Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh
Khai Thi Quyen 6 Tiep Theo 1
Khai Thi Quyen 6 Tiep Theo 1
Khai Thi Quyen 6 Tiep Theo 1 Khai Thi Quyen 6 Tiep Theo 1
Trở về
Khai Thi Quyen 6 Tiep Theo 1
Khai thị quyển 6 (tiếp theo 1)
Khai Thi Quyen 6 Tiep Theo 1
Khai Thi Quyen 6 Tiep Theo 1
H.T Tuyên Hoá


KHAI THỊ QUYỂN 6

H.T Tuyên Hoá

(tiếp theo)

28. Tất Cả Do Tâm Tạo

Trong kinh Hoa Nghiêm có nói: “Nếu ai muốn biết rõ, tất cả Phật ba đời, nên quán tánh pháp giới, tất cả do tâm tạo.” Tức là tất cả các đạo lý đều do tâm hiển hiện. Tất cả Phật ba đời cũng là do tâm mà hiển hiện. Nói tóm lại, tất cả đều do tâm tạo. Con người có thể tạo nên thiên đường, thì con người cũng có thể tạo ra địa ngục. Thực hành theo mười điều lành là tạo nên thiên đường, làm mười điều ác là tạo thành địa ngục. Tâm cũng có thể tạo ra con người, A-tu-la, súc sanh và ngạ quỷ. Tâm của con người thì vi diệu như thế đó. Vì nó thiên biến vạn hóa không rời khỏi một niệm, cho nên nói “tất cả do tâm tạo.”

Mỗi khi tâm chúng ta khởi động niệm, chư Phật đều thấy biết hết. Nhưng con người chúng ta hầu như đều là bịt tai để trộm chuông, tự mình lừa dối mình, cứ tưởng rằng, chắc Phật Bồ Tát không biết, quỷ thần không biết, ai ai cũng không biết. Khi có ý nghĩ như thế, chúng ta sẽ tạo ra biết bao chuyện điên điên đảo đảo, hại người hại mình, gây thành những điều sai lầm to lớn. 

Đối với Phật giáo, chúng ta nên ủng hộ đạo tràng và xem việc chấn hưng Phật giáo là trách nhiệm của mình. Chúng ta không nên tạo các nghiệp ác ở trong đạo tràng và nên hiểu rằng tất cả đều do tâm tạo. Cho nên tại Vạn Phật Thành, trường Đại Học Pháp Giới, Trung Học Bồi Đức và Tiểu Học Dục Lương đều lấy Lục Đại Tông Chỉ: không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ để làm lời răn dạy.

Giảng ngày 12 tháng 4 năm 1984

29. Quả Báo Sát Sanh

Sự thù oán lớn nhất của thế giới không gì hơn là “sát sanh”. Cho nên nói: “Giết người đền mạng, thiếu nợ trả tiền.” Nếu quý vị giết cha, anh của người ta thì người ta sẽ giết cha, anh của quý vị. Cứ như vậy mà tàn sát lẫn nhau, không bao giờ chấm dứt. Bởi nhân sát sanh quá nhiều, cho nên quả báo đến rất mau, gọi là: “hiện thế hiện báo” tức quả báo hiện tiền.

Tại sao người thời nay hay phát sanh nhiều chứng bệnh lạ kỳ như vậy? Nói tóm lại một câu, đó là từ sát sanh mà ra. Quý vị giết mạng chúng sanh, thì chúng sanh sẽ tìm đến quý vị để đòi mạng. Đối với những thứ bệnh tật kỳ quái đó, bác sĩ cũng đành bó tay thôi. Thế thì quý vị nên làm sao đây? Tức là quý vị phải nên thành tâm sám hối, sửa đổi lỗi lầm để làm lại con người mới và làm nhiều việc công đức có lợi ích cho chúng sanh, như thế mới có thể tiêu trừ được các tội nghiệp từ xưa nay. Nếu quý vị không làm như thế, e rằng quý vị sẽ không dễ gì lành bệnh được. Đây là chân lý chứ không phải là mê tín đâu.

1. Mụt Nhọt Mặt Người Đời Hiện Tại

Hôm nay tôi sẽ kể hai công án về chuyện sát sanh. Vào khoảng năm 1945, có Hòa Thượng Đại Minh, trụ trì chùa Thừa Thiên, tỉnh Tô Châu, Trung Hoa. Hòa Thượng nầy tuy là người theo đạo Phật, nhưng tin theo ngoại đạo và trong chùa lại thờ cúng Tiên Hồ Ly. Do đó hồ ly ở chùa nầy ra vào tự do mà không bị ai xua đuổi, và nó cũng không sợ người. Người và hồ ly cùng ở chung một cách bình an. 

Lúc bấy giờ, Hòa Thượng đang bế quan nhập thất ở chùa nầy để duyệt đọc Đại Tạng kinh. Hồ ly cũng đến phòng Hòa Thượng cùng tu. Trong lúc Hòa Thượng đọc kinh, nó nằm ngủ trên tấm đệm lạy Phật của Hòa Thượng. Đến khi Hòa Thượng muốn lạy Phật thì Hòa Thượng nói với nó: “Ta muốn lạy Phật, mầy ra ngoài đi!” Lúc đó hồ ly bèn ngoan ngoãn bước ra khỏi phòng. Chờ khi Hòa Thượng lễ xong, nó lại trở vào và tiếp tục ngủ trên tấm đệm bái Phật. Ngày nào cũng như vậy, trải qua một thời gian dài và hai bên trở thành như bạn đạo.

Một ngày kia, Hòa Thượng có chút hơi nóng tính. Đến lúc muốn lễ Phật, Hòa Thượng bảo nó: “Mầy mà không đi ra ngay, tao sẽ đánh chết mầy đấy!” Hồ ly trừng mắt nhìn một cái như không màng gì đến Hòa Thượng, rồi nó lại nhắm mắt ngủ tiếp. Có lẽ nó nghĩ đại khái là: Dù sao người xuất gia cũng có hoài bão từ bi, dùng phương tiện làm cửa ngỏ. Cho nên nó không đi. 

Thế là lúc bấy giờ, Hòa Thượng phát giận nói: “Sao lại thế! Thật quả là khách mà muốn lấn át luôn cả chủ nhà à! Tao đánh chết mầy đây!” Nói xong Hòa Thượng lấy cây gậy ra oai để dọa cho nó đi. Nhưng hồ ly vẫn không thèm để ý đến. Đang trong cơn nóng giận, Hòa Thượng quơ gậy quất xuống một hơi. Không ngờ trật tay, Hòa Thượng đánh bể đầu hồ ly, khiến máu chảy nhuộm đỏ cả tấm đệm lễ Phật. Quả thật là Hòa Thượng đã đánh chết nó rồi. Hòa Thượng vì phạm tội sát sanh, cho nên trong lòng hối hận vô cùng và không biết giải quyết thế nào cho ổn thỏa. Nghiệp tội nầy làm sao tiêu được đây? Nghĩ qua nghĩ lại, cũng nghĩ không ra cách nào. Bỗng nhiên linh tánh Hòa Thượng chợt nhớ có người đã nói là: nếu đánh chết hồ ly và đem thịt nó cho người khác ăn thì sẽ tiêu được nghiệp sát. Thế là Hòa Thượng lóc da hồ ly và đem thịt cho mấy người làm công ăn - tưởng như vậy là đã xong chuyện. 

Không ngờ bảy ngày sau, linh hồn hồ ly đến nói với Hòa Thượng rằng: “Tôi đã đến Diêm Vương tố cáo ông rồi, ông phải đền mạng cho tôi!” Hòa Thượng đang trong lúc thiền định mà nghe như vậy, cho nên kinh sợ muôn phần. Thế là Hòa Thượng bắt đầu niệm chú Đại Bi. Nhờ sức gia trì của bài chú, hồ ly không thể đến gần Hòa Thượng, cho nên nó không có cách nào làm hại được ông. Nhưng nó cũng không chịu bỏ đi, và lúc nào nó cũng đến quấy nhiễu ông. Bảy ngày sau, hồ ly biết là tự mình không thể báo thù, nên nó đi xin viện binh. Quý vị đoán thử xem, nó xin viện binh nào đây? Thì là âm hồn binh sĩ Nhật Bổn chết trận trong thời Nhật Bổn xâm lăng Trung Hoa. Hồ ly chiêu tập được rất nhiều đội quân đến, rồi chúng dùng đại bác bắn vào thân Hòa Thượng. Nhưng chúng oanh tạc rất nhiều ngày cũng bắn không trúng Hòa Thượng. Tại sao? Bởi vì Hòa Thượng lo tập trung hết tinh thần để tụng trì chú Đại Bi, không rời khỏi chỗ ngồi, cho nên đạn pháo bắn không trúng mà cứ rớt rơi chung quanh Hòa Thượng.

Trải qua nhiều ngày không ăn, không uống, Hòa Thượng thực sự đã sức cùng lực kiệt. Trong phút chốc, Hòa Thượng cảm thấy tinh thần mơ màng hốt hoảng và chẳng may đầu gối bên phải của Hòa Thượng bị trúng pháo. Thế là âm binh Nhật Bổn liền rút lui ngay. Hòa Thượng thoát được trận uy hiếp pháo kích, cho nên trong lòng sung sướng vô cùng vì tưởng đã hết chuyện. Vừa mới nghĩ như thế, Hòa Thượng cảm thấy đau nhức ngay chỗ bị trúng pháo. Hòa Thượng cúi đầu nhìn xuống thì thấy đầu gối bên phải mọc lên một mụt nhọt giống hình mặt người, cũng có miệng, có răng. Vết thương vừa sưng, vừa đau nhức, không thuốc men nào chữa khỏi.

Vào một ngày kia, có người nói với Hòa Thượng: “Lấy thịt mỡ đắp lên miệng mụt nhọt thì sẽ hết đau.” Hòa Thượng thử làm theo và quả nhiên có hiệu quả. Nhưng khi miếng thịt mỡ bị mụt nhọt mặt người ăn hết, Hòa Thượng lại bắt đầu bị đau nhức trở lại. Và cứ vậy mà Hòa Thượng bị mụt nhọt hành hạ hoài, khổ không kể xiết. Trải qua nhiều ngày đau đớn, Hòa Thượng chợt giác ngộ rằng: chỉ có tiêu diệt hết nghiệp chướng mới có thể khỏi khổ đau. Thế là Hòa Thượng hết lòng lo tu hành và không đếm xỉa đến sự đau nhức nữa. Hòa Thượng cố nhẫn chịu trăm phần đau đớn và nhất tâm lo lễ Phật, sám hối nghiệp sát sanh. Trải qua ba năm sau, Hòa Thượng mới hết bệnh.

Hòa Thượng nầy là vị chân thật tu hành, Ngài đã thường đi các nơi tham vấn, học hỏi cùng các bậc Thiện tri thức và cũng từng đi triều bái bốn ngọn núi lớn danh tiếng (Ngũ Đài Sơn, Nga Mi Sơn, Cửu Hoa Sơn, Phổ Đà Sơn) và tám ngọn đại tiểu sơn ở Trung Hoa. Hòa Thượng là vị rất có đạo hạnh. Tuy lỡ tay đánh chết hồ ly, nhưng Hòa Thượng cũng phải sám hối lễ Phật mới tiêu trừ được nghiệp chướng. Do đó chúng ta nên biết nghiệp báo sát sanh là tệ hại nhất. Quý vị chú ý đấy! Không được sát sanh mà nên làm nhiều công đức phóng sanh. Nếu quý vị tùy ý sát sanh thì sẽ bị mấy thứ bệnh kỳ quái, không cách nào chữa trị được, hoặc nữa sẽ thành người tàn phế, rồi hối hận trọn đời!


2. Mụt Nhọt Mặt Người Đời Quá Khứ

Thời vua Ý Tông đời Đường, có vị Quốc Sư tên gọi là Thiền Sư Ngộ Đạt. Khi Thiền sư ở chùa Cư An, tỉnh Trường An giảng kinh, vua Ý Tông đã thân hành đến nghe pháp và đặc biệt ban tặng cho Thiền sư một bảo tòa bằng trầm thủy đàn hương. Lúc bấy giờ, Thiền sư sanh tâm kiêu ngạo, tự cho mình là bậc cao tăng nhất đời, không ai sánh bằng. Không ngờ trong tâm vừa mới khởi vọng tưởng, tức thần Hộ Pháp liền bỏ Thiền sư mà đi. Thế là oan gia trái chủ đã theo Thiền sư mười đời, nay tìm được cơ hội phục thù, nó bèn đánh một chưởng vào ống quyển Thiền sư. Rồi từ đó, đầu gối Thiền sư phát nổi lên một mụt nhọt mặt người, có lông mi, có mắt, có miệng, có răng. Mỗi ngày nó phải được ăn thịt, uống rượu. Nếu không cho nó thịt rượu thì mụt nhọt lại hành đau nhức, khổ không thể tả. Bao nhiêu thầy thuốc cũng bó tay, vô phương cứu chữa.

Trong lúc Thiền Sư Ngộ Đạt chưa được chức vị Quốc Sư hiển đạt vẻ vang. Có một năm ở chùa tại Trường An, Thiền sư gặp một vị tăng đang khổ sở vì bị mọc mụt độc quái ác. Mụn nhọt chảy nước, chảy máu trông thật là dơ bẩn, lại còn xông lên mùi hôi thúi, khiến cho người ta muốn nôn mửa cả ra. Ai nấy cũng không dám đến gần vị tăng bệnh. Lúc đó Thiền Sư Ngộ Đạt đang ở phòng kế bên, ngày ngày sang chăm sóc vị tăng bệnh nầy. Thiền sư hết lòng phục dịch, dâng cơm nước và rửa ráy vết thương cho vị tăng mà không ngại gì đến mùi hôi thúi bẩn thỉu. Thời gian trôi qua chẳng hay chẳng biết, hè qua rồi thu lại. Đến lúc khí hậu trở nên mát mẻ, mụt độc của vị tăng cũng dần dần lành lặn. Lúc sắp chia tay, vị tăng bệnh nói với Thiền sư Ngộ Đạt rằng: “Cám ơn ngài đã chiếu cố đến tôi. Sau nầy nếu ngài có chuyện gì nan giải, hãy đến Mông Sơn ở Tứ Xuyên tìm tôi. Trên núi có hai cây đại tùng làm dấu hiệu. Tên tôi là Ca Nặc.”

Thiền Sư Ngộ Đạt hồi tưởng lại chuyện xưa, bèn lên Mông Sơn tìm vị Tăng bị mụt độc lúc trước.

Từ xa trông lên lưng chừng núi, Thiền sư đã thấy có hai cây tùng cao ngất tầng mây. Khi đến trước hai cây tùng, Thiền sư phát hiện có một ngôi chùa bằng vàng chói sáng rực rỡ. Vừa định đi tìm thì đã thấy vị tăng đang đứng đợi trước cửa chùa mỉm cười, rồi đưa Thiền sư vào. Sau khi Thiền Sư Ngộ Đạt đảnh lễ vị Tăng, Thiền sư bèn kể rõ về nỗi khổ của mình. Vị Tăng bảo Thiền sư sáng hôm sau xuống phía mỏm đá dưới con suối để tẩy rửa vết thương, như thế sẽ lành bệnh. 

Sáng ngày thứ hai, chú tiểu đồng đưa Thiền sư đến mỏm đá dưới con suối. Vừa lúc định rửa vết thương, mụt nhọt mặt người bèn phát ra tiếng nói: “Hãy khoan rửa! Giữa chúng ta có mối oán thù chưa hết. Ngài là bậc cao tăng, từng đọc rất nhiều kinh sách, nhất định là Ngài đã đọc qua lịch sử Tây Hán rồi. Vậy Ngài có biết chuyện Viên Án chém ngang lưng Triệu Thố không? Viên Án là Ngài bây giờ, còn Triệu Thố chính là tôi lúc trước. Ngài đã mười đời làm thầy tăng, tu hành nghiêm chỉnh, cho nên tôi không tìm được dịp báo thù. Bởi Ngài sanh tâm kiêu mạn nên tôi mới có cơ hội chui vào. Ngày nay nhờ Tôn giả Ca Nặc từ bi, muốn hòa giải mối oán cừu giữa chúng ta, Ngài dùng pháp thủy tam muội tẩy rửa cho tôi, vậy từ nay về sau, tôi sẽ không còn oán hận Ngài nữa.”

Sau khi Quốc Sư Ngộ Đạt nghe xong, hồn phiêu phách tán đến chín tầng mây. Ngài vội vàng vốc nước rửa mụt nhọt độc, nhưng lại cảm thấy đau nhói tận xương tủy, rồi ngã ra hôn mê bất tỉnh. Sau một thời gian lâu, khi chợt tỉnh lại và nhìn xuống đầu gối thì không còn thấy dấu vết mụt nhọt độc nữa. Bấy giờ Quốc Sư mới biết vị tăng đó là bậc thánh tăng. Quốc Sư định trở lại chùa để chiêm ngưỡng và lễ bái vị tăng, nhưng vừa quay đầu nhìn lại thì chẳng thấy ngôi chùa đâu cả. Thế rồi Quốc Sư kết cỏ dựng lều ở tại nơi đó và sớm chiều chăm lo lễ tụng. Quốc Sư là tác giả của bài Sám Pháp, như ngày nay chúng ta biết đó là bản “Từ Bi Tam Muội Thủy Sám” gồm có ba quyển vậy.

Qua hai câu chuyện trên, tuy có khác chút ít, như phần lớn là giống nhau, đều là cảnh giác cho người ta biết rằng nhân quả báo ứng thật không sai sót mảy may. 

Chuyện thứ nhất là sự báo ứng hiện ngay đời nầy, còn câu chuyện thứ hai là sự báo ứng đến mười đời sau. Nói tóm lại, khi nghiệp duyên thành thục là thời vận của chúng ta cũng đã đến lúc và rốt cuộc phải chịu quả báo thôi. Hôm nay tôi nói về hai công án nầy để cho mọi người hiểu rõ sát sanh là có hại, và đừng nên xem đó như trò chơi con nít. Hiện nay khoa học ngày càng tiến bộ, cho nên vũ khí giết người cũng sẽ càng tệ hại hơn. Bao thứ nhân quả họ đã gây ra thì làm thế nào tiêu trừ cho được? 

Hiện nay thế giới đang trong cảnh đen tối đầy chướng khí, đụng một chút là cuộc đại chiến sẽ bùng nổ. Bọn ma quỷ oán hờn sẽ mượn cớ nầy để báo thù. Nhưng oan oan tương báo, biết đến bao giờ mới hết đây? Trừ phi là không sát sanh; nếu không, chúng ta vĩnh viễn sẽ không có ngày được bình an.

Giảng ngày 15 tháng 4 năm 1984

30. Sao Gọi Là Lục Đại Tông Chỉ?

Quý vị hãy nhìn xem! Hiện nay đa số con người trên thế giới hầu như đang phát điên phát cuồng, trông giống như người mắc bệnh tâm thần vậy. Thế giới nầy sắp sửa biến thành thế giới điên cuồng mất. Bất luận là nam hay nữ, già hay trẻ cũng đều không nhận thức được về các điều kiện cơ bản làm người. Cho nên mới có cảnh anh tranh, tôi đoạt. Vì muốn đạt được mục đích cá nhân mà con người bất chấp mọi thủ đoạn, thấy lợi quên nghĩa, bán rẻ bạn bè. Thật đáng sợ thay! Vậy điều kiện cơ bản làm người là gì? Tức là Lục Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thánh Thành. Nếu ai ai cũng chịu tuân theo như vậy thì thiên hạ sẽ được thái bình.

Lục Đại Tông Chỉ là:

1- Không tranh: Không tranh với bất cứ người nào. Tự giữ những gì mình nên có, và không nên có những thứ mình không cần. Tuyệt đối là không nổi nóng.

2- Không tham: Bất luận những gì về vật chất, hễ mình có đủ dùng là được rồi, và cái gì cũng không tham. Đồ vật của tôi, nếu anh cần thì tôi sẽ cho anh. Chúng ta đừng nên keo tham tiếc của.

3- Không cầu: Không tìm cầu những thứ bên ngoài, gọi là: “Nhân đáo vô cầu phẩm tự cao,” người không tìm cầu tức là người có nhân cách cao thượng. Phàm người có nhân cách là người thiểu dục tri túc, ít muốn biết đủ. Người nào không tham tài, không tham sắc, không tham danh, không tham ăn, không tham ngủ thì tâm người ấy sẽ được nhiều an lạc và lòng họ cũng không cảm thấy lo sợ gì cả.

4- Không tự tư, ích kỷ: Bất cứ vật gì thuộc về công cộng để mọi người thuận tiện dùng, chúng ta không được cất dấu cho riêng mình. Quý vị có thể bố thí, tức là quý vị không có lòng tự tư, ích kỷ, gọi là: “Xem tất cả người già như cha mẹ ta, thương tất cả trẻ thơ như thương con em mình.” Đó là sự biểu hiện của người không có lòng tự tư ích kỷ. Sự thành lập các trường đại học, trung học, tiểu học và viện dưỡng lão tại Vạn Phật Thánh Thành vốn cũng từ tư tưởng đó.

5- Không tự lợi: Là xả mình vì người. Việc gì có lợi thì ta nhường cho người khác làm. Trái lại, việc gì không lợi thì để lại mình làm. Tuyệt không bao giờ có tham đồ về danh văn lợi dưỡng, mua danh câu tiếng, vì đó là những tư tưởng tự tư, tự lợi.

6- Không vọng ngữ: Miệng có bốn tội ác là: vọng ngữ, ỷ ngữ, ác khẩu và lưỡng thiệt. Người mà phạm một trong các tội ác nầy, tương lai sẽ bị đọa địa ngục bạt thiệt cắt lưỡi. Vọng ngữ là một trong Năm Giới. Người học Phật Pháp, nhất định nên nghiêm giữ Năm Giới. Vọng ngữ là gì? Là nói lời giả dối, gọi là: Thấy - nói không thấy; không thấy - nói thấy; nghe - nói không nghe, không nghe - nói nghe; không hiểu - nói hiểu, hiểu - nói không hiểu; biết - nói không biết, không biết - nói biết. Đó tức là vọng ngữ.

Tại sao người trên thế gian lại phát điên, phát cuồng như thế? Bởi vì họ có tâm tranh, tâm tham, tâm cầu, tâm ích kỷ, tâm tự lợi và tâm vọng ngữ. Cho nên suốt ngày họ cứ điên điên đảo đảo chẳng được tự tại. Đây là vấn đề rất nghiêm trọng, chúng ta không nên xem đó như những lời hý luận mà hãy mau cải thiện tập quán xã hội, nếu không thì sẽ nhận lãnh hậu quả không thể tưởng tượng được.

Giảng ngày 16 tháng 4 năm 1984

 

31. Con Cháu Của Ma Vương

Đức Phật đã dùng định lực để thắng lực thần thông của ma vương trong khi đấu pháp với chúng. Lúc đó ma vương bèn nói với Phật rằng: “Bây giờ tôi không có cách gì để thắng được ông, nhưng chờ đến tương lai sau nầy, khi đệ tử của ông không có đủ định lực, tri kiến lại bất chánh, lúc đó tôi sẽ đục cửa chui vào nhà ông mà mặc áo của ông, ăn cơm của ông, sau đó tôi lại còn tiểu tiện vào trong bát của ông, thử xem ông sẽ làm sao!” Đức Phật Thích Ca điềm nhiên nói: “Thế thì ta không có cách gì cả.”

Rõ ràng hiện nay, đã có người xuất gia công khai nói Kinh A Di Đà là giả, với lý do là trong kinh có những câu không có căn cứ để khảo chứng như: “Từ đây đi về phương tây, trải qua mười vạn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc.” Ông ấy hỏi rằng: “Vị quan địa phương nào đo vậy? So ra khoảng cách của mười vạn ức cõi Phật có lẽ là nhiều hơn một chút, hoặc cũng có lẽ là ít hơn một chút. Thế thì có chắc là mười vạn ức cõi Phật không?” Đúng là những lời lý luận ngu si xằng bậy, chỉ làm trò cười cho thiên hạ! 

Gần đây, lại có vị xuất gia tuyên bố với mọi người rằng Kinh Lăng Nghiêm là ngụy tạo, đừng nên tin. Bởi căn cứ vào đoạn kinh văn: “Nhân ngày húy kỵ của vua cha, vua Ba Tư Nặc thiết trai thỉnh Phật vào cung điện. Nhà vua đích thân nghênh đón đức Như Lai, và thiết bày đầy cả thức ăn quý,” vị đó cho rằng đoạn văn nầy không phù hợp với phong tục Ấn Độ lúc đương thời - bởi ở Ấn Độ không giảng về đạo hiếu. Nhân đó ông quyết đoán rằng Kinh Lăng Nghiêm là ngụy tạo, không phải do Phật thuyết giảng. Đó chính là hành vi hủy kinh báng Phật, và quả báo của sự hủy báng nầy khó mà tưởng tượng nổi. Tư tưởng của sư nầy thật quá ấu trỉ! Tâm sư ở đâu, quý vị có thể suy ra thì biết! 

