Thông tin
Các bài mới
I. SỐNG MỘT MÌNH – MỘT TINH THẦN CAO CẢ. Khi nghe đến cụm từ “sống một mình”, nhiều người nghĩ đến sự cô đơn, cách biệt, hay thiếu thốn tình cảm. Nhưng trong giáo pháp của đức Thế Tôn, “sống một mình” (ekavihāri) là một biểu tượng của người có trí, sống tỉnh thức, viễn ly, và giải thoát nội tâm. Bài Kinh Sống Một Mình (Bhaddekaratta Sutta) được đức Phật thuyết giảng nhằm khích lệ hàng Tỳ-kheo và người cư sĩ hãy sống trong hiện tại, không vướng mắc vào quá khứ, không vọng tưởng tương lai, an trú nơi chính mình và giải thoát khỏi các lậu hoặc. Đây không phải là một lý tưởng xa vời, mà là con đường thiết thực để sống an vui, tự tại, giữa dòng đời nhiễu động.
Chuyện kể rằng thời Đức Phật có người nông dân tên Cittahattha thuộc tầng lớp trung lưu, không nghèo nhưng cũng không khá giả lắm. Anh sống ở bên ngoài thành Xá Vệ - kinh đô của nước Kosala. Hôm đó, một con bò trong đàn bò của anh đi lạc làm anh phải tìm kiếm khắp nơi. Lang thang vào rừng một hồi lâu, anh mới tìm thấy chú bò đi lạc. Trên đường về, anh tình cờ đi ngang qua tinh xá nơi có các tỳ kheo đang trú ngụ. Lúc đó trời cũng đã đứng bóng, lại gặp trời nắng và cũng đói bụng, nên Cittahattha đánh liều vào tinh xá xin chút thức ăn. Vào tới nơi, vì còn ngại ngùng nên anh chỉ thèm thuồng đứng nhìn các tỳ kheo đang từ tốn thọ thực chứ chưa dám mở lời. 
- Sự thật về thân xác lúc cận tử. Khi một người sắp qua đời, các yếu tố gió (vāyodhātu) trong cơ thể dần yếu đi và co rút lại. Do đó, người bệnh (người sắp mất) không thể cử động dễ dàng như trước. Tay chân như bị trói buộc, Đầu nặng trĩu, Muốn nói cũng không thể nói, Muốn động đậy cũng không thể động đậy. Vì vậy, khi miệng và tay còn có thể sử dụng được, ta nên thường xuyên dùng miệng để tụng đọc Kinh Pháp, niệm ân đức Phật và dùng tay để chắp tay lễ lạy, hành thiện tạo phước. Đừng để đến khi người khác phải nâng tay mình lên chắp lại giúp lễ Phật trong giờ phút cuối. Hãy tận dụng thân thể còn hữu dụng để tích lũy công đức cho chính mình.
Vì thế chúng ta cần nắm vững kiến thức này để có thể tự cứu chính mình trong 10 giây đầu hiện tượng nhồi máu cơ tim xuất hiện. Giả sử thời gian hiện tại là 17:50, bận rộn cả ngày với các lớp học, hiện đang lái xe một mình về nhà. Đột nhiên xuất hiện cảm giác rất lo lắng và khó chịu! Rồi bạn thấy đau ngực, cơn đau bắt đầu lan ra cánh tay và cằm. Tuy nhiên, để đến được bệnh viện, bạn phải đi thêm một đoạn đường nữa. Tệ hơn, nếu gặp đoạn đường xấu, làm sao bạn có thể đi xa hơn? Vậy xử lý thế nào? Trước đây bạn đã từng học phương pháp hô hấp nhân tạo để cứu người khác, nhưng lại chưa từng học cách tự cứu chính mình.
