Thông tin
Các bài mới
Tôi tự biết, mình là người con gái xấu, răng hô, mắt hí. Nhưng khi lớn lên trổ mã, tôi cũng biết rằng, mình có bộ ngực đẹp, đốm son trên núm, mông tròn, người cân đối. Ðúng là quý tướng, có chồng giàu sang, hưởng đời sung túc, như tôi đã đọc ở quyển sách tử vi, năm 12 tuổi. Vậy là tôi không quan tâm sự xấu của mình mà chỉ thấp thỏm chờ “Ðúng là quý tướng, có chồng giàu sang, hưởng đời sung túc”.
Trước khi đi vào nội dung tôi xin kể một câu chuyện: Có lần tôi nói chuyện với một bác theo đạo Công giáo. Bác ấy nói gia đình bác, các con bác mặc dù lấy vợ lấy chồng bên Lương nhưng tất cả cũng đều theo đạo Công giáo, các cháu nội cháu ngoại ngay từ nhỏ đã được bác ấy dẫn đến nhà thờ rửa tội và học đạo. Tôi có hỏi lại giả sử nếu như con gái bác mà yêu một anh bên Lương nhưng anh ấy không muốn học đạo và không theo đạo thì bác có đồng ý cho cưới con gái bác không?
Cách Việt Nam tới nửa vòng trái đất, có một cái tết rất xưa vẫn đang được gìn giữ vẹn nguyên bởi những cụ già trên dưới 80 tuổi, bất chấp những thăng trầm, đổi thay của đời sống. Tết Hà Nội xưa ngưng đọng nơi xứ người. Tròn 44 năm trước, đại gia đình chồng tôi từ phố cổ Hàng Đường, Hà Nội chuyển qua Canada định cư. Kể từ ấy, mãi mãi trong lòng ông bà, bố mẹ chồng tôi là ký ức về cái Tết Hà Nội của những năm 1960, 1970 trở về trước.
Thạch Lam có một truyện ngắn tên là “Sợi tóc”, kể về tình huống của nhân vật “tôi”. Bạn anh ta là Bân, một người “giàu có nhưng rất ngốc”. Một hôm Bân rủ “tôi” đi mua đồng hồ, sau đó vào một quán hát. Trong lúc Bân vào phòng với một cô gái, vì nghèo rớt mồng tơi, “tôi” nảy ra ý định lấy những tờ tiền trong ví của hắn. Ở chốn bát nháo ấy, với chiếc áo khoác để quên, chắc chắn không ai nghi ngờ cho “tôi” được. Nhưng vào một giây cuối cùng, “tôi” đã không làm cái việc đã ám ảnh mình suốt cả chuyến đi, là lấy những tờ tiền đầy mê hoặc kia. 
Năm 1985, tôi mới 5 tuổi, còn quá nhỏ để hiểu được ý nghĩa của từ “tự do”. Nhưng dù không hiểu, tôi vẫn cảm nhận được áp lực đang đè nặng trên vai cha mẹ và ánh mắt lo âu của ông bà trong những ngày trước khi gia đình quyết định rời bỏ quê hương. Quê tôi, một vùng đất yên bình, bỗng chốc trở thành nơi mà mọi giấc mơ đều bị bóp nghẹt. Người ta không sống, mà chỉ tồn tại. Cha mẹ tôi không muốn tôi lớn lên trong sự bó buộc ấy. Họ không tìm kiếm sự giàu sang, chỉ mong một cuộc đời mà tôi được nói, được làm, được thở tự do. 
Tuổi già, buổi sáng thức dậy, nghe gân cốt đau rêm mà mừng, vì biết mình còn sống. Đại ý viết như vậy, trong một cuốn sách Mỹ mà ông Tư đọc được, làm ông thấm thía cái hạnh phúc lâng lâng của từng sớm mai khi vừa tỉnh giấc. Bạn bè cùng trang lứa với ông, nhiều người đã về với Diêm Vương khi còn trẻ măng, vì cuộc tương tàn khốc liệt dài ngày trên quê hương. Nhiều người khác gục ngã trong trại tù vì đói khát, bệnh tật, mồ hoang vùi cạn. Một số khác nữa, vì khao khát tự do mà chôn thân dưới đáy biển, hoặc chết khô giữa rừng sâu. 
