|
|
|
|
|
|
|
Một người có thể đến với đạo qua nhiều cánh cửa, và bước qua cánh cửa đó sẽ là cả thế giới đạo lý bao la. Chỉ có thâm hiểu, thực hành giáo pháp một cách chuẩn mực, vượt bao chướng ngại không nản lòng, mới có hi vọng một ngày chạm tay bầu trời giải thoát giác ngộ. Muốn giúp một người hiểu được giáo Pháp, thì dùng lời nói để giảng dạy, khuyên nhủ là chủ yếu. Đức Phật cũng vậy, dù cho thần lực phủ trùm pháp giới, cả đời Ngài lúc nào cũng kiên nhẫn trình bày, giải thích, phân tích, lý luận để thuyết lên những bài Pháp giá trị muôn đời.
- Thưa Tôn giả Gavampati, bệnh nào cũng có một nguyên nhân trước đó, mà máu lưu thông khắp cơ thể chính là sợi dây liên lạc toàn bộ cơ thể với nhau. Máu sẽ đem cái suy yếu của một chỗ lan dần cho tất cả chỗ khác. Đôi mắt bị hỏng cũng là do một bộ phận nào đó bị suy yếu trước, rồi máu dẫn cái suy yếu đó đến làm hỏng đôi mắt. Hoặc một ai nạn xảy ra làm hư gãy phần xương nào đó, dù có được nối lại cũng đã ảnh hưởng cả cơ thể rồi. Con phải tìm ra nguyên nhân phía trước của căn bệnh chứ không chỉ chữa cho căn bệnh đó mà thôi. Tuy nhiên có điều này mà giáo thọ sư và con cứ suy nghĩ mãi.
- Bạch Thế Tôn Gotama, chúng con đến từ tiểu quốc Koliya cận kề với nước Sakya của Thế Tôn, chúng con mang theo lời thỉnh cầu của quốc vương, hoàng hậu và nhất là của công chúa Suppavasa. - Kính bạch Thế Tôn, phu quân của công chúa Suppavasa là hoàng tử Mahali của Vesali (Tỳ Xá Ly) là người có lòng kính tin Thế Tôn tuyệt đối, đã truyền niềm kính tin đó cho công chúa Suppavasa. - Hoàng tử Mahali thường kể về việc Thế Tôn đã cứu nước Vajji (Bạt Kỳ) thoát khỏi nạn hạn hán, dịch bệnh như thế nào khiến cho cả triều đình Koliya vô cùng xúc động.
Mặc dù đã trở thành đệ tử của Thế Tôn, được sống trong chánh Pháp cùng các vị Thánh đệ tử của Người, Ngài Ca Lu Đà Di vẫn không quên sứ mệnh của mình với Đức vua Tịnh Phạn. Các vị quan đại thần trước kia không trở về là vì khi gặp Đức Phật, mọi người đều khởi tâm kính ngưỡng và mong muốn được tu tập trong Tăng đoàn của Người. Đó cũng là tâm trạng của Ngài. Nhưng tại quê hương Ca Tỳ La Vệ, Đức vua Tịnh Phạn, Lệnh bà Ba Xà Ba Đề (Maha Pajapati), Công nương Ya Du Đà La (Yashodara), Hoàng Tôn La Hầu La (Rahula)...
Một buổi chiều mát, bên ngoài tinh xá. Bên trong tinh xá Đức Phật đang thuyết Pháp cho hội chúng rất đông. Hai vợ chồng trẻ bế đứa con đi ngang qua cổng tinh xá. Họ đứng lại cúi chào, rồi tiếp tục đi qua luôn. Hai vợ chồng đi đến một hồ nước, họ vào chỗ khuất có bóng cây để xuống hồ tắm. Người chồng bế con cho vợ tắm, sau đó người vợ tắm xong lên bế con cho chồng xuống tắm. Chợt một con quỷ mặt mày hung tợn hiện ra, từ xa bước tới phía người vợ, người vợ kêu thất thanh:
Hai năm sau ngày đất nước chia đôi, từ miền Bắc hoang tàn, tôi lặn lội tới vùng giới tuyến mong vượt thoát vào miền Nam tự do. Lần tới gần sông Bến Hải, đêm tối âm u bờ Bắc, tôi đã nhìn thấy cầu Hiền Lương vì bờ Nam rực sáng ánh đèn. Trên cột cờ cao vút, bóng cờ vàng sọc đỏ lung linh.Giọng ca ngọt ngào từ loa treo vọng về miền Bắc: "...Sông Bến Hải là nơi chia cắt đôi đường...hỡi ai... lạc lối... mau quay... về đây ...!" Tôi đứng đó chơi vơi định hướng, đăm đăm nhìn cờ vàng bên kia bờ sông lịch sử, uống từng lời ca trong cơn đói khát, rồi bừng tỉnh, lao lên phía trước.
