Thông tin
Các bài mới
Bản chất của việc tu Đạo là nhận thức thân tâm của chính mình vốn đã thanh tịnh, không sinh tử, không phân chia. Hoàn thiện và hoàn chỉnh về bản chất tự thân của nó, nhận thức hiện tại là người thầy nền tảng. Chỉ tập trung vào nó là ưu việt hơn so với việc quán chiếu những người tỉnh thức trong mười phương. Làm sao bạn biết rằng nhận thức của bản thân vốn dĩ là trong sáng? … Sử dụng mặt trời rực rỡ như một phép ẩn dụ: ngay cả khi những đám mây và sương mù của thế giới xuất hiện cùng nhau theo mọi hướng để thế giới trở nên tối tăm, 
Lúc ấy, đức Phật đang ở gần thành Vương Xá, trong tinh xá Trúc Lâm. Đại đức Mục-kiền-liên một hôm mang bát vào thành khất thực, vừa đến cửa thành thì gặp 500 ngạ quỷ cũng từ ngoài đi vào thành. Đám ngạ quỷ ấy gặp tôn giả Mục-kiền-liên thì mừng rỡ, bạch với ngài rằng: “Xin tôn giả mở lòng từ bi thương xót nhớ lấy tên chúng tôi, đến nói với những thân quyến của chúng tôi rằng: Vì chúng tôi chẳng làm việc thiện, chẳng hay bố thí, nên nay phải đọa làm thân ngạ quỷ đói khát. 
Nghề dạy học là một nghề khiêm tốn, nhưng hết sức quan trọng. Có những thầy cô giáo tạo được ảnh hưởng lâu dài, ảnh hưởng đến cả đời của học sinh. Câu chuyện dưới đây là một ví dụ điển hình về những thầy cô giáo tạo được sự khác biệt đến cuộc đời của học sinh. Chúng tôi mượn tựa đề “Tấm Lòng Vàng” của nhà văn Nguyễn Công Hoan để miêu tả câu chuyện. Hồi năm 1968, tôi còn là một học sinh ở trường trung học Levon & Sophia Hagopian Armenian ở Beirut.
Với lý lịch 8 năm tù trong trại cải tạo CS, gia đình tôi sang Mỹ theo diện H.O. 15 đầu trọc : không thân nhân bảo trợ. Tôi đã trải qua. Ngày cùng vợ con lên phi trường ra đi, cũng là một ngày đầy nước mắt. Cha tôi đã chết đúng ngày tôi lên đường. Ngày đi không thể rời. Chỉ còn cách quỳ lạy xác cha. Tạ từ mẹ già và người thân, tôi lặng lẽ cúi đầu ra đi không 1 người đưa tiễn. Ngồi trên phi cơ mà tưởng chừng như tôi đang ngồi trên đống lửa.
Nữ Tôn giả Đàm Di là vị Tỳ kheo Ni đầu tiên, bậc thượng thủ, lãnh đạo Ni đoàn thời Phật tại thế. Kiều Đàm Di hay Cù Đàm Di là tên tộc phiên âm của Gotami, tên đầy đủ theo Pàli ngữ Mahàpajàpati-Gotami, Hán ngữ phiên âm Ma Ha Ba Xà Ba Đề, Hán dịch Đái Ái Đạo, Đại Sinh Chủ hoặc Đại Ái Đạo Kiều Đàm Di, là di mẫu của thái tử Tất Đạt Đa. Nữ Tôn giả Kiều Đàm Di sinh trưởng tại Devadaha, nước Câu Ly (KoLy), một nước nhỏ đối diện với Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu), con của vua Thiện Giác (Suppa Buddha), em gái của hoàng hậu Ma Da (Mahà Mayà), cả hai chị em đều là vợ của vua Tịnh Phạn (Suddhodana). 
1. Tâm vô niệm Luận Đại thừa Khởi tín của ngài Mã Minh nói: “Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp. Pháp giới Một tướng này tức là Pháp thân bình đẳng của chư Như Lai. Pháp thân này tất cả chúng sanh vốn có, nên gọi là Bản giác”. Luận nói tiếp: “Thế nên chúng sanh nào quán sát vô niệm thì chúng sanh đó đã hướng về Trí Phật”.