Trong Kinh Pháp Diệt Tận nói rằng: “Tương lai khi đến thời kỳ Mạt Pháp, bộ kinh Lăng Nghiêm sẽ bị hủy diệt trước hết.” Bởi vì Kinh Lăng Nghiêm là đại biểu cho thời đại Chánh Pháp. Nếu không có kinh Lăng Nghiêm, tức là không có Chánh Pháp. Hiện nay có rất nhiều sơn yêu thủy quái, chúng chủ trương là Kinh Lăng Nghiêm không phải do Phật nói, và muốn mọi người đừng tin. Nếu không tin Kinh Lăng Nghiêm, vậy bao nhiêu Kinh điển khác đều có thể lấy bút quẹt bỏ hết mà không tin luôn à! Vì sao? Bởi không có căn cứ chăng! Cho nên quý vị có thể thấy rằng tâm địa của ma vương quả thật quá cay độc! 

Đây cũng bởi vì Kinh Lăng Nghiêm nói lên sự thật quá rõ ràng. Trong khi ma vương lại không thể giữ được Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối tức bốn lời răn dạy thanh tịnh, cũng không thể tu được Pháp Môn Viên Thông của hai mươi lăm vị Thánh, và càng không dám đọc về cảnh giới của Năm Mươi Loại Ấm Ma. Vì nó sợ bại lộ nguyên hình, khiến cho người ta biết được bộ mặt thật của nó, cho nên nó mới tìm cách hủy diệt Kinh Lăng Nghiêm. Hủy diệt đây không phải là đốt kinh điển, mà là hủy diệt kinh từ trong tâm chúng sanh, khiến cho mọi người mất lòng tin đối với Kinh Lăng Nghiêm.

Chuyện trên đời là kỳ diệu như thế đấy. Thật rất ít có ai nhận biết được. Cũng giống như nghề buôn, người bán thuốc giả thì rất đắc hàng, trong khi người bán thuốc thật lại chẳng có ai mua. Tại sao? Bởi không có người chân chánh nhận biết được giá trị của nó. Cho nên tôi bảo là sự thật thì không ai nhận biết, còn giả thì lại làm cho mọi người say mê. Đó là đạo lý rất dễ hiểu thôi!

Hiện nay là thời kỳ Mạt Pháp, có nhiều người phỉ báng và không tin các vị thầy chân chánh tu trì Phật Pháp. Nhưng các thầy giả, bởi giảng pháp quá náo nhiệt nên có rất nhiều người đến nghe Pháp, đến nỗi trong giảng đường không còn chỗ chứa, người ta chen chúc như hộp cá mồi, chật thở không ra hơi. Thế mà lại có người xuất gia đề xướng khẩu hiệu không ăn chay. Ông thầy nầy nói với mọi người rằng: “Phàm hễ là người ăn chay đều có tâm tham; còn người không ăn chay mới không có tâm tham.” Lý luận như vậy thật là chọc cười cho cả thiên hạ, là làm mù mắt người, khiến cho người ta hồ đồ - hồ đồ qua, hồ đồ lại, hồ đồ cho đến lúc xuống địa ngục, vĩnh viễn không bao giờ thoát khỏi.

Cho nên khi học Phật Pháp, chúng ta cần nên có trạch pháp nhãn, con mắt biết chọn lựa Pháp thì mới có thể phân biệt được phải hay trái, đúng hay sai và thiện hay ác một cách rõ ràng. Nếu không vậy, chúng ta chẳng khác gì như người mù sờ voi, mò không ra được đạo lý chân chánh. Người ta nói sao thì mình lập lại y như vậy, nghe rồi phụ họa theo. Người ta nói con voi như bức tường, mình cũng nói theo là voi như bức tường. Người ta nói con voi giống như cây cột, mình cũng phụ họa nói voi giống cây cột. Rốt cuộc thì con voi giống như cái gì? Chúng ta đều chẳng biết. Khi học Phật Pháp, chúng ta phải hiểu cho được đạo lý, chứ đừng đi theo một cách mù quáng. Mọi người nên đặc biệt chú ý điểm nầy!

Giảng ngày 17 tháng 4 năm 1984

 

32. Chẳng Phải Là Ra Vẻ Khác Lạ Đâu

Tôi xuất thân từ miền quê và được giáo dục ở học đường rất ít, cho nên tôi hiểu biết không được nhiều. Đó là lý do vì sao tôi muốn mọi người cùng tập hợp lại với nhau, như câu: “Tập tư quảng ích,” là tập trung lại nhiều ý kiến hữu ích. Dùng trí tuệ của mọi người để cùng thảo luận các vấn đề. Nếu ai có ý kiến gì quý báu xin cứ việc nêu ra. Chúng ta vì công việc cải thiện nền giáo dục mà tham khảo với nhau.

Sau khi xuất gia, tôi nhận thấy tình trạng Phật giáo mỗi ngày càng một đi xuống, cho nên tôi muốn cải thiện lại. Tôi cảm thấy nền giáo dục cũng mỗi ngày một xuống dốc, cho nên tôi hy vọng sẽ sửa đổi cho tốt hơn. Tôi nguyện đem hết chút sức lực mình để làm chút lợi ích cho người. Bởi chí nguyện nầy, hiện nay tôi thành lập trường Đại Học Pháp Giới Phật Giáo, trường Trung Học Bồi Đức và trường Tiểu Học Dục Lương tại Vạn Phật Thánh Thành. Và để thực hiện nguyện vọng đó của tôi, tất cả các lớp học đều miễn phí.

Tại sao tôi muốn làm như vậy? Có phải vì tôi háo danh, ham tiếng, hay là vì muốn làm kiểu cách cho khác lạ chăng? Không phải đâu. Dụng ý của tôi là hy vọng tu chỉnh lại chế độ cửa hàng kinh doanh của nhà trường, khiến cho những người chỉ vì tiền trong ban giáo dục sẽ cải thiện lại các tư tưởng bất chánh nầy. Họ nên lấy việc giáo dục và đào tạo học sinh thành người lương thiện, tài giỏi để làm tông chỉ. Tuy tư tưởng nhà trường như là kinh doanh đã thâm căn cố đế, nhất thời không dễ gì thay đổi. Nhưng tôi xin mọi người hãy đồng tâm hiệp lực để làm lại sự nghiệp nầy, ngỏ hầu dần dần sẽ cảm hóa được những người chủ ban kinh doanh ở nhà trường, khiến họ tự thấy được lương tâm và nhận thức rằng giáo dục là công tác thần thánh. Bởi vì giáo dục là đào tạo nhân tài trong thiên hạ, là việc làm vui vẻ, khoái lạc. Nếu họ vẫn mê muội, không chịu tỉnh ngộ, cũng chỉ vì kiếm chút đồng tiền hôi thối, mà không biết hối tiếc là đã làm hại tiền đồ tương lai của học sinh. Tội nầy thật không thể dung tha và họ sẽ ân hận ngàn đời. Chúng ta nên biết rằng, tiền là vật ngoài thân, sanh không mang đến, chết không đem theo. Cho nên nói: “Muôn thứ không đem được, chỉ có nghiệp tội theo mình.” Nghiệp chướng mà chúng ta đã tạo khi còn sống, sẽ cùng xuống theo địa ngục để ta chịu khổ vô gián đoạn. Đến lúc đó, dù chúng ta có hối hận thì cũng đã muộn rồi!

Ngày 27 tháng 5, 1984 trường Đại Học Pháp Giới Phật Giáo sẽ cử hành lễ tốt nghiệp. Những sinh viên đạt tiêu chuẩn tốt về đạo đức và học vấn, khi mãn khóa sẽ được phát bằng chứng thơ học vị. Thông thường trong buổi lễ, các sinh viên tốt nghiệp đại học sẽ đội mũ đen có bốn góc vuông. Dù là cử nhân, thạc sĩ hay tiến sĩ, tất cả đều mang cùng một loại mũ như vậy và thế giới cũng đều công nhận điều nầy. 

Các sinh viên tốt nghiệp trường Đại Học Pháp Giới Phật Giáo cũng được đội mũ, nhưng có chỗ cải tiến như: Cử nhân sẽ đội mũ bốn góc, Thạc sĩ sẽ đội mũ năm góc và Tiến sĩ sẽ đội mũ sáu góc. Tại sao phải là như vậy? Bởi vì mỗi loại hàm chứa các ý nghĩa khác nhau. Bốn góc là đại biểu cho người trong bốn biển đều là anh em, kiêm thêm ý là tứ thông bát đạt, bốn phương đều thông suốt; lại cũng biểu hiện của Tứ Vô Lượng Tâm: từ, bi, hỷ, xả. Năm góc đại biểu cho Ngũ Hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ; hoặc là Năm Giới căn bản: sát, đạo, dâm, vọng, tửu; hoặc cũng đại biểu cho năm châu: Âu, Á, Phi, Mỹ, Úc. Sáu góc đại biểu cho Lục Độ: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ; hoặc đại biểu cho sáu phương: đông, nam, tây, bắc, trên và dưới; cũng có thể nói sáu góc là đại biểu cho sáu nghề: lễ, nhạc, xạ, ngự, thơ, số. Đó là những ý kiến của tôi, hy vọng mọi người sẽ đưa ra ý kiến để chúng ta cùng nhau nghiên cứu rồi quyết định.

Có người nói: “Vì theo truyền thống, cho nên tất cả các sinh viên khi tốt nghiệp đại học đều đội mũ bốn góc.” Nhưng theo cách nhìn của tôi, nếu có phương pháp tốt mà chúng ta không dùng và vẫn cứ khư khư giữ khuôn phép cũ, thế thì phải nói là quá cố chấp, cũng có thể nói là ngu si nữa.

Ở phương Tây, tôi chưa gặp qua người tốt nghiệp Đại học Phật giáo chân chánh nào cả. Phật giáo ở đây chỉ là mới bắt đầu, nên chưa có quy chế nhất định. Trường Đại Học Pháp Giới Phật Giáo là tận hư không, biến pháp giới, quảng đại vô biên. Bây giờ tạm thời không có người nào biết, nhưng trong tương lai sẽ có rất nhiều người bắt chước theo cách thức như trường học của chúng ta. Cho nên nay tôi đề nghị là sinh viên tại gia khi tốt nghiệp đại học sẽ đội mũ đen, còn sinh viên xuất gia khi tốt nghiệp đại học sẽ đội mũ vàng. Tôi cũng chẳng biết ý kiến nầy có giá trị không nữa!

Giảng ngày 20 tháng tư năm 1984



33. Phương Châm Giáo Dục Của Vạn Phật Thánh Thành

Bất luận làm việc gì, chúng ta cũng phải có lòng nhẫn nại, từ từ làm chứ không được gấp rút. Quý vị nên biết thành phố La Mã (Rome) không phải chỉ trong một ngày mà hoàn thành được. Cùng như lý lẽ trên, việc giáo dục học sinh, không phải một hay hai ngày là có thể dạy cho chúng hiểu rõ được. Mà cần phải có tâm bền chắc, lâu dài để dạy chúng làm sao trở thành người tốt, và làm sao tạo cơ sở cho nhân cách tốt. Chứ không phải dạy học sinh làm sao có được việc làm tốt và kiếm được nhiều tiền để tự mình được hưởng thụ. Đó là lối giáo dục theo chủ nghĩa vị lợi.

Phương châm giáo dục của Vạn Phật Thánh Thành là dạy học sinh học tập về nhân nghĩa đạo đức. Trong tương lai, khi chúng ra phục vụ cho xã hội, dù ở cương vị nào, chúng cũng sẽ dựa theo đạo đức nhân nghĩa mà làm việc. Chúng tuyệt đối sẽ không hùa nhau làm bậy, cũng không có hành vi làm tổn hại người để lợi mình. 

Quý vị nhớ đấy! Chúng ta không nên ham danh háo tiếng, cũng đừng học theo thói ngụy quân tử, giả bộ là nhà từ thiện, làm được chút việc rồi đến đâu cũng quảng cáo, tuyên truyền cho mình. Chúng ta nên học tập theo đức hạnh chân chánh, và thực hành một cách thực tiễn. Phương pháp giáo dục của chúng ta hoàn toàn khác biệt với phương pháp giáo dục của mấy chỗ khác. Không phải là chúng ta muốn đánh đổ cách giáo dục của họ để nêu lên nền giáo dục của mình; cũng không phải là chúng ta muốn tranh giành hay muốn thi đua gì với ai. Mà chúng ta chỉ muốn giữ vững lập trường giáo dục để dạy dỗ cho thế hệ kế tiếp. Không cần biết là người ta làm đúng hay không, chúng ta chỉ muốn làm việc cho đúng, và không làm trái với lương tâm, thế là đủ rồi.

Giảng ngày 25 tháng 4 năm 1984

 


34. Từ Bi Hỷ Xả Là Cơ Bản Tu Đạo

Người tu hành nhất định là phải bồi dưỡng Tứ Vô Lượng Tâm. Khi có Tứ Vô Lượng Tâm rồi, mình mới có thể giáo hóa chúng sanh và khiến cho chúng sanh lìa khổ được vui. Nếu người tu đạo không có Tứ Vô Lượng Tâm, tức là làm ngược lại với đạo và dù có tu đến tám vạn đại kiếp, cũng vẫn còn xa Phật đạo đến cả tám vạn bốn ngàn cây số.

Tứ Vô Lượng Tâm là điều kiện cơ bản mà mỗi người tu nên có. Sao gọi là Tứ Vô Lượng Tâm? Tức là từ, bi, hỷ, xả. Vô lượng là không có hạn lượng, có nghĩa là không bỏ dở nửa chừng, hoặc không đến giữa đường rồi tự vạch mức giới hạn cho mình, không muốn tiến tới. Như mới được chút đỉnh đó thì lấy làm đủ và nghĩ là xong rồi. Thật ra, Từ Bi Hỷ Xả không có lúc nào là đủ cả, mà có được càng nhiều thì càng tốt. Chúng ta nên mở rộng, tăng cường từ bi hỷ xả cho đến khi đạt đến cảnh giới toàn thiện mới thôi.

1. Từ là có thể cho niềm vui. Chúng ta có cho chúng sanh niềm vui không? Nếu như không có, đó tức là chúng ta không dùng hết lòng từ của mình. Chúng ta nên tiến đến mục tiêu “vô duyên đại từ,” là dùng lòng từ bi đối xử với những người không có duyên với mình. Chúng ta không những thông cảm với người cùng trong hoàn cảnh khó khăn, mà chúng ta cũng nên thông cảm với cả loài động vật trong cảnh hoạn nạn nữa. Nếu có chuyện không may xảy ra, chúng ta nên ra tay tiếp đỡ, giúp chúng sanh thoát vòng khổ hải. Đấy là công việc mà Phật tử nên làm. Chúng ta đừng nên có thái độ dửng dưng, chỉ biết đứng nhìn mà không chịu giúp, vì thế là đánh mất tinh thần cứu thế của Phật Giáo. Trái lại, Phật Giáo lấy từ bi làm hoài bão, dùng cửa phương tiện của đạo Phật để tiếp nhận chúng sanh.

2. Bi là có thể bạt trừ khổ não. Chúng ta có thể bạt trừ sự đau khổ của chúng sanh không? Nếu không thể, thì đó là vì chúng ta chưa dùng hết lòng bi của mìmh. Chúng ta nên có tư tưởng “đồng thể đại bi,” cũng tức là thấy người chết chìm như chính mình bị chết chìm, thấy người đói như chính mình bị đói. Phật giáo lấy bi làm tông chỉ, vì bi là lòng lân mẫn, thương xót. Trong khi các nhà Nho nói rằng “bi thiên mẫn nhân” lại cũng phù hợp với ý nghĩa trên. Do đó mà biết rằng tư tưởng của thánh nhân trong thiên hạ đều giống nhau, như cùng xuất phát theo vết bánh xe, không tách rời lòng trắc ẩn xót thương. Phật giáo chủ trương từ bi, Nho giáo đề xướng trung thành và tha thứ. Tâm tâm tương đồng, đấy là cốt tủy của tôn giáo, nếu không thì là dị thuyết của ngoại đạo.

3. Hỷ là tâm vui vẻ. Chúng ta có hoan hỷ vui thích học Phật Pháp không? Chúng ta có sanh ưu sầu, phiền não, hoặc có tâm tư bực dọc không? Nếu quả là có, chúng ta hãy mau sửa đổi, đừng phát sanh tánh tình như thế. Nếu còn chút ít tập khí, rồi dụng công phu từ thất tình lục dục, thì đó là quan niệm sai lầm. Nên hiểu là chúng ta không được tiếp tục có thứ quan niệm sai lầm như thế. Nếu không, chúng ta không thể nào tưởng tượng nỗi hậu quả của nó sẽ ra sao.

4. Xả là tâm buông xả. Chúng ta có tâm buông xả không? Nếu có, vậy là lớn hay nhỏ? Là nhất thời hay là vĩnh viễn? Xả cái gì? Là phát tâm cho chúng sanh sự vui vẻ, bạt trừ cái khổ của chúng sanh và giúp họ trong hoàn cảnh nguy khốn. Nếu làm được như thế, chúng ta sẽ sanh lòng hoan hỷ đến mức vô hạn, nhưng chúng ta đừng nên chấp vào đó - làm xong việc rồi nên quên hết chứ đừng lưu giữ trong tâm thức. Nếu chúng ta chấp mà không quên được, đó không phải là hạnh nguyện của Bồ Tát. Chúng ta nên có tinh thần thi ân bất cầu báo thì mới được xem là người Phật tử chân chánh.

Giảng ngày 26 tháng 4 năm 1984

 

 

35. Nhẫn Là Bảo Vật Vô Giá 


Đã là Phật tử, chúng ta nhất định phải biết nhẫn. Nhẫn cái gì? Là nhẫn nhịn những cái người ta không thể nhẫn. Có người nói: “Tôi thật là nhịn hết nổi rồi!” Nếu chúng ta nhịn hết nổi, tức là không thể “hết” được. Hết cái gì? Là hết nghiệp chướng. Nếu nghiệp không tiêu, tình chưa không, tức là còn có sanh tử. Cho nên nói: “Nghiệp bất trọng, bất sanh Ta-bà. Ái bất đoạn, bất sanh Tịnh độ.” Chừng nào nghiệp tận, tình không, đến lúc đó chúng ta mới hết sanh tử và được giải thoát thật sự.

Người tu hành nên có công phu tu nhẫn nhục. Nhẫn đói, nhẫn khát, chịu gió, chịu mưa, chịu nóng, chịu lạnh, đến nỗi phải nhẫn sự chửi mắng, và nhẫn sự đánh đập luôn. Những cảnh nầy đều là thử thách. Như tôi thường nói: “Tất cả là khảo nghiệm, xem bạn sẽ làm sao? Đối cảnh mà không biết, phải luyện lại từ đầu.” Dù gặp nghịch cảnh như thế nào đi nữa, chúng ta cũng nên tiếp nhận với tâm lý “nghịch lại thuận thọ.” Chúng ta đừng để cảnh giới xoay chuyển, hoặc dựng cờ trắng mà đê đầu xin hàng phục. Người xưa nói: “Việc nhỏ mà không nhịn tức sẽ làm hư chuyện lớn.” Nhẫn nhịn là bảo vật vô giá: “Nhịn giây lát, gió yên sóng lặng; lui một bước, biển rộng trời xanh.” 

Khi đức Phật Thích Ca còn tại thế, có một hôm Ngài đi ngang qua bờ sông và thấy một con dã can (thuộc loài lang sói), muốn ăn thịt con rùa. Nhưng con rùa thì rút đầu, thụt cả chân tay vào trong cái mai, rồi nó nằm yên không động đậy một lúc thật lâu. Dã can vì không có tâm kiên nhẫn nên bỏ đi, còn rùa nhờ có lòng nhẫn nại mà bảo tồn được sanh mạng. Đức Phật nói với Tôn giả A Nan rằng: “Người tu hành cũng nên như vậy.” Bậc cổ đức nói: “Gần đây tôi mới học được cách của con rùa, lúc nào đáng rút đầu thì hãy rút đầu.” 

Trong lúc nóng giận mà quý vị nhịn được, thì quý vị sẽ miễn lo âu cả trăm ngày. Nếu người ta chửi mình, xem như mình đang thưởng thức một bài hát đang thịnh hành. Nếu có người đánh mình, xem như mình đi đường vô ý va vào cột cửa. Nếu quý vị quán tưởng như thế, dù là giáo mác gì cũng tự nhiên biến thành ngọc lụa. Nếu không, ngọn lửa vô minh nổi cơn lôi đình sẽ bốc cao ba trượng, mà phát thành một trận đại chiến. Kết quả hai bên đều bị thương, không những tổn thương tình cảm, lại còn mất cả nhân cách và bị người ta chê bai là mình thiếu tánh điềm tĩnh.

Cho nên nói: “Thọ tận thiên hạ bá ban khí, dưỡng tựu hung trung nhất đoạn xuân,” tức là chịu được hết trăm lần lời chỉ trích của thiên hạ, sẽ nuôi dưỡng thành khúc nhạc xuân trong tâm ta. Chúng ta có thể lấy những lời vàng ý ngọc nầy để làm câu châm ngôn cho mình.

Giảng ngày 5 tháng 5 năm 1984

 

36. Có Lòng Tham Sẽ Không Thành Tựu Được Gì

Người tu hành nên trong sạch như con mắt của mình - không thể dung chứa dù chỉ một hạt cát. Ví như trong mắt quý vị có hạt cát, nhất định quý vị rất khó chịu và lo tìm cách để lấy nó ra ngay. Nếu không, cả thân tâm quý vị cũng chẳng sao yên được. Tu đạo cũng giống như thế. Hạt cát đó là gì? Là lòng tham. Có lòng tham thì mọi việc sẽ bắt đầu biến đổi. Bản lai vốn trong sạch, nhưng một khi trong đầu có ý tham, tức khởi động tác dụng hóa học, biến nước trong sạch thành nước dơ. Như vậy đã không có lợi cho người, trái lại còn hại cho mình nữa.

Người tu hành hễ có một phần thành tâm là có một phần thành tựu và cảm ứng, có mười phần thành tâm, sẽ có mười phần thành tựu và cảm ứng. Khi có được thành tựu và cảm ứng rồi, chúng ta không nên chấp chứa ở trong tâm. Vì là “ưng vô sở trụ” nên chúng ta hãy quên phức nó đi. Mục đích chủ yếu tu đạo của chúng ta là vì muốn liễu sanh thoát tử, chứ không phải vì cầu cảm ứng. Quý vị nên nhớ lấy! Chúng ta tu hành thì không nên có ý đồ, như cầu được thành tựu, muốn được cảm ứng, vì đó là điều sai lầm to lớn. Mọi người nên hiểu cho rõ về điểm nầy. Nếu quý vị chuyên tâm nhất chí tu hành, khi công phu đến mức thành thục rồi, tự nhiên quý vị sẽ được thành tựu và cảm ứng. Nhưng nếu tu hành mà có ý đồ, quý vị vĩnh viễn sẽ không thành đạt gì và cũng không có cảm ứng chi.

Như câu nói: “Có tâm là vọng tưởng, vô tâm là cảm ứng.” Cảm ứng thì có thể hy vọng, nhưng không nên cầu xin.

Người tu hành nên: “Chỉ hỏi chuyện cày bừa, chứ không hỏi việc thu hoạch.” Bất luận làm việc gì, chúng ta cũng nên tận lực làm và đừng màng đến kết quả sẽ ra sao. Dù như thế nào, mình cũng nên quang minh chánh đại, điểm xuất phát là chỉ vì công chứ không vì tư, không có tâm ích kỷ riêng tư khi làm việc và không tính toán lo rầu về chuyện thành hay bại. Khi làm việc cho công chúng, chúng ta cũng nên như vậy. Chúng ta không nên lo sợ, giống như phía trước đang có sói, còn phía sau thì có cọp. Vì nếu có chuyện xảy ra, ai cũng không dám đứng ra gánh vác, rồi xô đẩy trách nhiệm cho nhau. Chuyện nhỏ mà như vậy, còn chuyện lớn thì cứ suy ra thì sẽ biết.

Đừng có vọng tưởng như người ngu, là không đi học mà muốn được bằng Tiến sĩ; không trồng trọt mà muốn thu hoạch ngũ cốc; không mua vé đua ngựa mà đòi trúng giải nhất. Đâu có chuyện tiện lợi vậy. Như mùa xuân quý vị phải lo gieo giống, cày cấy, tưới nước, bón phân, thì đến mùa thu mới có thâu hoạch được. Cho nên nói: “Một phần cày bừa, được một phần thâu hoạch,” là đạo lý tự nhiên thôi! 

Quý vị hãy chú ý, chớ nên khởi tâm tham cầu, tham thành tựu, tham cảm ứng, vì đó là chuyện mơ mộng, như đi trong cõi mịt mờ và cũng đừng nên tự dối gạt mình. Nếu như không nhận rõ được mục tiêu, bỏ gốc lấy ngọn, là quý vị lãng phí thời gian quý báu của mình mà chẳng được gì, sau có hối hận cũng đã trễ mất!

