đâu. Mỗi ngày bóng dáng bạn thấy khi tự soi gương nào phải là bạn. Nếu bạn muốn biết bản lai diện mục (chân tâm) thì phải quay mặt soi lòng, tìm nơi tự tâm. Người đời thì bị ngũ dục làm mê mờ, ngày ngày bị tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ kềm tỏa đến ngột ngạt khó thở, song họ vẫn cứ muốn cam tâm tình nguyện làm nô lệ cho những thứ ấy.
- Lòng tham của ta thì cao hơn trời, dầy hơn đất. Nó như cái thùng không đáy, đồ bỏ vào bao nhiêu cũng chẳng đầy.
- Con người không có đạo đức mới thật là nghèo cùng.
- Phải tìm đâu ra ngọc ngà châu báu mà mình sẵn có? Hãy tìm ở Kinh Hoa Nghiêm. Có câu rằng: Không đọc Kinh Hoa Nghiêm, không biết được sự giàu có của chư Phật. Kinh Hoa Nghiêm là vua của tất cả các vị vua kinh điển (tức là kinh đứng hàng đầu của những bộ kinh tuyệt diệu nhất mà Phật đã thuyết).
- Nếu dùng tham sân si để xử lý mọi việc thì kết quả là trời đất sẽ u ám, sinh đủ tai nạn. Nếu dùng giới định huệ để giải quyết vấn đề thì trời đất trong sáng, mọi sự kiết tường. Nên nói: Nơi nào nhiều kẻ ác, nơi ấy nhiều tai nạn; chốn nào nhiều người thiện, chốn ấy thường an vui. Tai nạn hay an bình đều do người mà ra cả.
- Người ta không thành Phật là bởi vì cứ dụng công nơi ngoài miệng (nói mà không tu, không thực hành).
- Mọi sự, việc gì cũng là Phật pháp, cũng đều là thứ không thể chấp trước, không thể nắm bắt. Trên đời vạn sự, vạn vật, chuyện gì xảy ra cũng chính là thuyết pháp (hiển bày chân lý), chính là giảng kinh. Chúng ta mỗi người ai cũng nên đem bộ kinh của đời mình ra đọc cho kỷ, học cho thuộc, chớ làm việc sai lầm với đạo lý nhân quả. Ðời ta mới chính là bộ kinh điển chân chính nhất.
- Nếu bạn cứ nhìn thấy lỗi lầm của kẻ khác hoài thì bạn vẫn còn khổ. Nếu bạn đã hết khổ thì bạn nhìn ai cũng thấy họ là Phật. Nhìn người nào, bạn cũng thấy họ hệt như Phật. Thật là đơn giản, thật là cạn cợt: Vậy mà bạn làm không xong!
- Con người ta không phải sống để mà ăn. Sống: là ta phải lập công với đời, phải có đức với người, phải làm lợi cho thiên hạ. Mình phải: Từ bi thay trời dạy dỗ; trung hiếu vì nước cứu dân.
- Một ngày chẳng sửa lỗi lầm là một ngày chẳng tạo công đức.
- Phiền não tức bồ đề: Nghiã là, ngay lúc có phiền não mà mình có thể chẳng sinh phiền não, mình có thể nhận biết được nó, thì ngay lúc đó gọi là bồ đề. Chẳng phải rằng: vất bỏ phiền não đó đi rồi, sau đó tìm một cái bồ đề nào khác.
- Bịnh AIDS là một bịnh làm diệt chủng, làm mất nước. Tôi hy vọng người Trung hoa không muốn mất nước, không nên học hành động của người tây phương.
- Người học Phật pháp, cần phải tiết dục, giữ lòng trong sạch, ít ham muốn. Chớ nên có nhiều dục vọng. Ðó là điều quan trọng, vì nó là gốc rễ của vấn đề sức khỏe.
- Các bạn có thể ngày nay quy y Tam Bảo là vì các bạn đã trồng căn lành to lớn trong quá khứ. Ngày nay khi họp mặt với nhau, đại chúng nên phát lòng bồ đề, cầu đạo vô thượng. Không nên làm loài sâu bọ trong Phật giáo, không nên làm kẻ hư đốn bại hoại. Hễ bạn thấy ai hủy báng Phật giáo, bạn chớ cùng họ tranh biện. Bạn hãy tu hành với hành động chắc thật . Dùng sự tu hành để hiển minh lời Phật dạy. Ðừng nên dùng lời nói ngoài miệng (khẩu đầu thiền) để làm họ tin mình. Phải chân thật tu hành.
- Chiến tranh ở trên thế giới đều bắt đầu từ những chiến tranh nho nhỏ trong tâm mình phát khởi. Cổ nhân nói: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách (Sự thạnh suy của một nước, ngay kẻ tầm thường cũng phải có trách nhiệm). Chẳng nên nghĩ rằng: Ðó là chuyện của người khác, chẳng phải chuyện của mình. Nếu mỗi người ai cũng chẳng có chiến tranh, thì chiến tranh thế giới sẽ chấm dứt.
