Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh

 
Người Đàn Ông Xuất Gia tới Bảy Lần


Chuyện kể rằng thời Đức Phật có người nông dân tên Cittahattha thuộc tầng lớp trung lưu, không nghèo nhưng cũng không khá giả lắm. Anh sống ở bên ngoài thành Xá Vệ - kinh đô của nước Kosala.

Hôm đó, một con bò trong đàn bò của anh đi lạc làm anh phải tìm kiếm khắp nơi. Lang thang vào rừng một hồi lâu, anh mới tìm thấy chú bò đi lạc. Trên đường về, anh tình cờ đi ngang qua tinh xá nơi có các tỳ kheo đang trú ngụ. Lúc đó trời cũng đã đứng bóng, lại gặp trời nắng và cũng đói bụng, nên Cittahattha đánh liều vào tinh xá xin chút thức ăn. Vào tới nơi, vì còn ngại ngùng nên anh chỉ thèm thuồng đứng nhìn các tỳ kheo đang từ tốn thọ thực chứ chưa dám mở lời. Các vị tỳ kheo thấy vậy liền lấy phần ăn mà các ngài đã sớt ra trước đó rồi mời anh dùng cho khỏi đói bụng (trong giới luật, Phật có quy định rằng khi khất thực trở về, các tỳ kheo không được dùng hết phần ăn, mà phải sớt lại một ít để dự phòng có người nào bất ngờ đến vào giờ ăn, hay có tỳ kheo nào không khất thực được đầy đủ).

Vừa hay là ngày hôm đó có anh nông dân Cittahattha đi tìm bò bị kiệt sức, bụng đói cồn cào và không thể về đến nhà nổi, nên chư Tăng đã lập tức cho anh phần ăn mà các vị sớt lại trước đó. Anh chợt thấy chư Tăng sao hiền lành quá, hơn nữa đời sống xuất gia tu hành không phải vất vả cực khổ kiếm sống mà vẫn được ăn ngon, lại được nhiều người thương mến, kính trọng. Cittahattha chợt nghĩ: “Đời sống xuất gia coi bộ cũng có lý thật”. Anh lân la đến hỏi các tỳ kheo rằng đi tu có dễ không, các vị trả lời nếu ai phát tâm thì sẽ được xuất gia. Thế là Cittahattha gửi con bò về nhà và ở lại xin được xuất gia. Sau khi xuống tóc, Cittahattha cũng được đắp y rồi ở lại công quả, tu tập như các tỳ kheo khác.

Nhưng được nửa tháng thì Cittahattha bỗng thấy nhớ vợ, nhớ nhà, nhớ cánh đồng, nhớ đàn bò, nhớ hạt giống... Không chịu đựng nổi nữa, anh đành đến chào các tỳ kheo rồi về nhà. Sau khi về nhà, Cittahattha lại tiếp tục làm lụng cực khổ, cày bừa vất vả và bị vợ mắng lên mắng xuống. Dần dần anh lại nhớ đời sống trong đạo, dù chỉ sống đời tu sĩ vỏn vẹn có mười lăm ngày nhưng lại thấm. Anh nhớ lại hình dáng quý thầy đi đứng điềm đạm, tọa thiền nghiêm trang, nhớ những câu kinh tiếng kệ khuya sớm và cảm nghe điều gì đó rất thiêng liêng, quý giá nơi ấy... thế là anh đem theo tấm y cũ của mình, lén bỏ vợ đi tu lại.

Lần này ở tu được chừng một tháng thì anh lại nhớ vợ, nhớ đứa con, nhớ cánh đồng và lại chào quý thầy rồi chạy về nhà. Anh ra vào như vậy đúng sáu lần. Và con người thấy như chẳng có lập trường ấy, không ngờ thẳm sâu trong tâm hồn lại có cái duyên đắc đạo chứ không phải người thường. Cho nên thật khó để đánh giá một người chính xác bằng mắt thường được, nhiều khi ta thấy ai đó có dáng vẻ ngây ngô nhưng biết đâu họ lại có thiện căn rất đặc biệt. Cittahattha cũng thế, nhìn anh không khác nào một kẻ lông bông, ngờ nghệch mà không ngờ lại có cái duyên đắc đạo.