I. XUẤT THÂN. Tôn giả Đại Ca Diếp (Maha Kassapa) sinh trưởng tại ngôi làng Sa La Đà gần kinh thành Vương Xá (Rajagaha) của nước Ma Kiệt Đà (Magadha), trong một gia đình Bà la môn giàu có. Vào một ngày trời xanh biếc, khi đang hoài thai Ngài, mẫu thân của Tôn giả dạo chơi trong đình viện thì cảm thấy hơi mệt. Bà liền tới dưới bóng cây đại thọ Tất Bát La (Pippahali) nghỉ ngơi thì bỗng chuyển dạ lâm bồn. Khi được sinh ra Tôn giả hội đủ những quý tướng của một bậc vĩ nhân, trong đó có bảy quý tướng giống với vẻ đẹp của Đức Phật. 
Giấc Mơ Kinh Hoàng Của Kẻ Lạ Mặt. “Ta đang ở đâu thế này?" Hắn rùng mình tự hỏi, nhìn xuống sợi dây xích đang trói tay chân mình. Trước mắt hắn là một màu âm u, chút ánh sáng lờ mờ khiến cảnh vật càng trở nên kỳ quái. Mùi tanh hôi xộc thẳng vào mũi. Đang hoang mang, bỗng một bàn tay từ phía sau tóm cổ hắn lôi đi. Bị kéo lê, hắn cố gào thét, giãy giụa nhưng vô ích. Trong ánh lửa, một gương mặt quỷ nửa người nửa thú hiện ra hung tợn. Tay quỷ sứ cười gằn, ném hắn vào hàng dài người đang chờ đợi. Kẻ nào cũng tóc tai rũ rượi.
- Bạch Thế Tôn, do nhân duyên gì một vị thiên tử hay thiên nữ hết phước rồi sinh trở lại cõi người. Và do nhân duyên gì một vị thiên tử hay thiên nữ tiến mãi đến các tầng trời cao hơn cho đến khi nhập niết bàn giải thoát ạ? - Này Thiên chủ Sakka (Đế Thích) do những phước báo đã gây tạo mà một thiên tử hay thiên nữ sinh về cõi trời này. Nhưng nếu khi gây tạo các công đức đó mà vị đó có ý chấp công tự khen mình, thì sự thoái chuyển đã hình thành.
Pháp âm
Pháp thoại
TÌM KIẾM
- Trọn đời, tôi không muốn đi tụng đám, phóng diệm khẩu, làm pháp hội Thủy Lục, là bởi vì tôi chẳng có đức hạnh. Ðạo không đủ để cảm hóa người, đức không đủ để dạy dỗ ai. Tự mình chưa siêu độ được mình thì làm sao siêu độ được vong hồn. Ðó là lý do tôi không có gan làm những chuyện ấy.
- Pháp môn niệm Phật: người già vì năm tháng chẳng là bao, nên tốt nhất là niệm Phật. Người trẻ, vì đời còn dài nên cũng thích hợp để tu niệm Phật. Người trung niên, sau khi đã kinh nghiệm rõ ràng mọi chuyện trên đời rồi, cũng nên niệm Phật. Kẻ bịnh, không biết bao giờ sẽ chết, cần gấp niệm Phật. Lúc không bịnh, lợi dụng khi thân thể còn khỏe, tốt nhất là niệm Phật.
- Mỗi người đều nên chính tâm tu thân. Chính tâm tức là không nghĩ loạn, nghĩ tạp nhạp lăng xăng, tưởng những chuyện không chính đáng. Tâm chính thì quỷ chẳng tới tìm bạn. Ví như cái bát đồ ăn của con mèo đầy dẫy ruồi bu. Ðó là bởi đồ ăn quá dơ dáy. Nếu không có cái bát ấy thì ruồi nhặng chẳng bay tới. Nếu tâm bạn như thế nào thì sẽ chiêu cảm thứ tương tự tới. Không phải quỷ từ ngoài tới, mà do trong tâm (tạp nhiễm của bạn) mời tới.
- Không gặp ma, làm sao nhìn thủng hồng trần? Không chịu khổ, làm sao quyết chí chân tu? Không nên để trí óc thông minh lừa mình, cho rằng cái gì mình cũng biết. Kỳ thật mình chẳng biết gì. Khi cảnh giới tới thì mình bị nó lay chuyển đến độ luống cuống cả tay chân!