Giảng ngày 17 tháng 5 năm 1984


37. Vô Minh Là Căn Bản Của Sanh Tử

Vô minh tức là tham, sân, si, mạn, nghi. Năm thứ ác nghiệp nầy có thể khiến cho con người điên đảo đến phát cuồng.

1. Tâm tham: Là đối với cảnh thuận, chúng ta sẽ khởi lòng tham ái đến nỗi không có thì không được. Thậm chí có người vì muốn được mục đích của mình mà bất chấp các thủ đoạn, bằng không họ chẳng cam lòng.

2. Tâm sân: Là khi gặp cảnh nghịch, chúng ta sẽ giận hờn và nổi nóng, như không chửi người thì cũng đánh người, thậm chí còn giết hại người nữa. Đó đều là do tâm sân hận tác quái, nó khiến con người mất cả lý trí và ý chí xử sự mọi việc. Người có tâm như thế, ắt sẽ làm cho xã hội chẳng được an ninh, trật tự.

3. Tâm si: Là người không có trí huệ, không biết phải trái, cũng không phân biệt được thiện ác, cho nên hồ đồ điên đảo, hậu quả là thành kẻ bất lương, tạo nhiều nghiệp tội.

4. Tâm mạn: Là tự đề cao mình và đè ép người khác. Tự cho chuyện gì mình cũng hay hơn, nổi bậc hơn người. Thứ hành vi cống cao ngã mạn nầy là điều tối kỵ, chúng ta không nên có.

5. Tâm nghi: Là người đối với việc chánh đáng lại sanh lòng hoài nghi, không tin lời nói của bất cứ ai. Người có thứ tâm lý như vậy là bất thường, là sai lầm vì đã tự hạ thấp mình.

Năm loại tâm lý nầy đều là không bình thường, đều là do cái nhân vô minh dẫn đến. Người tu hành nhất định phải tiêu diệt vô minh, đừng để nó gây sóng gió thành tai họa vô cùng tận như vậy.

Vô minh khiến cho kẻ phàm phu chỉ biết dụng công vào mấy thứ tình dục. Họ nghĩ rằng chuyện tình ái ở thế gian là thật, cho nên họ không thể xa rời và cũng không nỡ buông bỏ nó. Do đó họ gắn bó với lục thân quyến thuộc một cách rối ren mà buông xả không đành. Rồi họ tạo ra biết bao thiện ác lẫn lộn, họ cũng không phân biệt được giữa ô nhiễm và thanh tịnh. Đời đời kiếp kiếp, họ cứ quay quanh trong vòng sanh tử luân hồi, vĩnh viễn không bao giờ ngừng. Cho nên nói vô minh là căn bản của sanh tử.

Người tu hành không có mấy thứ rắc rối đó đè nặng trong tâm, cho nên họ dễ được thanh tịnh, giải thoát và hết sanh tử. Nếu không cắt đứt vô minh, chúng ta vĩnh viễn sẽ bị nó chi phối, để rồi xuống địa ngục, chạy lên núi đao, hay là vào chảo dầu sôi. Lúc bấy giờ, chúng ta sẽ hối hận là lúc đầu sao mình không chịu tu hành tinh tấn. Nhưng rất tiếc là đã không còn kịp nữa.

Tôi xin khuyên quý vị nên tu hành cho kịp thời, đừng có tưởng là ngày tháng còn dài mà hẹn lần, hẹn lựa.

Bậc cổ đức có nói: “Đừng đợi đến già mới học đạo, mồ lẻ loi lắm kẻ thiếu niên.” Học đạo được một ngày là gần được Tịnh Độ thêm một chút. Như vậy từng chút từng chút, quý vị sẽ đến được cõi Tịnh Độ. Nếu quý vị không chuyên cần tu đạo mà lại muốn đến Tịnh Độ, thì sẽ không đến được đâu! Công việc trên đời, dù chúng ta có lãng phí thời gian để làm, rốt cuộc cũng chẳng được lợi ích gì. Nhưng chỉ có pháp môn tu hành là không lãng phí thời gian. Nếu quý vị tu được một phút thì được một phút lợi lạc. Cho nên nói: “Gom cát thành tháp,” tức là từng bước, từng bước không ngừng tiến tới, tự nhiên quý vị sẽ đến được bờ bên kia.

Giảng ngày 5 tháng 7 năm 1984

 


38. Người Nước Kỷ Lo Trời Sập - Tự Tìm Khổ Não

Có người trong lòng khởi vọng tưởng như: “Không biết đến lúc già, mình có bị chết đói, chết rét hay không nữa?” Đây là lối suy nghĩ chẳng có ích lợi gì. Là đệ tử chân chánh của Phật dù cho bị chết đói, chết rét chúng ta cũng chẳng thấy sao mà lại nghĩ rằng, nếu mình hy sinh vì Phật giáo, thì không còn gì quang vinh bằng.

Trong thời quá khứ Đức Phật Thích Ca đã từng trải qua ba a tăng kỳ kiếp tu phước huệ, và trăm kiếp gieo tướng tốt. Tất cả các đại địa, đất đai trong tam thiên đại thiên thế giới, không có chỗ nào, dù nhỏ như hạt bụi mà không phải là chỗ của đức Phật đã xả bỏ tánh mạng Ngài. Chúng ta nên xét lại lòng mình, xem chúng ta đã xả bỏ được cái gì rồi? Ngay cả mấy thứ đồ vật ngoài thân mà mình còn bỏ không nỡ. Chúng ta vẫn cứ bị cái tâm riêng tư, ích kỷ làm chủ, cho nên cái nầy bỏ không đặng, thứ kia bỏ không xong, huống chi đến chuyện xả bỏ sanh mạng mình thì lại càng không thể nói đến!

Quý vị nên biết rằng: bởi vì chúng ta không thể xả, không chịu bố thí, không có lòng thông cảm, không biết thương xót, cho nên chúng ta mới không ngớt xoay chuyển trong vòng luân hồi. Chúng ta cả ngày chỉ lo nghĩ đến chuyện khi mình già thì phải làm sao, nhưng không bao giờ nghĩ đến vấn đề khi mình chết thì sẽ như thế nào. Giống như có người ở nước Kỷ cứ ưu sầu cả ngày, đến nỗi mặt mày ủ rũ không bao giờ lộ vẻ vui tươi. Có người hỏi: “Tại sao anh lại buồn rầu vậy?” Anh ta đáp: “Nếu như trời sập thì làm sao, há không phải là chúng ta sẽ bị đè chết hay sao?” Đúng là lối suy nghĩ thật quá ấu trĩ đi thôi!

Chúng ta là người tu hành, nên sống một ngày là một ngày có ý nghĩa và đừng để vọng tưởng áp đảo. Nếu chúng ta suốt ngày cứ vọng tưởng lung tung. Há đó không phải là người ngu lắm sao? Vì nếu nghĩ tưởng đến những chuyện không thể có, không cần thiết, đó mới thật là tự mình làm khó lấy mình, tự chuốt khổ cho mình thôi!

Bây giờ chúng ta cần phải phản cái mê để quay về giác ngộ, nên buông cái giả để bắt lấy cái chân thật. Tôi thường nói với quý vị là: “Nếu không bỏ được cái giả, sẽ không thành đạt được cái thật; nếu không bỏ được cái chết, sẽ không đổi được cái sống.” Pháp thế gian là tương đối vậy thôi! Nếu bên kia là nghiệp chướng nặng nề, thì bên đây là thanh tịnh nhẹ nhàng. Còn như bên đây là thanh tịnh hơn, thời nghiệp chướng bên kia sẽ nhẹ bớt. Chỉ là xem quý vị muốn làm thế nào. Đây đều do quý vị tự quyết định theo ý thích của mình, chớ kẻ bàng quan không có cách gì can thiệp được.

Phàm là người xuất gia, chúng ta nên có nhân cách cao thượng, nên là người xuất chúng, vượt hẳn mọi người. Người xuất gia đừng nên hùa nhau đồng lõa với kẻ xấu, chỉ biết ăn rồi chờ chết, khiến cho khí thế Phật giáo trở nên nặng nề, không có khí thế hăng hái chút nào.

Giảng ngày 15 tháng 7 năm 1984

 

39. Bồi Dưỡng Nhân Cách Cao Thượng


Vạn Phật Thánh Thành là nơi tu đạo, cho nên các vị Thiên Long Bát Bộ lúc nào cũng hộ trì đạo tràng nầy. Nếu quý vị phát Bồ Đề tâm, họ nhất định sẽ hộ trì quý vị và khiến cho thân tâm quý vị được khinh an nhẹ nhàng, được đại thành tựu và có đại cảm ứng. Nhưng trong lòng quý vị đừng có hy vọng mình sẽ được như thế, thì những điều đó mới tự nhiên hiện tiền. Nếu quý vị còn có lòng hy vọng được thành tựu và cảm ứng thì đó là tham, cũng là phạm vào Lục Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thánh Thành.

Các sinh hoạt hằng ngày của người tu hành ở Vạn Phật Thánh Thành, đều không rời khỏi sáu điều mục như sau:

1. Không tranh. Tuyệt đối không tranh với bất cứ ai. Cũng không tranh danh, tranh lợi. Phàm đồ vật gì mà người khác thích thì mình nhường cho họ, chứ không cần phải tranh giành, gọi là: “Tranh chi bất túc, nhượng chi hữu dư,” nghĩa là tranh thì không đủ, nhường thì có dư.

2. Không tham. Không phải là miệng nói không tham, nhưng khi cảnh đến thì chỉ lo tham, chẳng thể bỏ qua, thế là sai rồi. Chúng ta cần phải là: Lời nói theo đúng việc làm, và làm đúng theo lời nói, đừng để chúng mâu thuẫn với nhau. Người không có lòng tham mới bồi dưỡng được nhân cách cao thượng.

3. Không cầu. Nếu chúng ta có cầu muốn điều gì, tức là chúng ta sẽ có phiền não. Cầu mà không được, đương nhiên là chúng ta sẽ phiền não. Cho nên nói: “Vô cầu tiện vô ưu,”không cầu sẽ không lo - thật là một danh ngôn chí lý. Một khi chúng ta đạt đến trình độ vô cầu, phẩm cách của chúng ta tự nhiên sẽ cao quý. Nhân đáo vô cầu phẩm tự cao, tức là vậy. Trong Bát khổ có “cầu bất đắc khổ,” như cầu không được cũng khổ, mà cầu được cũng khổ luôn. Vì lo được lo mất mà tự tìm cái khổ cho mình. Vậy bởi tội gì mình phải khổ như thế. Nếu như quý vị thấy rõ ra mà buông hết tất cả thì quý vị sẽ không còn phiền não nữa.

4. Không tự tư, ích kỷ. Ai ai cũng có lòng ích kỷ. Chuyện gì chúng ta cũng tính toán cho mình trước, lo nghĩ cho con cháu của mình trước hết. Cho nên người tu hành là phải tu đến cảnh giới vô ngã. Vô ngã rồi thì chúng ta còn muốn tranh cái gì, tham cái gì, cầu cái gì nữa đây? Chúng ta phủ nhận hết, và cái gì cũng không muốn. Chúng ta phải học theo tinh thần của Bồ Tát là xả mình vì người. Tại sao thế giới nầy lại ngột ngạt đầy chướng khí, và không lúc nào trong sạch, xán lạn vậy? Bởi vì ai nấy đều tự tư, tự lợi, như nói: “Cái nầy là của tôi, cái kia thuộc về tôi,” nên khiến cho thiên hạ đại loạn, thế giới chẳng được an ổn.

5. Không tự lợi. Nếu mọi người đều không có tánh tự lợi, lúc nào cũng biết đủ, gặp hoàn cảnh nào cũng cảm thấy an ổn, vậy tự nhiên ai nấy cũng sẽ chung sống hòa bình với nhau. Nếu như người có tâm tham thì giống như cá theo mồi, thấy lợi là quên mất hết tình nghĩa, rồi làm những chuyện tổn hại đạo lý. Có bao nhiêu người đã vì lợi mà thân bại danh liệt, tán gia bại sản. Thậm chí có kẻ còn làm cho nước mất nhà tan, đến nỗi phải lưu lạc, không nơi nương náu.

6. Không vọng ngữ. Bất luận trong hoàn cảnh nào, chúng ta tuyệt đối cũng không nên vọng ngữ. Hễ thấy thì nói thấy, nghe thì nói nghe, chúng ta cứ thật thà mà nói, chớ nói những chuyện không có căn cứ. Chúng ta nên biết, vọng ngữ là nói những lời bịa đặt, làm tổn hại người mà chẳng có lợi ích gì cho mình, và sau khi chết nhất định bị đọa vào địa ngục cắt lưỡi. Điều đó không có chút nghi ngờ gì cả. Cho nên chúng ta phải hết sức cẩn thận.

Hôm nay tôi nói với quý vị những lời tuy rất cạn cợt, nhưng nếu quý vị chịu y chiếu theo đạo lý đó mà làm, thì sẽ hữu dụng vô cùng. Cho nên có câu: “Nói cho hay! Thuyết cho diệu! Nhưng nếu không thực hành thì không phải là Đạo. Đạo là hành, không hành sao có Đạo? Đức là làm, không làm sao có Đức?” Nếu quý vị có thể thực hành theo Lục Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thành, tự nhiên nhân cách của quý vị sẽ cao thượng hơn.

Tôi nói thêm một câu sau chót là: Quý vị đừng nên làm những chuyện ngu si như: “Yểm nhĩ đạo linh” tức bịt tai để trộm chuông. Vì quý vị không thể tự dối mình, mà cũng không thể gạt được Phật! Hà tất bụng dạ phải chứa đầy chuyện quỷ quyệt, rồi tưởng là mình có thể che đậy được hết để dối trên lừa dưới. Há như thế chẳng phải là tự chuốc lấy cái vô lý cho mình hay sao? Tôi hy vọng mọi người ở Vạn Phật Thánh Thành đều biểu hiện là người lương thiện, mẫu mực, để kẻ thế nhân nhìn vào bằng cặp mắt khâm phục.

Giảng ngày 25 tháng 9 năm 1984

 

40. Hoan Nghênh Hành Giả Đến Thánh Thành

Vạn Phật Thánh Thành là đạo tràng mới phát khởi. Có thể nói đây là vùng phát nguyên địa của Phật giáo, lại cũng có thể nói là vùng quy nguyên địa của Phật giáo. Sao gọi là vùng phát nguyên địa của Phật giáo? Bởi vì đạo Phật trên thế giới nầy đã đến thời đại Mạt pháp, và những người chân chánh y theo giáo pháp tu hành thì thưa thớt, không có mấy ai. Có người tuy mang danh nghĩa là Phật tử, song những hành vi của họ lại hoàn toàn trái ngược với Phật giáo. Vì xét thấy như vậy, cho nên Phật tử cần phải trùng tân chỉnh đốn để xây dựng lên một tân Phật giáo, khiến cho Chánh pháp trụ mãi trên thế gian. Vạn Phật Thánh Thành quyết sẽ trùng tân và phục hưng Phật giáo trở lại, cho nên nói là vùng phát nguyên địa của Phật giáo.

Sao lại gọi là vùng quy nguyên địa của Phật giáo? Hiện nay các nơi trên thế giới thường xảy ra nhiều hiện tượng đau lòng, như hủy Phật đốt kinh. Thậm chí đến cả chùa chiền cũng bị sửa thành các công trường, hãng xưởng, hoặc các hí viện vui chơi giải trí. Vùng đất thanh tịnh lại biến thành nơi ô uế, người xuất gia bị bức bách đến đỗi không còn nơi trú ngụ. Thậm chí có người phải chạy lên núi, và có kẻ phải xuống vùng ven biển hẻo lánh. Người tu hành trên núi dùng rau dại làm bữa qua ngày, kẻ tu ở ven biển thì dùng rong biển cho đỡ cơn đói. Họ chịu đựng hết những thử thách, với biết bao sự giày vò gian khổ, nhưng họ một lòng không thay đổi ý chí và vẫn chuyên tâm lo tu trì. Với tinh thần bất khuất đó, thật đã làm cho mọi người ngưỡng mộ. Nếu những vị tu hành chịu nhiều khổ nạn đó muốn đến Vạn Phật Thánh Thành để tu đạo, chúng tôi tuyệt đối hoan nghênh. Chúng tôi chẳng những hoan nghênh những người bất hạnh đó, mà đồng thời cũng hoan nghênh luôn các vị tu hành chân chánh trên khắp thế giới đến Thánh Thành để cùng chúng tôi tu tập.

Phàm hễ ai thành tâm đến Vạn Phật Thánh Thành làm công quả, chúng tôi đều nhất nhất hoan nghênh. Đây là nơi không phân biệt tông phái, chủng tộc, quốc tịch hay chức vị và mọi người đều được đối xử như nhau. Ai nấy ở Vạn Phật Thánh Thành đều được thọ hưởng sự bình đẳng và tự do. Vạn Phật Thành là nơi không thuộc về bất cứ người nào, mà thuộc về tất cả các tôn giáo và chúng sanh trên toàn thế giới, kể cả Thiên Chúa giáo, Cơ Đốc giáo, Đạo giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo v.v... Đây không phải là khẩu hiệu trống không mà là lời hứa chân thật.

Tóm lại, bất luận tôn giáo nào, phàm hễ ai chân thật phát tâm tu hành, Vạn Phật Thánh Thành cũng đều hoan nghênh cả. Cho nên nói Vạn Phật Thánh Thành là nơi để trở về, là vùng quy nguyên địa của Phật giáo.

Giảng ngày 29 tháng 9 năm 1984


41. Giới Luật Căn Bản

Giới luật căn bản chỉ có một, tức là không tự tư ích kỷ. Người có lòng ích kỷ sẽ phạm giới, nếu không có tâm ích kỷ sẽ không phạm giới. Cùng lý lẽ trên, ai có lòng ích kỷ sẽ phạm pháp, và người nào không có tâm ích kỷ sẽ không phạm pháp. Như có một số người bị tòa án pháp luật phán xét không công bình. Đó là vì thuở xưa họ đã có những hành vi không công bình đối với kẻ khác, cho nên ngày nay kẻ khác cũng đem việc không công bình mà gán vào cho họ.

Quý vị nên mở lớn mắt ra để chỉnh đốn lại tư tưởng của mình và hãy nhìn xem: Những người phạm pháp trên cõi đời nầy, thật ra đều là do lòng ích kỷ của họ dẫn khởi. Tất cả những người không giữ đúng quy củ đều phát nguồn từ lòng ích kỷ. Nếu như họ không có lòng ích kỷ, họ sẽ không phạm các pháp luật trên thế gian nầy.

Cho nên nếu quý vị có thể thực hành theo Lục Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thánh Thành: không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ thì quý vị chẳng những sẽ làm người tốt trên thế gian, mà quý vị cũng có thể là Thánh nhân xuất thế nữa. Nguyên nhân thế giới hỗn loạn là bởi người ta ích kỷ, chưa có thể vì đại công mà vô tư được.

Như có một số đảng phái, họ luôn miệng nói là đại công vô tư, nhưng trên thực tế, họ làm những việc hoàn toàn vì chính họ thôi. Bởi vậy mới làm cho thế giới hỗn loạn, khiến mọi người phập phồng lo sợ không được bình an. Tất cả những mặc cảm không được bình an, lo sợ đó đều là do từ lòng ích kỷ dẫn dắt đến.

Hiện nay chúng ta đang nghiên cứu giới luật. Một khi hiểu rõ giới luật rồi, chúng ta sẽ biết cách làm người như thế nào. Một khi hiểu rõ bổn phận làm người, chúng ta cũng sẽ biết rõ bổn phận làm bậc Thánh nhân. Cho nên việc nghiên cứu giới luật là vô cùng trọng yếu. Vậy muốn giúp cho thế giới nầy, trước hết chúng ta phải không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ. Chúng ta nên đem bản thân mình để làm phép tắc, làm gương mẫu cho kẻ khác. Có vậy thế giới nầy mỗi ngày mới càng được bình an hơn. Cho nên khi học giới luật vào mỗi thứ sáu, chúng ta phải hết sức thành tâm cung kính thì mới đạt được chỗ lợi ích.

Giảng ngày 5 tháng 10 năm 1984

 

42. Cải Biến Tập Khí Cũ - Tuyển Chọn Tông Chỉ Mới

Hôm nay là ngày cuối cùng của năm Giáp Tý và ngày mai sẽ bắt đầu năm Ất Sửu. Lúc bấy giờ chúng ta hãy nên sửa đổi lại các thói quen, tập khí cũ của mình. Những việc làm của chúng ta trong quá khứ, đều do từ các tập khí không tốt, cho nên có nhiều chỗ bất hợp pháp. Vậy bắt đầu từ ngày mai trở đi, chúng ta nên lựa chọn tông chỉ mới và làm lại con người mới. Như nếu chúng ta vẫn cứ không “biết nay là đúng, khi xưa là sai,” thì sự tu hành của chúng ta sẽ không có tiến bộ mà lại uổng phí thời gian thôi!

Quý vị! Đừng bao che những chỗ thiếu sót của mình, mà hãy nên phát huy những cái hay của mình, gọi là: “Kiến hiền tư tề,” tức là thấy người hiền bèn lo chấn chỉnh lấy mình để được như họ. Chúng ta nên noi gương và học tập theo tác phong của thầy Tăng Tử. Trong Luận Ngữ có ghi rằng:

“Tăng Tử viết: Ngô nhật tam tỉnh ngô thân.
Vị nhân mưu nhi bất trung hồ.
Dữ bằng hữu giao nhi bất tín hồ.
Truyền bất tập hồ,”

Thầy Tăng Tử nói: “Mỗi ngày tôi có ba việc cần phải tự kiểm điểm bản thân là: Trong việc làm, mình có thật lòng làm hết khả năng chưa? Khi giao tiếp với bạn bè, mình có chỗ nào không thành thật chăng? Các bài tập được học mỗi ngày, mình có ôn luyện, nghiên cứu lại không?”

Vì vậy chúng ta cũng nên noi theo những câu nói đó để làm gương soi lấy mình.

Tam Tự Kinh đã bắt đầu bằng những câu nói như: “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện. Tánh tương cận. Tập tương viễn, cẩu bất giáo, tánh nãi thiên.” Nghĩa là: Lúc các hài nhi mới lọt lòng mẹ, bản tánh của chúng đều là lương thiện. Bởi vì bản tánh và cái thiện gần nhau, cho nên nói “tánh tương cận,” khi lớn lên, dần dần chúng bị huân tập theo hoàn cảnh và bị ô nhiễm bởi các tập khí. Như câu nói: “Nhuộm xanh sẽ thành xanh, nhuộm vàng sẽ thành vàng.” Thế là tánh tình của chúng dần dần rời xa cái thiện, cho nên nói: “Tập tương viễn.” Trong thời kỳ nầy, nếu con người không được giáo dục đàng hoàng để sửa đổi lại các tập khí cũ và phục hồi tánh thiện hảo, thì tánh tình của họ sẽ bị biến đổi.

Lúc tuổi còn trẻ, chúng ta được cha mẹ, thầy cô dạy dỗ, sửa đổi những thói hư nết xấu của chúng ta để trở nên tốt lành hơn. Nhưng khi lớn lên thì đâu còn ai dạy dỗ ta nữa. Vì vậy, nếu chúng ta muốn sửa đổi tánh tình cho tốt, tất phải do tự mình sửa đổi lấy mình. Bởi vì cớ nầy, nên đề tài hôm nay là: “Cải Biến Tập Khí Cũ, Tuyển Chọn Tông Chỉ Mới.”

Chúng ta nên nhận rõ mục tiêu của mình. Chúng ta muốn làm người như thế nào? Thế nào mới có thể trở thành người Phật tử chân chánh? Phương châm mới của chúng ta là gì? Tông chỉ mới của chúng ta ra sao? Đó là những vấn đề mà chúng ta cần phải hiểu cho rõ ràng. Nếu không, chúng ta sẽ chẳng có cách gì sửa đổi các tập khí, thói quen cũ của mình, cũng không có cách nào lựa chọn một tông chỉ mới cho được. Vì vậy quý vị hãy nên chú ý điểm nầy.

Nói tóm lại, những vấn đề đó cũng đơn giản lắm thôi. Tức là chúng ta cứ tận tâm thực hành: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành,” nghĩa là các việc xấu không làm, vâng làm những điều lành, như vậy là tốt rồi. Nếu ai nấy đều thực hành y theo phương châm nầy, tự nhiên chúng ta sẽ đạt được mục tiêu làm người.

Phương châm mới là hãy tiêu diệt hoàn toàn các tật bệnh ghen ghét, gây chướng ngại, cống cao, ngã mạn, không cho chúng nó hoành hành. Chúng ta làm sao mới tiêu diệt được bốn loại tâm lý bất chánh đó? Tức là dùng Tứ Vô Lượng Tâm: từ, bi, hỷ, xả để điều trị chúng. Người có tâm từ sẽ không có lòng ghen ghét; có tâm bi thì sẽ không gây chướng ngại; có tâm hoan hỷ thì sẽ không cống cao; có tâm buông xả thì sẽ không ngã mạn. Quý vị nghiên cứu đi, xem thử như thế là có đạo lý hay không?