- Ðừng nên đem ánh sáng chiếu rọi bên ngoài. Lúc nào cũng phải biết xoay ánh sáng lại rọi lòng mình. Chiếu soi xem mình là súc vật? là quỷ? là gì?
- Thế nào là đạo đức? Tức là lấy sự lợi lạc của chúng sinh làm chủ, lấy sự không cản trở người khác làm tông chỉ. Ðạo đức cũng có nghĩa là trong lòng mình tràn ngập lòng nhân từ, nghĩa khí, lễ độ, trí huệ và thành tín.
- Vì sao mình không tương ưng với đạo? Vì tâm cuồng chưa ngừng. (tâm cuồng là tâm đầy vọng tưởng).
- Việc tốt là do tâm khởi đầu. Việc xấu cũng từ tâm khởi đầu.
- Ba thứ độc tham sân si so với nha phiến, rượu mạnh hay với độc dược cực độc, thì nó lợi hại hơn gấp bội. Những thứ thuốc, rượu, độc dược chỉ là độc tố hữu hình, hại thân thể người. Còn tham sân si thì hại pháp thân huệ mạng của ta, đó mới là thứ tối chướng ngại tu đạo.
- Tu hành pháp Phật tức là: Ðừng làm việc ác, làm toàn việc thiện.
- Nhìn xuyên thủng thì mình sáng tỏ; hễ buông bỏ thì mình giải thoát. Giải thoát là tự tại. Khi tự mình không tại (không ở đây) thì giặc cướp sẽ xâm phạm, mình sẽ bị cảnh giới lay chuyển.
- Người tu nếu không có tiền bạc gì cả thì mới tu hành được. Một khi có tiền thì tuyệt đối chẳng thể tu hành đặng. Ðó là điều tôi dám bảo chứng.
- Sự khoái lạc chân chính thì chẳng có gì mong cầu. Khi tới chỗ không còn mong cầu thì ta sẽ chẳng có âu lo. Khi bạn chẳng mong cầu điều gì thì đó mới là sự vui sướng chân chính, cũng là sự an vui yên ổn thật sự của tự tánh.
- Cái tật xấu lớn nhất của chúng sinh là lòng si ái (yêu đương si mê). Ngày đêm ở trong vòng si ái mà chẳng phút nào buông bỏ cho đặng. Nếu mình có thể đem lòng háo sắc biến thành lòng ham học Phật, giờ phút nào cũng chẳng quên học phật, thì rất mau có thể thành Phật.
- Hãy đem sự thông minh, trí huệ nhỏ bé để qua một bên. Ðừng nên nghĩ rằng chuyện gì mình cũng biết, cũng hiểu. Nếu bạn nghĩ rằng việc gì mình cũng biết thì bạn không phải là người chân chính hiểu Phật pháp.
- Ở Vạn Phật Thánh Thành, không ai được phép nịnh hót, nói những lời dua nịnh, vuốt ve kẻ khác.
- Trong chùa, nơi đạo tràng, việc xấu xa nhứt là ta chẳng chịu tu hành. Ai chẳng tu hành thì tương lai đều phải đọa lạc.
- Tu hành cần ta phải dưỡng nục, nghĩa làm ra vẻ khù khờ. Càng ngu ngơ khù khờ càng tốt. Khù khờ đến chỗ rằng một vọng tưởng cũng chẳng còn.
- Người tu hành đừng nên có cái TA. Vất cái ngã vô thùng rác. Ðến đâu cũng vì người khác, vì việc công mà phục vụ. Phải biết hòa quang (hòa đồng với mọi người), dùng sự nhượng bộ làm bước tiến. Việc gì cũng giữ gìn, chẳng đua đòi tranh giành, chơi nổi. Một khi chơi nổi thì bạn sẽ gặp rắc rối ngay.
- (Nói với người xuất gia:) Nếu đồ ăn thức uống không thanh đạm thì đừng ăn. Trách nhiệm của người tu là hoằng pháp chớ không phải đi tiếp đãi người ta. (Ðây là ý nói về chuyện người xuất gia hay đi ra tiệm ăn uống để tiếp đãi, hoặc bàn bạc chuyện đời, chuyện danh lợi, chuyện riêng tư.)
- Có người cư ngụ tại Vạn Phật Thánh Thành, nhưng chờ Sư Phụ tới mới chịu đi nghe giảng, còn bình thường thì chẳng chịu tham gia hai thời công phu sáng và chiều. Nghe giảng lại chẳng chịu tùy hỉ. Ðó thật là ích kỷ. Họ chỉ muốn tới lấy mà chẳng phải tới cho, đi ngược lại với tinh thần căn bản của chùa Vạn Phật. Ðại chúng thì là một thể, bạn không thể làm việc riêng tư ích kỷ, chẳng đếm xỉa gì tới toàn thể đại chúng.
