|
|
|
|
|
|
Ngày xưa có một phú ông rất thích trà, phàm là người đến nhà dùng trà, dù là người nghèo hay giàu thì ông đều sẽ sai gia nhân chiêu đãi. Một hôm, có một tên ăn mày rách rưới đứng trước cửa, không xin cơm, chỉ xin bát trà. Gia nhân cho hắn vào nhà, đun trà cho hắn. Tên ăn mày nhìn nhìn rồi nói: “Trà không ngon”. Gia nhân nhìn hắn lấy làm lạ, rồi cũng đổi một bát trà khác ngon hơn.
Khu phố cô ở có chừng 100 căn nhà, dãy bên phía nhà cô nhà nào cũng nằm trên một con dốc thoai thoải, không cao lắm, còn phía bên kia thì bằng phẳng hơn, với những sân cỏ xanh mướt. Đặc biệt căn nhà đối diện nhà cô, chủ nhân là đôi vợ chồng già, màu da hơi sậm. Sân cỏ trước nhà ông bà này rất đẹp, xanh mướt như nhung và không hề có một gốc cỏ dại. Chiều chiều, ông bà hay ra ngồi xổm xuống để nhặt lá vàng và nhổ những cọng cỏ dại mới nhú, hình ảnh rất quen thuộc với đám trẻ con hàng ngày lên xuống xe bus đưa đón học sinh ở góc phố cạnh đó.
Tôi biết anh khi cùng đến trình diện “học tập” tại trường Pétrus Ký ngày 24 tháng 6 năm 1975. Anh sinh năm 1942, tốt nghiệp khóa 1 Chánh Trị Kinh Doanh Đà Lạt. Sau khi ra trường, anh bị động viên khóa 9/68 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, rồi được biệt phái làm việc ở Kỹ Thương Ngân Hàng, tức Ngân hàng Quân Đội ở đường Nguyễn Huệ, Sài Gòn. Anh là một thanh niên khỏe mạnh, to cao, chưa lập gia đình. Vì cận thị nên lúc nào cũng mang kính trắng. Trông anh ai cũng dễ nhận ra anh là một trí thức giàu tiềm năng, nhiều nghị lực.
Ở một ngã tư trên đường từ hãng làm về nhà mỗi khi ngừng xe chờ đèn xanh, mấy lúc gần đây tôi thường thấy một ông già người Mỹ đứng đó xin tiền, chờ khi đèn đỏ tất cả xe ngừng lại thì đi ngược theo đoàn xe dọc lề đường cầm một tấm carton có mấy chữ nguệch ngoạc trên đó: "I am hungry. Will work for food. God Bless". Những hình ảnh tương tự như vầy tôi vẫn hay thấy ở những ngã tư đèn xanh đèn đỏ rãi rác trong thành phố, nên gần như tôi không chú ý gì tới người Mỹ già này.
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2015. Ông sinh năm 1952, dân Sài gòn, cựu sinh viên Văn Khoa, cựu Sĩ quan Quân đội Miền Nam, một trung đội trưởng tác chiến. Hồi cuối cuộc chiến, chàng là một thương binh và buổi sáng ngày 1 tháng Năm 1975, bị đuổi ra khỏi quân y viện… Bài viết mới của tác giả không kể chuyện xảy ra trên đất Mỹ, nhưng là một hồi ức sống thực về cuộc chiến còn trong tâm tưởng biết bao người ở Mỹ.
Tôi 75 tuổi, có 4 người con, sau khi nằm viện một mình, tôi nhận ra: Tuổi già không cần dựa vào con cái là thoải mái nhất! Tôi có 2 con trai và 2 con gái. Khi các con còn nhỏ, tôi rất tự hào về 4 đứa con của mình nhưng khi chúng trưởng thành, cả 4 người đều khiến tôi thất vọng. Vợ chồng tôi đều từng làm việc ở một cơ quan, điều kiện gia đình tương đối tốt, chúng tôi cũng đã dạy dỗ 4 đứa con rất tốt. Các con đều có học thức cao, công ăn việc làm ổn định. 3 đứa lên tỉnh làm ăn còn cô con gái lớn nhất cũng lấy chồng sớm, không mấy khi về thăm chúng tôi.
Trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, Gia Cát Lượng 3 lần chọc tức Chu Du, rốt cuộc đã khiến Chu Du tức giận mà chết. Tại Chu Du hay tại Gia Cát Lượng ? Kết luận là tại Chu Du, khí lượng ông ta hẹp hòi quá. Tức giận nguy hại rất lớn cho người ta. Hiện nay có một lý thuyết mới, tất cả các động vật đều không có công năng cười, duy loài người có công năng đó. Nhưng loài người chưa biết sử dụng công năng đó. Xưa có câu: một nụ cười trẻ ra 10 tuổi. Không phải chỉ tuổi tác mà chỉ tâm thái, miệng hay cười, người hay khoẻ. Tác dụng của cười rất lớn, cười tránh được rất nhiều bệnh.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
- Sinh mạng không phải là tiền bạc, mà là vô giá bảo. Sinh mạng chẳng thể dùng tiền bạc mua bán. Song có người ở trên đời bán rẻ sinh mạng của mình, cam tâm tình nguyện hy sinh thân mạng để đổi lấy đồng tiền. Trong xã hội, (bất kỳ là người ở trong) tam giáo cửu lưu, ngũ phương bát đức, vì đồng tiền họ có thể bán đứt linh hồn và sinh mạng.
- Ðại công vô tư nghĩa là không ích kỷ, không tự lợi, không có dục vọng. Ðối với tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ thì hoàn toàn không dính mắc, chẳng tham chẳng ái.
- Do kiếp trước tu hành nên kiếp này chuyện gì cũng suông sẽ. Nếu kiếp này tu hành thì kiếp sau còn tốt hơn nữa. Nếu không tu thì tương lai tuyệt đối sẽ không thể như đời này. Ðời sau thuận hay nghịch đều hoàn toàn do mình quyết định. Phật Bồ Tát không thể giúp gì mình được.
- Một tô canh đầy thịt cá (tuy nhỏ), song chứa đựng lòng oán hận, thù hằn sâu như biển. Nói chẳng hết nổi oán thù ấy.
- Trong thịt có chứa một thứ khí ô trược. Ðó là vì nó phát xuất từ vật ô trược mà ra. Vì thế người ăn thịt thì khó có thể trì giới, khó khai trí huệ, khó đắc tam muội.
- Có bạn không xem việc học Phật pháp là trọng yếu, chuyện gia đình mới quan trọng. Họ nói rằng: Tôi phải làm tròn trách nhiệm của tôi đã. Ðến khi y chết, ai gánh trách nhiệm đây? Rõ là y không biết tính toán!
- Không phải chỉ có làm hai thời công phu sáng và tối rồi gọi là tu. Bình thường, nhất cử nhất động, mỗi lời mỗi việc, mình phải tuân theo tiết tấu, quy luật. Bởi vì mỗi người ai cũng có âm nhạc của tự tánh.
- Vì tâm không bình an nên mình mới cần âm nhạc bên ngoài giúp điều hòa tâm thái bên trong. Nếu tâm bạn lúc nào cũng yên ổn bình hòa, tràn ngập một không khí hòa điệu an lạc, thì đó mới chân chính là âm nhạc.
- Các bạn đã tới núi châu báu, chớ nên ra về tay không.
- Ðừng nên vì bị chửi rủa, sàm báng mà khởi lòng oán hận. Hãy xem kẻ oán người thân giống nhau, dùng lòng nhân đối đãi. Nếu chẳng thế, làm sao bạn có thể diễn bày sức mạnh của lòng từ bi phát sinh từ vô sinh pháp nhẫn (Tính nhẫn nại do chứng ngộ sự không tịch của cái ngã, của người và vạn pháp).
- Mỗi ngày mình phải phản tỉnh: Thời gian suy nghĩ, tính toán cho mình nhiều hay cho kẻ khác nhiều? Hay cho chùa nhiều? Phản tỉnh như vậy bạn sẽ biết mình có phá sự chấp ngã (chấp trước vào cái tôi) hay không.
- Hãy phản tỉnh, xem công phu nhẫn nhục ra sao? Nếu bị người ta vô duyên vô cớ nhục mạ, đánh đập, mình nhẫn nhục được chăng? Nổi giận chăng? Sinh tâm báo thù chăng? Nếu có thì chấp ngã vẫn còn, chưa trừ.
