|
|
|
|
|
|
|
Người miền Nam có câu nói ám chỉ một sự việc xa vời, vô định, vô vọng và chìm sâu vào tuyệt vọng: “Mút chỉ cà tha”. Những tưởng học tập cải tạo 10 ngày để rồi trở về với cuộc sống bình thường hàng ngày, ai ngờ đã qua 10 ngày mà vẫn thấy chưa học tập được một chữ nào! Thế cho nên chúng tôi bảo nhau: “Kiểu này học tập... mút chỉ cà tha!” Sau này tình cờ đọc Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư (một nhà văn nữ ở miền cực Nam đất nước) tôi mới biết Mút Cà Tha là một địa danh có thật, ở tận miệt Cà Mau, nơi có những tên đượm sắc Nam bộ như Đầm Chim, Đầm Dơi, Chắc Băng, Cạnh Đền, Gành Hào, Năm Căn, U Minh, Trèm Trẹm và… Mút Cà Tha!
Sống ở Hà Nội phải công nhận khổ thiệt. Mặc dù tôi chỉ là một du khách thôi nhưng tôi nghĩ tôi có thể thấu hiểu được những nỗi khổ của người dân đất Thủ Đô này. Đừng hiểu sai cho tôi nhé, Hà Nội là một thành phố thật xinh đẹp. Những nỗi khổ của nó được tạo ra bởi con người. Hay đúng hơn là một nhóm người. Sống ở Hà Nội có quá nhiều điều làm bạn mệt mỏi. Sau đây là những điều đó: 1. Giá nhà vô cùng đắt. Không hiểu sao giá nhà ở Hà Nội lại cao đến như vậy? Chắc là đất thủ đô nên nó đắt? Trong khi lương ở Hà Nội còn thấp hơn lương ở Sài Gòn. Tính trung bình, một người Hà Nội, nếu không ăn hối lộ, phải đi làm 50 năm mới có thể mua được một căn nhà.
Hôm qua vào viện thăm bố người bạn đang điều trị trong bệnh viện. Nằm giường kế bên là một ông cụ nhà quê khoảng 80 tuổi đang điều trị mổ khối u ở mắt, nhìn qua đã thấy gia cảnh nhà cụ quá nghèo. Tủ đầu giường của bố người bạn cơ man là hoa quả sữa ngon, còn bên đầu giường cụ già kia thì không có gì ngoài một cái ca nhựa xỉn màu và một cái thìa cũng đen xỉn. Hỏi thăm bố thằng bạn xong tôi quay sang hỏi về gia cảnh cụ, cụ nói: - Tôi ở quê hoàn cảnh lắm chú ơi! Nhà có mỗi thằng con trai mới lấy vợ sinh được đứa con mới 6 tháng tuổi. Nó đi xe ôm bị tai nạn giờ ở nhà không làm được gì. Vợ nó đi bán rau rong lo cho cả nhà , nay tôi lại bị bệnh phải mổ. Có cái xe cà tàng bán nộp viện phí rồi chưa đủ!
Người đời thường hay hỏi: "Làm sao để có phước báu?" Nhưng ít ai chịu hỏi lại mình: "Mình đã gieo gì cho đời?" Phước báu không nằm ở miệng lưỡi cầu xin, cũng không phải chỉ đến từ vài lần đi chùa, bỏ ít tiền vào hòm công đức. Phước báu là thứ không thể vay mượn, không thể mua chuộc, không thể giả tạo. Nó được tích lũy từng chút, từng chút một, từ chính tâm – lời – và hạnh của mỗi người trong đời sống thường ngày. Phước báu sinh từ đâu?