Không ai thích ‘nghèo’, vì ‘nghèo’ đồng nghĩa với mất đi tự do. Nhưng so với cái ‘nghèo đói’ mà nhiều người hiểu, thì cái chúng ta nên cảnh giác hơn chính là ‘nghèo trong tâm hồn’. Suy cho cùng, nghèo vật chất có thể thông qua nỗ lực mà cải thiện, nhưng ‘nghèo về tâm hồn’ thì cần nỗ lực hơn rất nhiều mới có thể phất lên được. Người nghèo trong tâm, họ không thua kém người khác về mặt vật chất, nhưng lại thua kém về “tầm nhìn và thói quen”. Những người này thường có những biểu hiện như sau:
Pháp âm
Pháp thoại
TÌM KIẾM
- Vì sao thế giới sẽ có ngày bị hủy diệt? Vì người ta có tâm niệm thiện thì ít, mà tâm niệm ác thì nhiều. Sinh một ý niệm tốt thì trời đất sinh thêm chính khí. Khởi một niệm ác thì trời đất tăng thêm độc khí. Mình phải biến khí xấu thành khí tốt lành.
- Tu hành thì nơi nào mình cũng phải có đạo đức. Lấy sự không ngăn ngại đạo đức là căn bản của việc trì giới.
- Những ai đối với mình không có thái độ từ bi, hoặc không nói chuyện đàng hoàng, đều là thiện tri thức của mình. Nếu bạn có gặp điều nghịch ý mà vẫn nhẫn chịu, tức là gặp chuyện trái ý khó chịu vô cùng mà bạn vẫn có thể an nhiên xử lý thì mới thấy được công phu nhẫn nhục của bạn. Ðừng nên vì một lời nói mà tâm mình liền bị dao động. Nếu bạn tu tới chỗ chẳng bị dao động, rằng có thể nhẫn nại điều người khác khó nhẫn nại, thì đó mới chính thật là công phu chân chính. Nếu chẳng được như vậy, bạn phải làm lại từ đầu.
- Người tu đạo thì giống như nước, lúc nào cũng có lòng khiêm tốn hạ mình, chẳng tranh công, chẳng tham đức. Chuyện gì tốt thì nhường người khác, việc gì xấu thì mình nhận hết.
- Vì sao người ta sinh làm người? Bởi vì có ái (lòng yêu đương) nên mới đầu thai vào thế giới năm trược này. Nếu lòng yêu đương ấy mà giảm thiểu thì mình mới sinh tới nơi khác được, ví như cõi Cực Lạc, cõi Lưu Ly hay thế giới khác. Người xưa nói rằng: Ái không nặng, không sinh Ta Bà; Nghiệp chẳng hết, chẳng sinh Tịnh Ðộ.
- Tinh tấn là thân tinh tấn và tâm tinh tấn. Thân tinh tấn thì phải tụng kinh, lễ lạy, tọa thiền, trì chú, nghĩa là cần phải dùng thân thể để tu hành. Tâm tinh tấn thì trong mọi nơi mọi lúc, bạn phải siêng tu giới định huệ, ngừng bặt tham sân si. Ngày cũng tinh tấn mà đêm cũng tinh tấn, lúc nào cũng nhắm về phía trước mà tiến bước, chẳng hề lười biếng. Ðối với người tu, tinh tấn là yếu tố vô cùng quan trọng. Mình chẳng thể nào không tinh tấn, vì không tinh tấn thì chẳng thể thành Phật. Muốn thành Phật thì phải tinh tấn.
- Thân thể của mỗi người chúng ta là một địa ngục, chẳng qua mình không biết đó thôi.
- Quán Thế Âm Bồ Tát thì nhìn vào trong, còn mình thì nhìn ra ngoài. Quán Thế Âm Bồ Tát thì nhìn vào tự tánh; tự tánh của ngài và của mỗi chúng sinh thì như có nối giây điện: Chúng sinh nào khởi vọng tưởng gì, ngài đều biết cả.
- Người trì giới thì làm tự tánh thanh tịnh: Quét sạch mọi thứ đen đủi xấu xa trong tự tánh đi.
- Khi dụng công, mình đừng sợ khổ, sợ khó, sợ mệt mỏi, thì mới thành công đặng.