Tông chỉ mới là không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ. Thật ra, những điều đó vốn là tông chỉ cũ xưa của Vạn Phật Thánh Thành. Tuy quý vị đã nghe qua nhiều lần, nhưng không có ai nghiêm chỉnh thực hành theo. Phàm việc gì mà quý vị chưa thực hành qua, thì xem như là mới vậy. Khi nào quý vị có thực hành rồi, đó sẽ không còn là mới nữa. Hôm nay tôi lập lại giọng điệu cũ, bàn về ý nghĩa của Lục Đại Tông Chỉ đó nữa, hy vọng quý vị sẽ chú ý!

Vì sao chúng ta có phiền não, có lo âu? Đó đều là do - có tranh, có tham, có cầu, có ích kỷ, có tự lợi, có vọng ngữ, chúng nó đang tác quái đấy. Chúng chi phối đến nỗi cả thân tâm chúng ta chẳng được an ổn, tự tại. Nếu hàng phục được chúng, thì mình sẽ không bị điên điên đảo đảo. Khi đó chúng ta sẽ đạt đến cảnh giới không phiền não, không lo âu và bất luận lúc nào, chúng ta cũng đều được tự tại. Vì sao chúng ta không được tự tại? Nói tóm lại, là vì chúng ta bị sáu cảnh giới đó xoay chuyển.

Lúc tôi còn nhỏ, tôi thích tranh cãi với người và thường hay xen vào những chuyện bất bình. Như có chuyện gì không công bình xảy ra, trừ phi không biết thì thôi, nhưng hễ mà biết được thì tôi nhất định sẽ xông ra để tranh luận phải trái. Tôi cũng có tham, mà tham cái gì vậy? Thì là tham ăn, con nít đều hay có tật xấu nầy. Như có món gì ngon mà tôi không có phần, tôi nhất định phải tranh giành cho bằng được mới thôi. Lúc lên mười hai tuổi, tôi bắt đầu biết phản tỉnh, tự xét lại tánh nết của mình - Tại sao mình lại ngang ngạnh như thế? Đến khi đã tỏ rõ rồi, tôi liền sửa đổi lỗi lầm để làm lại con người mới. Từ đó, tôi bắt đầu khấu đầu quỳ lạy cha mẹ để tỏ lòng sám hối. Vì trong quá khứ, tôi đã từng làm nhiều chuyện khiến cho cha mẹ tôi phải nhọc lòng lo lắng. Từ đấy về sau, tôi cũng không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi. Tôi cảm thấy làm được như vậy rất có hữu dụng, cho nên tôi vẫn một mực áp dụng tuân theo cho mãi đến ngày hôm nay và cho đến trọn đời không hề thay đổi.

Sau đó, trừ việc đảnh lễ tạ tội với song thân, tôi lại đảnh lễ trời, đất, vua, bà con thân quyến, và thầy giáo. Tôi lại còn khấu đầu đảnh lễ các vị đại thánh, đại hiền, đại thiện, đại hiếu trong thiên hạ, và cả đến người đại ác, tôi cũng lạy luôn. Tại sao vậy? Vì tôi muốn họ cũng cải ác hướng thiện. Mỗi ngày tôi lạy hơn tám trăm lạy ở phía sau vườn, mất khoảng hai tiếng đồng hồ, và dù có mưa gió gì đi nữa cũng không cản trở việc lễ bái của tôi (*). Lần trước khi đến chùa Kim Phật ở Canada, tôi có nói với hai vị Tam Bộ Nhất Bái (thầy Hằng Thật và thầy Hằng Triều) rằng: “Các vị thử xem, nếu không tranh, không tham, không cầu như vậy thì vi diệu biết dường nào! Không ích kỷ, không tự lợi, đó là sự vi diệu trong cái vi diệu, và chẳng có pháp nào vi diệu hơn thế nữa. Nếu như ai nấy đều chân chánh thực hành theo Lục Đại Tông Chỉ, các vị thử hỏi là còn có pháp nào siêu xuất hơn pháp nầy nữa chăng?”

Quý vị! Hãy nỗ lực thực hành theo Lục Đại Tông Chỉ, có vậy quý vị tu hành mới tiến bộ được. Bằng không, tất cả chỉ là lời nói suông, cũng như ăn bánh vẽ không thể hết đói, như nấu cát thì không thể thành cơm được. Lục Đại Tông Chỉ nầy ở Vạn Phật Thành, người người nên nhớ ghi khắc trong tâm chớ quên. Bởi có nó cho nên cái gì ta cũng buông xả, cái gì ta cũng bố thí cho người, chứ không phải bảo người bố thí cho mình. Đương nhiên là nếu có người bố thí cho ta, ta cũng không từ chối. Nhưng ta nên hết sức mình làm việc bố thí, hễ có cơ hội là ta bố thí một ít. Phàm làm việc gì, nếu ta có thể làm được thì hãy làm, còn việc gì làm không được thì ta cũng không nên miễn cưỡng.

Quý vị nghĩ thử xem! Nếu chúng ta làm được như thế thì còn cái gì để ưu sầu, còn cái gì mà buông bỏ không được chớ? Nếu chúng ta nghiêm chỉnh thực hành theo Lục Đại Tông Chỉ nầy, thế mới thật sự hiểu rõ được Phật Pháp. Nói cách khác, chân đế của Phật Pháp đã bao quát trong Lục Đại Tông Chỉ rồi.

Không tranh: Là không phạm giới sát. Vì sao phải sát sanh? Bởi vì muốn tranh, anh tranh tôi đoạt, rồi phát sanh những hành vi giết người, phóng hỏa. Hơn nữa nếu không tranh sẽ không sát, như vậy là giữ được giới sát rồi. 

Không tham: Thì không phạm giới trộm. Vì sao phải trộm cắp? Bởi là tham, tham muốn vật của người làm của riêng mình. Nếu không tham tức là giữ được giới không trộm cắp.

Không cầu: Thì không phạm giới dâm. Người nam truy tìm người nữ, đó là cầu. Người nữ truy tìm người nam, đó cũng là cầu. Cầu mà không được thì thần hồn điên đảo. Thậm chí trong giấc ngủ cũng mơ mộng truy cầu, thân tâm không an ổn.

Không ích kỷ: Thì không phạm giới vọng ngữ. Vì sao phải nói dối? Bởi vì muốn bảo vệ cái quyền lợi của bản thân, cho nên đi đến đâu cũng nói dối để gạt người. Nếu người không ích kỷ, đến đâu họ cũng nói lời chân thật, và không bao giờ có những hành vi dối trá.

Không tự lợi: Thì không phạm giới rượu. Người uống rượu cho rằng rượu làm máu huyết lưu thông, có lợi ích cho thân thể, nhất định sẽ được tráng kiện. Khi say rượu, người ta cảm thấy tâm thần lâng lâng như ở cõi thần tiên. Đó là do lòng tự lợi của họ đang tác yêu tác quái đấy.

Không vọng ngữ: Chúng ta đã nói bao quát năm giới trên, nhưng vì muốn đề cao cảnh giác mọi người và đặc biệt nhấn mạnh chỗ xấu xa của vọng ngữ, cho nên chúng ta lại cộng thêm mục nầy để nhắc nhở vậy.

Hiện chùa Kim Phật ở Vancouver, Canada, chúng ta thường hay giảng về Lục Đại Tông Chỉ để dạy mọi người, gồm cả người già, thanh niên và trẻ em, để cho họ biết rõ tánh cách trọng yếu của Phật Pháp. Như nếu con người có thể thật sự không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ, thế thì xã hội nhất định sẽ được an ninh và gia đình nhất định sẽ được hạnh phúc.

Nếu con người trên thế giới có thể nghiêm chỉnh giữ năm giới và không có những hành vi như sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, rượu chè thì họ sẽ không có phiền não, không lo âu gì cả. Cho nên tôi nói Lục Đại Tông Chỉ nầy là pháp môn tối mầu nhiệm. Quý vị cũng có thể nói đó là:

“Pháp vi diệu thậm thâm vô thượng,
Trăm nghìn muôn kiếp khó được gặp,
Nay con thấy nghe được thọ trì,
Nguyện hiểu Như Lai chân thật nghĩa.”

Tôi xin nói thêm một câu nữa: Như thân đã là đệ tử Phật, tối thiểu là chúng ta phải nghiêm trì năm đại giới cơ bản nầy và triệt để thực hành theo. Như vậy chúng ta mới được an vui tự tại. Giả dụ như chúng ta không giữ được năm giới đó, thế thì 250 giới của Tỳ Kheo, hoặc 348 giới của Tỳ Kheo Ni lại càng không dễ gì giữ đặng. Cho nên tại rừng cây Song Thọ, lúc Đức Phật Thích Ca sắp nhập Niết Bàn, Ngài đã căn dặn tôn giả A Nan nên “lấy giới làm thầy.” Do đấy, chúng ta cũng biết được giới luật là trọng yếu như thế nào!

Giảng ngày 19 tháng 2 năm 1985

Ghi chú ban Việt dịch: 

(*) Ở đây Hòa Thượng chỉ đề cậo sơ qua, thật ra trong hơn 10 năm, Hòa Thượng đã lạy mỗi ngày hai lần mỗi lần hơn 830 lạy, tổng cọng hơn một ngàn sáu trăm lạy nỗi ngày. Trong sách : "In Memory of the First Anniversary of the Nirvana of Venerable Master Hsuan Hua and the Twentieth Anniversary of the City of Ten Thousand Buddhas" trang 49, Hòa Thượng đã kể lại: "For more than ten years, I bowed two hours in the morning and two hours in the evening, making eight hundred and thirty-some bows twice a day. I was bowing four hours a day."

 

Thượng Đường Thuyết Pháp Tại Chùa Kim Luân,Los Angeles


I.

Pháp vương trí thủy lợi vạn vật.
Y sinh dược thạch giải chúng độc.
Chư Phật bổn nguyên quang minh tạng.
Cần gia phất thức mạc nhiễm ô.

Nghĩa là:

Trí thủy Pháp Vương lợi muôn loài.
Thuốc lương y giải hết các độc.
Chư Phật vốn là quang minh tạng.
Gắng công lau chùi đừng nhiễm nhơ.

Pháp vương tức là đức Phật. Ngài dùng nước Bát Nhã tẩy rửa bụi trần trong tâm chúng sanh, hầu làm lợi ích cho muôn loài.

Thuốc của các vị lương y có công hiệu là giải trừ hết các chứng bệnh tật.

Chư Phật là kho tàng ánh sáng quang minh ở cõi thanh tịnh thường tịch tĩnh. Nhưng bổn lai không một vật thì chỗ nào dính bụi trần đây?

Chúng ta phải quét sạch hết các tạp niệm vọng tưởng thì gương trí tuệ tròn đủ mới hiện tiền. Khi vật đến thì gương chiếu soi, lúc vật đi thì gương im lìm. Chiếu là tùy duyên, tùy cảnh, không có gì chướng ngại.

Bổn thể Phật tánh tại Thánh không tăng, tại phàm không giảm: Bổn thể Phật tánh tức là chân lý. Chân lý nầy ở trong bậc Thánh hiền không tăng, ở phàm phu không giảm. Thánh, phàm mỗi mỗi vốn đều có đủ trí tuệ quang minh.

Chỉ do một niệm bất giác mà tam tế tượng thành, rồi lưu lạc trong ngũ thú, luân chuyển theo lục đạo: Nhưng vì chúng sanh có một niệm bất giác vô minh mà sanh thành tam tế tướng, là ba tướng vi tế: hiện tướng, nghiệp tướng và chuyển tướng. Rồi từ đấy lưu lạc trong năm thú: trời, người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và luân hồi theo sáu nẻo, gồm ba đường thiện: thiên, nhân, a tu la; và ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Chúng sanh do khởi nghi hoặc mà tạo tội, rồi phải chịu quả báo ở mãi trong lục đạo, không trồi đầu ra được.

Trôi dạt ngàn dặm, phân tán thành vạn mối: Tự tánh của chúng sanh điên đảo như nước trong bình tuôn ra, phân thành vô số chi nhánh, ngàn đầu vạn mối, càng tán càng loạn. Càng loạn thì nó lại càng khó quy tụ trở về.

Như nước biển vỡ bờ, như núi lửa bộc phát, oai lực của nó còn hơn bơm nguyên tử, thần kỳ còn hơn cả máy điện toán, computer: Một khi tự tánh phân tán thành vạn mối thì như nước tràn vỡ đê, lại cũng như núi lửa bộc phát, thế lực của nó còn hơn cả bom nguyên tử nổ. Nó thiên biến vạn hóa, thần kỳ còn hơn cả computer. Ví như nghiệp lực đáng sợ của chúng sanh, thiện ác cứ qua lại với nhau, ràng rịt lẫn nhau. Bởi nó bất khả tư nghì nên con người không thể nào tưởng tượng ra nổi.

Tràn lan vô thứ tự, chúng ta không sao thâu gộp lại cho được, không biết là nó lung tung đến cỡ nào: Thứ nghiệp lực tràn lan đó lại ngày càng khuếch đại thêm ra, đến nỗi không thể nào sửa chữa tình cảnh lại được. Những thứ nợ ô nhiễm đó chúng ta phải trả mãi cũng không xong. Chẳng ai biết tương lai rốt cuộc rồi sẽ ra sao?

Bởi vậy chúng ta nên biết thời đại ô nhiễm với bao trào lưu hỗn độn mà lo hồi đầu tỉnh ngộ, phát tâm Bồ Đề, dùng trí Bát Nhã và nhận rõ mục đích để tiến bước: Do đó nên biết rằng, chúng ta đang ở trong thế giới ô nhiễm, cho nên đất nước, hoàn cảnh, không khí cũng đều bị nhiễm ô. Vậy những thứ ô nhiễm đó từ đâu tới? Nguồn căn là từ một niệm vô minh của chúng ta đấy. Vì vô minh thuộc về lửa, cho nên lửa càng thiêu, càng đốt mạnh mẽ thì thế giới càng sẽ bị màng khói đen mịt mù bao phủ. Rồi khiến cho tánh tình con người ô nhiễm, gia đình cũng nhiễm ô. Quý vị thấy đó! Người mà hút thuốc thì cả lục phủ, ngũ tạng cũng biến thành màu đen luôn. Vì sao tâm tánh con người ngày càng mù mờ, đen tối? Bởi vì ai nấy cũng đều tham lợi lộc, chứ không có người nào chịu bị thiệt thòi. Mỗi mỗi đều là tự tư, tự lợi thì thế giới làm sao không hư hoại cho được? Cho nên, lúc nầy chúng ta cần nhận rõ là thời đại hỗn trược, dơ bẩn, để biết quày đầu tỉnh giác, phát tâm giác đạo Bồ Đề. Chúng ta nên dùng đại trí huệ của mình, chứ đừng dùng cái trí ngu si. Khi hiểu rõ được chân lý rồi, chúng ta nên chắc chắn thực hành theo, chứ đừng làm một cách gian dối.

Cửa Hiền bờ Thánh, lo chi không đến được? Nếu làm được như vậy, tức là chúng ta đã noi gương cùng các bậc Thánh Hiền, và tương lai chúng ta ắt sẽ đến được cảnh giới của Thánh Nhân.

Hôm nay có các vị hộ pháp của chùa là bác sĩ Hồ Kiến Quốc, Trần Quốc Bối và Quả Cảo cùng đến chùa làm lễ thỉnh Sơn Tăng thượng đường thuyết Pháp: Ba vị cư sĩ hộ pháp nầy có lòng thành tha thiết cầu Pháp, cho nên họ thiết lập đàn tràng cúng trai tăng để kết mối thiện duyên.

Nay thuyết Pháp một câu, mà nên nói gì đây? Các Pháp là rời tướng ngôn thuyết, rời tướng văn tự, rời tướng tâm duyên. Thật ra lại còn có Pháp gì để nói nữa?

Vô Pháp khả thuyết cưỡng thuyết Pháp,
Hữu thùy giác ngộ hựu ngộ thùy,
Phản bổn hoàn nguyên quy gia lộ,
Vận chuyển tam xa niệm Pháp Hoa.

Nghĩa là:

Không Pháp để nói mà phải nói,
Ai giác ngộ, giác ngộ cái chi,
Quay về nguồn là đường về nhà,
Vận chuyển ba xe niệm Pháp Hoa.

Vô Pháp khả thuyết cưỡng thuyết Pháp: Pháp vốn không thể nói ra được, gọi là: “Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt.” Tuy không lập văn tự, nhưng chúng ta phải miễn cưỡng dùng lời lẽ văn tự để thuyết Pháp.

Hữu thùy giác ngộ hựu ngộ thùy: Cứu cánh là có ai giác ngộ, mà lại giác ngộ cái gì? Trên căn bản thì người được ngộ và chỗ để ngộ cũng đều mất hết.

Phản bổn hoàn nguyên quy gia lộ: Quay trở về với tự tánh của kho tàng ánh sáng đại quang minh, tức là Phật tánh vốn có sẵn của chúng ta.

Vận chuyển ba xe niệm Pháp Hoa: Thường tụng trì kinh Diệu Pháp Liên Hoa, và kéo được ba xe là chúng ta có thể lên đường trở về nhà. (Ba xe trong Phẩm Thí Dụ của kinh Pháp Hoa là: xe dê, xe hươu, xe trâu, ví dụ cho Thanh Văn, Duyên Giác và Đại Thừa.)

II.

Nhất lạp vi trần hàm Pháp giới,
Vạn tượng sum la tức Pháp thân,
Chư Phật vô tâm thuyết kinh điển,
Bồ Tát hữu chí hóa chúng sanh,
Ngũ uẩn bất trược, nhân phiền não nhi đắc danh,
Bát khổ phi khổ, phá chấp trước tự giải thoát,
Tam tâm vị liễu, bộ bộ kinh la,
Ngũ dục nhược không, xứ xứ liên hoa,
Bất tranh, bất tham, bất cầu đắc,
bất tồn tự tư, tự lợi tâm.
Tái năng thành thực bất vọng ngữ,
nhật cửu công thâm tánh tự chân.
Chư nhân giả, hội đắc ma?
Niệm tư tại tư, vật niệm vật trợ,
Dịch đảo càn khôn, đả toái hồ lô,
Thử thời thiên túc vạn túc,
Cực Lạc thế giới nhãn để thâu,
Hà tu hướng ngoại vọng trì cầu?

Nghĩa là:

Một hạt bụi chứa cả Pháp giới,
Muôn vật bao la là Pháp thân.
Chư Phật không tâm giảng kinh điển,
Bồ Tát có chí độ chúng sanh.
Ngũ uẩn thì không nhơ, vì phiền não mới có tên.
Tám khổ là không khổ, phá được chấp sẽ tự thoát.
Ba tâm chưa dứt, từng bước từng bước chông gai.
Nếu không ngũ dục, thời nơi nơi có sen nở.
Không tranh, không tham, không cầu để được,
không còn tâm ích kỷ, tự lợi.
Lại thành thật chứ không dối láo,
lâu ngày công tu thâm hậu chân tự tánh.
Các vị hiền nhân có hiểu được chăng?
Niệm niệm hằng nhớ, đừng quên cũng đừng trợ giúp.
Đá vỡ càn khôn, đấm nát hồ lô.
Lúc bấy giờ tất cả đều đầy đủ,
Thế giới Cực Lạc ngay trong tầm mắt,
Cần gì phải tìm cầu ở bên ngoài?

Giảng ngày 10 tháng 3 năm 1985

 

Cơ Sở Học Phật

Học Phật tu đương trúc thiện cơ,
Tài bồi phước huệ dưỡng ma ni.
Thân cận tri thức tập giới định,
Triêu văn Thánh đạo tử khả hĩ.

Nghĩa là:

Học Phật giống như xây cất nhà,
Bồi phước huệ, dưỡng ngọc ma ni
Thân cận tri thức học giới định,
Sáng nghe giảng, tối chết cũng cam.

Học Phật tu đương trúc thiện cơ: Trúc là kiến trúc. Giống như xây cất nhà cửa, đó là kiến trúc. Muốn thành Phật, chúng ta phải kiến trúc, xây dựng cơ sở thành Phật. Thiện cơ là làm công đức, cũng tức là làm các việc lành. Chúng ta muốn học Phật Pháp, trước tiên phải xây dựng cơ sở thành Phật. Một khi có công đức, có phước, có trí huệ rồi, chúng ta mới có thể đạt được mục đích.

Tài bồi phước huệ dưỡng ma ni: Vun bồi phước của quý vị là nên làm nhiều công đức. Vun đắp huệ của quý vị là nên đọc tụng kinh điển Đại thừa. Siêng tu Bát-nhã là học tập pháp môn trí huệ. Ma ni là Ngọc Như Ý; cũng tức là Tứ Vô Lượng Tâm: từ, bi, hỷ, xả. Chúng ta nên tùy thời, tùy hoàn cảnh mà siêng năng tu hành Tứ Vô Lượng Tâm nầy. Đây là pháp môn mà người tu đạo không thể nào thiếu sót được.

Thân cận tri thức tập giới định: Người học Phật Pháp nên gần gũi những bậc thiện tri thức. Như khi có sự việc gì không hiểu, chúng ta nên thỉnh giáo các vị thiện tri thức chỉ dạy. Trong Luận Ngữ có nói:

“Mẫn nhi hiếu học, bất sỉ hạ vấn,”

Nghĩa là người cần mẫn hiếu học sẽ không hổ thẹn khi hỏi kẻ dưới mình. Vì chuyện học tập, dù là người không bằng mình, mình cũng nên theo họ để học tập. Người tốt là Pháp sư giảng dạy mình, kẻ không tốt thì là Giới sư răn dạy mình. Mục đích tu tập: giới, định, huệ là để phá trừ ba độc: tham sân si của chúng ta. Nếu như không tham, không sân, không si, đó tức là chúng ta có định lực, có trí huệ và sẽ không bị cảnh giới bên ngoài lay chuyển.

Triêu văn Thánh đạo tử khả hĩ: Giả dụ như buổi sáng chúng ta được nghe bậc Thánh nhân giảng thuyết về đạo thành Phật, rồi đến tối có chết, mình cũng không có chi hối tiếc.

Quý vị! Học Phật là nên đem công phu chân thật của mình ra, chứ đừng sợ bị thiệt thòi. Thời thời khắc khắc nên chịu khó gánh lấy trách nhiệm, chịu bị oán trách và cống hiến tất cả tâm lực của mình cho Phật pháp. Chủ yếu của Pháp bảo là không sanh phiền não, không nổi giận. Chúng ta phải nhẫn nhịn tất cả: Nhịn những chuyện mà người khác không thể nhịn; chịu những việc mà người ta không chịu đựng nổi; ăn những gì người ta không thể ăn; mặc những thứ mà người ta không thể mặc. Nếu được như vậy thì chúng ta mới là người chân chánh tu đạo. Cuối cùng tôi xin nói với mọi người rằng, Nhẫn nhịn là bảo vật vô giá, gọi là:

“Nhịn giây lát, gió yên sóng lặng;
Lùi một bước, trời biển bao la.”

Được vậy thì tiêu dao, tự tại biết là bao! Nếu như gặp người không biết gì đến đạo lý và chuyên môn moi móc, bới lông tìm vết, chuyện vô lý cũng gây thành náo loạn thì chúng ta phải nhẫn nhịn, chứ đừng cãi lý với họ. Như vậy thì tự nhiên gió sẽ yên, sóng sẽ lặng. Nếu gặp người thị phi, chuyên đặt điều, đồn nhảm về mình, dù mình có bị oan uổng như thế nào, hoặc họ có nói những chuyện không đúng sự thật, mình cũng phải nhẫn nhịn! Vì đó là những nghiệp oan trái mà mình đã nợ từ xưa. Kiếp nầy họ đến đòi thì mình đừng nên chống cự, mà chẳng chịu trả nợ. Một khi mình trả hết nợ rồi thì tự nhiên trời biển bao la, tức sẽ tự tại, không phiền
không não, không lo không sầu.

Giảng ngày 16 tháng 3 năm 1985


Bồ Tát Quán Âm Đến Thánh Thành


Hôm nay là bắt đầu mùa xuân Quán Âm thất. Tôi hy vọng quý vị đem hết tâm chân thành của mình mà chí thành khẩn thiết niệm thánh hiệu “Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.” Chẳng những miệng niệm mà tâm cũng phải niệm. Tâm khẩu tương ưng sẽ tạo thành một khối, tự nhiên cảnh giới cảm ứng sẽ hiện tiền. Quý vị hãy chú ý! Có tâm là vọng tưởng, vô tâm là cảm ứng vậy.

Chúng ta tuy không thể từ Vạn Phật Thánh Thành, ba bước một lạy đến đạo tràng Quán Âm Bồ Tát ở Phổ Đà Sơn. Nhưng nếu chúng ta có thể niệm với lòng chân thành thì cũng giống y như thế, là sẽ cảm ứng được Bồ Tát Quán Âm đến gia trì, khiến cho chúng ta khai ngộ và được đại trí huệ.