Ngày xưa, trong một làng quê nghèo, có một người phụ nữ tên là Khema. Chị nổi tiếng xinh đẹp, nhưng cũng là người luôn thấy bất mãn với cuộc đời mình. Dù đã có chồng hiền, con ngoan, chị vẫn thường nói: – Cuộc đời này bất công. Kẻ có nhiều của cải thì khinh người. Người như mình, sống tử tế thì lại thiếu thốn. Một ngày, chị nghe tin Đức Phật sẽ thuyết pháp gần vùng mình. Ban đầu chị không muốn đi, nhưng vì tò mò, chị cũng thử tới.
Phật nói bài kệ này bởi câu chuyện sau. Có một gia chủ sinh được hai người con trai, người con cả đã xuất gia theo Phật, còn người con thứ vẫn ở lại với ông. Trước khi mất, ông đã để lại gia tài cho người con thứ, còn người con cả chỉ được 100 đồng tiền vì đã sống đời sa môn, không còn ở với gia đình. Sau khi chôn cất cha xong, người em đã tìm đến vị tỳ kheo anh mình và thuật lại lời cha đã để lại. Nghe vậy, tỳ kheo đó đã lập tức chạy đến xin trả y bát cho thầy tổ để hoàn tục. Vị thầy hỏi lý do, ông chỉ ậm ờ nói qua loa rằng mình muốn sống đời cư sĩ, nên vị thầy đành đưa ông đến gặp Đức Phật. Khi Phật hỏi tại sao lại hoàn tục, ông mới nói thật rằng vì đã được cha để lại gia tài 100 đồng tiền vàng.
Thiếu phước làm cho cuộc đời ta rất khổ sở, mà khổ sở cũng có nghĩa là nội tâm bất an, động loạn không yên. Ví dụ, có những điều ta không muốn suy nghĩ mà tự trong tâm ta dòng suy nghĩ cứ cuồn cuộn tuôn trào. Đây như một dạng của bệnh tâm thần nhưng cũng là do thiếu phước. Mỗi khi ngồi thiền mà thấy tâm mình chập chùng vọng tưởng không liên quan gì đến cuộc đời mình, ta phải hiểu rằng mình đang thiếu phước. Ta cứ cần mẫn tạo phước rồi nội tâm sẽ yên lắng hơn. Người thiếu phước rất hay nghĩ bậy và rất khó có được những suy nghĩ chân chính.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
- Niềm vui ở trên đời thì ngắn ngủi, khoái lạc cứu cánh thì mới vĩnh cửu: Vì thế nên ta phải tu đạo.
- Học Phật thì cần phải học lòng từ bi, đạo đức, biết tha thứ cho kẻ khác. Chẳng nên sinh lòng so sánh, hơn thua, chẳng nên cùng người tranh chấp cải vã.
- Lòng cung kính sẽ biến tánh cang cường, ngang ngạnh thành tánh ôn hòa, nhũn nhặn. Lạy Phật là lạy Phật trong tự tánh. Thành Phật cũng là thành Phật của tự tánh.
- Người xưa nói: Bậc quân tử có năng lực cải tạo vận mạng. Người có đạo đức, bậc chính nhân quân tử thì có thể sửa đổi cuộc đời của họ, nhảy ra khỏi vòng số mạng. Vì sao có chuyện bất hạnh, chẳng lành? Là vì trong tâm mình có ý nghĩ xấu ác, chẳng lành. Một khi đã gieo xuống hạt giống xấu ác, thì đương nhiên sẽ gặt quả báo xấu ác. Nếu mình biết sửa lỗi, làm lành thì sẽ gặp chuyện tốt, tránh hẳn việc xấu.
- Vì sao người ta gặp phải ma nghiệp? Bởi vì khi xưa họ không chịu nghe lời dạy bảo của bậc thiện tri thức, không chịu tiếp thu lời dạy dỗ của bậc thiện tri thức. Họ cứ mặc sức dấy khởi vọng tưởng, tạo đủ ác nghiệp. Do vậy giờ đây họ thường thọ ma nghiệp quấy rối triền nhiễu. Chuyện gì làm ra cũng không được toại tâm mãn nguyện.