- Bà mẹ đẻ ra bom nguyên tử, bom khinh khí, tia laser là ai? Chính là tham sân si. Do vậy nếu mình diệt trừ tham sân si thì bom nguyên tử sẽ không nổ, bom khinh khí cũng chẳng bạo phát, mà tia laser cũng chẳng còn dùng được.
- Tu hành thì hàng ngày phải giữ trạng thái quân bằng như cái cân vậy. Làm thế nào để quân bằng? Tức là lúc nào cũng giữ thái độ điềm đạm, yên tĩnh, chẳng một chút gợn sóng xao động trong tự tánh. Ðây chính là phiền não tức bồ đề, sinh tử là Niết bàn.
- Người tu đạo thì càng tu càng giảm thiểu, giảm tới chỗ chẳng còn gì cả. Chớ nên theo thói người đời, cái gì cũng muốn cho nhiều.
- Muốn dứt sinh tử thì phải đem hai chữ sinh tử mà treo nơi lông mày. Mở mắt nhìn thì thấy vấn đề sinh tử, mà nhắm mắt nhìn cũng thấy vấn đề sinh tử. Lúc nào nơi nào cũng dụng công tu hành thì mới cắt đứt được sinh tử.
- Việc đầu tiên người học Phật phải làm là trừ bỏ tánh nóng giận. Tánh nóng giận không ngừng thì học bao nhiêu Phật pháp cũng chỉ là trồng nhân A Tu La, sau này quả báo là làm A Tu La.
- Kẻ tu hành chẳng nên khi thấy kẻ khác thì làm ra vẻ trơ trơ chẳng thèm chú ý tới họ. Làm vậy là thiếu lễ độ. Người xuất gia và tại gia đều phải lịch sự trong cách đối xử. Thiếu lễ mạo tức là chẳng có văn hoá. Mình phải văn chất bân bân (khí chất nho nhã, ôn hòa, lịch sự), chẳng nên thô lỗ, man dã.
- Nếu bạn chẳng khởi vọng tưởng dù chỉ trong một thoáng chốc, khiến tâm thanh tịnh thì trãi qua một thời gian lâu, tâm của bạn sẽ trở nên trạm nhiên, thường yên lặng.
- Ðạo đức thì cũng như mặt trời mặt trăng, hay trời đất vậy. Nó cũng là tánh mạng của một người. Không đức thì người ấy cũng giống như chẳng có tánh mạng, chẳng có nhật nguyệt thiên địa vậy.
- Tham thiền hay niệm Phật đều tốt cả. Chỉ cần mình chân thật tu hành thì có thể vượt qua được cửa sinh tử. Ðến khi lâm chung sẽ chẳng có thống khổ, lòng không tham luyến, như nhập thiền định, tươi cười mà vãng sinh.
- Người tu đạo cần phải làm việc vô sự: Nghĩa là tích công lũy đức nhưng chẳng được chấp trước vào nó.
- Lúc các bạn quy y Tam Bảo, tức là quy y Phật, Pháp và Tăng, nhưng phải quy y thêm giới. Sau khi quy y rồi, bạn phải tin sâu vào Tam Bảo. Trong phạm vi giáo lý của Phật bạn phải làm những việc cho có ý nghĩa. Không nên vì lòng tham lam mà tin tưởng vào Phật pháp.
- Khi học Phật pháp, việc chủ yếu là phải có con mắt thấy được chân lý (trạch pháp nhãn). Nếu bạn cứ tin chuyện này, tin chuyện kia, (mà không quan sát để thấy chân tướng việc ấy) thì kết quả là bạn sẽ không làm thành chuyện gì cả.
- Thanh tịnh tức là không tham tiền, cũng chẳng cần sắc.
- Khi có ai dạy thứ pháp làm phát tài thì bạn hãy quan sát xem y đã phát tài chưa? Nếu y có tiền, hẳn là do bạn cho y vì bạn muốn học pháp phát tài. Cũng như mua stock, bạn phải mua bao nhiêu cổ phần thì mới hy vọng có lời. Bạn phải trả tiền, cúng dường cho anh kia trước, có thể là một ngàn, mười ngàn, trăm ngàn, khiến anh ta do vậy mà có đầy tiền. Rồi y nói nào là phóng hào quang màu đỏ, màu vàng, màu đen, màu tím...? Ðó toàn là chuyện lừa bịp. Chính bởi vì tôi không biết làm sao truyền pháp phát tài nên tôi phải nói toạc ra cái bí mật của pháp này.