Đến lần thứ bảy thì bỗng nhiên nỗi nhớ chùa, nhớ đạo trở nên day dứt vô cùng, khiến Cittahattha không thể chịu đựng nổi. Khi cái duyên đã đến thì sự thôi thúc thật là mãnh liệt. Lúc đó người vợ đang ngủ trưa, nhìn vợ anh chỉ thấy một người phụ nữ sồ sề, luộm thuộm (vì người đời xưa không chăm chút sắc đẹp nhiều, cũng ít mặc quần áo đẹp như bây giờ), nhà cửa thì nhếch nhác chẳng có gì đáng quý, con bò hay cánh đồng cũng chỉ là tạm bợ... Nghĩ đến đây, anh chụp vội tấm y rồi chạy ra khỏi nhà. Bà mẹ vợ gọi giật lại, anh vẫn phăng phăng chạy đi, bà bèn vào mắng con gái mình: “Sao mày không biết giữ chồng!”. Cô vợ ngái ngủ nói: “Vài hôm nữa anh ta lại về thôi mà, mẹ cứ yên tâm...". . Nhưng không ngờ lần này anh đi luôn.

Vì cái duyên đắc đạo thẳm sâu trong tiềm thức từ những đời xưa chợt bừng dậy mạnh mẽ trong tâm, khiến anh chỉ muốn chạy một mạch tới tinh xá. Trên đường đi, tâm anh cứ dính chặt vào đề mục thế gian là vô thường, mọi chuyện trên đời đều tạm bợ không đáng quý... Anh bám vào đề mục đó, nhiếp tâm chặt vào đó, không ngờ khi bước gần đến cửa tinh xá thì chứng luôn sơ quả Tu Đà Hoàn.

Một số tỳ kheo vì chưa có thần thông nên không biết rằng anh đã chứng quả, vừa trông thấy anh là họ đã chán hết chịu nổi, nên các vị từ chối anh quyết liệt:

- Không, chúng tôi không thể nhận anh được nữa?

- Chư tôn giả, xin hãy nhận con vào Tăng đoàn một lần này nữa thôi.

- Tại sao anh lại đi tu nữa? Liệu kỳ này được mấy ngày?

- Dạ thưa các tôn giả, kỳ này con xin ở luôn.

- Thôi, anh hay hứa quá...

- Dạ con ở luôn thật.

Thấy anh điềm đạm hơn, có khác với lúc xưa nên mọi người đồng ý nhưng cũng chẳng hy vọng nhiều. Không ngờ lần này anh quyết tâm tu thật và đúng là chỉ khoảng mười ngày sau là anh đắc đạo, chứng Thánh quả tối thượng và trở thành một vị Alahán nghiêm trang điềm đạm, oai nghi đầy đủ. Những tỳ kheo chưa đắc đạo thì chỉ thấy lạ là lần này anh ở lâu hơn, họ liền tới hỏi:

- Ủa, sao lần này anh không quay về nữa?

- Trước đây tôi còn lưu luyến thế gian nên mới rời bỏ Tăng đoàn như vậy, giờ tôi đã cắt bỏ hết mọi trói buộc, tâm ổn định rồi nên không bỏ đi nữa.

Thường các vị Alahán rất ít khi tự xưng mình đắc đạo. Trừ phi chính Phật công nhận hoặc có duyên sự gì quan trọng, thì các vị mới nói về quả vị tối thắng của mình. Trong trường hợp này, Cittahattha cũng như bao vị Alahán khác - không hề bộc lộ về Thánh quả phi thường mình đã chứng đạt, mà chỉ từ tốn trình bày rằng do mình hiểu được bản chất của thế gian là vô thường tạm bợ, chỉ có đạo giải thoát là đáng quý nên quyết tâm tu, không quay trở ra nữa. Thấy Cittahattha trả lời có vẻ vững vàng, các vị mới đến hỏi Phật và được nghe Phật nói về nhân duyên đời xưa của tỳ kheo Cittahattha.