- Tôi muốn xin bạn một cái duyên lớn: Hãy bố thí cho tôi lòng nóng giận, cũng như lòng vô minh mê muội, phiền não, bực dọc của các bạn.
- Vạn Phật Thành là thành phố đại bi, là thành Lăng Nghiêm, là thành có Vạn Phật, là thành kiên cố, là thành Thủ Nhãn, là thành mà chánh pháp cửu trụ, là thành phố châu báu. Nó cũng là thành phố của kẻ muốn tu hành, cầu phước cầu huệ, là nơi mà mười phương chư Phật tới tụ hội.
- Khi dụng công tu hành, nếu mệt mỏi tới đâu mình cũng chịu đựng, nhẫn nại được hết thì đó là một thứ thành tâm.
- Khi tu hành, mình không nên lãng phí tiền tài của thí chủ, phải tận lực tiết kiệm. Nếu mình lãng phí vật chất, tham lam hưởng thụ thì mình vĩnh viễn chẳng bao giờ thành tựu. Bởi vì mình chẳng chịu tu phước tu huệ.
- Thế nào là trí? Là không ích kỷ. Thế nào là vọng tưởng? Chính là lòng ích kỷ. Hễ ích kỷ thì vọng tưởng sẽ dấy khởi.
- Bản thân mình trong tận hư không biến pháp giới là cái thứ gì? Nó vốn chẳng có xưa có nay, chẳng có trên có dưới, chẳng có mình, chẳng có người, chẳng có chúng sinh, chẳng có thọ giả. Con người ta vốn từ trong tạng đại quang minh biến hiện mà ra.
- Muốn Phật giáo rạng rỡ, mình phải cần nhìn xa nhìn rộng. Phải làm sao truyền bá phật giáo tới mỗi quốc gia, tới mỗi thôn xóm, thậm chí tới cả mỗi hạt bụi. Ở nơi ấy mình chuyển đại pháp luân, giáo hóa chúng sinh, khiến cho mỗi chúng sinh ai nấy đều được rời khổ, vui sướng, thoát vòng sinh tử.
- Tu hành là tu cái gì? Là tu sao cho hết vọng tưởng. Hết dục vọng. Ðó chính là công phu đấy.
- Vì sao con người có âu lo, buồn bã hay sợ hãi? Là vì người ta còn có ái dục. Khi ái dục đoạn dứt thì chẳng còn âu lo buồn bã, sợ hãi nữa.
- Trai gái yêu nhau, ráo ráo có ý nghĩa gì? Tướng mạo dù có đẹp bao nhiêu cũng chỉ là da bọc đồ thối: Trong ấy nào là phân, nước tiểu... Chín lỗ trong thân thường lưu những thứ bất tịnh: Mắt thì có ghèn, tai thì có ráy tai, mũi thì có dãi mũi, miệng thì có nước miếng, thêm đại tiểu. Bạn nghĩ rằng cứu cánh thân này có sạch sẽ chăng?
- Nếu như bạn chẳng tu hành thì dù đức Thích Ca Mâu Ni Phật có làm Sư phụ của bạn thì cũng chẳng có ích lợi gì.
- Khi mình niệm danh hiệu đức Quán Âm Bồ Tát, chớ nên thấy ai mình cũng nhìn lỗi lầm của họ. Nếu mình cứ chuyên môn tìm chuyện xấu của người thì cái khổ của mình chưa trừ hết. Gốc khổ chưa dứt tận.
- Lòng ham tiền làm người ta điên đảo. Lòng háo sắc cũng làm người điên đảo. Tham danh cũng làm họ điêu đứng. Tham ăn càng làm người ta đảo điên. Mà tham ngủ nghỉ hưởng thụ cũng làm người ta quay cuồng. Tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ hưởng thụ là năm cái gốc của địa ngục. Song le chúng ta ai ai cũng chôn cái gốc ấy sâu trong lòng. Gốc lành thì mình chẳng trồng nó cho sâu trong khi lại trồng thật sâu năm thứ dục vọng. A! Nghĩ rằng nó chưa đủ sâu, mình cứ tiếp tục chôn nó sâu thêm!