Tục ngữ nói: “Ông tu thì ông được, bà tu thì bà được, không tu thì không được.” Câu nói nầy rất có đạo lý, gọi là:

“Tự mình sanh tử, tự mình dứt,
Tự mình ăn cơm, tự mình no.”

Người khác tuyệt đối không giúp được mình gì đâu. Đừng tưởng rằng khóa đả thất nầy là việc chung như thường lệ, rồi làm qua loa cho xong chuyện. Vì vậy chúng ta nên hiểu rằng thời gian rất là quý báu và đừng để nó trôi qua một cách vô ích.

Nếu quí vị thành kính niệm thánh hiệu, nhất định Bồ Tát Quán Âm sẽ gia trì, giúp quý vị tiêu diệt hết các nghiệp xưa nay và tăng trưởng thêm căn lành. Cho nên biết rằng, khi quý vị tưởng nhớ đến Bồ Tát Quán Âm, Bồ Tát Quán Âm cũng sẽ nhớ tưởng đến quý vị. Đây gọi là “cảm ứng đạo giao.” Quý vị niệm Bồ Tát là cảm, Bồ Tát đến gia trì quý vị là ứng. Cũng giống như trẻ con kêu gọi mẹ, mẹ nghe là trả lời ngay. Đó là đạo lý cảm ứng đạo giao vậy. 

Tóm lại, quý vị dự khóa đả thất là tinh tấn lại càng tinh tấn hơn, và tuyệt đối không được giải đãi, buông lung. Tại sao chúng ta tu hành? Vì liễu sanh thoát tử, ngõ hầu vượt ra khỏi luân hồi. Nếu chúng ta không nỗ lực tu hành, thời sanh tử sẽ vĩnh viễn không chấm dứt được. Mọi người nên mau mắn, vững chân bước vào vùng thật địa để tu hành. Đừng dụng công hời hợt ở bên ngoài, vì như thế chúng ta sẽ không đi đến đâu cả!

Giảng ngày 1 tháng 4 năm 1985

 

Đều Là Người Một Nhà

Hôm nay là ngày kỷ niệm đức Quán Thế Âm đản sanh. Hỡi các vị cư sĩ! Các vị từ Los Angeles, Seattle và Vancouver, Canada đến Vạn Phật Thánh Thành để tham gia đại pháp hội nầy. Quý vị đã đến với lòng thành như vậy, thật quả là đáng khen ngợi.

Phàm hễ người nào đến Vạn Phật Thánh Thành thì là một phần tử của chùa Vạn Phật, cũng đều là người cùng một nhà. Quý vị nên có cảm giác như đang trở về nhà mình. Đã là người cùng một nhà thì bữa cơm chay hôm nay, chúng ta đâu có màng chi đến chuyện ăn ngon hay không. Tôi hy vọng mọi người đừng khách sáo và nghĩ như là đang ăn cơm ở nhà mình vậy. Nếu có chỗ nào tiếp đãi không được chu đáo, mọi người cũng sẽ thứ lỗi bỏ qua, bởi vì chúng ta đều là người nhà cả.

Vạn Phật Thánh Thành là vùng đất phát nguyên của Phật giáo thế giới, cũng là chỗ Phật giáo trở về nguyên bổn. Quý vị xem đấy! Phật tử các nơi trên thế giới đã hiểu được rằng: Vạn Phật Thánh Thành là một đạo tràng Chánh Pháp trụ thế, cho nên họ nhộn nhịp tìm đến để nương tựa.

Trong số quý vị, nếu có ai muốn đến Thánh Thành tu hành, chúng tôi đều nhất loạt hoan nghinh. Tuy thức ăn ở đây không ngon, nhưng quý vị sẽ không bị đói đâu. Cho nên nói: Người quân tử mưu cầu tầm đạo chứ không lo kiếm ăn, tức quý vị đến là vì tu đạo, chứ không phải là vì ăn ngon mới đến.

“Nhà có phép nhà, tiệm quán có quy luật tiệm quán.”

Bất luận đoàn thể nào cũng đều có quy củ riêng của họ. Không quy củ ví như không có com-pa thì sẽ không vẽ thành tròn, cho nên đương nhiên là Vạn Phật Thành cũng có thành quy của nó. Thành quy là gì? Là tại trai đường thì không được nói chuyện, và tại Phật đường thì nên lễ bái. Khi tham gia pháp hội, ai nấy đều nên theo đại chúng và không được hành động riêng lẻ. Người đến Vạn Phật Thánh Thành, nhất định là cấm hút thuốc, uống rượu. Dân híp-pi không được đến. Tại sao vậy? Bởi vì Vạn Phật Thánh Thành là đạo tràng thanh tịnh, e rằng bọn họ sẽ gây náo loạn, khiến cho tâm thanh tịnh của người tu hành bị xáo trộn.

Vạn Phật Thánh Thành là nơi của vạn Phật hội tập lại. Cho nên mỗi năm vào mùa xuân, chúng ta cử hành đại pháp hội, với ba mươi ngày lễ bái Vạn Phật Bảo Sám, chuyên cầu nguyện cho thế giới hòa bình. Công đức lễ bái sám hối thì không thể nghĩ bàn, vì nó có thể tiêu tai tăng thọ và diệt tội tăng phước.


Khóa Lễ Vạn Phật Bảo Sám, Vạn Phật Thành - 05/2008

Rất ít người ở vùng châu Á bái lạy Vạn Phật Bảo Sám, cho nên ở châu Á không ngớt sanh ra những chuyện bất hạnh như thiên tai nhân họa. Tại sao có nhiều dân châu Á tỵ nạn như thế? Nếu xét kỹ cái nhân từ trước, bởi thuở xa xưa họ đã không biết tu hành, không biết lạy sám hối, thành thử đã trồng quả ác cho ngày nay. Bây giờ chúng ta phải nên phản tỉnh, và nhân cơ hội Vạn Phật Thánh Thánh cử hành khóa lễ sám hối, chúng ta nên tham gia lễ bái để tiêu diệt bao lỗi lầm trước. Tôi hy vọng mọi người sẽ tỉnh thức! Có câu nói: “Mất dê mới lo làm chuồng, cũng chưa trễ lắm đâu.”

Vạn Phật Thánh Thành vì mưu cầu hạnh phúc cho toàn nhân loại, nên chúng ta mới tạo dựng một đại tùng lâm để tu đạo. Bất luận ai muốn đến Thánh Thành tu hành, họ đều có thể báo danh bất cứ lúc nào cũng được. Thánh Thành có thể dung chứa hai mươi ngàn người trú ngụ. Hiện nay chưa đầy người, chờ đến lúc đầy rồi, quý vị có muốn đến cũng không kịp đâu. Bây giờ là đúng thời đúng lúc đấy, cho nên quý vị đừng bỏ qua quyền lợi riêng nầy. Còn tôi bất quá chỉ là người giữ cửa cho quý vị thôi. Tương lai những người từ các nơi trên thế giới đến đó, họ đều sẽ là chủ nhân. Tôi chỉ là người làm công, giữ cho đạo tràng sạch sẽ để quý vị chuyên tâm tu hành hầu được ly khổ đắc lạc.

Giảng ngày 7 tháng 4 năm 1985

 


Xuất Gia Hoàn Tục Sẽ Đọa Lạc

Người người đều muốn thành Phật, nhưng thành Phật cũng cần phải có điều kiện. Ai nấy muốn làm người tốt, nhưng làm người tốt thì phải trải qua thời gian dài thử thách mà không đổi chí nguyện của mình. Cũng như lúc nào chúng ta cũng làm tất cả điều lành, không làm chuyện ác, như thế mới đủ tư cách để làm người tốt.

Trong tâm chúng ta thì muốn làm người tốt, nhưng lại có những hành vi không chịu hợp tác với mình. Như không có điều ác nào mà không làm, còn dù có chuyện thiện đi nữa cũng không chịu làm. Nếu tâm và hành động không hợp nhất với nhau, vậy chúng ta làm sao có thể bàn đến chuyện làm người tốt cho được? Lúc mới phát nguyện, chúng ta rất nghiêm chỉnh, nhưng thời gian lâu dần lại sanh tâm giải đãi, không lười biếng thì cũng là sống cho qua ngày tháng, rồi quên hết bao ý nguyện của thuở ban đầu mới phát tâm.

Như nói về người xuất gia chúng ta, thời gian mới xuất gia, chúng ta rất có tâm đạo và nỗ lực tinh tấn. Nhưng từ từ ý nguyện thuở ban đầu của chúng ta thay đổi, không biết tiến lên, mà bắt đầu làm những chuyện trái với lương tâm. Rốt cuộc chúng ta chẳng những không được thành Phật, mà lại còn bị đọa địa ngục nữa. Có người xuất gia được vài năm, nhưng không chịu nổi các khảo nghiệm thử thách. Vì bị hoàn cảnh chuyển biến, lại không đủ định lực, thế là họ hoàn tục ra đời. Từ đó họ làm những chuyện theo ý họ. Hoặc là họ sẽ phát tài lớn, hoặc sẽ làm quan to; bất quá các việc đó chỉ là những thứ huyễn hóa trước mắt. Nhưng quả báo của họ thì lại như bóng theo hình, khó mà trốn tránh. 

Hôm nay tôi thành thật nói cho quý vị biết. Phàm hễ người xuất gia nào muốn hoàn tục, nhất định sẽ bị đọa lạc và chịu khổ không ngừng. Đó là sự thật và tôi cũng không khách sáo chút nào khi nói về điều nầy. Một niệm lúc mới ban đầu là xuất gia thành Phật và một niệm sau rốt là hoàn tục để làm quỷ. Đây là hai con đường mà quý vị phải lựa chọn, sự quyết định là ở trong tay quý vị đấy.

Chuyện thế gian nếu không tốt thì là xấu, không thành tức là bại, không thịnh tức là suy. Cho nên nói: “Quân tử thượng đạt, tiểu nhân hạ đạt,” người quân tử đi lên, kẻ tiểu nhân đi xuống. Quý vị hướng thượng đi lên là đến bốn quả vị Thánh; quý vị muốn tuột đi xuống thời đọa trong ba đường ác, gọi là: “Thiện ác hai đường, tu thì tu, tạo thì tạo.”

Người có căn sâu dầy thì tu theo đường lành, người mang nghiệp nặng thì tạo đường ác. Nếu chúng ta nói những lời thành thật với họ, họ sẽ không tin. Trái lại, nếu chúng ta nói lời giả dối thì họ lại tin ngay. Vì sao? Bởi vì nghiệp chướng của họ nặng nề. Chúng ta học Phật đã nhiều năm, mà không hiểu rõ đạo lý trên, thật đáng thương thay! Tôi vốn không muốn nói về đạo lý nầy, vì nghĩ rằng quý vị đều đã biết rõ hết rồi. Nhưng giờ đây tôi mới biết là mọi người chưa hiểu rõ một cách triệt để và vẫn còn lẩn quẩn ở ngã tư đường vì đã thất lạc phương hướng.

Bây giờ tôi sẽ nhắc lại cho mọi người nghe là: Con người chúng ta đang sống trong cái biển lớn sanh tử, nếu không nổi lên được thì chỉ có chìm xuống thôi.

Tục ngữ có câu: “Trèo cao, té nặng!” Hướng thượng muốn thành Phật, nhưng chúng ta không đi lên thì không thành Phật được; còn nếu té ngã xuống thì sẽ đọa địa ngục, vĩnh viễn khó mà thoát ra.

Có người hỏi: “Rốt cuộc là có địa ngục hay không?” Tôi xin nói với quý vị rằng, như con người đang sống đây là đang ở trong địa ngục đấy. Quý vị xem, có số người phiền phiền não não, tranh cãi láo nháo không bao giờ ngừng dứt. Như thế không phải giống như ở địa ngục sao? Con người sống như thế thì có ý nghĩa gì? Lại còn có hỏa tai, phong tai, chiến tranh và những tai họa do con người gây ra, vậy cũng như là sống trong địa ngục trần gian thôi! Hãy nhìn xem, khi người mang bệnh tật trên thân thì khổ không thể nói, như lúc chứng ung thư hoành hành, họ đau đớn đến nỗi không còn muốn sống. Như thế há không phải là địa ngục sao? Nhưng người ta vẫn không nhìn thấy, buông không được, bỏ không đặng, cứ lo tham luyến cố chấp, lại không có tâm từ bi, thấy lợi quên nghĩa, thừa nước đục thả câu. Cho nên cuối cùng họ vẫn là quanh quẩn trong vòng luân hồi, không bao giờ ngừng dứt.

Thôi được rồi, tôi sẽ không nói nữa, nếu không thì mọi người sẽ sợ hãi mà bỏ chạy hết!

Giảng ngày 4 tháng 5 năm 1985

 

Tiêu Diệt Ngoại Tam Ác Và Nội Tam Độc

Sao gọi là ngoại tam ác? Đó là sát, trộm, dâm. Xã hội vì sao không được an ổn? Cũng bởi vì ba cái ác đó tác quái đấy. Mỗi ngày các tin tức đăng trên báo chí, thì đã hơn một nửa tin là có liên quan đến ba ác: sát, trộm, dâm nầy. Cho nên nói: “trong vạn ác thời dâm đứng đầu,” cũng bởi trong thiên hạ có đến tám hoặc chín phần mười người vì dâm mà sanh ý sát hại. Loại phong độc nầy, thật đáng sợ thay! Nếu chúng ta không phạm sát, trộm, dâm thì vô hình trung, chúng ta đã giúp cho xã hội được an ổn và duy trì sự hòa bình cho thế giới.

Sao gọi là nội tam độc? Đó là tham, sân, si. Tham mà không chán thì vĩnh viễn không bao giờ biết đủ. Tham mà được vào tay thời ta vui mừng, tham mà không được thời ta sân giận. Một khi chúng ta khởi lòng sân là vô minh sẽ gây sóng gió, thúc dục đấu tranh. Lúc bấy giờ chúng ta mất hết lý trí, cho nên ngu si bèn xuất hiện, khiến gây ra những chuyện điên đảo mà ta không suy nghĩ gì về hậu quả. Chuyện nhẹ là trái với nhân tình, còn nặng thì làm tổn hại lý trời.

Chúng ta làm thế nào để tiêu diệt được nội tam độc? Đức Phật Thích Ca đã để lại cho chúng ta một phương thuốc rất hay, đó là giới, định, huệ. Người tu đạo nhất định phải giữ giới. Do giới phát sanh định lực, rồi từ định lực mới sanh ra huệ lực. Những thứ nầy có mối quan hệ liên đới với nhau. Nếu có thể giữ giới, chúng ta sẽ không có tư tưởng tham dục. Khi chúng ta có được định thì mới không có tâm sân hận. Nếu chúng ta có thể phát sanh trí huệ, chúng ta sẽ không có những hành động ngu si.

Ba cái ác của thân chúng ta là do từ thân tánh bên ngoài mang lại. Ba độc trong ý tưởng của chúng ta là do từ tâm tánh bên trong phát sanh. Vì một khi đã có tham, sân, si thì người ta sẽ phạm sát, trộm, dâm. Nếu chúng ta có thể đem tham, sân, si biến thành giới, định, huệ, tức sẽ không có sát, trộm, dâm.

Ba độc làm ô nhiễm tự tánh, khiến cho tự tánh không được thanh tịnh. Chân tâm bị che khuất, vọng tâm bèn vào nhà làm chủ nhân ông và chỉ huy tất cả. Rồi nó khiến cho con người điên đảo, mê muội hồ đồ, không lúc nào được rõ ràng minh bạch. Kiếp sống của người nầy ví như cái thây thịt biết đi, vậy có gì đáng vui thú để mà nói!

Chúng ta phải rửa sạch tự tánh của mình. Vậy rửa bằng cách nào đây? Thì dùng Lục Đại Tông Chỉ: không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ nầy để tẩy rửa, để quét dọn, và nhất định rửa sạch cho đến không còn một chút nhơ bẩn nào. Nếu không tranh thì thế giới tự nhiên sẽ không có chiến tranh. Không tham danh, không tham lợi thì mọi người sẽ chung sống hòa thuận với nhau. Không cầu tức nhân cách mình tự nhiên sẽ cao thượng, ở đâu cũng được người ta cung kính. Không ích kỷ là việc gì cũng nên nghĩ cho người khác mà quên mình, và không tính toán với người, cũng không phân biệt bốn tướng: ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Không tự lợi là khi được lợi ích thì ta chia đồng đều, chứ không có tư tưởng muốn độc chiếm. Thậm chí ta còn theo nguyên tắc tự chịu thiệt thòi, khiến cho người khác được vui vẻ. Không vọng ngữ là bất luận việc gì, ta cũng dùng lòng tin cậy để đối xử với nhau. Khi nói lời chân thật sẽ không sanh ra những chuyện phiền phức không cần thiết.

Chúng ta dùng Lục Đại Tông Chỉ nầy để thân làm, tâm nhớ, như vậy là gián tiếp giúp đỡ chính quyền quốc gia và trực tiếp giúp đỡ cho chính mình. Chúng ta nên nhận rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của mình là trọng yếu như thế nào. Vì vậy chúng ta nên làm một phần tử vẹn toàn và ưu tú, chứ không làm người dân hư xấu gây nhiễu loạn trong nhân dân. Nếu làm được như thế, chúng ta mới không hổ thẹn là người Phật tử. Hy vọng mọi người nên dụng công về phương diện nầy. Nếu quý vị chuyên đi tìm cầu những pháp huyền diệu viễn vong, thế là bỏ gốc để chạy theo ngọn, tức quý vị vĩnh viễn sẽ không tìm được pháp chân thật.

Sau hết tôi hy vọng mọi người sẽ ném bỏ nội tam độc, ngoại tam ác ra khỏi chín tầng mây, và vĩnh viễn đừng bao giờ giao du với bọn chúng. Vì bọn chúng là những kẻ tiểu nhân, hễ thấy lợi là quên mất tình nghĩa. Cho nên nếu không cẩn thận, chúng ta sẽ bị rơi vào cạm bẫy của chúng. Vì bọn chúng cũng rất hoan nghênh chúng ta hợp tác với chúng, để cùng chúng trôi giạt vào bùn nhơ. Hãy nhớ kỹ! Chớ để lọt vào bẫy rập của chúng. Chúng ta phải nên đề cao cảnh giác, và phải có trí huệ để bội trần hợp giác, tức là quay lưng với trần tục để hòa hợp với giác ngộ. Nếu như không biết nhận thức rõ ràng, tức là chúng ta hòa hợp vào trần nhơ mà quay lưng với bờ giác, là hợp với lục trần để lập thành một công ty cổ phần với chúng.

Giảng ngày 5 tháng 5 năm 1985

 


Câu Châm Ngôn Của Phật Tử

Chúng ta cùng nhau tụ họp về đây để nghiên cứu Phật Pháp, nhưng mọi người cũng không nên chấp trước vào Phật Pháp. Chúng ta nên quán sát mọi việc một cách khách quan và phân tích sự vật bằng trí huệ vốn có của mình. Đừng mê tín hay tin tưởng một cách mê muội, gượng gạo. Chúng ta cũng không nên nhận giặc làm con, lấy trái làm phải, đen trắng chẳng phân minh, thiện ác điên đảo. Điều quan trọng nhất là chúng ta nên làm người Phật tử chân chánh trong việc tìm cầu chân lý, chớ chẳng dùng thủ đoạn như người đui dẫn người mù, thôi miên dân chúng khiến họ tin theo một cách hồ đồ, rồi làm những việc thiện ác hỗn độn để nhầm lẫn về nhân quả. Người học Phật nên chú ý về điểm nầy.

Tại sao chúng ta cần phải học Phật Pháp? Có phải vì chúng ta có chỗ tham cầu chăng? Nếu người nào có tham cầu thời đừng nên học. Học Phật nhất định là phải loại bỏ lòng tham, nếu không thì sân, si sẽ dễ phát sanh. Một khi ta có lòng tham, lòng sân và lòng si sẽ phát sanh theo, như vậy thì khỏi bàn gì đến giới, định, huệ nữa.

Bởi tự tánh của chúng ta vốn đã là Phật, cho nên khi nghiên cứu học tập Phật Pháp, chúng ta không nên tham cho mau, tham được tự tại, hoặc tham có thần thông. Vì những sự theo đuổi đó đều trái ngược với đạo, khiến ta quên mất ý nghĩa chân thật của việc học Phật. Chúng ta vốn muốn xuất ly biển khổ, ra khỏi nhà lửa của tam giới và rời khổ được vui, mà lại tham cầu tức là càng học thì càng khổ thêm.

Lục Đại Tông Chỉ: Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ chính là câu châm ngôn của những người Phật tử. Nếu lúc nào, ở đâu chúng ta cũng có thể thực hành theo, tức chúng ta mới là người Phật tử thật sự hiểu rõ được Phật Pháp.

Nói đi nói lại gì, tôi cũng nói bấy nhiêu đạo lý đó thôi, tuy có vẻ rất cạn cợt đấy, nhưng quý vị cũng không dễ gì làm được đâu. Nếu quý vị làm được thì cũng sẽ sớm thành Phật. Nếu quý vị cung hành thực tiễn theo Lục Đại Tông Chỉ nầy mà không thành Phật, thì tôi sẽ ở mãi dưới địa ngục và không bao giờ thoát ra. Tôi tin tưởng và bảo đảm rằng: Người nào tu hành theo Lục Đại Tông Chỉ nầy, tương lai nhất định sẽ thành Phật.

Giảng ngày 20 tháng 5 năm 1985


Khai Thác BảoTàng Trong Tự Tánh

Từ nhiều năm qua cho đến bây giờ, đều chỉ là tôi nói cho quý vị nghe. Vậy bắt đầu từ nay trở đi, quý vị sẽ là người nói cho tôi nghe. Tại sao? Vì như vậy là dạy quý vị mỗi người biết khai thác vật bảo bối trong quặng mỏ trí huệ tự tánh của mình. Chúng ta đem các vật báu như vàng, bạc, kim cương, xa cừ, mã não, ngọc thạch... trong quặng mỏ ra để cho mọi người thưởng thức, như vậy mới công bình. Nếu không, rốt cuộc không ai biết được trong kho tàng của quý vị có những thứ bảo bối gì.

Kỳ giảng thuyết về kinh Niết Bàn nầy được gọi là Ban Nghiên Cứu Phật Pháp. Bất luận là người xuất gia hay tại gia, ai nấy đều nên tranh đua nhau để lên bục giảng trước. 

Quý vị nên lấy việc nghiên cứu Phật Pháp, hoằng pháp, bố thí và việc phổ độ chúng sanh làm trách nhiệm của mình. Quý vị phải có tư tưởng như thế thì mới có tư cách làm người Phật tử.

Quý vị! Hiện quý vị có cơ hội tốt để nghiên cứu Phật Pháp như vậy, đây thật là ngàn năm khó gặp. Cho nên quý vị nên nắm lấy thời cơ, đừng để vuôït mất cơ hội. Nếu không thì cũng như mình vào trong núi báu mà về tay không, đó là việc đáng tiếc lắm thay!

Quý vị hãy suy nghĩ đi, tới đâu mà có thể tìm được một đạo tràng thanh tịnh như vầy. Tôi dám nói là tìm khắp cả trên thế giới, e rằng tìm cũng không ra! Chúng ta may mắn đã gặp được, thì nên chuyên tâm nghiên cứu Phật Pháp, và tự phát huy tài ba của chính mình. Vậy tại sao khi đến giờ lên bục giảng, thì người nầy đẩy qua người kia, chứ không chịu lên trước? Thật là làm cho tôi thất vọng vô cùng.

Tôi đã từng nói, khi người thứ nhất giảng sắp xong, thì người thứ hai phải chuẩn bị đi lên. Như vậy mới không lãng phí thời gian. Ý tôi muốn huấn luyện cho quý vị có kinh nghiệm hoằng pháp, vì mỗi một cá nhân đều có đủ biện tài vô ngại. Như vậy chờ đến lúc quý vị chánh thức đi hoằng dương Phật Pháp, thì sẽ có cảnh “Thiên hoa loạn trụy, địa dũng kim liên,” tức là hoa trời rơi xuống, đất mọc sen vàng. Như thế quý vị mới đảm nhiệm được sứ mạng “tiếp tục huệ mạng” của Phật!

Đây gọi là: “Sư Phụ đưa đến cửa, tu hành do mỗi người.” Lúc tôi mới học Phật Pháp, không có ai chỉ dạy, không có ai khuyến khích, lại cũng không có ai đề bạt, nâng đỡ tôi cả. Cho nên tôi hy vọng quý vị sẽ tự lực tự cường, không ngừng tiến bước và đừng sanh tâm ỷ lại. Nếu như chuyện gì quý vị cũng có tâm lý ỷ lại vào Sư Phụ, quý vị sẽ vĩnh viễn không bao giờ được giải thoát.