Trong Kinh Kim Cang, Tu Bồ Đề hỏi Thế Tôn: “Thiện nam tử, thiện nữ nhân, khi phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, nên an trụ như thế nào? Nên chế phục tâm mình như thế nào?” Phật dạy: “Nên an trụ như thế này, nên chế phục tâm mình như thế này.” Chữ “chế phục” có nghĩa là cấm chỉ. Làm cho tâm không chạy loạn, chính là chế phục tâm mình. Nói về việc phát Bồ Đề tâm, tâm này vốn có sẵn nơi mỗi người, ai ai cũng đều có, toàn bộ Đại Tạng Kinh chỉ nói về tâm này. Thế Tôn đêm ngắm sao mai, bỗng nhiên đại ngộ, thành đẳng chánh giác,
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
- Tin Phật thì mình chớ chia rẽ, coi (tôn giáo mình) là hơn hết, cho rằng mình đúng (kẻ khác sai), mình thì hay ghê lắm, đặc biệt lắm. Khi có một ý niệm như vậy thì mình chẳng kham việc tạo dựng. Mỗi người con Phật, mình cần nên có lòng rộng rãi bao dung mọi sự, đùm bọc mọi loài. Trong phạm vi của đạo Phật, mình không có kẻ thù.
- Khi niệm danh hiệu đức Quan Thế Âm Bồ Tát, mình (chỉ mấy người tu ngụ trong chùa) không nên ngày đêm cứ khởi vọng tưởng, rằng: Sáng ra chưa ăn gì cả, tối lại cũng chẳng có trà uống, khổ quá, chịu hết được rồi. Phải chạy đi thôi!
- Thiếu nhẫn nại thì pháp gì tu cũng không thành. Không có lòng nhẫn nại thì thường cảm thấy việc này không đúng, chuyện kia không tốt. Việc gì cũng trái ý mình. vậy thì bạn có thể tu gì được? Ðạo thì chẳng có ngã kiến, cũng chẳng có ngã chấp.
- Người tu hành phải tu vô ngã tướng. Nếu không có ngã tướng, thì có thể chịu đựng mọi chuyện; mọi cảnh giới tới, mình không động tâm, vì mình xem mình như là hư không. Cảnh giới tới cũng phải tu hành, nghịch cảnh tới, cũng phải tu hành. Thuận cảnh tới, không sinh vui mừng, nghịch cảnh lại, chẳng sinh lo buồn. Cảnh nghịch hay thuận mình phải biết rõ ràng. Nếu có thể như như bất động thì mình không bị cảnh giới nào lay chuyển. Nếu mình liễu liễu thường minh thì mới chuyển xoay cảnh giới.
- Người tu không đắp y thì cũng như đã hoàn tục, chẳng khác gì người phàm tục. Cũng không phải mặc áo tràng, đeo ... thì chứng minh rằng mình là kẻ xuất gia. Ngay như dù có đắp y, mà ngày ngày cứ phạm giới, hoàn toàn chẳng chân thật tu hành, thì cũng không đáng gọi là xuất gia. Hà huống nếu bạn không đắp y, thì đã không có tướng Tỳ kheo rồi.
- Ma là thứ giúp đỡ mình tu đạo. Ma giúp mình ở mặt trái, xem mình có chí nguyện kiên cố hay chăng. Nếu bạn thật kiên cố thì dù có ngàn con ma hại, bạn cũng không thay đổi, vạn con ma phá, bạn cũng không thối sụt. Cái gì bạn cũng không sợ, vì bạn không có gì mong cầu.