- Vì sao thế giới sẽ có ngày bị hủy diệt? Vì người ta có tâm niệm thiện thì ít, mà tâm niệm ác thì nhiều. Sinh một ý niệm tốt thì trời đất sinh thêm chính khí. Khởi một niệm ác thì trời đất tăng thêm độc khí. Mình phải biến khí xấu thành khí tốt lành.
- Tu hành thì nơi nào mình cũng phải có đạo đức. Lấy sự không ngăn ngại đạo đức là căn bản của việc trì giới.
- Những ai đối với mình không có thái độ từ bi, hoặc không nói chuyện đàng hoàng, đều là thiện tri thức của mình. Nếu bạn có gặp điều nghịch ý mà vẫn nhẫn chịu, tức là gặp chuyện trái ý khó chịu vô cùng mà bạn vẫn có thể an nhiên xử lý thì mới thấy được công phu nhẫn nhục của bạn. Ðừng nên vì một lời nói mà tâm mình liền bị dao động. Nếu bạn tu tới chỗ chẳng bị dao động, rằng có thể nhẫn nại điều người khác khó nhẫn nại, thì đó mới chính thật là công phu chân chính. Nếu chẳng được như vậy, bạn phải làm lại từ đầu.
- Người tu đạo thì giống như nước, lúc nào cũng có lòng khiêm tốn hạ mình, chẳng tranh công, chẳng tham đức. Chuyện gì tốt thì nhường người khác, việc gì xấu thì mình nhận hết.
- Vì sao người ta sinh làm người? Bởi vì có ái (lòng yêu đương) nên mới đầu thai vào thế giới năm trược này. Nếu lòng yêu đương ấy mà giảm thiểu thì mình mới sinh tới nơi khác được, ví như cõi Cực Lạc, cõi Lưu Ly hay thế giới khác. Người xưa nói rằng: Ái không nặng, không sinh Ta Bà; Nghiệp chẳng hết, chẳng sinh Tịnh Ðộ.
- Tinh tấn là thân tinh tấn và tâm tinh tấn. Thân tinh tấn thì phải tụng kinh, lễ lạy, tọa thiền, trì chú, nghĩa là cần phải dùng thân thể để tu hành. Tâm tinh tấn thì trong mọi nơi mọi lúc, bạn phải siêng tu giới định huệ, ngừng bặt tham sân si. Ngày cũng tinh tấn mà đêm cũng tinh tấn, lúc nào cũng nhắm về phía trước mà tiến bước, chẳng hề lười biếng. Ðối với người tu, tinh tấn là yếu tố vô cùng quan trọng. Mình chẳng thể nào không tinh tấn, vì không tinh tấn thì chẳng thể thành Phật. Muốn thành Phật thì phải tinh tấn.
- Thân thể của mỗi người chúng ta là một địa ngục, chẳng qua mình không biết đó thôi.
- Quán Thế Âm Bồ Tát thì nhìn vào trong, còn mình thì nhìn ra ngoài. Quán Thế Âm Bồ Tát thì nhìn vào tự tánh; tự tánh của ngài và của mỗi chúng sinh thì như có nối giây điện: Chúng sinh nào khởi vọng tưởng gì, ngài đều biết cả.
- Người trì giới thì làm tự tánh thanh tịnh: Quét sạch mọi thứ đen đủi xấu xa trong tự tánh đi.
- Khi dụng công, mình đừng sợ khổ, sợ khó, sợ mệt mỏi, thì mới thành công đặng.
- Bà mẹ đẻ ra bom nguyên tử, bom khinh khí, tia laser là ai? Chính là tham sân si. Do vậy nếu mình diệt trừ tham sân si thì bom nguyên tử sẽ không nổ, bom khinh khí cũng chẳng bạo phát, mà tia laser cũng chẳng còn dùng được.