- Thiên tai không có nghĩa là tai ương của trời vì trời không có tai ương mà chính là loài người chúng ta chịu tai ương. Nhân họa là việc mình tự làm tự thọ.
- Khi tu hành không nên đi tìm đạo ở Nam Sơn, Bắc Hải hoặc ở Tây Thiên, ở Ðông Ðộ. Ðạo thì ở ngay nơi thân mình, do vậy chẳng nên hướng ngoại tìm cầu. Song le con người thì lúc nào cũng thích tìm kiếm nơi chốn xa xăm, cao siêu.
- Tánh tình người ta thì ích kỷ lắm. Biết rằng chuyện này không đúng, nhưng có lợi cho mình thì cứ cắm đầu mà làm. Do đó:
- Khuyến quân vi thiện, viết vô tiền: hữu dã vô.
Họa đáo lâm đầu, dụng vạn thiên: vô dã hữu.
Nhược yếu dữ quân đàm thiện sự: khứ dã mang.
Nhất triều mệnh tận, tán hoàng tuyền: mang dã khứ.
Nghĩa là:
- Khuyên ngài làm lành, (ngài nói rằng:) chẳng có tiền: có tiền cũng nói không.
Họa rớt xuống đầu, dùng trăm ngàn: không tiền cũng phải có.
Nếu muốn cùng ngài bàn việc lành: đi cũng mắc bận.
Ngày kia mạng hết xuống hoàng tuyền: bận rộn cũng phải đi.
- Người học Phật nên trước tiên học chịu bị thua thiệt, không tham chiếm tiện nghi. Chuyện gì cũng phải biết buông xả. Có buông bỏ mới có chứng đắc.
- Mọi pháp đều là Phật pháp, đều không thể nắm bắt. Nhưng ta cũng có thể nói rằng mọi pháp đều chẳng phải là Phật pháp. Nói tóm: Khi học Phật, ta cần buông xả tất cả mọi chấp trước. Quét sạch hết mọi pháp, rời bỏ mọi hình tướng. Cái gì có hình tướng, đều là hư vọng, chẳng thể nắm bắt. Nếu thấy mọi sắc tướng là không có tướng, thì tức là thấy đặng Như Lai.
- Ðiều tối kỵ của người học Phật là có chấp trước. Khi chưa học Phật thì chẳng có mấy chấp trước; sau khi học Phật rồi lại có nhiều chấp trước hơn! Thật ra vạn sự vạn vật lúc nào cũng diễn bày chân lý. Nếu bạn giác ngộ thì tự nhiên quán thông mọi sự. Nếu bạn chẳng giác ngộ thì càng chấp trước thì càng lún sâu, càng mê muội.
- Mỗi người tín đồ Phật giáo đều phải gánh trách nhiệm làm Phật giáo hưng thạnh.
- Nghiệp lực mạnh nhất trong thế giới là nghiệp sát sinh. Quả báo của nghiệp sát sinh thì nặng hơn các nghiệp khác. Chúng sinh cứ hỗ tương tàn sát lẫn nhau, hỗ tương báo thù nhau, thật là việc tối bi thảm trong thế giới này vậy.
- Người tu phải luyện công phu nhẫn nhục. Nhẫn lạnh, nhẫn nóng, nhẫn gió, nhẫn mưa, nhịn đói, nhịn khát, chịu chửi, chịu đánh. Mình nên học tinh thần của Bồ Tát Thường Bất Khinh: Bất luận ai đối với tôi không tốt, tôi cũng chẳng sinh lòng giận dữ, tôi chỉ đem tâm thành đối xử với họ, khiến họ tự nhiên cảm hóa, biến vũ khí thành lụa là.
- Vì sao cần tu hành? Vì ta ngu si, chỉ làm toàn chuyện điên đảo, chịu khổ trong luân hồi, không được tự tại.
- Mệnh vận của nhân sinh là do nghiệp lực chiêu cảm mà ra. Chúng ta không nên để bẩm chất, thói quen dắt dẫn mình, cũng đừng để dục vọng, vật chất làm mê mờ. Mình cần phải sáng tạo vận mệnh, lèo lái vận mạng. Muốn sửa đổi vận mạng thì phải làm cho nhiều việc công đức. Lúc ấy, khi bạn gặp nạn tự nhiên điều lành sẽ tới. Ðiều dữ sẽ biến thành điều kiết tường. Rằng: Hãy làm việc tốt, chớ hỏi sẽ được kết quả gì trong tương lai.