- Muốn dưỡng khí, bạn không nên nói chuyện nhiều quá. Người tu nếu không biết ít lời thì sẽ chẳng thể tu đặng. Không nuôi dưỡng cái khí lực thì chẳng có pháp. Cứ nói chuyện hoài thì pháp sẽ mất hết. Bấy giờ xem bạn còn tu đạo gì nữa?
- Kỳ thật vạn sự vạn vật đều thuyết pháp. Cái bàn nói cái pháp của cái bàn. Cái ghế nói pháp của cái ghế. Việc gì chuyện gì cũng chuyển pháp luân. Người chuyển pháp luân của người. Con mèo chuyển pháp luân của con mèo. Nếu bạn hiểu rõ, thì bạn sẽ nghe được cái pháp hiểu rõ. Nếu bạn không hiểu rõ thì bạn chỉ nghe cái pháp ngu si.
- Ðừng để danh lợi làm đầu óc mê muội. Tới chết thì vẫn hai tay trắng. Rằng: Ðừng để tới già mới học đạo, mộ phần đầy dẫy đám thiếu niên.
- Tật xấu của tín đồ Phật giáo là ai cũng cho mình đúng, chẳng quan tâm đến ai khác; không có người nào tự nhận mình là sai lầm, ngược lại, bài xích lẫn nhau, dèm pha nói xấu lẫn nhau.
- Trong quá trình tu hành không có lúc nào mình được lười biếng. Tu đạo thì phải kiên trì hoài hoài, không để gián đoạn. Nếu không thì tu hằng hà sa số kiếp mà cũng như nấu cát mà đòi có cơm. Chẳng thể có chuyện đó.
- Có chân chính biện tài vô ngại thì không cần nói lời chải chuốt. Bởi vì lời lẽ phát xuất từ tự tánh quang minh, trong kho tàng trí huệ của Như Lai. Dùng lời chọn lọc, chải chuốt, lại có phản tác dụng, biến tốt thành xấu. Người xưa nói:
- Thông minh là do làm âm đức. (Âm đức là việc tốt mình làm trong im lặng, không cho ai biết)
- Âm đức dẫn vào đường thông minh.
Không làm âm đức để thông minh.
Thông minh sẽ bị thông minh lừa.
Thương thân: đừng để thân mình phạm pháp.
Thương nhà: đừng để gia đình bị tan nát.
Thương nước: hãy hy sinh cho đất nước.
- Không phải rằng ăn chay là giữ giới sát đâu. Cũng chớ nói rằng: Tôi không có chính tay giết chúng sinh nào, rồi cho rằng không phạm giới sát. Giới sát cần phải trong tâm mình không khởi lòng sân hận đối với chúng sinh.
- Khi bạn có lòng lo sợ thì dù bạn không muốn ma lại, ma cũng sẽ tới. Bạn không có tâm lo sợ, thì dù ma muốn tới cũng không thể nào tới. Ðây là bí quyết quan trọng nhất: đừng có sợ hãi. Khi bạn không sợ hãi thì tâm sẽ chính. Chính thì có thể hàng phục mọi thứ, bởi vì tà bất thắng chính. Vì thế ma sợ nhất chính là bốn chữ: Chính đại quang minh.
- Người minh tâm thì không ngu si. Kẻ kiến tánh thì không âu sầu. Tâm như gương sáng, lại cũng như nước lặng.
- Các bạn nên: Tùy duyên để tiêu nghiệp cũ, chớ tạo thêm tội mới.
- Kẻ tự mãn, (kiêu ngạo, cho mình quá tốt quá giỏi quá đủ) thì tuyệt đối chẳng thành tựu được gì cả. Mình phải học: Có mà dường như không, thật mà dường như giả. Có đạo đức cao thượng thì dường như chẳng có vẻ gì cả. Kẻ chân chính có tài hoa, thì y có vẻ như chẳng có tài gì cả.
- Sau đây là Sáu cái đừng:
Khi ngồi đừng đu đưa chân, rung đầu gối.
Khi đứng, đừng rung quần.
Khi đi đừng ngoái đầu.
Khi nói đừng lộ lưỡi.
Khi cười đừng cười lớn tiếng.
Khi nóng giận đừng la hét.
- Phải tập: Suy nghĩ chín chắn rồi hãy nói, lòng vui rồi mới cười, thấy việc ấy có nghĩa mới làm.