- Tu hành thì hàng ngày phải giữ trạng thái quân bằng như cái cân vậy. Làm thế nào để quân bằng? Tức là lúc nào cũng giữ thái độ điềm đạm, yên tĩnh, chẳng một chút gợn sóng xao động trong tự tánh. Ðây chính là phiền não tức bồ đề, sinh tử là Niết bàn.
- Người tu đạo thì càng tu càng giảm thiểu, giảm tới chỗ chẳng còn gì cả. Chớ nên theo thói người đời, cái gì cũng muốn cho nhiều.
- Muốn dứt sinh tử thì phải đem hai chữ sinh tử mà treo nơi lông mày. Mở mắt nhìn thì thấy vấn đề sinh tử, mà nhắm mắt nhìn cũng thấy vấn đề sinh tử. Lúc nào nơi nào cũng dụng công tu hành thì mới cắt đứt được sinh tử.
- Việc đầu tiên người học Phật phải làm là trừ bỏ tánh nóng giận. Tánh nóng giận không ngừng thì học bao nhiêu Phật pháp cũng chỉ là trồng nhân A Tu La, sau này quả báo là làm A Tu La.
- Kẻ tu hành chẳng nên khi thấy kẻ khác thì làm ra vẻ trơ trơ chẳng thèm chú ý tới họ. Làm vậy là thiếu lễ độ. Người xuất gia và tại gia đều phải lịch sự trong cách đối xử. Thiếu lễ mạo tức là chẳng có văn hoá. Mình phải văn chất bân bân (khí chất nho nhã, ôn hòa, lịch sự), chẳng nên thô lỗ, man dã.
- Nếu bạn chẳng khởi vọng tưởng dù chỉ trong một thoáng chốc, khiến tâm thanh tịnh thì trãi qua một thời gian lâu, tâm của bạn sẽ trở nên trạm nhiên, thường yên lặng.
- Ðạo đức thì cũng như mặt trời mặt trăng, hay trời đất vậy. Nó cũng là tánh mạng của một người. Không đức thì người ấy cũng giống như chẳng có tánh mạng, chẳng có nhật nguyệt thiên địa vậy.
- Tham thiền hay niệm Phật đều tốt cả. Chỉ cần mình chân thật tu hành thì có thể vượt qua được cửa sinh tử. Ðến khi lâm chung sẽ chẳng có thống khổ, lòng không tham luyến, như nhập thiền định, tươi cười mà vãng sinh.
- Người tu đạo cần phải làm việc vô sự: Nghĩa là tích công lũy đức nhưng chẳng được chấp trước vào nó.
- Lúc các bạn quy y Tam Bảo, tức là quy y Phật, Pháp và Tăng, nhưng phải quy y thêm giới. Sau khi quy y rồi, bạn phải tin sâu vào Tam Bảo. Trong phạm vi giáo lý của Phật bạn phải làm những việc cho có ý nghĩa. Không nên vì lòng tham lam mà tin tưởng vào Phật pháp.
- Khi học Phật pháp, việc chủ yếu là phải có con mắt thấy được chân lý (trạch pháp nhãn). Nếu bạn cứ tin chuyện này, tin chuyện kia, (mà không quan sát để thấy chân tướng việc ấy) thì kết quả là bạn sẽ không làm thành chuyện gì cả.
- Thanh tịnh tức là không tham tiền, cũng chẳng cần sắc.
- Khi có ai dạy thứ pháp làm phát tài thì bạn hãy quan sát xem y đã phát tài chưa? Nếu y có tiền, hẳn là do bạn cho y vì bạn muốn học pháp phát tài. Cũng như mua stock, bạn phải mua bao nhiêu cổ phần thì mới hy vọng có lời. Bạn phải trả tiền, cúng dường cho anh kia trước, có thể là một ngàn, mười ngàn, trăm ngàn, khiến anh ta do vậy mà có đầy tiền. Rồi y nói nào là phóng hào quang màu đỏ, màu vàng, màu đen, màu tím...? Ðó toàn là chuyện lừa bịp. Chính bởi vì tôi không biết làm sao truyền pháp phát tài nên tôi phải nói toạc ra cái bí mật của pháp này.