- Xin khuyên các vị giàu có: Hãy làm việc công ích, đạo đức, tế thế cứu đời. Ðó mới là công đức vô lượng!
- Có người nghĩ như vậy: Khi tôi già, không biết có chết đói, chết lạnh chăng? Ý nghĩ này thật kém cõi.
- Các bạn biết chăng: Vì chẳng chịu buông bỏ, chẳng chịu bố thí, chẳng có lòng đồng tình, không biết thương xót mà mình phải luân chuyển không ngừng trong vòng sinh tử.
- Kinh Kim Cang dạy: Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm (đừng trụ tâm vào bất kỳ thứ gì). Hễ có một chỗ (một đối tượng, một ý niệm, một cảm giác) thì tức là còn trụ. Vô sở trụ tức là không nghĩ thiện cũng không nghĩ ác. Bạn hãy dụng công ngay nơi đây. Nếu tâm chú ý vào chuyện gì đó, nghĩ tốt hay xấu về nó thì tức là chấp trước, là dính mắc rồi đó.
- Có tôn giáo chủ trương rằng mọi sự đều do thần chi phối. Nếu do thần chi phối thì làm thiện làm ác chẳng có liên can gì tới mình. Nhưng tới khi chịu quả báo thì mình phải gánh, thần chẳng giúp gì được. Ðây là chỗ chẳng hợp lý.
- Tâm của chúng sinh thì như cái nút bật đèn: Mở nút thì ánh sáng của Phật chiếu sáng. Tắt đi thì hào quang Phật chẳng thể chiếu rọi.
- Người xuất gia nên cùng nhau ở trong một đại tùng lâm (chùa lớn) để cùng nhau tu đạo, khuyến khích và cảnh tỉnh lẫn nhau. Khi ở đơn độc trong một ngôi nhà (tịnh xá) nhỏ, nếu bạn không dụng công tu hành, cũng chẳng ai kiểm soát. Bạn muốn ăn ngon, cũng chẳng ai nói. Bạn muốn ăn thịt, uống rượu, đều chẳng rắc rối gì. Người cư sĩ cho rằng (ở đơn độc) như vậy là công đức lắm, kỳ thật họ chỉ giúp cho những người xuất gia ấy đọa địa ngục mà thôi.
- Thịt gì ăn vào, thịt ấy sẽ duy trì mạng sống của thân bạn. Trải qua thời gian lâu lâu, khí chất thân bạn toàn do khí chất của những thứ thịt ấy làm ra: Nào là khí của heo, khí của bò... Máu của bạn cũng là máu của chúng. Do đó thịt của bạn cũng biến thành thịt của chúng. Xin các bạn có trí huệ hãy suy nghĩ thâm sâu về việc này.
- Chớ nên đi đâu cũng nói lỗi người: Y làm vậy sai, làm kia trật. Làm vậy là bạn trồng nhân đau khổ (sai trái với luật nhân quả) đấy.
- Thử hỏi rằng tâm bồ đề thì ra sao? Tâm ấy vô hình vô tướng, chỉ là sự giác ngộ.
- Các bạn hãy thành thật nghĩ xem: Mọi chuyện rắc rối, phiền não từ đâu ra? Ðều là do chấp trước (dính mắc) vào cái tôi mà ra.
- Người xuất gia cần có nhân cách cao thượng, xuất sắc. Không nên a dua, chạy theo thói đời, ăn no ngồi rồi, làm Phật giáo khí độ trầm trệ u ám, chẳng chút sáng lạn.
- Vì sao người tại gia không được nhận đồ cúng dường? Vì không xuất gia thì bạn không phải là một trong Tam Bảo (chỉ có Tam Bảo thì mới thọ cúng dường). Bạn không thể tự mình sáng lập ra cái bảo thứ tư (Tứ Bảo).
- Nhiều người không hiểu Tam Bảo là gì. Lại còn có cư sĩ muốn lập ra Tứ Bảo. Thế là không phải cư sĩ cúng dường Tam Bảo, mà là Tam Bảo phải cúng dường cư sĩ! Chẳng mấy chốc có lẽ sẽ sản sinh ra Ngũ Bảo, Lục Bảo, Thất Bảo...! Nếu đây không phải là biểu hiện của thời Mạt Pháp thì là gì?