- Tất cả pháp hữu vi ở cõi đời này, thật sự là hết sức mỏng manh, không chắc chắn gì hết. Chẳng có chuyện gì vĩnh viễn không biến hoại. Tất cả mọi sự mọi vật không thứ gì kiên cố cả.
- Chúng ta ai mà thường thường cứ nổi nóng tức giận, nổi lửa vô minh, thì chính là đang ở trong lưới của ma. Làm sao thoát lưới ma? Rất dễ dàng: Ðừng nóng giận. Không nổi dóa, không có lửa vô minh, không sân giận thì sẽ thoát lưới ma ngay.
- Thân thể của mình là giả, thế sao mình cứ chấp trước nó hoài vậy? Vì sao mà cứ vì nó mà tạo tội nghiệp, chẳng thể buông bỏ.
- Người tu đạo phải tu hạnh viễn ly: Viễn ly tài sắc danh thực thùy, viễn ly mọi thứ xấu ác. Gần gũi mọi thứ thiện.
- Ai có thể hàng phục sáu căn, sáu trần, sáu thức khiến chúng nghe lời, không tạo phản, kẻ ấy là Bồ Tát.
- Ai có thể quét sạch tình cảm, lòng không còn rác rưởi dơ bẩn, kẻ ấy là Bồ Tát.
- Các vị phải thức tỉnh, giác ngộ đời người là vô thường. Con quỷ vô thường không biết lúc nào sẽ tìm mình. Lúc ấy: Ngàn thứ chẳng đem theo đặng, chỉ có nghiệp theo thân. Nếu bây giờ không dụng công thì đợi đến lúc nào, đến kiếp nào mới tu đây?
- Bạn nên biết rằng hai chữ danh và lợi làm hại tất cả người đời.
- Không có lòng tham dục thì phiền não gì cũng chẳng có. Một khi có lòng tham dục thì chuyện gì cũng xảy ra. Thế giới, vạn sự vạn vật vạn loài, thứ gì cũng do lòng tham dục sinh ra cả.
- Thật ra những thứ sơn yêu, thủy quái, tinh mỵ v.v... không phải là chuyện phiếm đâu. Song nếu lật ngược vấn đề lại nhìn thì nếu mình giữ lòng mình cho thanh tịnh, không có tà niệm, thì lúc nào cũng có thiên long bảo vệ mình. Hãy kiên cố giữ tâm đừng để sơ hỡ, thì ma chướng từ đâu mà lọt vào chớ.
- Kẻ có trí huệ thì không có phiền não.
- Dựa vào chân mà có vọng. Khi vọng hết thì chân hiện bày. Vọng chưa dứt thì chân không hiện.
- Người học Phật chớ nên hễ nghe người ta khen là vui vẻ cao hứng lắm. Nghe một câu không vừa ý thì phiền não vô cùng. Ðó là biểu hiện chẳng có định lực. Có định lực thì bạn không bị cảnh giới của tám gió làm lay chuyển.
- Lúc nào các bạn cũng phải tu hành, lúc nào cũng siêng năng cầu thoát ra khỏi cõi đời trần thế này.
- Sinh tử nguy hiểm như vậy mà mình còn dám lười biếng sao! Lại còn ra vẻ như chẳng có chuyện gì, tựa như rằng mình có định lực ghê lắm. Chẳng phải đó là lãng phí thời gian sao?
- Bậc đạo đức cao tăng xưa kia, thường thường tới một cách vô hình mà ra đi cũng không dấu tích. Tới thì phiêu phiêu, đi thì hốt hốt. Tới như gió thoảng, đi cũng như gió thoảng. (Tuy rằng đạo phong của các ngài truyền lưu muôn thuở). Tới thì vô quái vô ngại, đi cũng vô quái vô ngại.
- Siêng tu giới định huệ tức là người quân tử thì hướng về phía trước mà tiến. Khi trừ diệt tham sân si thì mình không cần phải hướng xuống nữa.