Ngài Ma Ha Ca Diếp là một trong 10 vị đại đệ tử của Đức Phật trong lịch sử thời Đức Phật còn tại thế. Ngài không bao giờ mặc những tấm y còn mới tốt mà Ngài thường ra lựa ở những đống rác, tìm những mảnh vải người ta đã bỏ, Ngài đem về giặt, rồi may, nối lại Ngài mặc. Còn ngày thường chỉ ở nơi những gò mả, những chòi tranh, đi lang thang chứ Ngài không ở những nơi sang, đẹp. Thực tế Ngài thường thích ở nơi rùng, núi, lên những hang động, leo đồi, leo núi, ngồi thiền ở trên đó. Cách sống của Ngài rất đơn giản. 
Pháp âm
Pháp thoại
TÌM KIẾM
- Kinh Kim Cang dạy: Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm (đừng trụ tâm vào bất kỳ thứ gì). Hễ có một chỗ (một đối tượng, một ý niệm, một cảm giác) thì tức là còn trụ. Vô sở trụ tức là không nghĩ thiện cũng không nghĩ ác. Bạn hãy dụng công ngay nơi đây. Nếu tâm chú ý vào chuyện gì đó, nghĩ tốt hay xấu về nó thì tức là chấp trước, là dính mắc rồi đó.
- Có tôn giáo chủ trương rằng mọi sự đều do thần chi phối. Nếu do thần chi phối thì làm thiện làm ác chẳng có liên can gì tới mình. Nhưng tới khi chịu quả báo thì mình phải gánh, thần chẳng giúp gì được. Ðây là chỗ chẳng hợp lý.
- Tâm của chúng sinh thì như cái nút bật đèn: Mở nút thì ánh sáng của Phật chiếu sáng. Tắt đi thì hào quang Phật chẳng thể chiếu rọi.
- Người xuất gia nên cùng nhau ở trong một đại tùng lâm (chùa lớn) để cùng nhau tu đạo, khuyến khích và cảnh tỉnh lẫn nhau. Khi ở đơn độc trong một ngôi nhà (tịnh xá) nhỏ, nếu bạn không dụng công tu hành, cũng chẳng ai kiểm soát. Bạn muốn ăn ngon, cũng chẳng ai nói. Bạn muốn ăn thịt, uống rượu, đều chẳng rắc rối gì. Người cư sĩ cho rằng (ở đơn độc) như vậy là công đức lắm, kỳ thật họ chỉ giúp cho những người xuất gia ấy đọa địa ngục mà thôi.
- Thịt gì ăn vào, thịt ấy sẽ duy trì mạng sống của thân bạn. Trải qua thời gian lâu lâu, khí chất thân bạn toàn do khí chất của những thứ thịt ấy làm ra: Nào là khí của heo, khí của bò... Máu của bạn cũng là máu của chúng. Do đó thịt của bạn cũng biến thành thịt của chúng. Xin các bạn có trí huệ hãy suy nghĩ thâm sâu về việc này.
- Chớ nên đi đâu cũng nói lỗi người: Y làm vậy sai, làm kia trật. Làm vậy là bạn trồng nhân đau khổ (sai trái với luật nhân quả) đấy.
- Thử hỏi rằng tâm bồ đề thì ra sao? Tâm ấy vô hình vô tướng, chỉ là sự giác ngộ.
- Các bạn hãy thành thật nghĩ xem: Mọi chuyện rắc rối, phiền não từ đâu ra? Ðều là do chấp trước (dính mắc) vào cái tôi mà ra.
- Người xuất gia cần có nhân cách cao thượng, xuất sắc. Không nên a dua, chạy theo thói đời, ăn no ngồi rồi, làm Phật giáo khí độ trầm trệ u ám, chẳng chút sáng lạn.
- Vì sao người tại gia không được nhận đồ cúng dường? Vì không xuất gia thì bạn không phải là một trong Tam Bảo (chỉ có Tam Bảo thì mới thọ cúng dường). Bạn không thể tự mình sáng lập ra cái bảo thứ tư (Tứ Bảo).
- Nhiều người không hiểu Tam Bảo là gì. Lại còn có cư sĩ muốn lập ra Tứ Bảo. Thế là không phải cư sĩ cúng dường Tam Bảo, mà là Tam Bảo phải cúng dường cư sĩ! Chẳng mấy chốc có lẽ sẽ sản sinh ra Ngũ Bảo, Lục Bảo, Thất Bảo...! Nếu đây không phải là biểu hiện của thời Mạt Pháp thì là gì?