- Không nên sát sinh! Tất cả chúng sinh từ kiếp vô thủy đến nay, đều là cha mẹ, thân bằng quyến thuộc của ta cả. Ðời trước có thể là cha mẹ tạo tội nghiệp nên kiếp này họ đọa làm heo, bò, dê, ngựa... Nếu bạn mặc tình sát hại súc vật, thì gián tiếp giết hại cha mẹ mình rồi đó.
- Hãy thuận theo tự nhiên, theo quy luật sinh lý mà phát triển (vì thiên nhiên rất điều độ, quy củ, hài hòa). Không nên ăn uống bất thường, nói năng loạn xạ. Hoặc uống rượu, hút thuốc, xì ke ma túy, cho tới lạm dụng trong cái nhìn, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, và suy tư. Những việc ấy đều tổn hại đến thân thể và linh tánh của bạn.
- Khi gặp kẻ nói thị phi, chuyên môn đặt điều, bêu xấu về bạn: Bất luận là oan uổng tới đâu, bạn phải nhẫn nhục. Ðó đều là nợ nghiệp từ kiếp trước, đời này tới đòi. Do đó bạn chẳng thể chống đối không trả. Nợ trả hết rồi thì trời xanh trong vắt, không còn phiền não, hết âu lo.
- Sáu tông chỉ: Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối là pháp bảo cắt đứt dục vọng, khiến bạn hoạch đặng trí huệ chân chính.
- Không phải chỉ có ngồi thiền, lạy Phật mới là tu. Ăn uống, mặc áo quần, nhất cử nhất động đều là tu cả.
- Người tu phải: Chỉ biết việc cày cuốc, chớ hỏi chuyện thu hoạch. Bất luận làm gì, cũng phải hết lòng hết sức, đừng suy tính tới kết quả sẽ hưởng được lợi ích gì.
- Nếu suốt ngày bạn không phí phạm lời nói, không nghĩ chuyện vô vị; bạn điều hòa tâm tình khiến cho yên ổn thái nhiên, không buộc trói, không quái ngại, không nhân ngã, không thị phi thì đó không phải là âm nhạc rồi sao?
- Chữ Tự và chữ Ðại hợp lại thành chữ Xú (hôi thối). Bạn mà cao ngạo tự đại thì hôi thối rùm trời, không ai dám tới gần. Ai cũng muốn bịt mũi chạy trốn, không dám gần gũi.
- Lăng Nghiêm đại định không phải do ngồi thiền luyện thành. Trong lúc đi đứng nằm ngồi, nếu bạn không bị cảnh giới bên ngoài làm tâm động, không bị vọng tưởng quấy nhiễu thì đó mới là định.
- Mình không nên sợ nghèo cùng. Nghèo cùng không chướng ngại đạo. Chỉ sợ ma: Ma tức là tà tri tà kiến (kiến giải và cái nhìn sai lầm lệch lạc về chân lý). Hễ có tà tri tà kiến thì tu pháp môn gì cũng sẽ không được tương ưng.
- Nếu tám thứ gió: Khen ngợi, chê bai, đắng cay, ngọt ngào, lợi, suy, hủy nhục, vinh dự làm bạn động tâm thì nền móng tu hành của bạn chưa vững chắc.
- Người trẻ đừng để thứ dơ bẩn ràng buộc. Hãy có thái độ: Lạnh tới đâu, cũng hiên ngang ưởn ngực đón gió; đói tới đâu, cũng phây phây gồng bụng tiến bước. Hãy làm ngọn đuốc sáng trong cơn gió dữ, thứ vàng ròng trong ngọn lửa đỏ. Không sợ gì hết.
- Người chuyên tâm học đạo thì bất luận ai thuyết pháp hay dở thế nào, y cũng chú mục ngưng thần, cung kính lắng nghe. Kẻ không chú ý thì sẽ ngủ gật. Ðó là thử thách để đào luyện giữa cái thật và giả.
- Ðể dành tài sản cho lớn thì sau này con cháu cũng lớn gan lắm: Chúng chẳng sợ gì cả, mặc tình làm càn cho tới tán gia bại sản, mới ngừng tay. Ðể lại gia sản ít ỏi thì sau này con cháu cũng gan nhỏ: Chuyện gì cũng xong, (không tham vọng) do đó họa cũng ít.