- Ma vô cùng thông minh. Nó rình biết người kia có lòng tham muốn thứ gì thì nó sẽ dùng phương pháp thích hợp để dụ hoặc người đó. Do đó người tu hành chúng ta không cần thiết phải niệm chú gì đặc biệt, cũng không dùng pháp môn gì. Chỉ cần mình chân thật, không tranh, không tham, không mong cầu, không ích kỷ, không tự lợi, cứ chăm chỉ khổ tu, thì không có ma gì phá hại được bạn. Chỉ cần bạn có lòng tham, có lòng kiêu hãnh, muốn chiếm tiện nghi, muốn tìm đường tu tắt, thì sẽ dễ dàng bị dính vào ma sự.
- Khi sinh tâm ô nhiễm , thì đó là thế giới Ta Bà.
- Khi sinh tâm thanh tịnh, thì đó là thế giới Cực Lạc. Thế giới Lưu Ly và Cực Lạc không có gì khác biệt đâu.
- Xây chùa không bằng xây người. Xây người không bằng xây Phật.
- Bạn phải đang cơ (ngay lúc chuyện xảy ra) mà quyết định (phải làm gì). Không nên ủy mỵ, trù trừ chẳng quyết, rồi cứ dây dưa mãi, khiến mất đi thời cơ quý báu. Chớ nên lết chân chẳng quyết, phải mau chặt đứt phiền não, liễu thoát sinh tử.
- Trời đất không thể một ngày không hòa khí, lòng người không thể một ngày thiếu hỉ thần (niềm vui). Ngày ngày mình phải mời hỉ thần tới tâm, làm bạn với hỉ thần. Vậy thì mình sẽ không có phiền não. Ðiều này đối với người tu cũng quan trọng lắm.
- Mình phải dập tắt chiến tranh thế giới, không phải là phản đối chiến tranh. Khi bạn có tâm phản chiến thì chiến tranh nơi thân bạn đã phát sinh rồi. Khi bạn phản đối kẻ khác, hay phản kháng chiến tranh, thì chiến tranh trong tâm bạn đã khởi dậy rồi.
- Bạn không tin nhân quả báo ứng? Chờ tới khi nó đổ xuống đầu bạn, lúc ấy muốn trốn cũng trốn không kịp.
- Ngồi kiết già là để dễ dàng nhập định. Nếu bạn có thể nhập định lúc đi, thì ngồi hay không ngồi đều như nhau. Cảnh giới nhập định thì hoàn toàn vắng lặng vọng tưởng, trong tâm không sinh một niệm, không nhiễm bụi trần. Nếu bạn có thể trong lúc đi đứng nằm ngồi không sinh ý niệm nào cũng chẳng nhiễm bụi trần gì thì đó chính là chỗ bạn dụng công. Không phải rằng ngồi xuống mới gọi là dụng công.
- Ðừng nên bị những tướng hư giả làm điên đảo.
- Không thể nhầm lẫn trong lý nhân quả, không thể đình trệ trong việc tu hành.
- Người tu hành thì lánh xa danh lợi. Họ xem phú quý như những giọt sương giữa khóm hoa. Họ xem công danh như hơi nước trên mái ngói, trong khoảnh khắc sẽ tan biến mất dấu tích. Nếu bạn muốn trắc nghiệm xem người nào đó có tu hành hay không thì hãy xem việc làm, hành động của người đó có nhắm về danh với lợi chăng.
- Không khóc không cười, đó gọi là định lực. Không có định lực thì mới hay khóc hay cười.
- Nếu thường tinh tấn thì đó tức là ở trong định. Nếu bạn có thể tùy thuận theo duyên bên ngoài mà không biến đổi, không thay đổi chí hướng nhưng có thể thích ứng với hoàn cảnh, thì đó gọi là Kim Cang Ðịnh. Kim Cang Ðịnh không phải là thứ có hình tướng, nó chỉ là tâm bồ đề không biến hoại mà thôi.
- Nếu mình thấu suốt được thất tình: Vui, giận, buồn, sợ, yêu, ghét, ham muốn - thì có thể hàng phục nó. Ðừng để chúng nổi sóng, nổi gió thì tức là hàng phục tâm mình.
- Hiện tại chuyện tối quan trọng là thế giới quá đầy bọn tiểu quỷ, không biết bao nhiêu mà kể. Vì sao tụi tiểu quỷ nhiều như vậy? Bởi vì người ta phá thai nhiều quá. Thai nhi chưa thành hình mà đã bị giết rồi, nên khi làm quỷ chúng có tâm báo thù rất nặng nề. Do đó giới sát, phóng sinh, ăn chay thì bao quát không được phá thai. Những tiểu quỷ thật không dễ độ thoát chúng đâu, rằng: Diêm Vương dễ gặp, tiểu quỷ khó độ.