Chúng ta học Phật Pháp, tức là học trí huệ chân chánh. Một khi đã có trí huệ rồi, chúng ta sẽ giải quyết tất cả vấn đề một cách dễ dàng. Bất luận làm công việc gì, chúng ta cũng có thể làm được một cách hoàn toàn mỹ mãn. Còn như chỉ dùng tâm ý thức để giải quyết vấn đề, chúng ta sẽ do dự và thiếu nghị lực để quyết đoán mọi việc. Vì thế dù làm chuyện gì, chúng ta tuyệt đối cũng không thể thành công được.

Muốn học được trí huệ chân chánh, trước hết là chúng ta phải đoạn dục. Làm sao để đoạn dục đây? Tức là không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ. Lục Đại tông chỉ nầy là Pháp bảo để đoạn dục, khiến cho quý vị thâu hoạch được trí huệ chân chánh. Lúc bấy giờ, đối với duyên khởi của vạn sự vạn vật, quý vị sẽ thân thuộc như lòng bàn tay mình, và biết phân tích rất là rõ ràng. Như vậy quý vị có thể phân biệt được phải trái, thiện ác và tuyệt đối không làm những chuyện điên đảo.

Giảng ngày 24 tháng 6 năm 1985


Âm Nhạc Trong Tự Tánh

Tất cả các chữ Hoa đều có ý nghĩa và được cấu tạo theo những quy tắc nhất định. Mỗi chữ khi được tạo thành là đều có sự giải thích riêng của nó. Các văn tự Trung Hoa được cấu tạo theo sáu cách như: chỉ sự, tượng hình, hình thanh, hội ý, chuyển chú và giả tá.

Về Tượng hình: như chữ “mã” ngựa ( có bốn chân, chữ “lộc” hươu (鹿 thì bên trên có một chấm, còn chữ “dương” dê ( thì bên trên có hai chấm, vì chữ hươu và dê đều là biểu thị cho loài có sừng. Chữ “ngưu” trâu bò ( có nét phẩy bên trái, biểu thị cho cá tánh của loài trâu bò rất mạnh và thường cụng húc qua một bên. Cho nên mỗi chữ đều có ý nghĩa riêng của nó, và chúng ta cũng nên biết thêm về sáu cách cấu tạo chữ nầy. Ngoài ra cũng có lục nghệ, tức sáu nghề là: Lễ, nhạc, xạ, ngự, thơ, số. Ngài Khổng Tử có ba ngàn học trò, nhưng tinh thông lục nghệ thì chỉ có bảy mươi hai người. Lễ là lễ nghĩa; nhạc là âm nhạc; xạ là bắn cung và cũng bao gồm cả võ thuật; ngự là chỉ về cưỡi xe ngựa ở thời xưa, nhưng hiện nay là bao gồm cả lái xe, lái máy bay, lái tàu thủy... Thơ là phương pháp viết chữ, đại thể thì phân thành năm cách viết: triện, lệ, khải, hành, thảo. Số là số học, cho nên nói: “Tri mỗ số, thức mỗ danh,” người biết số học thì sẽ hiểu văn học.

Hiện nay người ta chế ra hỏa tiễn, phi đạn vốn phát minh từ trong ngành toán số. Như việc dùng điện não computer để điều khiển hỏa tiễn bay bao xa cũng đều không ngoài môn toán số.

Cho đến như âm nhạc, thì trong thời tụng niệm của Phật Giáo là thuộc về âm nhạc. Cho nên hễ ai đánh mõ có nhịp nhàng tiết tấu sẽ có công đức. Còn nếu người nào gõ mõ với tâm bực dọc, hoặc gõ quá lớn tiếng, hoặc gõ quá nhỏ thì sẽ có tội. Tán tụng cũng như là dùng âm nhạc để cúng dường Phật. Cho nên nếu một mặt cúng dường, một mặt lại giận hờn, quý vị nghĩ như thế Phật có hoan hỉ không? Dùng âm nhạc để cúng dường Phật vốn có rất nhiều công đức, nhưng khi phát giận quý vị không tán tụng được, mà lại còn dộng chuông gõ mõ loạn xạ cả lên, vậy tức là có tội rồi.

Tu hành là từ mỗi việc làm về mọi phương diện, không có nơi nào mà chẳng phải là nơi tu hành. Mà cũng không phải chỉ là ngồi thiền, hoặc lạy Phật mới là tu hành. Vì vậy ăn cơm, mặc áo, cho đến nhất cử, nhất động đều là tu hành cả. Tu hành tức là phải điều phục thân tâm. Điều thân là làm cho thân thể không sanh bệnh tật và giữ cho mình được khỏe mạnh. Nhưng cũng không phải là quá yêu quý nó: lạnh cũng không được, nóng cũng không được, khát cũng không được, đói cũng không được, không phải là quá nuông chiều cho thân xác. Chúng ta phải ra công kiềm chế để rèn luyện thân thể, chỉ cần không tổn hại nó là được rồi. Chứ không phải vì yêu quý thân thể mình như tấm gương dễ bể, không ai đụng đến được.

Trong các sinh hoạt hàng ngày, chúng ta cũng nên tự rèn luyện lấy mình, vậy mới là tu hành. Đi đứng nằm ngồi, không lúc nào là không tu hành. Tu hành không có nghĩa là chỉ có hai thời tụng niệm sớm tối mới là tu hành. Mà lúc bình thường, nhất cử, nhất động, nhất ngôn, nhất hành, chúng ta đều nên hòa hợp với tiết tấu, phù hợp với qui tắc, bởi tự tánh trong mỗi chúng ta đều có “âm nhạc” cả. Chúng ta phải tu sao cho được tâm bình khí hòa, không sanh phiền não, không nhân, không ngã và không có vô minh. Nếu chúng ta ghen ghét người hiền tài, hoặc thích làm những chuyện viễn vông, hoặc tự vỗ ngực khoe tài để mình được danh tiếng, thì đó không phải là âm nhạc đâu. Nếu mỗi ngày chúng ta tu hành đúng pháp, thì đó mới là âm nhạc.

Tự mình tu cho được tâm bình khí hòa và rèn luyện tánh tình, vì chúng ta vốn không cần phải tìm kiếm âm nhạc ở bên ngoài. Bởi vì tâm chúng ta không hòa bình, cho nên phải giả mượn âm nhạc bên ngoài để tự thăng bằng lại.

Nếu tâm có thể bình hòa được thì lúc nào chúng ta cũng sẽ tràn đầy khí khái tốt lành, đó mới chính là “âm nhạc” chân thật đấy. Còn về lục nghệ: lễ, nhạc, xạ, ngự, thơ, số; sáu thứ nầy vốn đã bao gồm trong tự tánh của chúng ta rồi. Nếu trọn ngày chúng ta có thể không nói lời vô ích, không nghĩ điều vô vị và có thể tự điều phục tâm mình cho được bình thản, an ổn, không bị câu thúc, không vướng mắc chướng ngại, không nhân, không ngã, không phải không trái, thì quý vị nói đi, đó không là âm nhạc thì là cái gì?

Khi Khổng Tử ở nước Tề nghe nhạc Thiều, ông đã không biết gì đến mùi vị thịt trong ba tháng trời. Nếu quý vị hiểu được âm nhạc của tự tánh, đâu cần nói đến mùi thịt, mà ngay cả đến mùi nước, quý vị cũng không biết, hoặc có chua, ngọt, đắng, cay gì, quý vị cũng đều không biết luôn. Khi đó mới gọi là quý vị đã đạt đến cảnh giới “nhìn mà không thấy, nghe mà không nghe, ăn mà không biết mùi vị.” Quý vị nên chú ý: Chớ xem tự tánh của mình như bãi chiến trường để đấu tranh, nếu thế thì không phải là âm nhạc đâu.



Học Phật Pháp Nên Giữ Bổn Phận

Khi thuyết pháp, quý vị không nên ca ngợi rằng “Hòa Thượng” là như thế ấy, như thế ấy. Tôi kỵ nhất là được người ta tán thán. Nếu như có lời phê bình tôi, tôi khiêm tốn tiếp nhận ngay, và mượn đó làm gương để soi sáng, phản tỉnh. Tôi và hư không giống nhau, đều không có ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng. Nếu như có ngã thì tôi đã không đến nước Mỹ nầy. Nguyên nhân tôi đến Mỹ là để mở mang vùng đất mới cho Phật giáo, hầu truyền bá Phật Pháp đến toàn thế giới!

Bất luận trong trường hợp nào, tông chỉ của tôi là tuyệt đối không bao giờ tự đề cao địa vị mình, mà cũng không cầu kỳ, lập dị khác người. Tôi không cảm thấy là mình cao hơn người khác, hoặc lớn hơn người khác. Tôi không có lối suy tư như vậy, vì nếu có, đó là sự biểu hiệu của tánh tự mãn đấy.

Phàm hễ là người tự mãn thì tuyệt đối sẽ không thành tựu được việc gì. Con người nên có tư tưởng “Hữu nhược vô, Thật nhược hư” là có như không, thật như giả. Cho dù mình có đạo đức cao thượng, thì mình cũng giống như không có gì; dầu mình đúng thật có tài ba, nhưng mình cũng giống y như không có chi. Quý vị hãy chú ý! “Tự mãn” là biệt danh của tự đại đó. Tự đại tức là “xú” (, nghĩa là thúi, xú là chữ Hán, gồm chữ tự (nằm bên trên chữ đại (). Khi hơi khí hôi thúi xông lên ngất trời như vậy, ai mà dám gần mình? Lúc đó mọi người phải bịt mũi đi qua, không dám đến gần mình đâu!

Tôi hy vọng quý vị dùng Lục Đại Tông Chỉ để làm nguyên tắc. Nếu không làm được những điều như “không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ,” dù quý vị có tài ba, có trí tuệ như thế nào, hoặc miệng nói lưu loát như nước chảy và biện tài vô ngại ra sao thì cũng là làm trái với đạo. Như vậy, dẫu cho quý vị có làm gì cũng sẽ không đạt được thành tựu viên mãn.

Tôi chỉ công nhận những ai thật thà và biết an phận giữ mình, chứ không biết đến những người xảo quyệt thường hay biện luận. Từ nay về sau, bất luận là ai, tất cả đều phải chân thật và giữ bổn phận mình. Quý vị không được cống cao ngã mạn, cứ tưởng rằng mình là phi thường, trên đời không ai sánh bằng. Người nào có thứ hành vi như thế thì sẽ không tồn tại lâu dài trong Phật giáo, sớm muộn gì y cũng sẽ bị thất bại thôi.

Cho dù quý vị thật có tài ba xuất chúng đi nữa, nhưng quý vị cũng không cần phải biểu lộ ra ngoài. Quý vị nên học tập tác phong của những vị đại đức xưa nay, mà hãy chú trọng vào đức hạnh. Đối với tất cả mọi việc, quý vị nên thực hành theo Tứ Vô Lượng Tâm: từ, bi, hỉ, xả. Đừng tồn chứa sát khí trong lòng, mà không chịu tha thứ cho người.

Chúng ta nên hiểu rằng: “Từ bi là hoài bão, cửa ngỏ làm phương tiện.” Hôm nay tôi muốn nói với quý vị bấy nhiêu đó thôi, còn sửa đổi hay không là tùy quý vị.

Giảng ngày 30 tháng 7 năm 1985

Học Tập Theo Tinh Thần Của Bồ Tát Di Lặc

Chúng ta nên học tập theo công phu nhẫn nại của Bồ Tát Di Lặc. Như Ngài đã nói:

Lão khờ mặc áo vá,
Cơm lạt bụng no nê,
Vá áo để che lạnh,
Muôn sự để tùy duyên.
Có người mắng lão khờ,
Lão khờ chỉ nói tốt.
Có người đánh lão khờ,
Lão khờ nằm xuống ngủ.
Khạc nhổ trên mặt lão,
Cứ để nó tự khô.
Lão cũng không phí sức,
Mà người cũng không phiền.
Ba La Mật như vậy,
Là vật báu huyền diệu.
Nếu ai biết lẽ nầy,
Lo gì không đạt đạo.

Quý vị nói, như vậy có huyền diệu hay không? Bởi vậy mà miệng Ngài thường hay cười và cái bụng thì to lớn, gọi là: “Tâm rộng rãi thì thân thể mập phì,” không có phiền não.

Tên của Bồ Tát Di Lặc là A Dật Đa. Di Lặc dịch là Từ Thị, A Dật Đa dịch là Vô Năng Thắng. Sao gọi là Vô Năng Thắng? Có người nói: “Tôi biết rồi, vì vị Bồ Tát nầy ăn nhiều hơn ai hết. Nếu không vậy, bụng Ngài sao mà lớn như thế? Vì không ai có bụng lớn như Ngài, cho nên gọi là Vô Năng Thắng.” 

Người khác lại nói: “Vị Bồ Tát nầy có đại khí lực, một tay có thể xô nhào cả quả núi to. Vì không có ai sánh bằng Ngài, cho nên gọi là Vô Năng Thắng.” Nếu nói như vậy cũng không đúng đâu. Vậy thì Vô Năng Thắng là gì? Là bậc tu pháp môn Lục Độ đến bờ bỉ ngạn và không ai có thể thắng hơn Ngài, cho nên gọi Ngài là Vô Năng Thắng.

Vị Bồ Tát nầy thường vác trên vai một bao bố lớn. Ngài đi mọi nơi hóa duyên xin mọi người. Ngài xin gì đây? Ngài hóa duyên xin phiền não, hầu mong mọi người trên đời đều không có phiền não để rời khổ được vui. Cho nên nói:

“Mở miệng là cười, cười những người đáng cười trên thế gian; bụng lớn để chứa đựng, chứa những gì mà thiên hạ khó có thể dung chứa.” Ngài và cái bao bố không bao giờ rời nhau, cho nên Ngài có biệt danh là Hòa Thượng Bố Đại, gọi là:

“Đi cũng Bố Đại, ngồi cũng Bố Đại,
Buông Bố Đại xuống, tự tại biết bao!”

Do đó chúng ta nên học tập tư tưởng và hành vi của Ngài.

Giảng ngày 25 tháng 7 năm 1985

 

Nhân gì Phát Sanh Tam Tai?

Tam tai chia ra làm hai phần là: đại tam tai và tiểu tam tai. Đại tam tai là ba tai ách lớn về lửa, nước và gió. Tiểu tam tai là ba tai ách nhỏ về đao binh, mất mùa và bệnh dịch. Đó cũng tức là tai kiếp. Trong một đại kiếp có bốn trung kiếp gồm: thành, trụ, hoại, và không. Mỗi trung kiếp có hai mươi tiểu kiếp. Vào cuối thời kỳ giảm kiếp của mỗi trụ kiếp thì phát sanh hiện tượng tiểu tam tai. Còn đại tam tai thì phát sanh trong thời kỳ hoại kiếp của mỗi đại kiếp. Bây giờ chúng ta hãy bàn đến nguyên nhân phát sanh đại tam tai.

Bởi con người có tâm tham mới phát sanh ra hỏa tai; con người có tâm sân hận mới sanh ra thủy tai; con người có tâm ngu si mới sanh ra phong tai. Cho nên tam tai đều là do tam độc mà sanh khởi. Trong tâm chúng ta, ai ai cũng có đầy đủ cả ba độc. Tâm nầy mỗi ngày càng một khuếch đại ra và khi đến một mức độ nhất định, nó sẽ hình thành đại tai kiếp.

Tam tai phát sanh cũng có thứ lớp, bởi con người có thất tình: hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục, tức là vui, giận, buồn, sợ, thương, ghét, muốn. Bảy loại tình cảm nầy dần dần phát triển rộng ra. Và mỗi một loại tình sẽ phát sanh một lần tai nạn, cho nên mới hình thành bảy lần hỏa tai. Sau bảy lần hỏa tai thì sẽ phát sanh một lần thủy tai. Trong bảy tình, mỗi một tình lại chia ra làm bảy, cho nên mỗi cái “thất hỏa nhất thủy” nầy sẽ theo thứ tự mà lập đi lập lại bảy lần. Rồi lại trải qua bảy lần hỏa tai. Đến lúc sau cùng phong tai phát sanh và hủy diệt toàn cả thế giới. 

Khi hỏa tai phát sanh, nó có thể thiêu đốt đến tầng trời Sơ thiền của Sắc giới, tức gồm cõi: Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiên và Đại Phạm Thiên.

Lúc thủy tai phát sanh thì có thể ngập đến tầng trời Nhị thiền của Sắc giới, tức gồm Trời Thiểu Quang, Trời Vô Lượng Quang và Trời Quang Âm. Khi phong tai phát sanh thì có thể thổi đến các tầng trời Tam thiền của Sắc giới, là gồm Thiểu Tịnh Thiên, Vô Lượng Tịnh Thiên và Biến Tịnh Thiên. Cho nên nói: 

Cõi Trời Lục Dục có năm suy, 
Cõi Trời Tam Thiền có phong tai,
Dẫu như tu đến Phi Phi Tưởng,
Không bằng về Tây rồi trở lại.

Phong tai từ đâu tới? Nó đến từ sự tổng kết của bảy thứ tình: hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục. Phong tai thì tượng trưng cho si độc. Khi con người đã lâm vào tình cảnh ngu si, thời cái gì cũng quên sạch nhẵn. Do đó đại phong phát khởi, rồi từ trên trời Tam Thiền đến dưới tận địa ngục, cái chi cũng không còn, tất cả đều bị quét sạch. Dù cho hỏa tai, thủy tai hoặc phong tai có phát sanh đi nữa, nhưng nội viện cõi trời Đâu Suất của Dục giới cũng vẫn tồn tại, chẳng bị ảnh hưởng mảy may nào. Tại sao vậy? Bởi đó là cõi Tịnh độ của Phật và Bồ Tát. Hiện nay, Bồ Tát Di Lặc đang ngự tại nội viện trên cung trời Đâu Suất, chờ đến khi trụ kiếp thứ mười trong thời kỳ Hiền Kiếp, Ngài mới giáng lâm thế giới Ta Bà để giáo hóa chúng sanh (hiện tại đang là Giảm Kiếp của Trụ Kiếp thứ chín).

Tham sân si hình thành biết bao loại ác khí, giống như nguyên tử trong bom nguyên tử; nguyên tử là thứ vật chất đáng sợ, nhưng bom nguyên tử do tự chúng ta phát sanh từ lửa tam muội lại càng đáng sợ hơn nữa. Loại nguyên tử nầy không phải đến từ bên ngoài, mà nó vốn đã có sẵn trong tự tánh. Chân hỏa tam muội trong tự tánh chúng ta vốn thuần là dương, nhưng vì bị ta lạm dụng nên nó biến thành lửa dục.

Trong thân người có tam tiêu hỏa là: thượng tiêu hỏa, trung tiêu hỏa và hạ tiêu hỏa. Tam tiêu hỏa nầy có thể hình thành hỏa tai, hoặc biến thành bom nguyên tử để hủy diệt tất cả. Bởi bên trong có bom nguyên tử, cho nên bên ngoài mới có bom nguyên tử. Chúng được hình thành bởi có sự tương ứng và tương tục với nhau. Hiện nay trên thế giới xảy ra nhiều vấn đề cũng đều là từ điểm nầy.

Trong tâm có cái gì thì bên ngoài có cái đó. Nếu trong tâm chúng ta không có chiến tranh, bên ngoài cũng sẽ không có chiến tranh. Cho nên nói “tất cả do tâm tạo” là vậy.

Giảng ngày 29 tháng 7 năm 1985

 


Tật Bệnh Cùng Nghiệp Chướng

Phàm các ác bệnh nan y, độc địa như sốt rét, ung thư... đều do quỷ từ phía sau chi phối, khiến cho ngũ tạng trong thân con người bị xáo trộn vị trí, và tứ đại không điều hòa.

Đó đều là do nghiệp chướng quỷ tác quái. Bởi con người có nghiệp chướng từ lâu đời, cho nên đến thời đến lúc thì quỷ tới đòi nợ. Mà cũng bởi vì con người không đủ dương khí, tức âm thịnh dương suy, cho nên quỷ mới có thể tùy tiện được. Nếu quý vị thường không phiền não và trí huệ luôn hiện tiền, thì sẽ không có sơ hở để ma quỷ thừa cơ lợi dụng. 

Nhưng một khi quý vị khởi dục niệm và vô minh, quỷ bèn thừa cơ hội mà lẻn vào một cách dễ dàng.

Từ đó suy ra, tám vạn bốn ngàn tật bệnh là đều có tiền nhân hậu quả cả. Thậm chí khi quý vị bị con muỗi cắn, con ong chích, cho đến tất cả những tai nạn mà quý vị gặp phải, đều là do nhân quả đan dệt với nhau. Người hiểu rõ đạo lý nầy thì một chút lầm lỗi cũng không dám làm, vì hễ có lỗi là tự mình phải chịu báo ứng. Nhất là những ai tu Lục Độ Vạn Hạnh, họ càng phải chân thật khi dụng công, chẳng chút tơ hào hư dối. Cho nên nói: “Nhân địa bất chân, quả chiêu vu khúc,” gieo nhân không ngay thật thì gặt quả cong vẹo. Và đến lúc quả đã thành rồi thì có rất nhiều phiền phức.

Bởi vậy quý vị nên “tùy duyên tiêu nghiệp cũ, đừng tạo nghiệp ương mới” và không được có một chút nào buông thả trong mọi hành động. Dù lúc nào hay nơi đâu, mọi người cũng nên đề cao cảnh giác. Nếu không làm hại người và chỉ làm lợi cho người, vậy là mình sẽ không sanh bệnh gì cả, mà ma quỷ cũng không tìm được mình đâu.

Nói đến quỷ thì hôm qua có con quỷ “khai ngộ” từ San Jose đến tìm tôi. Quỷ đó nhập vào một bà và bà tự cho rằng mình đã khai ngộ. Chồng bà ta cũng cho rằng bà đã khai ngộ. Nhưng bà ta nói: “Con người không cần phải tu hành, cũng không cần phải giữ giới.” Thật ra mục đích của bà là tìm tôi để đấu pháp. Bà nầy đã quy y tôi năm 1980 tại Hội Cư Sĩ Lâm ở Singapore. Bà đến Mỹ được vài năm, học ngồi thiền, rồi tự cho mình đã khai ngộ. Vừa bước vào bà liền cúi đầu lễ tôi, nhưng không để cho chồng con bà nhìn thấy. Chỉ một mình bà hướng đến tôi đảnh lễ. Ban đầu không có chuyện gì, nhưng khi cúi đầu đến lần thứ ba thì bà lại cứ tiếp tục lạy mãi, rồi bắt đầu khóc, càng khóc càng lớn tiếng.

Tôi hỏi: Bà khóc cái gì?
Bà đáp: Con không biết, không phải là con khóc, mà là một người khác bên ngoài đang khóc.
- Ai bảo bà khấu đầu lạy thế?
- Là tự con muốn lạy.
- Bà đang giở trò gì vậy?
- Không biết! Tóm lại, không cần tu, không cần học, không cần giữ giới.
- Bà là sinh viên tốt nghiệp đại học ở Nam Dương. Có phải là bà không cần học mà được tốt nghiệp chăng?
- Không phải!
- Tu đạo cũng như vậy. Ngay đến cửa mà bà còn chưa bước vào được, vậy nếu bà không tu hành thì làm sao đắc đạo chớ? Có phải bà không đi học mà biết được chữ không?

Lần nầy thì con quỷ của bà cũng đành phải nói thật thôi. Nó là quỷ “tự nhiên” từ cõi trời Lục Dục. Nó vốn muốn đấu pháp với tôi, nhưng khi đến đây thì lại không có cách gì để đấu. Thế là nó giở ám chiêu, dùng phương pháp mềm diệu để công kích! Nó vừa khóc, vừa phun độc, nhưng độc nầy cũng không có tác dụng gì. Sau đó tôi nói chuyện với con quỷ đó cho đến khi nó lý cùng trí tận, nó mới thật tình xuống nước. Lúc bấy giờ bà Phật tử nọ cũng tỉnh lại và không còn náo loạn nữa.

Giảng ngày 30 tháng 7 năm 1985

 


Không Thể So Sánh Giữa Ma Với Phật

Vào thời Triều Minh, Đại sư Liên Trì (1535-1615) sau khi xuất gia đã đi khắp nơi để tìm minh sư học đạo. Sau khi vào kinh đô, Ngài đến tham bái hai vị đại lão đạo cao, đức trọng trong Thiền Tông là Biến Dung và Tiếu Nham. Đại sư Liên Trì sau khi được nhị vị lão sư khai pháp chỉ điểm, Ngài bèn đi đến Đông Xương và khi nghe tiếng trống thì bỗng nhiên giác ngộ. Nhân đó Ngài làm bài kệ:

Nhị thập niên tiền sự khả nghi,
Tam thiên lý ngoại ngộ hà kỳ!
Phần hương trịch kích hồn như mộng,
Ma Phật không tranh thị dữ phi.

Nghĩa là:

Mối nghi từ hai mươi năm trước
Lạ thay cái ngộ ngoài ngàn dặm!
Đốt nhang ném kích như trong mơ
Ma Phật, phải trái uổng công tranh.