- Không nên sát sinh! Tất cả chúng sinh từ kiếp vô thủy đến nay, đều là cha mẹ, thân bằng quyến thuộc của ta cả. Ðời trước có thể là cha mẹ tạo tội nghiệp nên kiếp này họ đọa làm heo, bò, dê, ngựa... Nếu bạn mặc tình sát hại súc vật, thì gián tiếp giết hại cha mẹ mình rồi đó.
- Hãy thuận theo tự nhiên, theo quy luật sinh lý mà phát triển (vì thiên nhiên rất điều độ, quy củ, hài hòa). Không nên ăn uống bất thường, nói năng loạn xạ. Hoặc uống rượu, hút thuốc, xì ke ma túy, cho tới lạm dụng trong cái nhìn, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, và suy tư. Những việc ấy đều tổn hại đến thân thể và linh tánh của bạn.
- Khi gặp kẻ nói thị phi, chuyên môn đặt điều, bêu xấu về bạn: Bất luận là oan uổng tới đâu, bạn phải nhẫn nhục. Ðó đều là nợ nghiệp từ kiếp trước, đời này tới đòi. Do đó bạn chẳng thể chống đối không trả. Nợ trả hết rồi thì trời xanh trong vắt, không còn phiền não, hết âu lo.
- Sáu tông chỉ: Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối là pháp bảo cắt đứt dục vọng, khiến bạn hoạch đặng trí huệ chân chính.
- Không phải chỉ có ngồi thiền, lạy Phật mới là tu. Ăn uống, mặc áo quần, nhất cử nhất động đều là tu cả.
- Người tu phải: Chỉ biết việc cày cuốc, chớ hỏi chuyện thu hoạch. Bất luận làm gì, cũng phải hết lòng hết sức, đừng suy tính tới kết quả sẽ hưởng được lợi ích gì.
- Nếu suốt ngày bạn không phí phạm lời nói, không nghĩ chuyện vô vị; bạn điều hòa tâm tình khiến cho yên ổn thái nhiên, không buộc trói, không quái ngại, không nhân ngã, không thị phi thì đó không phải là âm nhạc rồi sao?
- Chữ Tự và chữ Ðại hợp lại thành chữ Xú (hôi thối). Bạn mà cao ngạo tự đại thì hôi thối rùm trời, không ai dám tới gần. Ai cũng muốn bịt mũi chạy trốn, không dám gần gũi.
- Lăng Nghiêm đại định không phải do ngồi thiền luyện thành. Trong lúc đi đứng nằm ngồi, nếu bạn không bị cảnh giới bên ngoài làm tâm động, không bị vọng tưởng quấy nhiễu thì đó mới là định.
- Mình không nên sợ nghèo cùng. Nghèo cùng không chướng ngại đạo. Chỉ sợ ma: Ma tức là tà tri tà kiến (kiến giải và cái nhìn sai lầm lệch lạc về chân lý). Hễ có tà tri tà kiến thì tu pháp môn gì cũng sẽ không được tương ưng.
- Nếu tám thứ gió: Khen ngợi, chê bai, đắng cay, ngọt ngào, lợi, suy, hủy nhục, vinh dự làm bạn động tâm thì nền móng tu hành của bạn chưa vững chắc.
- Người trẻ đừng để thứ dơ bẩn ràng buộc. Hãy có thái độ: Lạnh tới đâu, cũng hiên ngang ưởn ngực đón gió; đói tới đâu, cũng phây phây gồng bụng tiến bước. Hãy làm ngọn đuốc sáng trong cơn gió dữ, thứ vàng ròng trong ngọn lửa đỏ. Không sợ gì hết.
- Người chuyên tâm học đạo thì bất luận ai thuyết pháp hay dở thế nào, y cũng chú mục ngưng thần, cung kính lắng nghe. Kẻ không chú ý thì sẽ ngủ gật. Ðó là thử thách để đào luyện giữa cái thật và giả.
- (Ðể dành) tài sản cho lớn thì sau này con cháu cũng lớn gan lắm: Chúng chẳng sợ gì cả, mặc tình làm càn cho tới tán gia bại sản, mới ngừng tay. Ðể lại gia sản ít ỏi thì sau này con cháu cũng gan nhỏ: Chuyện gì cũng xong, (không tham vọng) do đó họa cũng ít.