- Ai ai cũng biết nhẫn nhục thì đưa mình tới bờ giải thoát. Nhưng khi gặp phải cảnh giới (chuyện nghịch với lòng mình) thì không thể nhẫn nhịn nổi. Lửa vô minh cao ba thước chỉ trong thoáng chốc đốt sạch hết mọi công đức tích lũy trong bao năm tháng.
- Hễ quán sát mà được tự tại thì thành Bồ Tát. Quán sát mà không được tự tại thì là phàm phu.
- Phải đối xử tốt với mọi người: Dùng lòng từ bi hỉ xả mà đối đãi họ. Với ai mình cũng phải có lòng từ bi. Dù cho y là kẻ xấu xa nhất đi nữa, mình cũng phải tỏ lòng từ bi, để cảm hóa họ. Nếu lần này cảm hóa chẳng đặng thì chờ lần sau sẽ cảm hóa nữa. Ðời này chẳng thể cảm hóa thì mình phát nguyện đời sau nhất định mình sẽ cảm hóa được y, khiến y sửa ác, làm lành. trong Kinh Hoa Nghiêm, Bồ Tát vì muốn độ một chúng sinh mà đi theo kẻ ấy không biết mấy đại kiếp. Bất kể là gian nan khốn khổ, nghịch cảnh gì ngài cũng chẳng thối tâm, một lòng mong muốn cảm hóa kẻ kia mà thôi.
- Muốn thành Phật mình nhất định phải đoạn trừ dục vọng , cắt đứt ái tình, thanh tâm, ít dục thì mới khai đại trí huệ được.
- Tu hành là tu cái gì? Chính là tu cái tâm. Tâm phải ra sao? Phải chuyên nhất. Rằng: Ðược M"T, vạn sự đều xong. Phải chuyên nhất ý chí tu hành. Ý niệm chuyên nhất rồi thì trí huệ mới khai mở. Ý niệm không chuyên nhất thì tâm sẽ hướng ngoại truy đuổi.
- Người tu đạo cần phải đừng nổi nóng. Ai chẳng có tánh nóng nảy thì hợp nhất với đạo, hợp nhất với pháp. Khi bạn không nóng nảy thì lòng sân hận sẽ chẳng có; khi lòng sân hận chẳng có thì bạn chẳng còn ngu si nữa. Vì sao mình ngu si? Bởi vì lòng sân hận của mình quá lớn. Một khi nổi nóng thì chuyện gì cũng không sợ cả: chẳng sợ trời, chẳng sợ đất. Lúc ấy mình bài bác lý nhân quả, điên đảo chuyện trắng đen, làm việc gì cũng không hợp với giới luật, không hợp với pháp luật, không hợp với nhân tình đạo lý.
- Người học Phật chúng ta trước hết siêng năng tu giới định huệ, trừ diệt tham sân si. Ðây là việc mỗi người cá nhân mình phải thực hành, áp dụng nơi thể xác này, thật sự dụng công. Không phải rằng mình kêu kẻ khác siêng năng tu giới định huệ, trừ diệt tham sân si, mà là phải tự mình chân thật tu hành.
- Không nên có tâm cuồng vọng, dã tâm, ngu si vọng tưởng nhiều như vậy. Cứ suy nghĩ loạn xạ là việc chẳng giúp ích gì trong chuyện tu hành.
- Muốn hiểu thấu cái mê muội của chính mình thì phải biết phản văn, văn tự tánh - xoay cái nghe lại để lắng nghe tự tánh.
- Tu thì phải biết từ tâm hạ khí. Từ tâm nghĩa là đối với ai mình cũng hiền từ, từ bi. Hạ khí nghĩa là không có cống cao ngã mạn, không có chấp trước vào bốn tướng. Phá trừ hết tất cả chấp trước đó thì mới tu Bồ Tát đạo được.
- Bạn hãy đọc kinh Không Nổi Nóng, đọc kinh Không Chửi Bới, đọc kinh Không Sân Giận. Ðọc được ba bộ kinh này rồi thì rất mau sẽ thành Phật.