- Sau khi thọ giới rồi , bạn hãy nhất định làm sứ giả cho nhà Phật, làm đội ngũ của đạo Phật, làm vị đại tướng quân, đại anh hùng, đại hào kiệt trong Phật giáo. Không nên cẩu thả, tùy tiện, cứ theo thói hư tật xấu, ngày ngày đùa giởn nhởn nhơ, chẳng có vẻ gì là kẻ vừa thọ giới cả.
- Không nên tán loạn: Gặp ai cũng rào đón xã giao, mà tự mình chẳng chút dụng công tu hành. Bạn phải biết làm sao tu: Nói nhiều quá không tốt. Kẻ phú quý không nói nhiều. Nói nhiều thì nhân cách thấp hèn. Thấp hèn thì không có giá trị. Người quý lời nói chậm, là vậy.
- Trong phạm vi của luật nhân quả thì phạm tội tà dâm là nghiêm trọng nhất. Sự trừng phạt còn ghê gớm nữa: Một người lúc sống phạm giới tà dâm bao nhiêu lần, thì khi chết sẽ bị một cái cưa lớn cưa thân người ấy từ đầu xuống chân bấy nhiêu lần. Sinh tiền kết hôn một trăm lần thì chết rồi bị cưa một trăm lần.
- Bởi vì mình chẳng thể nhìn xuyên suốt, không thể buông xả, do đó trong pháp hữu vi, pháp vô vi, thứ có tướng, thứ không tướng, mình bị ràng buộc rối rắm. Lúc ấy vì chẳng thể nhận thức rõ ràng (cảnh giới, hay kinh nghiệm trước mắt, hay chân lý bất biến) nên mình cứ dật dờ (như lết chân lội bùn). Trong vòng lục đạo luân hồi, cứ mãi tiếp tục sinh tử.
- Ðọc Kinh Lăng Nghiêm là để khai trí huệ. Ðọc Kinh Pháp Hoa là để thành Phật. Nên nói: Khai huệ là Lăng Nghiêm; thành Phật là Pháp Hoa. Kinh Hoa Nghiêm thì quy nguyên: Trở về gốc. Ai ai cũng từ trong pháp giới này lưu xuất; ai ai cũng sẽ trở về với pháp giới. Các bạn nên tuyển lựa một bộ kinh mà các bạn cảm thấy vui thích nhất thì nó mới khế cơ (hợp với căn cơ bạn). Ðã có pháp khế cơ rồi , bạn hãy nghiên cứu nó, không nên ngày ngày cứ lo làm tiền, quên mất Phật pháp.
- Việc lớn trong đời mình: Quy y Tam Bảo.
- Quy y Tam Bảo thì dựa vào hai chữ chân thành. Không chân thành, bạn sẽ làm cho có lệ, cẩu thả vô trách nhiệm, chẳng có cảm ứng gì .
- Mỗi sáng khi ngủ dậy, bạn hãy đối diện với Phật phát bốn điều thệ nguyện. Bốn lời nguyện này Bồ Tát nào cũng phát. Mỗi đêm bạn hãy kiểm thảo, tự hỏi xem: Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ, mình đã độ ai chưa? Nếu chưa, hãy ráng độ. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, mình đã đoạn chưa? Nếu chưa, phải đoạn nó đi. Pháp môn vô lượng thệ nguyện học, mình đã học chưa? Nếu chưa, hãy tìm thời gian rỗi rảnh giữa lúc bận bịu công việc để đọc chút kinh điển, xem sách Phật dạy. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành, mình hiện tại là phàm phu, chưa thành Phật, phải mau tu hành thì mới thành Phật được.
- Người học Phật không nên chạy rong. Suốt đời cứ chạy cùng hết chùa này đến chùa khác, mà rốt cuộc chẳng chút sở đắc: Không biết giảng kinh, không biết niệm Phật, cũng chẳng biết lễ sám.