- Sự thành công của người đời là sự thất bại của thánh hiền. Do đó trương mục (nghiệp) của mình phải thanh toán cho rõ ràng. Hãy làm người sáng suốt. Một khi sáng suốt thì vĩnh viễn bạn sẽ sáng suốt. Hãy phá sập cửa sinh tử, nhảy thoát khỏi vòng sinh tử. Ðó mới thật là việc của đấng đại trượng phu.
- Người quân tử tìm đáp án nơi chính mình. Kẻ tiểu nhân thì tìm cầu nơi kẻ khác. Kẻ tiểu nhân lúc nào cũng hướng ngoại.
- Ðời đời kiếp kiếp mình trôi dạt trong biển khổ. Tuy muốn tu hành nhưng mình lại không thể buông xả những thứ rác rưởi. Thủy chung không muốn mình thanh tịnh, sạch bụi bặm. Thật đáng thương xót.
- Giúp người là nguồn cội của khoái lạc hạnh phúc. Nếu bạn thường thường xem việc giúp người cũng quan trọng như giúp mình thì thế giới sẽ rất hòa bình yên ổn.
- Nhiều người làm đồ chay như thịt gà, vịt hay thịt cá, là vì họ chưa quên được mùi vị của thịt thà. Cứ muốn nếm nó. Họ nói rằng ăn thịt giả như vậy để đở thèm, lừa cái khẩu vị. Trong Phật giáo, nhất định phải sửa đổi thói xấu này. Nếu không sửa đổi, trãi qua thời gian lâu dài, e chẳng còn người xuất gia nào ăn chay nữa.
- Tôi nghĩ rằng đã ăn chay thì ngay cả tên món ăn cũng không nên đặt tên gà vịt gì đó vào. Tôi hy vọng rằng mỗi người tín đồ Phật giáo cần có con mắt hiểu biết chân lý (trạch pháp nhãn). Mình phải hiểu nhân quả, chớ lầm lẫn trong quá trình gieo nhân, thọ quả.
- Ăn chay thì ăn cho thanh tịnh, đừng nhớ mãi mùi vị thịt. Người ta làm đồ ăn theo hình dáng con chim con cá, (tuy giả), thì chẳng khác gì làm nhục đạo Phật. Người tín đồ không quan sát rõ ràng, tùy tiện cho là được. Căn bản làm vậy là thiếu trí huệ, không có mắt nhận biết chân lý, không thấu suốt nhân quả, chỉ mơ hồ mê muội mà thôi.
- Khi động vật bị giết, trong tâm chúng chất chứa lòng oán độc. Ngay lúc lâm chung, lòng chúng sợ hãi, thù hằn, muốn báo thù. Tâm lý oán độc căm thù ấy sản sinh ra độc tố khiến người ăn thịt nó sẽ ăn độc tố ấy.
- Người ta gặp tai nạn họa hoạn bất ngờ, đều do nói lời loạn xạ (vô trách nhiệm, ác độc, lếu láo...) mà ra.
- Mọi chuyện trên đời đều hết sức vi diệu, nhưng ít người nhận ra. Vì như, bán thuốc giả thì làm ăn khá lắm, còn bán thuốc thiệt thì lại ế ẫm. Vì sao? Bởi vì không mấy người thật sự nhận thức giá trị của thuốc thiệt.
- Nếu mình dịch hết kinh điển ra mọi thứ tiếng, đem Phật pháp tới tâm mỗi người thì đó mới là việc vĩnh cửu.
- Tại sao ở chùa nhỏ thì không tốt? Bởi ở đó, bạn sẽ chẳng có gì ràng buộc. Tha hồ ăn mặc, ngủ nghỉ, đi đứng; rất dễ quên mất việc tu đạo. Mỗi ngày chỉ biết có phan duyên. Thói quen này là đòn phá hoại đạo Phật đến chí mạng.
- Có người nghi: Thiệt có vua Diêm La và quỷ Vô Thường chăng?
- Xem thử bạn có chết hay không? Nếu bạn chẳng chết thì sẽ chẳng có quỷ vô thường. Nếu bạn khẳng định tự tin, cho rằng chẳng thọ quả báo, thì chẳng có vua Diêm La.