- Thiên tai không có nghĩa là tai ương của trời vì trời không có tai ương mà chính là loài người chúng ta chịu tai ương. Nhân họa là việc mình tự làm tự thọ.
- Khi tu hành không nên đi tìm đạo ở Nam Sơn, Bắc Hải hoặc ở Tây Thiên, ở Ðông Ðộ. Ðạo thì ở ngay nơi thân mình, do vậy chẳng nên hướng ngoại tìm cầu. Song le con người thì lúc nào cũng thích tìm kiếm nơi chốn xa xăm, cao siêu.
- Tánh tình người ta thì ích kỷ lắm. Biết rằng chuyện này không đúng, nhưng có lợi cho mình thì cứ cắm đầu mà làm. Do đó:
- Khuyến quân vi thiện, viết vô tiền: hữu dã vô.
Họa đáo lâm đầu, dụng vạn thiên: vô dã hữu.
Nhược yếu dữ quân đàm thiện sự: khứ dã mang.
Nhất triều mệnh tận, tán hoàng tuyền: mang dã khứ.
Nghĩa là:
- Khuyên ngài làm lành, (ngài nói rằng:) chẳng có tiền: có tiền cũng nói không.
Họa rớt xuống đầu, dùng trăm ngàn: không tiền cũng phải có.
Nếu muốn cùng ngài bàn việc lành: đi cũng mắc bận.
Ngày kia mạng hết xuống hoàng tuyền: bận rộn cũng phải đi.
- Người học Phật nên trước tiên học chịu bị thua thiệt, không tham chiếm tiện nghi. Chuyện gì cũng phải biết buông xả. Có buông bỏ mới có chứng đắc.
- Mọi pháp đều là Phật pháp, đều không thể nắm bắt. Nhưng ta cũng có thể nói rằng mọi pháp đều chẳng phải là Phật pháp. Nói tóm: Khi học Phật, ta cần buông xả tất cả mọi chấp trước. Quét sạch hết mọi pháp, rời bỏ mọi hình tướng. Cái gì có hình tướng, đều là hư vọng, chẳng thể nắm bắt. Nếu thấy mọi sắc tướng là không có tướng, thì tức là thấy đặng Như Lai.
- Ðiều tối kỵ của người học Phật là có chấp trước. Khi chưa học Phật thì chẳng có mấy chấp trước; sau khi học Phật rồi lại có nhiều chấp trước hơn! Thật ra vạn sự vạn vật lúc nào cũng diễn bày chân lý. Nếu bạn giác ngộ thì tự nhiên quán thông mọi sự. Nếu bạn chẳng giác ngộ thì càng chấp trước thì càng lún sâu, càng mê muội.
- Mỗi người tín đồ Phật giáo đều phải gánh trách nhiệm làm Phật giáo hưng thạnh.
- Nghiệp lực mạnh nhất trong thế giới là nghiệp sát sinh. Quả báo của nghiệp sát sinh thì nặng hơn các nghiệp khác. Chúng sinh cứ hỗ tương tàn sát lẫn nhau, hỗ tương báo thù nhau, thật là việc tối bi thảm trong thế giới này vậy.
- Người tu phải luyện công phu nhẫn nhục. Nhẫn lạnh, nhẫn nóng, nhẫn gió, nhẫn mưa, nhịn đói, nhịn khát, chịu chửi, chịu đánh. Mình nên học tinh thần của Bồ Tát Thường Bất Khinh: Bất luận ai đối với tôi không tốt, tôi cũng chẳng sinh lòng giận dữ, tôi chỉ đem tâm thành đối xử với họ, khiến họ tự nhiên cảm hóa, biến vũ khí thành lụa là.