- Tìm cầu bái phỏng một vị thiện tri thức: Ngay trong giới xuất gia cũng rắn rồng lẫn lộn, không phân rõ ràng. Bạn đi lộn vào chốn bàng môn tả đạo thì thật nguy hại. Nếu đi lầm lẫn vào chỗ kẻ tà sư thuyết pháp thì nguy hại càng lớn hơn nữa.
- Ở trong chùa, bạn nên nói chuyện liên hệ đến phật lý, đến tu hành. Ðừng nên nói người này thế này, người nọ thế kia, toàn chuyện thị phi. Càng nói thì bạn càng đọa lạc. Càng đọa lạc thì càng khó tu học Phật pháp. Vì sao bạn trì chú mà quên hoài? Vì bạn quá tán loạn. Vì sao tụng kinh mà không nhớ? Vì bạn quá tán loạn.
- Biết lắng nghe thì dù tôi có chửi bới người ta, bạn cũng nghe thành diệu pháp. Dù tôi có đánh người ta, bạn cũng cho rằng đó là pháp thức tỉnh họ thật đúng lúc. Không biết lắng nghe, thì tôi có dùng cách gì gia trì bạn, giúp đỡ bạn, bạn cũng cảm thấy vô nghĩa, vô lý.
- Muốn tôi lên trời: chẳng khó gì. Giáo hóa người Mỹ là khó nhất.
Muốn tôi độn thổ: chẳng khó gì. Giáo hóa người Mỹ là khó nhất
Muốn gà trống đẻ trứng: chẳng khó gì. Giáo hóa người Mỹ là khó nhất.
- Bạn cho rằng được người ta dập đầu đảnh lễ là mình ngon lành lắm sao? Bạn hãy tự hỏi mình có đạo đức gì? Có trí huệ chăng? Có xứng đáng để người ta cung kính chăng? Ðáng để người ta sùng bái chăng? Bạn hãy thường hồi quang phản chiếu như vậy.
- Cúng dường người xuất gia, bạn cần có con mắt biết chân lý (trạch pháp nhãn). Nên cúng dường người tu hành thanh tịnh.
- Phật thuyết tam tạng, mười hai loại kinh điển, đều không ngoài mục đích phá bỏ chấp trước của người ta. Song le mình không chịu nghe lời Phật dạy, lại làm kẻ phản đồ: chấp trước mãi cái TÔI.
- Lúc tôi tới, chẳng có gì. Lúc ra đi, tôi cũng chẳng muốn gì. Tôi chẳng muốn lưu lại dấu vết gì trên trần gian. Tôi từ hư không tới, sẽ về với hư không.
- “Ngũ Tân là những thứ cay độc, người ăn vào dễ sanh tâm dâm dục, sân hận, vọng tưởng nhiều hơn, tổn hại đạo nghiệp. Người tu hành nên kiêng hoàn toàn.”
- “Khi ăn ngũ tân, chúng phát ra mùi hôi qua miệng, qua thân, khiến chư Thiên tránh xa, quỷ thần ác lại gần.”
- “Ai muốn tu Thiền, giữ giới thanh tịnh, thì phải dứt bỏ ngũ tân. Chúng khiến tâm không thanh tịnh, vọng niệm dấy lên như sóng cồn.”
- “Người tu hành, nếu ăn năm thứ cay nồng, dù đã nấu chín, thì các vị thần hộ pháp sẽ rời bỏ người ấy, không bảo vệ nữa. Tất cả thiên thần, thiện thần đều xa lánh. Ngược lại, các loài quỷ thần yêu tà sẽ tìm đến.”
- “Tại sao không ăn chung ngũ tân với sữa, bơ, phô mai? Vì những thực phẩm thanh tịnh này nếu bị ô nhiễm bởi mùi hôi cay độc, sẽ trở thành bất tịnh thực, khiến thân tâm người ăn bị nhiễm độc, mất oai nghi.”
- “Thức ăn thanh đạm, không vị nồng cay, là phương tiện dưỡng đạo. Không cần ngon miệng, mà cần nhẹ tâm.”