- Sự thành công của người đời là sự thất bại của thánh hiền. Do đó trương mục (nghiệp) của mình phải thanh toán cho rõ ràng. Hãy làm người sáng suốt. Một khi sáng suốt thì vĩnh viễn bạn sẽ sáng suốt. Hãy phá sập cửa sinh tử, nhảy thoát khỏi vòng sinh tử. Ðó mới thật là việc của đấng đại trượng phu.
- Người quân tử tìm đáp án nơi chính mình. Kẻ tiểu nhân thì tìm cầu nơi kẻ khác. Kẻ tiểu nhân lúc nào cũng hướng ngoại.
- Ðời đời kiếp kiếp mình trôi dạt trong biển khổ. Tuy muốn tu hành nhưng mình lại không thể buông xả những thứ rác rưởi. Thủy chung không muốn mình thanh tịnh, sạch bụi bặm. Thật đáng thương xót.
- Giúp người là nguồn cội của khoái lạc hạnh phúc. Nếu bạn thường thường xem việc giúp người cũng quan trọng như giúp mình thì thế giới sẽ rất hòa bình yên ổn.
- Nhiều người làm đồ chay như thịt gà, vịt hay thịt cá, là vì họ chưa quên được mùi vị của thịt thà. Cứ muốn nếm nó. Họ nói rằng ăn thịt giả như vậy để đở thèm, lừa cái khẩu vị. Trong Phật giáo, nhất định phải sửa đổi thói xấu này. Nếu không sửa đổi, trãi qua thời gian lâu dài, e chẳng còn người xuất gia nào ăn chay nữa.
- Tôi nghĩ rằng đã ăn chay thì ngay cả tên món ăn cũng không nên đặt tên gà vịt gì đó vào. Tôi hy vọng rằng mỗi người tín đồ Phật giáo cần có con mắt hiểu biết chân lý (trạch pháp nhãn). Mình phải hiểu nhân quả, chớ lầm lẫn trong quá trình gieo nhân, thọ quả.
- Ăn chay thì ăn cho thanh tịnh, đừng nhớ mãi mùi vị thịt. Người ta làm đồ ăn theo hình dáng con chim con cá, (tuy giả), thì chẳng khác gì làm nhục đạo Phật. Người tín đồ không quan sát rõ ràng, tùy tiện cho là được. Căn bản làm vậy là thiếu trí huệ, không có mắt nhận biết chân lý, không thấu suốt nhân quả, chỉ mơ hồ mê muội mà thôi.
- Khi động vật bị giết, trong tâm chúng chất chứa lòng oán độc. Ngay lúc lâm chung, lòng chúng sợ hãi, thù hằn, muốn báo thù. Tâm lý oán độc căm thù ấy sản sinh ra độc tố khiến người ăn thịt nó sẽ ăn độc tố ấy.
- Người ta gặp tai nạn họa hoạn bất ngờ, đều do nói lời loạn xạ (vô trách nhiệm, ác độc, lếu láo...) mà ra.
- Mọi chuyện trên đời đều hết sức vi diệu, nhưng ít người nhận ra. Vì như, bán thuốc giả thì làm ăn khá lắm, còn bán thuốc thiệt thì lại ế ẫm. Vì sao? Bởi vì không mấy người thật sự nhận thức giá trị của thuốc thiệt.
- Nếu mình dịch hết kinh điển ra mọi thứ tiếng, đem Phật pháp tới tâm mỗi người thì đó mới là việc vĩnh cửu.
- Tại sao ở chùa nhỏ thì không tốt? Bởi ở đó, bạn sẽ chẳng có gì ràng buộc. Tha hồ ăn mặc, ngủ nghỉ, đi đứng; rất dễ quên mất việc tu đạo. Mỗi ngày chỉ biết có phan duyên. Thói quen này là đòn phá hoại đạo Phật đến chí mạng.
- Có người nghi: Thiệt có vua Diêm La và quỷ Vô Thường chăng?
- Xem thử bạn có chết hay không? Nếu bạn chẳng chết thì sẽ chẳng có quỷ vô thường. Nếu bạn khẳng định tự tin, cho rằng chẳng thọ quả báo, thì chẳng có vua Diêm La.