- Người chân chính tu đạo thì: Cử động hành vi tự kiểm thúc, đi đứng nằm ngồi chẳng rời nhà. Ðừng nên làm cái gương, chỉ chuyên môn phản chiếu ảnh người ta (hiện lên trên gương) nhưng không tự phản chiếu chính mình.
- Người tu tập thiền định thì nơi nào lúc nào cũng phải tu tập thiền định. Nghĩa là cần phải thu nhiếp thân tâm, không buông lung, không tán loạn.
- Người xuất gia là gương tốt cho kẻ tại gia. Nếu bạn không làm gương tốt thì người tại gia sẽ không tin tưởng. Lúc ấy sức ảnh hưởng của bạn sẽ chẳng còn. Do đó người xuất gia cần phải làm gương tốt cho người tại gia.
- Người tu chúng ta nên ăn đồ đạm bạc, chẳng có mùi vị gì cả. Vậy thì mới phá được chấp trước, trừ được tật xấu của mình.
- Nếu mình không hao tán tinh khí thần thì có hay không có ăn uống không thành vấn đề nữa. Chính bởi vì mình ngày ngày cứ xoay chuyển trong cảnh giới hữu lậu nên mới cần phải ăn uống.
nh điển hình
Kinh sách mới
Chú Lăng Nghiêm là Chú quan trọng nhất, hơn hết thảy trong các Chú. Bao gồm hết thảy thể chất và diệu dụng của Phật Pháp. Chú này chia làm năm bộ : Kim Cang bộ, Bảo Sinh bộ, Liên Hoa bộ, Phật bộ và Nghiệp bộ. Năm bộ Kinh này thuộc về năm phương : 1. Kim Cang bộ : Thuộc về phương Ðông, Ðức Phật A Súc là chủ. 2. Bảo Sinh bộ : Thuộc về phương Nam, Đức Phật Bảo Sinh là chủ. 3. Phật bộ : Thuộc về chính giữa, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là chủ. 4. Liên Hoa bộ : Thuộc về phương Tây, Đức Phật A Di Ðà là chủ. 5. Nghiệp bộ : Thuộc về phương Bắc, Đức Phật Thành Tựu là chủ.
Nếu người không có căn lành, thì đừng nói đến tụng niệm, dù ba chữ « Chú Lăng Nghiêm » cũng không nghe được, cũng không có cơ hội nghe được. Các vị bây giờ dùng máy vi tính tính thử xem, dùng thần não của bạn tính thử xem, hiện tại trên thế giới nầy, người tụng Chú Lăng Nghiêm nhiều, hay là người không biết tụng Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Người nghe được tên Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Hay là người không nghe được tên Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Cho nên các vị đừng xem mình là người rất bình thường, bạn đã nghe được Phật pháp, đây đều là trong vô lượng kiếp về trước đã từng gieo trồng căn lành, đắc được diệu pháp thâm sâu vô thượng, các vị đừng để pháp môn nầy trôi qua.
Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy còn gọi là Kinh Pháp Giới, cũng gọi là Kinh Hư Không, tận hư không khắp pháp giới, chẳng có một nơi nào mà chẳng có Kinh Hoa Nghiêm ở đó. Chỗ ở của Kinh Hoa Nghiêm tức cũng là chỗ ở của Phật, cũng là chỗ ở của Pháp, cũng là chỗ ở của Hiền Thánh Tăng. Cho nên khi Phật vừa mới thành chánh giác, thì nói bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, để giáo hoá tất cả pháp thân Ðại Sĩ . Vì bộ Kinh nầy là Kinh vi diệu không thể nghĩ bàn, do đó bộ Kinh nầy được bảo tồn ở dưới Long cung, do Long Vương bảo hộ giữ gìn. Về sau do Ngài Bồ Tát Long Thọ, xuống dưới Long cung đọc thuộc lòng và ghi nhớ bộ Kinh nầy, sau đó lưu truyền trên thế gian.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử ở chỗ Dạ Thần Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sinh, nghe môn giải thoát Phổ hỉ tràng, tin hiểu hướng vào, biết rõ tuỳ thuận, suy gẫm tu tập. Nhớ hết những lời dạy của thiện tri thức, tâm không tạm xả, các căn chẳng tán, một lòng muốn gặp được thiện tri thức. Siêng cầu khắp mười phương không giải đãi. Muốn thường gần gũi sinh các công đức, đồng một căn lành với thiện tri thức. Đắc được hạnh phương tiện thiện xảo của thiện tri thức. Nương thiện tri thức vào biển tinh tấn, trong vô lượng kiếp thường chẳng xa lìa. Nguyện như vậy rồi, bèn đi đến chỗ Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sinh Diệu Đức.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử một lòng muốn đi đến chỗ Ma Gia phu nhân, tức thời đắc được trí huệ quán cảnh giới Phật.Bèn nghĩ như vầy: Thiện tri thức nầy xa lìa thế gian. Trụ nơi không chỗ trụ, vượt qua sáu xứ. Lìa tất cả chấp trước. Biết đạo vô ngại, đủ tịnh pháp thân. Dùng nghiệp như huyễn mà hiện hoá thân. Dùng trí như huyễn mà quán thế gian. Dùng nguyện như huyễn mà giữ thân Phật. Thân tuỳ ý sinh, thân không sinh diệt, thân không đến đi, thân chẳng hư thật, thân chẳng biến hoại, thân không khởi tận, thân hết thảy tướng đều một tướng, thân lìa hai bên, thân không y xứ, thân vô cùng tận, ...