- “Ăn đơn giản, mặc đơn giản, sống đơn giản. Đó là ba cội gốc để phát đạo tâm.”
- “Người ăn hành, tỏi, hẹ, nén… miệng có mùi rất nồng, chư thiên không đến gần. Người tu hành cần oai nghi từ miệng, thân, ý. Nếu khẩu khí bất tịnh, sao có thể thuyết pháp độ người?”
- Kiêng ngũ tân không chỉ vì lý do sức khỏe, mà là để:
• Giữ thân – khẩu – ý thanh tịnh
• Không tạo nhân duyên với ma chướng và vọng tưởng
• Giữ vững đạo tâm trong thiền định và trì giới.
- “Tùy duyên không phải là tùy tiện. Giới luật là sinh mạng của người tu. Nếu nói ‘tùy duyên’ để không trì giới, thì chẳng khác nào lấy thuốc độc gọi là cam lồ.”
- “Có người nói trứng gà công nghiệp không có trống, ăn cũng không sao. Nhưng ăn trứng là gieo nhân giết hại, dù chưa có sự sống, đó cũng là sát nhân trong hạt giống. Người giữ giới Bất Sát thì ngay cả mầm của sát cũng không nên chạm đến.”
- “Nếu không thể ăn chay nghiêm túc, thì làm sao nói độ sanh? Đó chẳng phải là người chưa độ mình mà muốn độ người sao?”
- “Chư thiên ghét mùi hôi, quỷ thần thì thích. Nếu quý vị nói: ‘Tôi ăn ngũ tân là để hoằng pháp’, thì quỷ thần sẽ giúp quý vị… mà dắt về địa ngục.”
- “Người tu hành không được hòa quang đồng trần, không thể mượn danh ‘tùy duyên’ mà để mình bị duyên xoay chuyển. Phải là người chuyển được cảnh, không bị cảnh chuyển.”
- “Tùy duyên là lấy trí tuệ để ứng xử, chứ không phải buông lung theo tập khí thế gian. Người tu nếu không nghiêm trì giới luật, thì có độ chúng sanh cũng chỉ là dắt họ cùng đi lạc đường.”
- “Có người nói: ‘Nhiều chùa cũng ăn như vậy, chứng tỏ không sai’. Tôi nói: ‘Chân lý không do số đông quyết định. Một ngàn người làm sai vẫn là sai. Một người giữ giới đúng vẫn là đúng.’”
- Tu hành không thể tham đồ phương tiện, không thể xí đồ cầu may. Tu hành tức nói về công phu chân thật, nghĩa là dùng một phần công, thì sẽ có một phần quả thật; dùng mười phần công thì sẽ có mười phần quả thật. Ðây là định luật thiên cổ bất biến. Bất cứ tu pháp môn gì, càng khổ thì càng tốt, càng cực nhọc càng tốt, càng phí sức càng tốt. Từ xưa tới nay, cảnh giới khai ngộ đều từ trong sự khổ mà đắc được. Bổn phận của tôi thì nên tu hành như vậy (ngồi thiền), cho đến thành hay chẳng thành đạo, đừng màng nó. Nên có tư tưởng như thế.
- Có người nói: ‘’Tôi một ngày niệm một trăm linh tám (108) biến Chú Ðại Bi, lại tụng một bộ kinh Pháp Hoa, đó có thật tu hành chăng ? ‘’Ðó thì chẳng cho là tu hành. Hãy nhìn quá khứ chư Phật Bồ Tát, các Ngài vì tu hành mà xả thân mạng; vì cầu Phật đạo phân thân nát cốt, mà chẳng tiếc. Phải có tinh thần hy sinh như thế, mới là đệ tử Phật chân chính, mới có thể đắc được định chân chính kiên cố.