- Có định lực thì động tỉnh đều không hai (không có khác biệt). Như lúc trong cảnh động, bạn không bị cảnh ấy chi phối, đó tức là tỉnh. Trong cảnh tỉnh, bạn không bị vọng tưởng quấy nhiễu, đó tức là động. Nếu bạn tu sao cho động và tỉnh như nhau, công phu sẽ đúc kết như thành một khối. Lúc ấy cũng không phải là động, cũng chẳng phải là tỉnh, chẳng phải không, chẳng phải có. Ðó chính là trung đạo.
- Mình đừng nên vui thích nghe lời khen ngợi tán thán. Ðừng nên tự mình say sưa, tự quảng cáo mình.
- Nếu bạn biết sám hối, sửa mình thành người mới, biết lỗi lầm mình làm, giải kết tội nghiệp đã tạo thì tội sẽ tiêu trừ hết sạch. Như bịnh mà toát mồ hôi rồi thì bịnh sẽ từ từ thuyên giảm rồi lành hẳn.
- Thời đại này người ta gọi là thời đại thái không. Rốt ráo thế nào là thái không? Thái không nghĩa là nhìn xuyên vạn sự, buông xả mọi thứ, đạt tới tự tại.
- Khi bạn chấp trước vào vật chất, tài sản, thậm chí vào ăn mặc, thì tức là bạn chấp trước vào tài sắc danh thực thùy rồi. Vậy tức không còn là thái không mà là thái hữu! (chữ thái còn có nghĩa là quá, quá mức: Không còn quá không mà là quá có!)
- Tới chỗ bạn chẳng còn gì cả thì bạn mới khôi phục lại bản lai diện mục.
- Vì sao bạn chẳng có trí huệ, thần thông? Bởi vì bạn cứ chạy khắp nơi lượm lặt rác rưởi. Ngọc ngà châu báu bạn chẳng thèm, thứ quý báu sẵn có không ham, lại đem vất đi. Vậy mà bạn vẫn cho rằng mình thông minh lắm! Thật thì ngu si quá vậy.
- Có tội lỗi mà không sửa đổi, lại che dấu nó đi, khiến người không biết: Ðó chính là tội đội thêm tội.
- Không có chú Lăng Nghiêm trên đời thì ma quỷ yêu quái tha hồ thao túng, chẳng chút úy kỵ, mặc tình hoành hành. Nếu còn có chú Lăng Nghiêm thì những thứ bàng môn tả đạo, ly mỵ vọng lượng, sơn yêu thủy quái vẫn còn sợ hãi, không dám công nhiên xuất hiện trên đời.
- Tu nhưng không phát nguyện thì cũng như cây khai hoa nhưng không kết trái. Chẳng thể được.
- Những đều mình gặp và trãi qua trong đời đều là do nghiệp lực kiếp trước tạo thành. Nếu muốn sửa đổi vận mạng của mình thì bạn phải làm thật nhiều việc công đức.
- Phật không có lòng sân giận. Ma mới có.
- Ma do đâu mà thành? Do có năm thứ độc: Hận thù, oán ghét, phiền não, tức giận, phiền muộn tạo thành.
- Bạn cần lập đại chí, làm đại sự. Ðừng nên nghĩ chuyện làm quan, kiếm nhiều tiền. Ðó chỉ là để mình hưởng thụ, không có cống hiến gì đến nhân loại.
- Có người tới chùa cho rằng thắp càng nhiều nhang thì càng được nhiều công đức. Ðây là quan niệm sai lầm. Thắp nhang cúng Phật là biểu lộ lòng thành, nên một nén là đủ. Sao cần dùng cho nhiều? Nếu tâm không thành khẩn thì thắp nhiều cũng chẳng cảm ứng. Phật không đến để ngửi mùi hương đâu.
- Ðạo Phật không chủ trương đốt tiền giấy, (giấy vàng mạ, hình nộm xe cộ, tàu bè; áo quần giấy, dày dép vật dụng bằng giấy).
- Các bạn xem xét, chỉnh đốn lại những kinh điển mà mình đã phiên dịch trước kia. Cần chính xác, trung thật, khế hợp với ý Phật. Ðó là nguyện vọng của tôi, hy vọng các bạn cùng nhau nỗ lực hoàn thành sứ mạng này.