- Người thiếu đức hạnh thì có tánh nóng rất lớn, vô minh ngu si cũng sâu dày. Người có đức hạnh thì chẳng có nóng nảy gì cả, vô minh cũng đã hóa trừ thành trí huệ. Do đó người tu hành phải tài bồi đức hạnh là vậy.
- Người thường tự so sánh, cho rằng mình hơn kẻ khác. Kỳ thật, khi thân tâm chưa đạt đến cảnh không thì họ đều chấp trước vào ngã tướng mà thôi. Kẻ tham thiền phải trừ bỏ cái ngã. Chẳng những không có tướng hay quan niệm về cái tôi, mà cần phải không có cái tâm, không có cái thân. Khi thân tâm đều không, bạn sẽ làm vô tâm đạo nhân.
|
Kinh sách mới
Chú Lăng Nghiêm là Chú quan trọng nhất, hơn hết thảy trong các Chú. Bao gồm hết thảy thể chất và diệu dụng của Phật Pháp. Chú này chia làm năm bộ : Kim Cang bộ, Bảo Sinh bộ, Liên Hoa bộ, Phật bộ và Nghiệp bộ. Năm bộ Kinh này thuộc về năm phương : 1. Kim Cang bộ : Thuộc về phương Ðông, Ðức Phật A Súc là chủ. 2. Bảo Sinh bộ : Thuộc về phương Nam, Đức Phật Bảo Sinh là chủ. 3. Phật bộ : Thuộc về chính giữa, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là chủ. 4. Liên Hoa bộ : Thuộc về phương Tây, Đức Phật A Di Ðà là chủ. 5. Nghiệp bộ : Thuộc về phương Bắc, Đức Phật Thành Tựu là chủ.
Nếu người không có căn lành, thì đừng nói đến tụng niệm, dù ba chữ « Chú Lăng Nghiêm » cũng không nghe được, cũng không có cơ hội nghe được. Các vị bây giờ dùng máy vi tính tính thử xem, dùng thần não của bạn tính thử xem, hiện tại trên thế giới nầy, người tụng Chú Lăng Nghiêm nhiều, hay là người không biết tụng Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Người nghe được tên Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Hay là người không nghe được tên Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Cho nên các vị đừng xem mình là người rất bình thường, bạn đã nghe được Phật pháp, đây đều là trong vô lượng kiếp về trước đã từng gieo trồng căn lành, đắc được diệu pháp thâm sâu vô thượng, các vị đừng để pháp môn nầy trôi qua.
Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy còn gọi là Kinh Pháp Giới, cũng gọi là Kinh Hư Không, tận hư không khắp pháp giới, chẳng có một nơi nào mà chẳng có Kinh Hoa Nghiêm ở đó. Chỗ ở của Kinh Hoa Nghiêm tức cũng là chỗ ở của Phật, cũng là chỗ ở của Pháp, cũng là chỗ ở của Hiền Thánh Tăng. Cho nên khi Phật vừa mới thành chánh giác, thì nói bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, để giáo hoá tất cả pháp thân Ðại Sĩ . Vì bộ Kinh nầy là Kinh vi diệu không thể nghĩ bàn, do đó bộ Kinh nầy được bảo tồn ở dưới Long cung, do Long Vương bảo hộ giữ gìn. Về sau do Ngài Bồ Tát Long Thọ, xuống dưới Long cung đọc thuộc lòng và ghi nhớ bộ Kinh nầy, sau đó lưu truyền trên thế gian.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử ở chỗ Dạ Thần Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sinh, nghe môn giải thoát Phổ hỉ tràng, tin hiểu hướng vào, biết rõ tuỳ thuận, suy gẫm tu tập. Nhớ hết những lời dạy của thiện tri thức, tâm không tạm xả, các căn chẳng tán, một lòng muốn gặp được thiện tri thức. Siêng cầu khắp mười phương không giải đãi. Muốn thường gần gũi sinh các công đức, đồng một căn lành với thiện tri thức. Đắc được hạnh phương tiện thiện xảo của thiện tri thức. Nương thiện tri thức vào biển tinh tấn, trong vô lượng kiếp thường chẳng xa lìa. Nguyện như vậy rồi, bèn đi đến chỗ Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sinh Diệu Đức.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử một lòng muốn đi đến chỗ Ma Gia phu nhân, tức thời đắc được trí huệ quán cảnh giới Phật.Bèn nghĩ như vầy: Thiện tri thức nầy xa lìa thế gian. Trụ nơi không chỗ trụ, vượt qua sáu xứ. Lìa tất cả chấp trước. Biết đạo vô ngại, đủ tịnh pháp thân. Dùng nghiệp như huyễn mà hiện hoá thân. Dùng trí như huyễn mà quán thế gian. Dùng nguyện như huyễn mà giữ thân Phật. Thân tuỳ ý sinh, thân không sinh diệt, thân không đến đi, thân chẳng hư thật, thân chẳng biến hoại, thân không khởi tận, thân hết thảy tướng đều một tướng, thân lìa hai bên, thân không y xứ, thân vô cùng tận, ...