Bất luận là đọc Kinh hay xem Luận, chúng ta cũng phải dùng trí tuệ để phân biệt phải trái. Điều tối kỵ là chúng ta dùng tâm, ý và thức để suy đoán. Vì tâm, ý và thức chỉ là để dối lừa người. Ba thứ nầy có sức mê hoặc rất lớn, khiến cho con người không phân biệt được phải trái, lý sự chẳng minh bạch, đen trắng lẫn lộn thành ra hỗn độn không rõ ràng. Có một số lý luận, mới nghe thì hình như có đạo lý, nhưng người có trí vừa xem qua là biết không đúng, còn người vô trí thời bị mắc lừa và nghe theo một cách thích thú. Có một số khác thì như người mù dắt kẻ đui, không phải vì cố ý, mà vì tự bản thân họ cũng chưa hiểu rõ. Cho nên họ đưa đẩy người khác lạc hướng vào lối rẽ, cuối cùng chẳng đến được nơi tốt lành. Bởi vậy chúng ta đừng nên xem thường việc phát biểu ý kiến của mình. Nếu trên vấn đề căn bản mà chúng ta luận giải xằng bậy, thì đó sẽ như câu nói: “Sai một hào một ly thì khác biệt một trời một vực,” thậm chí còn làm cho cả thế giới rơi vào hoàn cảnh đen tối, không ánh sáng. Do đó, trên nguyên tắc lý luận, chúng ta phải có sự nhận thức chính xác, rõ ràng. Nếu chúng ta chỉ dựa vào tâm, ý, thức mà suy đoán, rồi phê bình lung tung và tùy ý khen chê, tức là bỏ Phật để gia nhập vào bọn ma quỷ, là chuyện không thể được.

Như nói về vấn đề ma và Phật, chúng ta không nên chạy theo lý luận xằng bậy. Ví như có một số người cho rằng: “Ma, Phật như một, hai mà không hai.” Nhưng người Phật tử đâu thể nào giống như ma quỷ; nếu giống thì người ta đâu cần phải tin Phật mà cứ tin theo những lời ngông cuồng của ma quỷ cũng được vậy! Có người nói: “Ma là bộ mặt trái của bậc Thiện tri thức đến giúp đỡ chúng ta.” Đó vốn là nói về hoài bão của lòng từ bi, cũng là một lối nói để an ủi cái tự ngã, dùng tâm lý dỗ dành trẻ con là bảo nó chớ quá giận dữ. Cách nói như thế cũng vẫn là để hóa giải việc phân tranh và oán hận ở bên trong, bởi không muốn xem ma quỷ như kẻ thù địch. Nếu nói mặt trái của ma quỷ là giúp đỡ người, nhưng nó cứ lần lượt nuốt sống con người, hoặc là đưa con người vào chỗ chết, như thế thì gọi là “giúp đỡ” sao?

Do đó chúng ta cần phải giữ vững lập trường căn bản, giờ khắc nào cũng giữ chánh niệm. Một khi chúng ta sanh tâm tham, hoặc tham mau, tham thần thông, tham có hiệu quả nhanh chóng, tham linh cảm thì ma liền nhân đó mà xâm nhập vào. Có một số người rất thông minh, nhưng tại sao cũng có lúc họ bị tâm ma khí quỷ? Là bởi đối với những nguyên tắc căn bản, họ chưa có nhận thức rõ ràng. Nếu họ nắm được căn bản rõ ràng, thời bùa chú của ma cũng không linh nghiệm đâu. Chúng ta không cần phải niệm chú, mà chỉ cần không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ là ma sẽ không có cách gì nhập được.

Sau nhiều năm học Phật, tôi kết luận rằng “Lục đại tông chỉ” nầy là có nhiều hữu dụng nhất. Phật Pháp không phải là bàn luận cao xa, rộng lớn hoặc nói chuyện huyền diệu, lạ kỳ. Lại càng không phải là đoán xằng nói bậy về họa phước, hoặc bói toán hung kiết, hên xui. Trên thế giới nầy không biết đã có bao nhiêu người biết bói đoán tiên tri như thế. Nhưng đó là mánh lới của bọn giang hồ thích nói về thần thông, dùng những lời lẽ yêu quái hoang đường để mê hoặc dân chúng. Đó là họ đang rao bán thuốc cao thuốc dán đấy. Và đúng thật là những người đó có thể biết được quá khứ vị lai. Ví như họ nói với quý vị rằng: “Tôi biết ngày mai sẽ có người đến thăm anh, người đó lại còn nói với anh như thế nầy, thế nầy...” Hoặc như: “Trước kia anh đã làm những việc gì, tôi đều biết rõ cả...” Nhưng họ đều có chỗ sơ sót là không dứt được dâm dục, hoặc háo tài, hoặc luyến sắc. Đó đều là cảnh giới của ma quái. Nếu người nào có tâm tranh, tâm tham, cầu danh cầu lợi, hoặc tuyên truyền đề cao cá nhân mình để cho người khác sùng bái mình, lại còn ích kỷ tự lợi và không nói lời chân thật thì chúng ta nên biết rằng, người nầy đang trong cảnh giới của ma.

Nhân dịp Đại Sư Liên Trì tham bái hai vị Lão Sư Biến Dung và Tiếu Nham, Đại Sư được hai vị khuyên bảo rằng: “Người xuất gia tu đạo là vì sanh tử đại sự. Đừng để danh lợi làm liên lụy!” Lúc bấy giờ tại đạo tràng đó cũng có một số người tham gia học tập, nhưng không mấy ai để ý gì đến lời khai thị nầy. Duy chỉ có Đại Sư Liên Trì là thâm hiểu được ý nghĩa sâu xa mà tâm trí đầy hứng khởi. Cho nên khi rời Kinh Sư đến Đông Xương, Đại Sư bỗng hoát nhiên khai ngộ bèn làm bài kệ trên. Thật ra bốn câu thơ đó chỉ là thứ yếu. Còn lời lẽ tối trọng yếu là không được tìm cầu danh lợi, đó mới là chìa khóa chủ yếu của câu chuyện nầy.

Quý vị đừng tưởng rằng Đại Sư Liên Trì đến Đông Xương mới khai ngộ. Mà ngay từ lúc đầu, Đại Sư đã từng bước, từng bước đi trên con đường khai ngộ rồi. Đến lúc đứng trước mặt hai vị Lão Sư Biến Dung và Tiếu Nham, bị hai Ngài hét cho một tiếng lớn vào đầu khiến Đại Sư hoát nhiên khai đại ngộ ngay. Sau khi xuất gia thì không đam mê danh lợi, đó là bài chú có hiệu quả nhất, có thể chiến thắng tất cả bọn ma quân. Chúng ta hãy xem lời văn của bài kệ như sau:

Mối nghi từ hai mươi năm trước. Chuyện sanh tử đại sự nầy đã khiến Đại sư Liên Trì bối rối nghi hoặc từ lâu. Bởi chưa hiểu nên Đại Sư phải xuất ngoại tham vấn, cầu bậc Thiện tri thức giải quyết dùm mối nghi ngờ. 

Lạ thay cái ngộ ngoài ngàn dặm. Trải qua ba ngàn dặm, sau đó Đại Sư đến Đông Xương thì đột nhiên khai ngộ. Điều nầy sao mà kỳ diệu quá! Bao chấp trước của Đại Sư bỗng nhiên tiêu tán hết!

Đốt hương ném kích như giấc mộng. Thắp nhang cúng Phật là chuyện tốt, còn ném đao kích, đánh lộn với ma quân là chuyện xấu. “Trịch kích” cũng có thể là ném bỏ khí giới, tức là không đánh nhau nữa. Tất cả những điều đó cũng giống như giấc mộng thôi! Vì sao giống như giấc mộng? Bởi vì mình chưa hiểu rõ một cách triệt để.

Ma Phật, phải trái uổng công tranh. Bây giờ Đại Sư đã hiểu rồi. Trước đây vì Đại Sư cứ dụng công ở chỗ hư vọng thị phi, phải trái, cho nên đều là uổng phí tâm sức! Đại sư Liên Trì cũng không nói rằng: Phật và Ma như là một. Mà ma là ma, Phật là Phật. Hai bên đều đã không quan hệ với nhau thì có thị phi, phải trái gì đáng phải tranh cãi hả? Những cuộc bàn luận phải trái lúc trước đều là hư vọng, chẳng phải thật.

Nếu muốn hàng phục bọn ma, quý vị phải có chút ít công phu chân thật, không phải chỉ thiền nơi miệng mà có thể làm được.

Còn một cách khác là: “Vô ma bất hiển Phật, Vô Phật bất hiển ma,” không có Ma thì Phật chẳng hiện, không có Phật thì Ma chẳng hiện. Ma và Phật cũng là pháp tương đối với nhau, chứ không phải khi Phật khai ngộ rồi thì Ma và Phật nhất như là một đâu. Sau khi Phật khai ngộ rồi thời Ma, Phật cũng vẫn như trước, chỉ ngoại trừ - Phật thì không có tư tưởng thù địch. Phật xem tất cả chúng sanh bình đẳng và Ma cũng là một phần tử trong chúng sanh, cho nên Phật xem Ma là đồng đẳng. Nhưng Ma đối với Phật có bình đẳng hay không? Tuyệt đối là không! Vì lúc nào Ma cũng muốn lật đổ Phật.

Qua hai mươi năm sau, Đại sư Liên Trì mới hiểu rõ đạo lý không tranh. Đại Sư giác ngộ rằng trước đây mình chỉ tranh cãi phải trái ở bề ngoài một cách vô ích. Lúc đó Đại Sư đã không hồi quang phản chiếu và không quét dọn sạch sẽ cái tự tánh của mình, cho nên hễ người ta tranh là Đại Sư liền phiền não.

Tôi nói đạo lý rất là đơn giản, hy vọng quý vị ngẫm nghĩ lại cho kỹ càng. Bởi vì trên nguyên tắc, chúng ta không được phạm lầm lỗi. Quý vị đều còn trẻ, và cũng không nên tùy tiện nói “Ma Phật như là một.” Hoặc giả người đã đại triệt, đại ngộ rồi thì có thể nói như thế, bởi vì cảnh giới hiểu biết của họ không giống với quý vị. Nhưng chúng ta hãy còn là trẻ con, cho nên không được dối mượn đạo lý của người xưa, để rồi gượng gạo luận giải một cách sai lầm. Ví như trẻ con chưa biết lái xe, mà quý vị để cho nó lái thì rất dễ gây ra tai nạn, đến nỗi mất mạng là khác.

Có một số người khi nghe nói “Ma Phật Nhất Như” thì họ nghĩ rằng: “Thế thì mình lạy Phật để làm gì? Mình làm nghiệp ma thì cũng không phải là nghiệp Phật hay sao?” Vì vậy trên nguyên tắc phân biệt, chúng ta phải hiểu cho rõ ràng, chớ có nghe ngóng một cách lẫn lộn như vậy, rồi cho rằng mắt con cá là ngọc trai.

Giảng ngày 29 tháng 8 năm 1985


Vì Sao Đức Phật Lại Phóng Hào Quang Khi Thuyết Pháp?

 

Khi thuyết pháp, đức Phật đã thường phóng hào quang. Vì sao vậy? Bởi Ngài muốn cho chúng sanh mau giác ngộ.

Khi đức Phật thuyết giảng kinh Niết Bàn vào lúc cuối, Ngài phóng hào quang từ nơi mặt, rồi thâu hồi lại vào trong miệng. Đó là sự biểu thị đi cũng là như như, đến cũng là như như. Đi cũng là đi đến kho tàng trí tuệ quang minh, trở về cũng vẫn là trở về kho tàng trí tuệ quang minh. Nhưng chúng sanh chỉ biết đi mà không biết trở lại, gọi là: “Năng phóng bất năng thâu.” Đó cũng tức là chỉ về cái vọng tưởng của chúng ta mà nói. Quý vị phóng ra được thì sau đó phải biết thâu hồi lại. Nếu quý vị chỉ có thể phóng quang ra, mà không thể thâu quang lại thì sẽ không thể nào đi lại tự tại như như được. Đó gọi là học mà không biết dùng. Chúng ta nên có thể phóng thì có thể thâu, có thể lớn thì có thể nhỏ, có thể có thì có thể không, chẳng gì mà không làm được, tùy tâm như ý, tự tại vô ngại.

Phật phóng quang cốt để cho người ta thấy, phải không? Không phải! Vậy Ngài phóng hào quang cho người xem để làm gì? Ngài có giống như người phàm chúng ta là muốn làm quảng cáo phải không? Hoăëc vì Ngài muốn khoe sở trường đặc biệt của mình để cho người ta biết? Không có chuyện đó đâu. Phật phóng quang vì muốn phá trừ vô minh của chúng sanh. Hào quang Phật chiếu qua mỗi vị chúng sanh trong pháp hội, gọi là: “Phật quang phổ chiếu, vũ lộ quân triêm,” là Phật chiếu hào quang đến khắp nơi như mưa cam lồ tưới thấm đều hết thảy. Lúc bấy giờ tất cả chúng sanh đều được hào quang Phật gia hộ, đó là họ đang gieo hạt giống thành Phật và tương lai nhất định sẽ thành Phật. Phật phóng quang chỉ vì muốn cho chúng sanh thành Phật, muốn chúng sanh nghiệp tận tình không, khiến chúng sanh sanh tâm giác ngộ, được đầy đủ trí tuệ để không phải cả ngày từ sáng đến tối ngu si mê muội, không có trí tuệ, rồi cứ ở trong biển khổ chuyển tới chuyển lui. Bởi vậy vào lúc cuối đời, đức Phật đã chiếu hào quang đến tất cả chúng sanh đang tham gia Pháp hội, khiến trong tương lai họ sẽ có duyên phần thành Phật.

Sau đó đức Phật lại thâu hồi hào quang, là thâu hồi trở về bản thể của Ngài. Điều đó cũng muốn dạy người ta chớ có khoe khoang mà phải biết ẩn quang dấu tích, đừng để lộ hào quang ra ngoài một cách thái quá. Nếu người nào để lộ tài năng mình ra một cách rõ rệt như thế, đó chính là hành vi ngu si. Thế thì cố ý tàng dấu đi cái hào quang của mình là có trí huệ hay sao? Cũng không phải thế. Đây có ý là lúc nào nên dùng thì chúng ta mới dùng, lúc nào không nên dùng thì không dùng. Ví như quý vị tiêu xài tiền bạc một cách hoang phí thì dù quý vị có bao nhiêu tiền đi nữa rồi cũng sẽ hết cạn. Còn tuy có hơi nghèo nàn, nhưng quý vị chỉ tiêu dùng chút ít thôi thì quý vị vẫn sẽ còn tiền xài.

Vì sao con người phải ẩn quang dấu tích? Điều nầy có thể dùng đèn dầu để làm thí dụ. Đèn dầu thì phát ra ánh sáng, nhưng nếu chúng ta dùng thường thì dầu sẽ khô cạn, và tim đèn cũng tàn lụn thôi. Nhưng nếu khi cần chúng ta mới đốt lên, còn lúc không cần thì không đốt, như vậy chúng ta sẽ dùng nó được rất lâu. Trí huệ quang minh của con người cũng là như vậy. Đức Phật có thể ngày ngày phóng quang. Vì sao Ngài phóng ra rồi lại thâu hồi trở vào? Đó là dạy con người biết tiến biết thối, biết động biết tĩnh, biết theo biết dừng. Ai có thể biết đủ thời thường đủ. Cho nên nói: “Tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi,” biết đủ khỏi bị nhục, biết dừng không bị nguy hiểm. Nếu mình biết là không nên làm thì đừng làm, đó là biết dừng. Nếu người nào làm được như thế thì mới có thể nói là hiểu được Phật Quang. Còn như mình không làm được như thế, tức giống như con kiến muốn ăn dưa hấu mà nó cứ bò ngoài vỏ, tuy cảm thấy ngọt đó, nhưng rốt cuộc có ăn được đâu. Quý vị hãy suy nghĩ về đạo lý nầy thì sẽ rõ.

Giảng ngày 1 tháng 10 năm 1985

 

Động Tĩnh Nhất Như

Tại Vạn Phật Thành, chúng ta chỉ có thọ khổ. Tuy thọ khổ nhưng chúng ta cũng có thể tiêu trừ được nghiệp tội. Bởi vì từ vô lượng kiếp, chúng ta đã có rất nhiều chướng ngại nên mới cả ngày cứ phiền phiền não não, tranh tranh cãi cãi và trong tâm chúng ta không lúc nào được bình an. Nếu quý vị đến Vạn Phật Thành mà chịu được chút khổ, đó gọi là bồi bổ ngoại công. Khi có ngoại công rồi, sau đó quý vị mới có nội quả. Nếu quý vị không có ngoại công thì nội quả cũng sẽ không thành tựu được. Ngoại công là làm việc đức hạnh trong động, là tu phước. Nội quả là tu huệ trong tĩnh.

Quý vị cần phải đem động tĩnh tôi luyện cho được nhất như, gọi là: “Động không trở ngại tĩnh, tĩnh không trở ngại động; động là tĩnh, tĩnh là động; động tĩnh không phải hai.”

Một khi quý vị luyện tập công phu nầy gom thành một khối thì định lực sẽ hiện tiền.

Lăng Nghiêm Đại Định không phải là nói chúng ta tọa thiền mới có. Khi quý vị đi, đứng, nằm, ngồi mà không bị cảnh giới bên ngoài lay chuyển, không bị ngoại cảnh dao động và không bị vọng tưởng quấy rầy, đó tức là định. Nếu quý vị ngồi ở đấy mà cứ vọng tưởng lung tung, không nghĩ đông thì nghĩ tây, như thế là không có định lực. Hay là quý vị thấy được cảnh giới gì thì liền bị cảnh đó lay chuyển, đó là không có định lực. Định lực là động tĩnh không hai, khi động mà mình không bị cảnh giới lay chuyển, đó là tĩnh. Lúc tĩnh mà mình không bị vọng tưởng quấy nhiễu, đó cũng là động.

Nếu quý vị tu được động tĩnh như nhau, thời công phu liền thành một khối. Công phu đã thành một khối rồi thì không phải là động, cũng không phải là tĩnh, không phải không, cũng không phải có, đó chính là Trung Đạo đấy.

Giảng ngày 12 tháng 10 năm 1985

 

Vì Sao Thế Giới Suy Đồi?

Vạn Phật Thành tuy ở thế gian, nhưng có thể nói là nó cách biệt với thế giới bên ngoài. Bởi người thế gian đều thích hưởng thụ, như họ không hút thuốc thì là uống rượu. Nam nữ tham vui buông lung theo dâm dục, khiêu vũ, hút sách v.v... không gì mà họ không làm. Nhưng tại Vạn Phật Thành không có những thói hư tật xấu nầy. Có thể nói đây là một đạo tràng thanh tịnh, là nơi hoàn toàn khác hẳn với thế gian. Tuy Vạn Phật Thành mở trường đại học, trung học và tiểu học, nhưng chúng ta chỉ chú trọng về chất lượng chứ không coi trọng về số lượng. Mọi người đều phải tuân theo quy củ nề nếp, như vậy mới có thể ở trong Vạn Phật Thành được. Nếu ai không tuân theo quy củ, tuyệt đối không được  cùng ở chung. Và Vạn Phật Thành không cần phải đuổi họ đi, mà tự họ cũng cảm thấy ở không được. Cho nên người sống tại Vạn Phật Thành như là đãi cát tìm vàng, tìm người chân thật trong toàn nhân loại trên thế giới.

Những ai đến Vạn Phật Thành, trước hết phải không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ. Được vậy mới là người đủ tư cách để cư trú ở Vạn Phật Thành. Nếu họ vẫn không sửa đổi những tập khí xấu, thì dù là ông Trời hay Hoàng Đế đi nữa, cũng không được thâu nhận. Thậm chí Tổng Thống có đến đây, nếu ông ta không giữ đúng quy củ thì cũng không được thâu nhận.

Vạn Phật Thành không phân biệt nghèo giàu, hay sang hèn. Mà mọi người đều là bình đẳng, cùng chung nhau tuân thủ không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ. Ai có thể giữ sáu điều kiện nầy mới được xem là người tốt.

Vì sao thế giới nầy suy đồi? Bởi vì tranh. Tự mình tranh với mình, là để lửa cọp (dữ) sân hận và lửa vô minh đều chạy tuôn ra ngoài. Người tranh với người, gia đình tranh với gia đình, lớn rộng hơn thì quốc gia tranh với quốc gia. Thậm chí hiện nay địa cầu cũng sanh chuyện xung đột với nguyệt cầu. Do vậy mà chữ tranh sẽ hại chết con người. Nhưng dù có chết rồi, con người vẫn không hiểu được cảnh giới nầy đâu.

Thứ đến là tham. Đại đa số những nhà cách mạng trên thế giới nầy đều là do tham. Họ vì tham danh tham lợi, cho nên dẫn đến chuyện giết người và vượt cả quyền hạn mình để đoạt chức phận. Họ cứ tham mà không chán. Do đó họ làm cho thế giới mỗi ngày một thêm hỗn loạn, càng ngày càng đổi khác.

Tật xấu thứ ba là tìm cầu, là cầu lợi cầu danh, cầu trai cầu gái. Con người đều vì có tìm cầu, cho nên họ không thể nào an định được. Khi cầu chưa được thì họ lo lắng, nhưng lúc được rồi thì họ lo bị mất. Cầu cũng có thể hại chết người. Cầu đến chết mà cũng không biết tại sao mình chết.

Thứ tư là người ích kỷ, là người không có tư tưởng đại công vô tư, không có tinh thần xả mình vì người. Cứ luôn đặt mình lên trên trước. 

Vì sao con người phải ích kỷ? Vì muốn lợi riêng cho mình, đó tức là tật xấu thứ năm; tiến tới nữa là họ bất chấp thủ đoạn, không nói lời tín nghĩa, lại nói lời giả dối để lừa gạt người, vì vậy mà họ phạm tật xấu vọng ngữ thứ sáu. Bởi vậy người học Phật nên lấy sáu điều kiện nầy để mỗi ngày tự kiểm thảo mình và lấy đó làm quy tắc cho sự tu hành.

Giảng ngày 15 tháng 10 năm 1985


Cư Sĩ Thuần Đà Cúng Dường

Hôm nay ai nấy đều phát huy ý nghĩa của bản văn kinh Niết Bàn rất rõ ràng chính xác và rất hợp lý. Mỗi cá nhân đều có kiến giải độc đáo và trí tuệ độc đáo. Trong nguồn suối trí tuệ của quý vị, quý vị sẽ lấy không hết, dùng không cạn và nó cứ nối tiếp nhau đến, không ngừng dứt, cũng không bao giờ khô cạn. Nếu biết lợi dụng nó, quý vị nhất định có chỗ cống hiến đối với Phật giáo, khiến cho đạo Phật phát dương một cách quang minh quảng đại. Nếu không biết dùng nó, thì trí tuệ quý vị sẽ mỗi ngày một giảm bới đi. Tại sao? Bởi bộ não không được dùng tức sẽ thoái hóa thôi.

Lý do mà tôi bảo tất cả quý vị nên lên bục giảng kinh trước, là vì muốn huấn luyện cho quý vị có khẩu tài giảng kinh và kinh nghiệm hoằng pháp. Trong trường hợp nầy, quý vị nên phát huy nguồn trí tuệ vốn có của mình. Đừng tự buộc chân mình mà không chịu tiến bước, hay mới tới giữa đường liền vạch mức tự giới hạn, không chịu tiến thêm lên.

Quý vị nên hiểu rằng, đây là cơ hội rất khó gặp, bởi vậy chớ có bỏ qua quyền lợi của mình. Bây giờ chính là thời kỳ học tập, nếu như quý vị bỏ lỡ cơ hội tốt nầy thì sau có hối tiếc cũng đã muộn rồi!

Có hai câu rất tương tự với nhau trong đoạn kinh văn: “Nhất giả thọ dĩ đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, Nhị giả thọ dĩ nhập ư Niết Bàn.” Cho nên có người nêu câu hỏi rằng: “Không biết ai là người Thọ và ai là kẻ Đắc? Người nhận cúng dường đắc, hay người bố thí cúng dường đắc?” Khá lắm! Quý vị mà có nghi vấn đối với câu kinh nầy, tức quý vị có thể hiểu được đấy. Nên hiểu rõ chữ “Dĩ” nầy, là bao gồm kẻ bố thí và người thọ nhận đều được lợi ích cả. Nếu như chỉ có một bên được lợi ích tức là không hợp lý. Nói cách khác, chẳng những người thọ nhận được lợi ích, mà kẻ bố thí cũng đặng lợi ích luôn.

Ông Thuần Đà cúng dường và đức Phật đương nhiên là người nhận. Có người trong lòng nghĩ rằng: “Chắc là Phật bị đói nên mới tiếp nhận sự cúng dường của ông Thuần Đà.” Có thể nói như thế, nhưng người bị đói tệ hại nhất vẫn là ông Thuần Đà. Tại sao lại nói thế? Bởi Thuần Đà là một công nhân thuộc giai cấp lao động, nhưng ông lại chịu đem tất cả lương thực của mình để cúng dường Phật, gọi là “Xả kỷ vị nhân,” xả mình vì người. Chúng ta có thể suy ra để biết rằng, ông Thuần Đà đã không còn lương thực để ăn. Thế thì chẳng lẽ ông ta bị đói hay sao? Không phải đâu. Vì ông ta đã nhận được Pháp Thực, cho nên nói là: “Thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn.”