- Phải trồng nhân kiên cố, thì mới có thể kết quả kiên cố. Có quả kiên cố rồi, thì sẽ thoát khỏi ba cõi, dứt sinh tử. Muốn thoát khỏi cõi dục chăng ? Vậy, trước hết phải đoạn dục, tức là đoạn: Tài, sắc, danh, thực, thùy, năm dục. Hoặc đoạn: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, năm cảnh. Ðoạn được thì sẽ thanh tịnh, chẳng đoạn được thì ô nhiễm. Thanh tịnh thì thoát khỏi cõi dục, ô nhiễm thì sẽ đoạ sáu nẻo. Dục đoạn thì thoát khỏi cõi dục, đoạn sắc thì thoát khỏi cõi sắc, như nếu chẳng chấp tướng, Do đó : ‘’Quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng.’’ Hoặc là : ‘’Thấy việc tỉnh việc thoát khỏi thế gian. Thấy việc mê việc đọa trầm luân.’’ Hoặc là : ‘’Mắt thấy hình sắc trong chẳng biết. Tai nghe chuyện đời tâm chẳng hay.’’ Hoặc là: ‘’Bên trong chẳng có tâm. Bên ngoài chẳng có hình. Xa xa chẳng có vật.’’ Nếu đến được những cảnh giới này thì sẽ vượt khỏi cõi sắc. Ðến được chẳng có cảnh giới, chẳng những chẳng có hình sắc, mà cho đến tâm thức cũng chẳng còn. Lúc đó, liền thoát khỏi ba cõi.
- Bồ Tát tu hành, làm các công đức rất kiên cố, không thể phá hoại được. Cho nên nói sở tác kiên cố chẳng tổn hại. Tức cũng là sở hành sở tác nhất định sẽ thành tựu, không thể lãng phí công phu. Giống như tất cả Bồ Tát tu hạnh thù thắng (lục độ vạn hạnh), chứng được công đức, chẳng cách chi hình dung được. Bồ Tát tu hành đạo thanh tịnh (chẳng có dục niệm), nguyện vì chúng sinh để tuyên nói, khiến cho chúng sinh cũng tu đạo thanh tịnh. Tóm lại, tức là đoạn dục khử ái. Nhìn thủng thân thể, buông bỏ chấp trước. Bằng không thì chấp cái này, chấp cái kia, chẳng phải là đạo thanh tịnh mà là đạo ô nhiễm. Ðạo thanh tịnh tức là bổn lai diện mục, tức cũng là cảnh giới như như chẳng động, liễu liễu thường minh.
- Ma có nhiều thứ, ma lợi hại nhất là tâm ma. Nó hay khiến cho bạn chẳng tu hành. Bạn muốn tu hành, thì nó lại nhiễu loạn, khiến cho bạn sinh vọng tưởng. Nó hay nói với bạn như vầy: ‘’Ðừng tu hành ! Tu hành là một việc khổ sở. Bạn phải ăn nhiều một chút, phải mặc nhiều một chút, phải ngủ nhiều một chút, nuôi dưỡng thân thể cho tốt. Ðó mới là đúng, đừng quá ngu si‘’! Tâm ma của mình thường hay phá hoại tâm tu đạo của mình.
- Người tu hành, nếu biết tu, thì tu thiện trong thiện. Không biết tu, thì tu ác trong thiện. Biết tu thì ở trong ác cũng có thiện. Chẳng biết tu, thì ở trong thiện cũng có ác. Cho nên có thiện trong thiện, ác trong thiện; thiện trong ác, ác trong ác – có bốn thứ phân biệt nầy. Người tu hành, trước hết phải hiểu rõ pháp thiện. Làm việc thiện trồng nhân thiện, đây là thiện trong thiện. Làm việc thiện trồng nhân ác, đây là ác trong thiện. Làm việc ác trồng nhân thiện, đây là thiện trong ác. Làm việc ác trồng nhân ác, đây là ác trong ác. Thiện pháp tức là thiện trong thiện, ác pháp tức là ác trong ác.