Tôi tin rằng bộ Kinh nầy được giảng lần đầu tiên tại nước Mỹ, các vị cũng là những người đầu tiên được nghe. Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, là vua trong các Kinh Phật, cũng là vua trong vua. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa cũng là vua trong các Kinh, nhưng không thể gọi là vua trong vua. Bộ Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật nầy, là vua trong vua, là bộ Kinh dài nhất trong Kinh điển đại thừa mà đức Phật nói, nhưng thời gian nói không dài quá, chỉ trong hai mươi mốt ngày, thì đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói xong bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ở trong năm tầng nghĩa lý huyền diệu, thì huyền nghĩa thứ nhất là giải thích tên Kinh. Bộ Kinh nầy dùng Diệu Pháp Liên Hoa làm tên. Diệu Pháp là pháp, Liên Hoa là ví dụ, vì Phật Pháp vi diệu thâm sâu, một số người không dễ gì hiểu nổi, cho nên dùng liên hoa (hoa sen) để ví dụ, do đó bộ Kinh nầy lấy pháp và dụ làm tên. Cứu kính thì diệu pháp là gì ? diệu đến cỡ nào ? tốt đến cỡ nào ? Nay tôi nói cho bạn biết, sự diệu nầy không thể dùng tâm suy nghĩ, không thể dùng lời bàn luận, không thể dùng tâm để dò, nghĩ cũng nghĩ không hiểu nổi; nghĩ muốn hiểu biết thì nói không đến được sự diệu của nó.
Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất hớn hở vui mừng, bèn đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, mà bạch Phật rằng : Hôm nay nghe đức Thế Tôn nói pháp nầy, tâm con rất hớn hở được chưa từng có. Tại sao ? Vì xưa kia con theo Phật nghe pháp như vầy : Thấy các vị Bồ Tát được thọ ký sẽ thành Phật, mà chúng con chẳng được dự vào việc đó, rất tự cảm thương, mất đi vô lượng tri kiến của Như Lai. Ðức Thế Tôn ! Con thường một mình ở dưới gốc cây nơi rừng núi, hoặc ngồi hoặc đi kinh hành, bèn nghĩ thế nầy : Chúng con đồng vào pháp tánh, tại sao đức Như Lai dùng pháp tiểu thừa mà tế độ ? Ðó là lỗi của chúng con, chứ chẳng phải đức Thế Tôn vậy.
Quyển Ý Nghĩa Đời Người này rất thâm thuý, tuy cố H.T Tuyên Hoá thuyết giảng lời lẽ giản dị, mộc mạc, nhưng nghĩa lý rất cao thâm huyền diệu, đi vào tâm người. Nếu người tu học, đọc hết quyển sách này, y theo trong đó mà thực hành, thì sẽ giác ngộ được ít nhiều ngay trong đời này, không cần phải tìm cầu đâu xa vời. Đặc biệt cố Hoà Thượng nhấn mạnh về Sáu Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thành đó là : Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tư lợi, không nói dối. Sáu đại tông chỉ này cũng có thể nói là kim chỉ nam của người tu hành, dù xuất gia, hay tại gia, đều lợi lạc vô cùng, nhất là thời đại ngày nay.