Tôi tin rằng bộ Kinh nầy được giảng lần đầu tiên tại nước Mỹ, các vị cũng là những người đầu tiên được nghe. Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, là vua trong các Kinh Phật, cũng là vua trong vua. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa cũng là vua trong các Kinh, nhưng không thể gọi là vua trong vua. Bộ Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật nầy, là vua trong vua, là bộ Kinh dài nhất trong Kinh điển đại thừa mà đức Phật nói, nhưng thời gian nói không dài quá, chỉ trong hai mươi mốt ngày, thì đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói xong bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ở trong năm tầng nghĩa lý huyền diệu, thì huyền nghĩa thứ nhất là giải thích tên Kinh. Bộ Kinh nầy dùng Diệu Pháp Liên Hoa làm tên. Diệu Pháp là pháp, Liên Hoa là ví dụ, vì Phật Pháp vi diệu thâm sâu, một số người không dễ gì hiểu nổi, cho nên dùng liên hoa (hoa sen) để ví dụ, do đó bộ Kinh nầy lấy pháp và dụ làm tên. Cứu kính thì diệu pháp là gì ? diệu đến cỡ nào ? tốt đến cỡ nào ? Nay tôi nói cho bạn biết, sự diệu nầy không thể dùng tâm suy nghĩ, không thể dùng lời bàn luận, không thể dùng tâm để dò, nghĩ cũng nghĩ không hiểu nổi; nghĩ muốn hiểu biết thì nói không đến được sự diệu của nó.
Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất hớn hở vui mừng, bèn đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, mà bạch Phật rằng : Hôm nay nghe đức Thế Tôn nói pháp nầy, tâm con rất hớn hở được chưa từng có. Tại sao ? Vì xưa kia con theo Phật nghe pháp như vầy : Thấy các vị Bồ Tát được thọ ký sẽ thành Phật, mà chúng con chẳng được dự vào việc đó, rất tự cảm thương, mất đi vô lượng tri kiến của Như Lai. Ðức Thế Tôn ! Con thường một mình ở dưới gốc cây nơi rừng núi, hoặc ngồi hoặc đi kinh hành, bèn nghĩ thế nầy : Chúng con đồng vào pháp tánh, tại sao đức Như Lai dùng pháp tiểu thừa mà tế độ ? Ðó là lỗi của chúng con, chứ chẳng phải đức Thế Tôn vậy.
Quyển Ý Nghĩa Đời Người này rất thâm thuý, tuy cố H.T Tuyên Hoá thuyết giảng lời lẽ giản dị, mộc mạc, nhưng nghĩa lý rất cao thâm huyền diệu, đi vào tâm người. Nếu người tu học, đọc hết quyển sách này, y theo trong đó mà thực hành, thì sẽ giác ngộ được ít nhiều ngay trong đời này, không cần phải tìm cầu đâu xa vời. Đặc biệt cố Hoà Thượng nhấn mạnh về Sáu Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thành đó là : Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tư lợi, không nói dối. Sáu đại tông chỉ này cũng có thể nói là kim chỉ nam của người tu hành, dù xuất gia, hay tại gia, đều lợi lạc vô cùng, nhất là thời đại ngày nay.
|
|
|