- Vì sao cần tu hành? Vì ta ngu si, chỉ làm toàn chuyện điên đảo, chịu khổ trong luân hồi, không được tự tại.
|
Kinh sách mới
Chú Lăng Nghiêm là Chú quan trọng nhất, hơn hết thảy trong các Chú. Bao gồm hết thảy thể chất và diệu dụng của Phật Pháp. Chú này chia làm năm bộ : Kim Cang bộ, Bảo Sinh bộ, Liên Hoa bộ, Phật bộ và Nghiệp bộ. Năm bộ Kinh này thuộc về năm phương : 1. Kim Cang bộ : Thuộc về phương Ðông, Ðức Phật A Súc là chủ. 2. Bảo Sinh bộ : Thuộc về phương Nam, Đức Phật Bảo Sinh là chủ. 3. Phật bộ : Thuộc về chính giữa, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là chủ. 4. Liên Hoa bộ : Thuộc về phương Tây, Đức Phật A Di Ðà là chủ. 5. Nghiệp bộ : Thuộc về phương Bắc, Đức Phật Thành Tựu là chủ.
Nếu người không có căn lành, thì đừng nói đến tụng niệm, dù ba chữ « Chú Lăng Nghiêm » cũng không nghe được, cũng không có cơ hội nghe được. Các vị bây giờ dùng máy vi tính tính thử xem, dùng thần não của bạn tính thử xem, hiện tại trên thế giới nầy, người tụng Chú Lăng Nghiêm nhiều, hay là người không biết tụng Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Người nghe được tên Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Hay là người không nghe được tên Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Cho nên các vị đừng xem mình là người rất bình thường, bạn đã nghe được Phật pháp, đây đều là trong vô lượng kiếp về trước đã từng gieo trồng căn lành, đắc được diệu pháp thâm sâu vô thượng, các vị đừng để pháp môn nầy trôi qua.
Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy còn gọi là Kinh Pháp Giới, cũng gọi là Kinh Hư Không, tận hư không khắp pháp giới, chẳng có một nơi nào mà chẳng có Kinh Hoa Nghiêm ở đó. Chỗ ở của Kinh Hoa Nghiêm tức cũng là chỗ ở của Phật, cũng là chỗ ở của Pháp, cũng là chỗ ở của Hiền Thánh Tăng. Cho nên khi Phật vừa mới thành chánh giác, thì nói bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, để giáo hoá tất cả pháp thân Ðại Sĩ . Vì bộ Kinh nầy là Kinh vi diệu không thể nghĩ bàn, do đó bộ Kinh nầy được bảo tồn ở dưới Long cung, do Long Vương bảo hộ giữ gìn. Về sau do Ngài Bồ Tát Long Thọ, xuống dưới Long cung đọc thuộc lòng và ghi nhớ bộ Kinh nầy, sau đó lưu truyền trên thế gian.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử ở chỗ Dạ Thần Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sinh, nghe môn giải thoát Phổ hỉ tràng, tin hiểu hướng vào, biết rõ tuỳ thuận, suy gẫm tu tập. Nhớ hết những lời dạy của thiện tri thức, tâm không tạm xả, các căn chẳng tán, một lòng muốn gặp được thiện tri thức. Siêng cầu khắp mười phương không giải đãi. Muốn thường gần gũi sinh các công đức, đồng một căn lành với thiện tri thức. Đắc được hạnh phương tiện thiện xảo của thiện tri thức. Nương thiện tri thức vào biển tinh tấn, trong vô lượng kiếp thường chẳng xa lìa. Nguyện như vậy rồi, bèn đi đến chỗ Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sinh Diệu Đức.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử một lòng muốn đi đến chỗ Ma Gia phu nhân, tức thời đắc được trí huệ quán cảnh giới Phật.Bèn nghĩ như vầy: Thiện tri thức nầy xa lìa thế gian. Trụ nơi không chỗ trụ, vượt qua sáu xứ. Lìa tất cả chấp trước. Biết đạo vô ngại, đủ tịnh pháp thân. Dùng nghiệp như huyễn mà hiện hoá thân. Dùng trí như huyễn mà quán thế gian. Dùng nguyện như huyễn mà giữ thân Phật. Thân tuỳ ý sinh, thân không sinh diệt, thân không đến đi, thân chẳng hư thật, thân chẳng biến hoại, thân không khởi tận, thân hết thảy tướng đều một tướng, thân lìa hai bên, thân không y xứ, thân vô cùng tận, ...