- Ai là kẻ thù của người tu? Chẳng phải ma vương đâu, chính là lòng ích kỷ. Làm việc với lòng ích kỷ thì vạn sự chẳng thành; dẫu có thành công cũng chỉ là hư vọng.
- Người dụng công tu đạo thì một tích tắc cũng không thể khởi vọng tưởng. Rằng: Ðại sự chưa xong, khổ như có tang. Việc sinh tử đại sự chưa giải quyết xong thì cũng bi ai đau khổ hệt như người con có cha mẹ mới chết vậy.
- Phật pháp sâu rộng như biển lớn: Phải dũng mãnh tinh tấn, siêng năng tu tập thì mới có thể thành tựu được.
- Người tu đạo cần phải có sự hiểu biết đúng đắn và cái nhìn đúng đắn (chính tri chính kiến). Không nên điên đảo thị phi. Trắng đen phải phân cho rõ, chẳng thể lầm mắt cá là hạt ngọc. Chẳng thể làm qua loa, làm cho có. Nếu làm vậy thì bạn sẽ có sự hiểu biết và cái nhìn lệch lạc (tà tri tà kiến) vĩnh viễn chẳng thể thành Phật đặng.
- Suy nghĩ vẩn vơ: Nếu bạn biết chắc chuyện đó chẳng thể làm được thì sao cứ cố ý nghĩ đến nó hoài? Nếu biết đó là vọng tưởng, suy nghĩ vẩn vơ, thì sao bạn không dẹp nó qua một bên? Ðây là thói quen xấu của nhiều người: Biết là sai mà cứ cố ý làm. Nói trắng ra thì đó là bạn không nhìn thủng, chẳng buông bỏ (chấp trước). Bạn không chấp trước bên này thì cũng chấp bên nọ; không trước món này lại trước món khác; không chấp đàn ông thì cũng trước đàn bà. Thế là bạn lãng phí hết thời gian quý báu.
nh điển hình
Kinh sách mới
Chú Lăng Nghiêm là Chú quan trọng nhất, hơn hết thảy trong các Chú. Bao gồm hết thảy thể chất và diệu dụng của Phật Pháp. Chú này chia làm năm bộ : Kim Cang bộ, Bảo Sinh bộ, Liên Hoa bộ, Phật bộ và Nghiệp bộ. Năm bộ Kinh này thuộc về năm phương : 1. Kim Cang bộ : Thuộc về phương Ðông, Ðức Phật A Súc là chủ. 2. Bảo Sinh bộ : Thuộc về phương Nam, Đức Phật Bảo Sinh là chủ. 3. Phật bộ : Thuộc về chính giữa, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là chủ. 4. Liên Hoa bộ : Thuộc về phương Tây, Đức Phật A Di Ðà là chủ. 5. Nghiệp bộ : Thuộc về phương Bắc, Đức Phật Thành Tựu là chủ.
Nếu người không có căn lành, thì đừng nói đến tụng niệm, dù ba chữ « Chú Lăng Nghiêm » cũng không nghe được, cũng không có cơ hội nghe được. Các vị bây giờ dùng máy vi tính tính thử xem, dùng thần não của bạn tính thử xem, hiện tại trên thế giới nầy, người tụng Chú Lăng Nghiêm nhiều, hay là người không biết tụng Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Người nghe được tên Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Hay là người không nghe được tên Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Cho nên các vị đừng xem mình là người rất bình thường, bạn đã nghe được Phật pháp, đây đều là trong vô lượng kiếp về trước đã từng gieo trồng căn lành, đắc được diệu pháp thâm sâu vô thượng, các vị đừng để pháp môn nầy trôi qua.
Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy còn gọi là Kinh Pháp Giới, cũng gọi là Kinh Hư Không, tận hư không khắp pháp giới, chẳng có một nơi nào mà chẳng có Kinh Hoa Nghiêm ở đó. Chỗ ở của Kinh Hoa Nghiêm tức cũng là chỗ ở của Phật, cũng là chỗ ở của Pháp, cũng là chỗ ở của Hiền Thánh Tăng. Cho nên khi Phật vừa mới thành chánh giác, thì nói bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, để giáo hoá tất cả pháp thân Ðại Sĩ . Vì bộ Kinh nầy là Kinh vi diệu không thể nghĩ bàn, do đó bộ Kinh nầy được bảo tồn ở dưới Long cung, do Long Vương bảo hộ giữ gìn. Về sau do Ngài Bồ Tát Long Thọ, xuống dưới Long cung đọc thuộc lòng và ghi nhớ bộ Kinh nầy, sau đó lưu truyền trên thế gian.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử ở chỗ Dạ Thần Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sinh, nghe môn giải thoát Phổ hỉ tràng, tin hiểu hướng vào, biết rõ tuỳ thuận, suy gẫm tu tập. Nhớ hết những lời dạy của thiện tri thức, tâm không tạm xả, các căn chẳng tán, một lòng muốn gặp được thiện tri thức. Siêng cầu khắp mười phương không giải đãi. Muốn thường gần gũi sinh các công đức, đồng một căn lành với thiện tri thức. Đắc được hạnh phương tiện thiện xảo của thiện tri thức. Nương thiện tri thức vào biển tinh tấn, trong vô lượng kiếp thường chẳng xa lìa. Nguyện như vậy rồi, bèn đi đến chỗ Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sinh Diệu Đức.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử một lòng muốn đi đến chỗ Ma Gia phu nhân, tức thời đắc được trí huệ quán cảnh giới Phật.Bèn nghĩ như vầy: Thiện tri thức nầy xa lìa thế gian. Trụ nơi không chỗ trụ, vượt qua sáu xứ. Lìa tất cả chấp trước. Biết đạo vô ngại, đủ tịnh pháp thân. Dùng nghiệp như huyễn mà hiện hoá thân. Dùng trí như huyễn mà quán thế gian. Dùng nguyện như huyễn mà giữ thân Phật. Thân tuỳ ý sinh, thân không sinh diệt, thân không đến đi, thân chẳng hư thật, thân chẳng biến hoại, thân không khởi tận, thân hết thảy tướng đều một tướng, thân lìa hai bên, thân không y xứ, thân vô cùng tận, ...
Tôi tin rằng bộ Kinh nầy được giảng lần đầu tiên tại nước Mỹ, các vị cũng là những người đầu tiên được nghe. Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, là vua trong các Kinh Phật, cũng là vua trong vua. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa cũng là vua trong các Kinh, nhưng không thể gọi là vua trong vua. Bộ Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật nầy, là vua trong vua, là bộ Kinh dài nhất trong Kinh điển đại thừa mà đức Phật nói, nhưng thời gian nói không dài quá, chỉ trong hai mươi mốt ngày, thì đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói xong bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ở trong năm tầng nghĩa lý huyền diệu, thì huyền nghĩa thứ nhất là giải thích tên Kinh. Bộ Kinh nầy dùng Diệu Pháp Liên Hoa làm tên. Diệu Pháp là pháp, Liên Hoa là ví dụ, vì Phật Pháp vi diệu thâm sâu, một số người không dễ gì hiểu nổi, cho nên dùng liên hoa (hoa sen) để ví dụ, do đó bộ Kinh nầy lấy pháp và dụ làm tên. Cứu kính thì diệu pháp là gì ? diệu đến cỡ nào ? tốt đến cỡ nào ? Nay tôi nói cho bạn biết, sự diệu nầy không thể dùng tâm suy nghĩ, không thể dùng lời bàn luận, không thể dùng tâm để dò, nghĩ cũng nghĩ không hiểu nổi; nghĩ muốn hiểu biết thì nói không đến được sự diệu của nó.
Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất hớn hở vui mừng, bèn đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, mà bạch Phật rằng : Hôm nay nghe đức Thế Tôn nói pháp nầy, tâm con rất hớn hở được chưa từng có. Tại sao ? Vì xưa kia con theo Phật nghe pháp như vầy : Thấy các vị Bồ Tát được thọ ký sẽ thành Phật, mà chúng con chẳng được dự vào việc đó, rất tự cảm thương, mất đi vô lượng tri kiến của Như Lai. Ðức Thế Tôn ! Con thường một mình ở dưới gốc cây nơi rừng núi, hoặc ngồi hoặc đi kinh hành, bèn nghĩ thế nầy : Chúng con đồng vào pháp tánh, tại sao đức Như Lai dùng pháp tiểu thừa mà tế độ ? Ðó là lỗi của chúng con, chứ chẳng phải đức Thế Tôn vậy.
Quyển Ý Nghĩa Đời Người này rất thâm thuý, tuy cố H.T Tuyên Hoá thuyết giảng lời lẽ giản dị, mộc mạc, nhưng nghĩa lý rất cao thâm huyền diệu, đi vào tâm người. Nếu người tu học, đọc hết quyển sách này, y theo trong đó mà thực hành, thì sẽ giác ngộ được ít nhiều ngay trong đời này, không cần phải tìm cầu đâu xa vời. Đặc biệt cố Hoà Thượng nhấn mạnh về Sáu Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thành đó là : Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tư lợi, không nói dối. Sáu đại tông chỉ này cũng có thể nói là kim chỉ nam của người tu hành, dù xuất gia, hay tại gia, đều lợi lạc vô cùng, nhất là thời đại ngày nay.