- Chúng ta người tu đạo, phải lập công, lập ngôn, lập đức, đây là pháp môn tối quan trọng. Nhưng không cần đến nơi xa để tìm, ở tại Chùa Kim Sơn sẽ tìm được. Là cái gì ? Nói đơn giản, thứ nhất đừng có lười biếng. Thứ hai đừng có ích kỷ. Vì Chùa Kim Sơn mà làm công, tức là lập công. Hộ trì tam bảo, tức là lập đức. Giảng Kinh thuyết pháp, tức là lập ngôn. Ba thứ nầy làm được viên mãn, thì công đức sẽ vô lượng.
nh điển hình
Kinh sách mới
Chú Lăng Nghiêm là Chú quan trọng nhất, hơn hết thảy trong các Chú. Bao gồm hết thảy thể chất và diệu dụng của Phật Pháp. Chú này chia làm năm bộ : Kim Cang bộ, Bảo Sinh bộ, Liên Hoa bộ, Phật bộ và Nghiệp bộ. Năm bộ Kinh này thuộc về năm phương : 1. Kim Cang bộ : Thuộc về phương Ðông, Ðức Phật A Súc là chủ. 2. Bảo Sinh bộ : Thuộc về phương Nam, Đức Phật Bảo Sinh là chủ. 3. Phật bộ : Thuộc về chính giữa, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là chủ. 4. Liên Hoa bộ : Thuộc về phương Tây, Đức Phật A Di Ðà là chủ. 5. Nghiệp bộ : Thuộc về phương Bắc, Đức Phật Thành Tựu là chủ.
Nếu người không có căn lành, thì đừng nói đến tụng niệm, dù ba chữ « Chú Lăng Nghiêm » cũng không nghe được, cũng không có cơ hội nghe được. Các vị bây giờ dùng máy vi tính tính thử xem, dùng thần não của bạn tính thử xem, hiện tại trên thế giới nầy, người tụng Chú Lăng Nghiêm nhiều, hay là người không biết tụng Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Người nghe được tên Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Hay là người không nghe được tên Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Cho nên các vị đừng xem mình là người rất bình thường, bạn đã nghe được Phật pháp, đây đều là trong vô lượng kiếp về trước đã từng gieo trồng căn lành, đắc được diệu pháp thâm sâu vô thượng, các vị đừng để pháp môn nầy trôi qua.
Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy còn gọi là Kinh Pháp Giới, cũng gọi là Kinh Hư Không, tận hư không khắp pháp giới, chẳng có một nơi nào mà chẳng có Kinh Hoa Nghiêm ở đó. Chỗ ở của Kinh Hoa Nghiêm tức cũng là chỗ ở của Phật, cũng là chỗ ở của Pháp, cũng là chỗ ở của Hiền Thánh Tăng. Cho nên khi Phật vừa mới thành chánh giác, thì nói bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, để giáo hoá tất cả pháp thân Ðại Sĩ . Vì bộ Kinh nầy là Kinh vi diệu không thể nghĩ bàn, do đó bộ Kinh nầy được bảo tồn ở dưới Long cung, do Long Vương bảo hộ giữ gìn. Về sau do Ngài Bồ Tát Long Thọ, xuống dưới Long cung đọc thuộc lòng và ghi nhớ bộ Kinh nầy, sau đó lưu truyền trên thế gian.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử ở chỗ Dạ Thần Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sinh, nghe môn giải thoát Phổ hỉ tràng, tin hiểu hướng vào, biết rõ tuỳ thuận, suy gẫm tu tập. Nhớ hết những lời dạy của thiện tri thức, tâm không tạm xả, các căn chẳng tán, một lòng muốn gặp được thiện tri thức. Siêng cầu khắp mười phương không giải đãi. Muốn thường gần gũi sinh các công đức, đồng một căn lành với thiện tri thức. Đắc được hạnh phương tiện thiện xảo của thiện tri thức. Nương thiện tri thức vào biển tinh tấn, trong vô lượng kiếp thường chẳng xa lìa. Nguyện như vậy rồi, bèn đi đến chỗ Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sinh Diệu Đức.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử một lòng muốn đi đến chỗ Ma Gia phu nhân, tức thời đắc được trí huệ quán cảnh giới Phật.Bèn nghĩ như vầy: Thiện tri thức nầy xa lìa thế gian. Trụ nơi không chỗ trụ, vượt qua sáu xứ. Lìa tất cả chấp trước. Biết đạo vô ngại, đủ tịnh pháp thân. Dùng nghiệp như huyễn mà hiện hoá thân. Dùng trí như huyễn mà quán thế gian. Dùng nguyện như huyễn mà giữ thân Phật. Thân tuỳ ý sinh, thân không sinh diệt, thân không đến đi, thân chẳng hư thật, thân chẳng biến hoại, thân không khởi tận, thân hết thảy tướng đều một tướng, thân lìa hai bên, thân không y xứ, thân vô cùng tận, ...