- Có định lực thì động tỉnh đều không hai (không có khác biệt). Như lúc trong cảnh động, bạn không bị cảnh ấy chi phối, đó tức là tỉnh. Trong cảnh tỉnh, bạn không bị vọng tưởng quấy nhiễu, đó tức là động. Nếu bạn tu sao cho động và tỉnh như nhau, công phu sẽ đúc kết như thành một khối. Lúc ấy cũng không phải là động, cũng chẳng phải là tỉnh, chẳng phải không, chẳng phải có. Ðó chính là trung đạo.
- Mình đừng nên vui thích nghe lời khen ngợi tán thán. Ðừng nên tự mình say sưa, tự quảng cáo mình.
- Nếu bạn biết sám hối, sửa mình thành người mới, biết lỗi lầm mình làm, giải kết tội nghiệp đã tạo thì tội sẽ tiêu trừ hết sạch. Như bịnh mà toát mồ hôi rồi thì bịnh sẽ từ từ thuyên giảm rồi lành hẳn.
- Thời đại này người ta gọi là thời đại thái không. Rốt ráo thế nào là thái không? Thái không nghĩa là nhìn xuyên vạn sự, buông xả mọi thứ, đạt tới tự tại.
|
Kinh sách mới
Chú Lăng Nghiêm là Chú quan trọng nhất, hơn hết thảy trong các Chú. Bao gồm hết thảy thể chất và diệu dụng của Phật Pháp. Chú này chia làm năm bộ : Kim Cang bộ, Bảo Sinh bộ, Liên Hoa bộ, Phật bộ và Nghiệp bộ. Năm bộ Kinh này thuộc về năm phương : 1. Kim Cang bộ : Thuộc về phương Ðông, Ðức Phật A Súc là chủ. 2. Bảo Sinh bộ : Thuộc về phương Nam, Đức Phật Bảo Sinh là chủ. 3. Phật bộ : Thuộc về chính giữa, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là chủ. 4. Liên Hoa bộ : Thuộc về phương Tây, Đức Phật A Di Ðà là chủ. 5. Nghiệp bộ : Thuộc về phương Bắc, Đức Phật Thành Tựu là chủ.
Nếu người không có căn lành, thì đừng nói đến tụng niệm, dù ba chữ « Chú Lăng Nghiêm » cũng không nghe được, cũng không có cơ hội nghe được. Các vị bây giờ dùng máy vi tính tính thử xem, dùng thần não của bạn tính thử xem, hiện tại trên thế giới nầy, người tụng Chú Lăng Nghiêm nhiều, hay là người không biết tụng Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Người nghe được tên Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Hay là người không nghe được tên Chú Lăng Nghiêm nhiều ? Cho nên các vị đừng xem mình là người rất bình thường, bạn đã nghe được Phật pháp, đây đều là trong vô lượng kiếp về trước đã từng gieo trồng căn lành, đắc được diệu pháp thâm sâu vô thượng, các vị đừng để pháp môn nầy trôi qua.
Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy còn gọi là Kinh Pháp Giới, cũng gọi là Kinh Hư Không, tận hư không khắp pháp giới, chẳng có một nơi nào mà chẳng có Kinh Hoa Nghiêm ở đó. Chỗ ở của Kinh Hoa Nghiêm tức cũng là chỗ ở của Phật, cũng là chỗ ở của Pháp, cũng là chỗ ở của Hiền Thánh Tăng. Cho nên khi Phật vừa mới thành chánh giác, thì nói bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, để giáo hoá tất cả pháp thân Ðại Sĩ . Vì bộ Kinh nầy là Kinh vi diệu không thể nghĩ bàn, do đó bộ Kinh nầy được bảo tồn ở dưới Long cung, do Long Vương bảo hộ giữ gìn. Về sau do Ngài Bồ Tát Long Thọ, xuống dưới Long cung đọc thuộc lòng và ghi nhớ bộ Kinh nầy, sau đó lưu truyền trên thế gian.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử ở chỗ Dạ Thần Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sinh, nghe môn giải thoát Phổ hỉ tràng, tin hiểu hướng vào, biết rõ tuỳ thuận, suy gẫm tu tập. Nhớ hết những lời dạy của thiện tri thức, tâm không tạm xả, các căn chẳng tán, một lòng muốn gặp được thiện tri thức. Siêng cầu khắp mười phương không giải đãi. Muốn thường gần gũi sinh các công đức, đồng một căn lành với thiện tri thức. Đắc được hạnh phương tiện thiện xảo của thiện tri thức. Nương thiện tri thức vào biển tinh tấn, trong vô lượng kiếp thường chẳng xa lìa. Nguyện như vậy rồi, bèn đi đến chỗ Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sinh Diệu Đức.
Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử một lòng muốn đi đến chỗ Ma Gia phu nhân, tức thời đắc được trí huệ quán cảnh giới Phật.Bèn nghĩ như vầy: Thiện tri thức nầy xa lìa thế gian. Trụ nơi không chỗ trụ, vượt qua sáu xứ. Lìa tất cả chấp trước. Biết đạo vô ngại, đủ tịnh pháp thân. Dùng nghiệp như huyễn mà hiện hoá thân. Dùng trí như huyễn mà quán thế gian. Dùng nguyện như huyễn mà giữ thân Phật. Thân tuỳ ý sinh, thân không sinh diệt, thân không đến đi, thân chẳng hư thật, thân chẳng biến hoại, thân không khởi tận, thân hết thảy tướng đều một tướng, thân lìa hai bên, thân không y xứ, thân vô cùng tận, ...
Tôi tin rằng bộ Kinh nầy được giảng lần đầu tiên tại nước Mỹ, các vị cũng là những người đầu tiên được nghe. Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, là vua trong các Kinh Phật, cũng là vua trong vua. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa cũng là vua trong các Kinh, nhưng không thể gọi là vua trong vua. Bộ Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật nầy, là vua trong vua, là bộ Kinh dài nhất trong Kinh điển đại thừa mà đức Phật nói, nhưng thời gian nói không dài quá, chỉ trong hai mươi mốt ngày, thì đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói xong bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ở trong năm tầng nghĩa lý huyền diệu, thì huyền nghĩa thứ nhất là giải thích tên Kinh. Bộ Kinh nầy dùng Diệu Pháp Liên Hoa làm tên. Diệu Pháp là pháp, Liên Hoa là ví dụ, vì Phật Pháp vi diệu thâm sâu, một số người không dễ gì hiểu nổi, cho nên dùng liên hoa (hoa sen) để ví dụ, do đó bộ Kinh nầy lấy pháp và dụ làm tên. Cứu kính thì diệu pháp là gì ? diệu đến cỡ nào ? tốt đến cỡ nào ? Nay tôi nói cho bạn biết, sự diệu nầy không thể dùng tâm suy nghĩ, không thể dùng lời bàn luận, không thể dùng tâm để dò, nghĩ cũng nghĩ không hiểu nổi; nghĩ muốn hiểu biết thì nói không đến được sự diệu của nó.
Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất hớn hở vui mừng, bèn đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, mà bạch Phật rằng : Hôm nay nghe đức Thế Tôn nói pháp nầy, tâm con rất hớn hở được chưa từng có. Tại sao ? Vì xưa kia con theo Phật nghe pháp như vầy : Thấy các vị Bồ Tát được thọ ký sẽ thành Phật, mà chúng con chẳng được dự vào việc đó, rất tự cảm thương, mất đi vô lượng tri kiến của Như Lai. Ðức Thế Tôn ! Con thường một mình ở dưới gốc cây nơi rừng núi, hoặc ngồi hoặc đi kinh hành, bèn nghĩ thế nầy : Chúng con đồng vào pháp tánh, tại sao đức Như Lai dùng pháp tiểu thừa mà tế độ ? Ðó là lỗi của chúng con, chứ chẳng phải đức Thế Tôn vậy.
Quyển Ý Nghĩa Đời Người này rất thâm thuý, tuy cố H.T Tuyên Hoá thuyết giảng lời lẽ giản dị, mộc mạc, nhưng nghĩa lý rất cao thâm huyền diệu, đi vào tâm người. Nếu người tu học, đọc hết quyển sách này, y theo trong đó mà thực hành, thì sẽ giác ngộ được ít nhiều ngay trong đời này, không cần phải tìm cầu đâu xa vời. Đặc biệt cố Hoà Thượng nhấn mạnh về Sáu Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thành đó là : Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tư lợi, không nói dối. Sáu đại tông chỉ này cũng có thể nói là kim chỉ nam của người tu hành, dù xuất gia, hay tại gia, đều lợi lạc vô cùng, nhất là thời đại ngày nay.
|
|
|