- Sân giận thì như nước bị đông cứng thành băng. Mình cần đem băng làm tan thành nước, vì nước thì lợi ích vạn vật.
- Người xuất gia thì phải nghiêm trang trong bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi. Rằng: Ði nhẹ như gió thoảng, ngồi yên như chuông đồng, đứng thẳng như cây tùng, nằm gọn như cây cung.
- Tu hành thì phải tu trung đạo. Quá lố: Không phải trung đạo. Quá ít: Cũng không là trung đạo. Ðức Phật dạy nghĩa rốt ráo của trung đạo thì không rơi vào không cũng chẳng nghiêng về có.
- Không có giới lực thì sẽ chẳng có định lực. Thiếu định lực thì chẳng thể sinh huệ lực. Khi nền móng không vững thì cột trụ dựng lên không thể chắc chắn, tường vách sẽ xiêu vẹo gãy đổ. Giới định huệ, là ba môn học vô lậu, thiếu một, không xong. Các bạn hãy chú ý điểm này.
nh điển hình
Kinh sách mới
Chú Lăng Nghiêm là Chú quan trọng nhất, hơn hết thảy trong các Chú. Bao gồm hết thảy thể chất và diệu dụng của Phật Pháp. Chú này chia làm năm bộ : Kim Cang bộ, Bảo Sinh bộ, Liên Hoa bộ, Phật bộ và Nghiệp bộ. Năm bộ Kinh này thuộc về năm phương : 1. Kim Cang bộ : Thuộc về phương Ðông, Ðức Phật A Súc là chủ. 2. Bảo Sinh bộ : Thuộc về phương Nam, Đức Phật Bảo Sinh là chủ. 3. Phật bộ : Thuộc về chính giữa, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là chủ. 4. Liên Hoa bộ : Thuộc về phương Tây, Đức Phật A Di Ðà là chủ. 5. Nghiệp bộ : Thuộc về phương Bắc, Đức Phật Thành Tựu là chủ.
Nếu người không có căn lành, thì đừng nói đến tụng niệm, dù ba chữ « Chú Lăng Nghiêm » cũng không nghe được, cũng không có cơ hội nghe được. Các vị bây giờ dùng máy vi tính tính thử xem, dùng thần não của bạn tính thử xem, hiện tại trên thế giới nầy, người tụng Chú Lăng Nghiêm nhiều, hay là người không biết tụng Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Người nghe được tên Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Hay là người không nghe được tên Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Cho nên các vị đừng xem mình là người rất bình thường, bạn đã nghe được Phật pháp, đây đều là trong vô lượng kiếp về trước đã từng gieo trồng căn lành, đắc được diệu pháp thâm sâu vô thượng, các vị đừng để pháp môn nầy trôi qua.
Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy còn gọi là Kinh Pháp Giới, cũng gọi là Kinh Hư Không, tận hư không khắp pháp giới, chẳng có một nơi nào mà chẳng có Kinh Hoa Nghiêm ở đó. Chỗ ở của Kinh Hoa Nghiêm tức cũng là chỗ ở của Phật, cũng là chỗ ở của Pháp, cũng là chỗ ở của Hiền Thánh Tăng. Cho nên khi Phật vừa mới thành chánh giác, thì nói bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, để giáo hoá tất cả pháp thân Ðại Sĩ . Vì bộ Kinh nầy là Kinh vi diệu không thể nghĩ bàn, do đó bộ Kinh nầy được bảo tồn ở dưới Long cung, do Long Vương bảo hộ giữ gìn. Về sau do Ngài Bồ Tát Long Thọ, xuống dưới Long cung đọc thuộc lòng và ghi nhớ bộ Kinh nầy, sau đó lưu truyền trên thế gian.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử ở chỗ Dạ Thần Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sinh, nghe môn giải thoát Phổ hỉ tràng, tin hiểu hướng vào, biết rõ tuỳ thuận, suy gẫm tu tập. Nhớ hết những lời dạy của thiện tri thức, tâm không tạm xả, các căn chẳng tán, một lòng muốn gặp được thiện tri thức. Siêng cầu khắp mười phương không giải đãi. Muốn thường gần gũi sinh các công đức, đồng một căn lành với thiện tri thức. Đắc được hạnh phương tiện thiện xảo của thiện tri thức. Nương thiện tri thức vào biển tinh tấn, trong vô lượng kiếp thường chẳng xa lìa. Nguyện như vậy rồi, bèn đi đến chỗ Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sinh Diệu Đức.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử một lòng muốn đi đến chỗ Ma Gia phu nhân, tức thời đắc được trí huệ quán cảnh giới Phật.Bèn nghĩ như vầy: Thiện tri thức nầy xa lìa thế gian. Trụ nơi không chỗ trụ, vượt qua sáu xứ. Lìa tất cả chấp trước. Biết đạo vô ngại, đủ tịnh pháp thân. Dùng nghiệp như huyễn mà hiện hoá thân. Dùng trí như huyễn mà quán thế gian. Dùng nguyện như huyễn mà giữ thân Phật. Thân tuỳ ý sinh, thân không sinh diệt, thân không đến đi, thân chẳng hư thật, thân chẳng biến hoại, thân không khởi tận, thân hết thảy tướng đều một tướng, thân lìa hai bên, thân không y xứ, thân vô cùng tận, ...