Vào thời Đức Phật quá khứ Cittahattha cũng là người xuất gia tu hành. Lúc đó, một người huynh đệ đồng đạo với ông bị động tâm, chán nản đời sống tu hành và muốn hoàn tục nên đã tìm đến tâm sự với ông. Nhưng sau khi nghe vị tỳ kheo kia giãi bày, thay vì an ủi hay ngăn cản huynh đệ mình, ông lại nói: “Ừ, thôi không tu được thì anh nên về đi...”. Chính vì câu nói đó và ý niệm đồng tình với chuyện hoàn tục, nên tới kiếp này Cittahattha phải chịu quả báo đi tu rồi hoàn tục, rồi lại đi tu đến bảy lần.

Vì nhân quả thật chi li và công bằng tuyệt đối, nên một khi đã hiểu nhân quả rồi thì chúng ta sẽ tự nhiên dè dặt, cẩn thận hơn là vậy. Ví dụ một người phát tâm xuất gia và chuẩn bị vào chùa công quả, trước khi đi có anh bạn tìm đến hỏi:

- Tôi tính cưới cô gái kia, anh thấy có được không?

- Ừ, cưới cô này có lý đấy...

Chỉ cần một câu đó thôi là người này đã vô tình gieo cái nghiệp ái dục, nếu kiếp này không cưới vợ thì cũng kiếp sau, ít nhất phải lấy vợ rồi mới đi tu, vì đã từng đồng tình với hôn sự của người khác. Hiểu cái nghiệp này nên mỗi khi có ai đến nhờ chúng tôi xem năm nào cưới vợ được, chúng tôi đều trả lời: “Thầy chỉ xem ngày để đi tu thôi, không xem ngày lấy vợ”. Chỉ trừ trường hợp người ta quyết định lấy nhau rồi, và đến chùa xin được tổ chức lễ cưới thì chúng tôi mới đồng ý. Vì nếu chùa không nhận thì họ vẫn tổ chức ở bên ngoài, nên thôi thì chùa giúp họ làm buổi lễ để nhân dịp này dạy chút đạo đức thêm cho hai vợ chồng. Còn lại, chúng ta không bao giờ được xúi người ta cưới để có người đến chùa tổ chức hôn lễ, chỉ được xúi mọi người đi tu mà thôi.

Nhiều người cư sĩ không bước vào đời sống tu hành thúc liễm nhưng thấy ai phát tâm xuất gia cũng động viên, khuyến khích, hỗ trợ... thì đời sau họ sẽ như thế nào? Chắc chắn được xuất gia. Điều này cũng giải thích lý do tại sao có nhiều người tư cách chưa đủ mà vẫn được vào chùa tu. Nguyên nhân là do đời xưa họ đã từng ủng hộ cho người khác xuất gia, nên đời này được cái phước xuất gia thuận lợi, dễ dàng. Còn vị tỳ kheo Cittahattha trong câu chuyện trên, thì chỉ vì một lời đồng thuận với người huynh đệ muốn hoàn tục mà phải chịu quả báo hoàn tục đến sáu lần rồi mới chứng đạo được.

Thực sự, trong thời Đức Phật quá khứ vị tỳ kheo đó đã tu rất tốt chứ không hề lơi lỏng nên cũng có được cái nhân để chứng đạo. Vậy mà vẫn đi qua bao nhiêu triệu năm, đến tận đời Đức Phật Thích Ca mới chứng được quả vị Alahán. Quả thật cái duyên đắc đạo không dễ trổ ra, đa phần các vị đều phải trải qua bao nhiêu kiếp tu hành vất vả. Nên nếu chúng ta giải đãi, tu vừa vừa chừng chừng cho qua ngày thì không biết đời nào sẽ thành tựu đạo quả...

ST.
________________


Hoang Nguyen gởi