Tôi tin rằng bộ Kinh nầy được giảng lần đầu tiên tại nước Mỹ, các vị cũng là những người đầu tiên được nghe. Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, là vua trong các Kinh Phật, cũng là vua trong vua. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa cũng là vua trong các Kinh, nhưng không thể gọi là vua trong vua. Bộ Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật nầy, là vua trong vua, là bộ Kinh dài nhất trong Kinh điển đại thừa mà đức Phật nói, nhưng thời gian nói không dài quá, chỉ trong hai mươi mốt ngày, thì đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói xong bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ở trong năm tầng nghĩa lý huyền diệu, thì huyền nghĩa thứ nhất là giải thích tên Kinh. Bộ Kinh nầy dùng Diệu Pháp Liên Hoa làm tên. Diệu Pháp là pháp, Liên Hoa là ví dụ, vì Phật Pháp vi diệu thâm sâu, một số người không dễ gì hiểu nổi, cho nên dùng liên hoa (hoa sen) để ví dụ, do đó bộ Kinh nầy lấy pháp và dụ làm tên. Cứu kính thì diệu pháp là gì ? diệu đến cỡ nào ? tốt đến cỡ nào ? Nay tôi nói cho bạn biết, sự diệu nầy không thể dùng tâm suy nghĩ, không thể dùng lời bàn luận, không thể dùng tâm để dò, nghĩ cũng nghĩ không hiểu nổi; nghĩ muốn hiểu biết thì nói không đến được sự diệu của nó.
Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất hớn hở vui mừng, bèn đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, mà bạch Phật rằng : Hôm nay nghe đức Thế Tôn nói pháp nầy, tâm con rất hớn hở được chưa từng có. Tại sao ? Vì xưa kia con theo Phật nghe pháp như vầy : Thấy các vị Bồ Tát được thọ ký sẽ thành Phật, mà chúng con chẳng được dự vào việc đó, rất tự cảm thương, mất đi vô lượng tri kiến của Như Lai. Ðức Thế Tôn ! Con thường một mình ở dưới gốc cây nơi rừng núi, hoặc ngồi hoặc đi kinh hành, bèn nghĩ thế nầy : Chúng con đồng vào pháp tánh, tại sao đức Như Lai dùng pháp tiểu thừa mà tế độ ? Ðó là lỗi của chúng con, chứ chẳng phải đức Thế Tôn vậy.
Quyển Ý Nghĩa Đời Người này rất thâm thuý, tuy cố H.T Tuyên Hoá thuyết giảng lời lẽ giản dị, mộc mạc, nhưng nghĩa lý rất cao thâm huyền diệu, đi vào tâm người. Nếu người tu học, đọc hết quyển sách này, y theo trong đó mà thực hành, thì sẽ giác ngộ được ít nhiều ngay trong đời này, không cần phải tìm cầu đâu xa vời. Đặc biệt cố Hoà Thượng nhấn mạnh về Sáu Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thành đó là : Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tư lợi, không nói dối. Sáu đại tông chỉ này cũng có thể nói là kim chỉ nam của người tu hành, dù xuất gia, hay tại gia, đều lợi lạc vô cùng, nhất là thời đại ngày nay.