Tôi tin rằng bộ Kinh nầy được giảng lần đầu tiên tại nước Mỹ, các vị cũng là những người đầu tiên được nghe. Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, là vua trong các Kinh Phật, cũng là vua trong vua. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa cũng là vua trong các Kinh, nhưng không thể gọi là vua trong vua. Bộ Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật nầy, là vua trong vua, là bộ Kinh dài nhất trong Kinh điển đại thừa mà đức Phật nói, nhưng thời gian nói không dài quá, chỉ trong hai mươi mốt ngày, thì đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói xong bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ở trong năm tầng nghĩa lý huyền diệu, thì huyền nghĩa thứ nhất là giải thích tên Kinh. Bộ Kinh nầy dùng Diệu Pháp Liên Hoa làm tên. Diệu Pháp là pháp, Liên Hoa là ví dụ, vì Phật Pháp vi diệu thâm sâu, một số người không dễ gì hiểu nổi, cho nên dùng liên hoa (hoa sen) để ví dụ, do đó bộ Kinh nầy lấy pháp và dụ làm tên. Cứu kính thì diệu pháp là gì ? diệu đến cỡ nào ? tốt đến cỡ nào ? Nay tôi nói cho bạn biết, sự diệu nầy không thể dùng tâm suy nghĩ, không thể dùng lời bàn luận, không thể dùng tâm để dò, nghĩ cũng nghĩ không hiểu nổi; nghĩ muốn hiểu biết thì nói không đến được sự diệu của nó.
Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất hớn hở vui mừng, bèn đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, mà bạch Phật rằng : Hôm nay nghe đức Thế Tôn nói pháp nầy, tâm con rất hớn hở được chưa từng có. Tại sao ? Vì xưa kia con theo Phật nghe pháp như vầy : Thấy các vị Bồ Tát được thọ ký sẽ thành Phật, mà chúng con chẳng được dự vào việc đó, rất tự cảm thương, mất đi vô lượng tri kiến của Như Lai. Ðức Thế Tôn ! Con thường một mình ở dưới gốc cây nơi rừng núi, hoặc ngồi hoặc đi kinh hành, bèn nghĩ thế nầy : Chúng con đồng vào pháp tánh, tại sao đức Như Lai dùng pháp tiểu thừa mà tế độ ? Ðó là lỗi của chúng con, chứ chẳng phải đức Thế Tôn vậy.
Quyển Ý Nghĩa Đời Người này rất thâm thuý, tuy cố H.T Tuyên Hoá thuyết giảng lời lẽ giản dị, mộc mạc, nhưng nghĩa lý rất cao thâm huyền diệu, đi vào tâm người. Nếu người tu học, đọc hết quyển sách này, y theo trong đó mà thực hành, thì sẽ giác ngộ được ít nhiều ngay trong đời này, không cần phải tìm cầu đâu xa vời. Đặc biệt cố Hoà Thượng nhấn mạnh về Sáu Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thành đó là : Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tư lợi, không nói dối. Sáu đại tông chỉ này cũng có thể nói là kim chỉ nam của người tu hành, dù xuất gia, hay tại gia, đều lợi lạc vô cùng, nhất là thời đại ngày nay.