Tôi tin rằng bộ Kinh nầy được giảng lần đầu tiên tại nước Mỹ, các vị cũng là những người đầu tiên được nghe. Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, là vua trong các Kinh Phật, cũng là vua trong vua. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa cũng là vua trong các Kinh, nhưng không thể gọi là vua trong vua. Bộ Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật nầy, là vua trong vua, là bộ Kinh dài nhất trong Kinh điển đại thừa mà đức Phật nói, nhưng thời gian nói không dài quá, chỉ trong hai mươi mốt ngày, thì đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói xong bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ở trong năm tầng nghĩa lý huyền diệu, thì huyền nghĩa thứ nhất là giải thích tên Kinh. Bộ Kinh nầy dùng Diệu Pháp Liên Hoa làm tên. Diệu Pháp là pháp, Liên Hoa là ví dụ, vì Phật Pháp vi diệu thâm sâu, một số người không dễ gì hiểu nổi, cho nên dùng liên hoa (hoa sen) để ví dụ, do đó bộ Kinh nầy lấy pháp và dụ làm tên. Cứu kính thì diệu pháp là gì ? diệu đến cỡ nào ? tốt đến cỡ nào ? Nay tôi nói cho bạn biết, sự diệu nầy không thể dùng tâm suy nghĩ, không thể dùng lời bàn luận, không thể dùng tâm để dò, nghĩ cũng nghĩ không hiểu nổi; nghĩ muốn hiểu biết thì nói không đến được sự diệu của nó.
Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất hớn hở vui mừng, bèn đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, mà bạch Phật rằng : Hôm nay nghe đức Thế Tôn nói pháp nầy, tâm con rất hớn hở được chưa từng có. Tại sao ? Vì xưa kia con theo Phật nghe pháp như vầy : Thấy các vị Bồ Tát được thọ ký sẽ thành Phật, mà chúng con chẳng được dự vào việc đó, rất tự cảm thương, mất đi vô lượng tri kiến của Như Lai. Ðức Thế Tôn ! Con thường một mình ở dưới gốc cây nơi rừng núi, hoặc ngồi hoặc đi kinh hành, bèn nghĩ thế nầy : Chúng con đồng vào pháp tánh, tại sao đức Như Lai dùng pháp tiểu thừa mà tế độ ? Ðó là lỗi của chúng con, chứ chẳng phải đức Thế Tôn vậy.
Quyển Ý Nghĩa Đời Người này rất thâm thuý, tuy cố H.T Tuyên Hoá thuyết giảng lời lẽ giản dị, mộc mạc, nhưng nghĩa lý rất cao thâm huyền diệu, đi vào tâm người. Nếu người tu học, đọc hết quyển sách này, y theo trong đó mà thực hành, thì sẽ giác ngộ được ít nhiều ngay trong đời này, không cần phải tìm cầu đâu xa vời. Đặc biệt cố Hoà Thượng nhấn mạnh về Sáu Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thành đó là : Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tư lợi, không nói dối. Sáu đại tông chỉ này cũng có thể nói là kim chỉ nam của người tu hành, dù xuất gia, hay tại gia, đều lợi lạc vô cùng, nhất là thời đại ngày nay.
|
|
|