Ông Thuần Đà tuy là dân lao động, nhưng ông có tín tâm, kiên tâm, hằng tâm và tấm lòng thành; trong tâm ông không có chút gì là dối trá. Ông cũng không có ý đồ gì, chỉ ước nguyện là Phật sẽ từ bi vạch ra cái căn gốc nghèo cùng của ông và hy vọng Phật sẽ giáng xuống trận mưa Pháp, ngõ hầu tưới nhuần pháp thân khô cằn của ông. Phật biết, Phật thấy tất cả, bởi vậy Ngài mới tiếp nhận sự cúng dường cuối cùng của ông Thuần Đà. Đây là cách nhìn của riêng tôi. Xem bề ngoài ông Thuần Đà như đang biện luận với đức Phật, mà thật ra thì không phải là biện luận. Bởi ông Thuần Đà có tâm lượng rất nhỏ, ông không rõ được đạo lý Phật thuyết giảng, nên mới nói: “Đúng nghĩa thì không phải vậy.” Ông nghĩ rằng những đạo lý mà Phật nói là không đúng. Tại sao? Bởi người nhận sự cúng dường trước tiên thì vẫn còn có phiền não, cũng không đắc được Nhất Thiết Chủng Trí, cũng chưa có thể khiến cho chúng sanh Bố thí một cách đầy đủ. Còn người nhận cúng dường sau rốt, so ra thì khác, vì người đó đã hết phiền não, không còn cuộc sống hiện hữu về sau và đã đạt được Nhất Thiết Chủng Trí, có khả năng khiến tất cả chúng sanh cúng dường đầy đủ đàn Ba-la-mật. Ông Thuần Đà dùng lý lẽ đó để giải thích. Nhưng sau đó đức Phật đã giảng giải cặn kẽ cho ông hiểu.

Cư sĩ Thuần Đà không phải cố ý bác bỏ ý kiến của Phật, mà bởi vì trình độ cảnh giới của ông, gọi là: “Người ở Sơ địa không biết cảnh giới Nhị địa, người ở Thập địa không biết cảnh giới Đẳng Giác.” Và vì ông không hiểu rõ đạo lý nầy, cho nên ông muốn nghiên cứu, chứ không muốn nuốt trửng hết để chấp nhận đại mà không cầu hỏi sự giải bày, đó là điều dĩ nhiên. Khi nghiên cứu kinh điển, chúng ta cũng nên có tinh thần như thế, là hiểu một cách triệt để. Đừng nên làm qua loa cho xong chuyện và nghĩ rằng mình hiểu tàm tạm là được rồi. Ai có tư tưởng như thế thì không thể chấp nhận được!

Giảng ngày 20 tháng 10 năm 1985


Học Phật Phải Giữ Giới Luật

Chúng ta học Phật, học cả thiên vạn kinh điển, Tam Tạng và Mười Hai Bộ Kinh. Nhưng bất luận học bao lâu đi nữa, việc đầu tiên là chúng ta phải khống chế tình cảm mình. Khống chế tình cảm là giữ giới luật. Nếu giữ giới luật thì mình sẽ không khóc. Bởi người giữ giới luật đối với mỗi sự việc, họ đều làm tất cả điều lành, không làm các điều ác. Người không giữ giới luật sẽ thường hay khóc. Vì khóc cũng là một điều ác của thân chúng ta, giống như loại vũ khí của bọn thổ phỉ cướp bóc có thể giết người, đó là biểu hiện cho điều không kiết tường đấy. Nếu trì giới thì quý vị sẽ không dễ khóc. Từ cái khóc hay không khóc, có tình cảm hay không có, nổi giận hay không nổi giận là có thể chứng minh rằng người đó có trì giới luật hay không?

Nếu hiểu giới luật thì đối với tất cả Phật Pháp và quý vị đều có thể thâm nhập được. Nếu không hiểu giới luật, quý vị sẽ giống như vầng mây trên hư không, trôi nổi bồng bềnh, không có căn cơ gốc rễ gì hết. Cho nên là người học Phật, bất luận xem một bộ kinh nào, chúng ta cũng thấy rằng tất cả kinh điển đều dạy người giữ giới luật, chớ đâu có dạy người ta làm điệu bộ giả tạo với tác phong sai lệch quá đáng, hoặc là tranh, hoặc là ngụy biện. Quý vị thật tình giữ giới luật thì có gì mà ham tranh, có gì mà háo biện luận?

Nếu quý vị không chú trọng đến giới luật, đợi đến lúc xuống địa ngục rồi thì thoát ra không khỏi đâu. Quý vị dối được người nhưng không dối được chính mình. Nếu mình thật sự trì giữ giới luật thì thứ nhất là mình sẽ không khóc. Thế tức là thường hay cười phải không? Cũng không phải vậy.

Trước đây tôi đã nói qua rằng: Ngồi ở đâu cũng đừng lay động đầu gối. Đứng ở đâu cũng không rung quần. Khi mừng chớ cười to như phát cuồng. Lúc nổi giận cũng không cao giọng gào thét. Cho nên gọi là: Nghĩ trước nói sau, vui rồi thì cười, phải nghĩa mới lấy, đến đâu cũng đều nghĩ về người khác, chứ không nghĩ cho cá nhân mình. Cho nên người học Phật, thứ nhất là phải giữ giới luật. Vì sao ai đó có thể không khóc, không cười? Không khóc, không cười tức là có định lực. Người không có định lực mới khóc, mới cười. Quý vị có được định lực thì mới có trí tuệ. Quý vị không có định lực, tức là quý vị không có giữ giới. Quý vị nói mình có trí tuệ, nhưng lại không dùng được chút nào.

Do đó, chúng ta học Phật nhất định phải chú trọng đến việc giữ giới. Giữ giới luật là mình luôn luôn tự xem xét lỗi lầm của chính mình, chứ không phải là để ý đến chỗ sai lầm của người khác. Vì chỉ thấy lỗi người mà chẳng chịu sửa đổi tật xấu của mình thì cũng giống như mình giặt quần áo cho người, trong khi quần áo mình vẫn còn dơ bẩn.

Hôm nay tôi nói với quý vị đều là những lời khuyên bảo tận tình, đều là dạy quý vị ly khổ đắc lạc, liễu sanh thoát tử. Nếu quý vị hiểu được tinh thần của lời tôi nói, thì quý vị mỗi người đều có phương pháp rồi. Còn như quý vị không hiểu, tôi cũng không cách gì cứu giúp quý vị cho được. Dù cho đức Phật Thích Ca Mâu Ni có đến cũng không cứu nổi quý vị, bởi vì cái tình cảm mê muội của quý vị đấy. Tôi thành thật nói ra những lời nầy, quý vị cũng nên thật lòng mà nghe, chứ đừng làm tài khôn như bọn quỷ quái linh tinh.

Giảng ngày 21 tháng 10 năm 1985

 

Sao Gọi Là Đạo?


Hôm nay chúng ta nghiên cứu về đề tài: Sao gọi là đạo? Đạo tức là con đường mà mọi người đều cùng tuân hành theo. Con đường đạo lộ là gì? Đó là đại công vô tư. Trong quyển Lễ Vận Đại Đồng nói: “Đại đạo chi hành dã, thiên hạ vi công.” Đó là chủ đề, đoạn văn tiếp sau chẳng qua chỉ là giải thích nghĩa lý của con đường đại đạo.

Tôi thường nói rằng: “Nho giáo giống như Tiểu học, Đạo giáo giống như Trung học, và Phật giáo giống như Đại học.” Học trò Tiểu học không hiểu bài vở của bậc Trung học, học trò trung học không hiểu bài vở của bậc Đại học.

Có người hỏi: “Nói thế thì có gì làm căn cứ?” Sau khi Khổng Tử hỏi Lão Tử về lễ nghi, Khổng Tử tán dương Lão Tử như con Rồng du phương, lúc ẩn lúc hiện không lường và biến hóa vô cùng. Do đó mà thấy hình như Khổng Tử đã không hoàn toàn hiểu đạo của Lão Tử. Có phải thật là không hiểu sao? Không phải đâu, ông hiểu nhưng không muốn nói ra đấy thôi. Vì sao? Bởi học sinh của ông lúc bấy giờ không đủ trình độ. Họ vẫn chưa đến bậc Trung học, cho nên ông không thể giảng pháp môn nầy.

Lão Tử đối với Phật giáo thì hiểu, nhưng ông cũng không giảng. Vì sao? Bởi lúc bấy giờ con người không đủ trình độ, cho nên ông chỉ nói đạo lý của Đạo giáo mà không nói đến nghĩa lý của Phật giáo. Đạo Nho và Đạo Khổng là mở đường cho đạo Phật. Ngoại đạo là lót đường cho chánh đạo. Và tà giáo là trải đường cho chánh giáo. Họ dọn dẹp trước, làm cho con đường đạo lộ được sạch sẽ để không có vật chướng ngại.

Bàng môn tả đạo là kích động cho tâm con người khai mở cửa trí tuệ, rồi sau đó mới có thể tiếp thu được chất đề hồ cam lồ của Phật giáo.

Khổng Tử nói: “Sáng sớm được nghe Đạo, tối chết cũng đành lòng!” Điều nầy nói lên tánh trọng yếu của Đạo và cái chết. Nghe đạo là để hiểu rõ đạo lý làm người, so ra vẫn còn trọng yếu hơn cái chết. Nếu biết làm người như thế nào rồi, thời chết mới nhắm mắt. Đừng nên nhìn vào chữ mà giải thích ý nghĩa của nó. Quý vị nên chú ý về điểm nầy! Đấy không phải nói là buổi sáng tôi được nghe đạo, rồi đến chiều tối thì tự sát. Nếu mà tự sát thì còn có ý nghĩa gì nữa?

Nghĩa cạn cợt của đại công vô tư là không ích kỷ, không tự lợi. Đại công vô tư cũng tức là không có dục niệm ham muốn, là đã thoát khỏi những mối quan hệ với ngũ dục: tài, sắc, danh, thực, thùy; không tham, không ái. Ai có thể thực hành Lục Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thánh Thành, tức người đó có đủ tư cách làm Phật tử.

Lục Đại Tông chỉ: Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ nầy, nếu dùng đạo lý Phật giáo để giảng cũng được, nếu dùng đạo lý Lão giáo để giảng cũng được, dùng đạo lý Nho giáo mà giảng cũng được luôn. Nói tóm lại, giảng giải thế nào cũng được, vì đạo lý nầy là viên dung vô ngại và rất hợp với lôgíc luận lý học. Thế tại sao không có ai giảng đạo lý đó? Để tôi nói cho quý vị nghe! Đây là Lục Đại Tông Chỉ mà tôi phát minh ra cho Phật giáo trong thời đại khoa học. Lục Đại Tông Chỉ nầy bao gồm các giáo lý của hết thảy tông giáo, là phương pháp rất thực dụng. Nếu giảng về giới luật của Phật giáo, thì giảng tới giảng lui gì cũng đều không rời khỏi phạm vi của Lục Đại Tông Chỉ đó.

Đạo () là do chữ Thủ () và chữ Tẩu () hợp thành. Thủ là đầu, cũng tức là trước nhất; Tẩu là đi, cũng tức là thực hành. Sự kiện trước nhất là dạy quý vị đi thực hành. Nếu không thực hành thì dù quý vị có nói bao nhiêu cũng đều là giả dối, là lừa phỉnh người. Cho nên có câu: “Nói một trượng, không bằng đi được một tấc.”

Đạo nầy không phải là đạo nào khác mà chính là đạo làm người. Đạo làm người nầy so với đạo sanh tử còn trọng yếu hơn nhiều. Có sanh tất có tử, cho dù là những bậc thánh hiền hào kiệt cũng không miễn được cái chết. Nhưng phân biệt thì chết có khi nặng như núi Thái Sơn, có lúc nhẹ tợ lông hồng. Buổi sáng được nghe đạo, đến tối chết là cũng có giá trị rồi. So với người chết không được nghe đạo “đại công vô tư” thì mình hay hơn nhiều. Chữ “nghe” nầy là hiểu rõ, sau khi hiểu rõ thì mới biết đạo lý làm người.

Lại nói thêm: Đạo là gì? Tức là chân lý, và không ai có thể lật đổ được chân lý nầy. Chân lý là tuyệt đối không phải là tương đối. Chân lý chỉ có một, chứ không có hai. Đạo nầy là đạo chung cho tất cả những người tu hành chân thật. Và Đạo có thể giảng theo Nho giáo, có thể giảng theo Đạo giáo và lại càng có thể giảng theo Phật giáo. Đạo là chân lý. Bất kỳ tôn giáo nào cũng có thể giảng, không có ai là chuyên quyền. Không thể nói là chỉ mình tôi mới được phép giảng, còn người khác thì không được giảng. Nhưng giảng đạo là phải có căn nguyên lịch sử. Quý vị không thể nói về chuyện Khổng Tử đã giảng Phật Pháp như thế nào, bởi vì lúc bấy giờ, e rằng danh hiệu của Phật vẫn chưa được ai biết đến.

Cho nên chúng ta phải hiểu rõ ràng về lịch sử, vậy mới khỏi làm trò cười cho thiên hạ.

Giảng ngày 28 tháng 10 năm 1985



Tâm Bình Đẳng Cúng Dường


Khi cúng dường chúng sanh, chúng ta không thành tâm, nhưng khi cúng dường Phật thì chúng ta mới thành tâm. Nếu có tư tưởng như thế, tức là sai lầm rồi. Hôm nay tôi xin đề cử ra một thí dụ để nói rõ về điểm nầy. Quý vị chỉ biểu hiện sự cung kính khi cúng dường lương thực cho Sư Phụ, còn khi đem thức ăn cho người khác thì quý vị đâu có thành tâm như thế. Vậy nghĩa là tâm phân biệt của quý vị đang tác quái đấy. Quý vị không nên nghĩ như: “Tôi cúng dường người nầy thì công đức lớn, hoặc cúng dường người kia thì công đức nhỏ.” Nếu ai nghĩ như thế thì dù có đại công đức cũng sẽ biến thành tiểu công đức, còn như công đức nhỏ thì càng biến thành nhỏ hơn nữa.

Vì đức Phật rất lo ngại sẽ không có ai cúng dường cho đệ tử Ngài trong tương lai, cho nên Ngài mới nói: “Cúng dường Phật và cúng dường chúng sanh đều có công đức như nhau.” Phật có tâm đại từ đại bi. Và muốn cho chúng đệ tử có cơm ăn, Ngài mới dạy người ta đừng có tâm phân biệt, xem ai ai cũng như nhau mà nên bố thí một cách bình đẳng.

Quý vị hãy chú ý! Nếu quý vị tranh nhau cúng dường cho Sư Phụ, nhưng lại để chúng đồ đệ của ổng bị chết đói, đó là việc làm tàn nhẫn lắm đấy! Do đó những thức ăn mà quý vị cúng dường tôi, tôi đều không ăn, vì nếu như hôm nay tôi ăn quá nhiều, đến nỗi đầu óc bị choáng váng, vậy quý vị nói là quý vị có công đức hay không!


Giảng ngày 29 tháng 10 năm 1985


Bách Niên Đại Sự Hỗn Như Mộng    

Trăm Năm Đại Sự Rối Như Mộng  

(Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng “Trung Quốc Bách Niên Dự Ngôn Thi” của Đại Sư Bộ Hư)

 Khai Thi Quyen 6 Tiep Theo 1  

           

Trong nhiều Pháp hội, các buổi phỏng vấn, hoặc các cuộc hội đàm, Hòa Thượng Tuyên Hóa đã từng phân tích bài “Trung Quốc Bách Niên Dự Ngôn Thi” một cách rất tường tận. Đó là do nguyên nhân nào?

Lịch sử ví như tấm gương sáng của các bậc tiền nhân lưu lại cho hậu thế, ước mong con cháu đời sau có thể “xem tích xưa mà hiểu chuyện nay” hầu khỏi phạm cùng sai lầm, và có thể sửa đổi sai sót cũ, bồi đắp cho mai sau. Có lẽ Hoà Thượng cũng cùng một ý này vậy!

 


            

Quý vị Thiện Tri Thức!


Đa số quý vị hiện diện ở đây là người Trung Hoa, vì thế chúng ta nên tìm hiểu về các biến cố trọng đại cùng các nhân vật liên hệ trong khoảng một trăm năm gần đây của nước Trung Hoa. Thiển nghĩ, tuy chúng ta là người Phật tử, chúng ta chẳng thể không quan tâm đến chuyện gia đình của riêng mình, và cũng chẳng thể không quan tâm đến sức khỏe bản thân. Do đó, tại Los Angeles cũng như ở các nơi khác, tôi đã từng giảng qua, và bây giờ về lại Đài Loan, tôi cũng muốn miêu tả và giải thích sơ lược về những biến cố xảy ra ở Trung Hoa trong vòng một trăm năm trở lại đây.

Chúng ta, những người học Phật, chẳng thể không có tổ quốc, chẳng thể không có gia đình, và cũng chẳng thể không có “tự thân”. Thân thể là “vốn liếng” mà chúng ta “đầu tư” cho việc học Phật của mình. Còn gia đình thì sao? Gia đình là ngọn nguồn của sanh mạng chúng ta. Còn tổ quốc? Chúng ta, bất luận là người xuất gia hay tại gia, đều được sự bảo hộ của chính phủ. Do đó, chúng ta phải yêu tổ quốc, tận trung với tổ quốc, tận hiếu với gia đình, và thành tín với tất cả mọi người; bởi:


Tín là ngọn nguồn của Đạo, là mẹ của công đức. 

Và nuôi dưỡng tất cả mọi căn lành. 

(Tín vi Đạo nguyên công đức mẫu, 

Trưởng dưỡng nhất thiết chư thiện căn.) 

Có câu:

Người không có thành tín thì không lập thân được.

(Nhân vô tín bất lập.) 

Cho nên, chúng ta phải giữ chữ tín. Ở nhà, nếu chúng ta không hết lòng hiếu thảo tức là lỗi đạo, là trái ngược với luân thường; do đó, chúng ta cần phải làm tròn chữ hiếu. Có câu:

Nam nữ chung sống là đạo lý thường tình của con người, 

Đạo của người quân tử bắt đầu ở quan hệ vợ chồng. 

 

(Nam nữ cư thất, nhân chi đại luân. 

Quân tử chi đạo, triệu đoan hô phu phụ.) 

Lại có câu:

Người quân tử lo việc gốc. Gốc lập rồi thì Đạo nảy sanh, 

Hiếu đễ là nền tảng của con người! 

 

(Quân tử vụ bổn, bổn lập nhi Đạo sanh. 

Hiếu đễ dã giả, kỳ vi nhân chi bổn dư!) 

Nhằm bảo hộ chúng ta, quốc gia và chính phủ cần phải có một nguồn nhân lực tương đối để lo việc phòng thủ, bảo vệ đất nước. Lập thân ở đời, chúng ta cần phải giữ chữ tín trong việc xử thế; không được thiếu sự thành tín.

Đức Khổng Phu Tử từng nói:

Người không có tín nghĩa thì chẳng biết có được việc gì chăng? 

(Nhân nhi vô tín bất tri kỳ khả dã?) 

Những người không chú trọng tín nghĩa thì chẳng biết có làm nên việc gì hay không? Cho nên, chữ “tín” rất quan trọng đối với chúng ta. Vậy, chúng ta đối với tổ quốc thì phải trung thành, đối với gia đình thì phải hiếu đạo, đối với bản thân thì phải chú ý sức khỏe của mình. Như thế thì chúng ta mới khỏi trở thành gánh nặng cho quốc gia.

Tôi đã nhiều lần giảng về các biến cố trọng đại xảy ra tại Trung Hoa trong một trăm năm gần đây cùng những nhân vật liên hệ. Tuy nhiên, các nhân vật như thế thì rất nhiều, nên nay chúng ta chỉ chọn ra một vài hình ảnh để thảo luận thôi.

Bài thơ này là do ai nói? Đây có thể gọi là bài sấm tiên tri và được lưu truyền vào năm thứ 30 triều vua Quang Tự nhà Thanh. Đương thời, lão cư sĩ Cao Tĩnh Hàm, chủ nhân Thanh Hư Lâu tại Bích Vân Tự trên ngọn Tây Sơn ở ngoại thành Bắc Kinh, vì quan tâm đến quốc gia đại sự nên đã cung thỉnh được Đại Sư Bộ Hư đời nhà Tùy giáng luận. Dưới đời nhà Tùy, vào thời của Đại Sư Bộ Hư, bởi đất nước gặp cảnh rối ren, giặc giã nổi lên khắp nơi, nên mọi người đều muốn tìm một nơi yên ổn để ẩn náu. Sinh thời, Hòa Thượng Bộ Hư vốn là một vị Đại Tướng Quân và đã giết rất nhiều người. Về sau, nhận thấy hành động như thế là không đúng, Ngài lui về ẩn dật và đến núi Thiên Thai tu hành. Ngài có sáng tác bài thơ như sau:

Tích nhân Tùy loạn thái Bồ Đề,

Ngộ nhập Thiên Thai Thạch Cổ tây. 

Triêu ẩm lưu hà thả chỉ khát; 

Dạ phạn ngọc lộ lược sung cơ.

Diện bích cửu niên thùy Đại Đạo, 

Chỉ đàn thập đại hoán tân nghi. 

Dục ngã tịch đồ, đồ ngộ ngã, 

Thiên cơ nan tiết, tiết Thiền cơ. 

Tích nhân Tùy loạn thái Bồ Đề (xưa kia, bởi nhà Tùy rối loạn nên ta đi tìm Bồ Đề, cầu đạo giác ngộ). Đương thời, Đại Sư Bộ Hư là một tướng lãnh của nhà Tùy, nhưng vì nhận thấy không thể cứu vãn nhà Tùy được nữa nên Ngài phát tâm đi tu. Tuy nhiên, vì không có một mục đích rõ rệt nào cả nên Ngài cứ rày đây mai đó, vân du khắp chốn. Do đó, Ngài nói là “tích nhân Tùy loạn thái Bồ Đề”, tức là khi xưa bởi nhà Tùy loạn lạc nên Ngài quyết định đi theo con đường “Bồ Đề Đại Đạo”, tìm nơi tu hành.

Và chính trong thời kỳ đi tìm nơi tu hành này, Ngài đã Ngộ nhập Thiên Thai Thạch Cổ tây (tình cờ vào được phía tây Thạch Cổ, trên núi Thiên Thai). Một cách hết sức tình cờ, Ngài lạc bước tới phía tây của một nơi có tên là Thạch Cổ (trống đá), trên ngọn Thiên Thai, và khám phá ra nơi ấy có một sơn động nên Ngài đã lưu lại đó để tu hành.

Triêu ẩm lưu hà thả chỉ khát (sáng uống sương mai tạm qua cơn khát). Ngài ở trên núi tu hành, sống đời khổ hạnh. Sáng sớm thức dậy, Ngài chỉ nhấp chút ráng mây—thứ khí mù màu đỏ thường thấy lúc mặt trời sắp mọc. Đó là thứ ráng trời sáng chói, kết tinh của hàng vạn tia sáng rực rỡ trên trời cùng hàng ngàn luồng khí may mắn trong không; và cũng có thể gọi là tinh hoa của mặt trời và mặt trăng. Vì Đại Sư bận tu hành, có chịu đói đôi chút cũng cam lòng, nên Ngài chỉ cần uống chút đỉnh cho đỡ khát mà thôi.

Dạ phạn ngọc lộ lược sung cơ (tối ăn sương ngọc qua loa trừ bữa). Buổi tối, Ngài chỉ nhấp chút sương để dịu cơn đói. Tuy rằng chẳng no dạ, nhưng vẫn có thể duy trì sanh mạng.

Diện bích cửu niên thùy Đại Đạo (đối mặt với vách đá suốt chín năm, Ngài đã đến gần Đại Đạo). Ngài nói rằng suốt chín năm trời ròng rã, Ngài ở trên núi ngồi xoay mặt vào vách đá để hàm dưỡng “Đạo thai” và việc tu hành đã đạt đến chỗ “rõ tâm thấy tánh” (minh tâm kiến tánh). “Đến gần Đại Đạo” tức là sắp sửa thành tựu, chứng đắc Đại Đạo.

Chỉ đàn thập đại hoán tân nghi (thoáng chốc mà mười triều đại đổi nghi lễ mới). Ở đây, “chỉ đàn” tức là “đàn chỉ”, nghĩa là trong khảy ngón tay. (Hai câu này đối nhau: Vì vế trên là “diện bích cửu niên thùy Đại Đạo”, cho nên ở vế dưới, Ngài muốn để chữ “chỉ” là ngón tay nằm đầu câu để đối với chữ “diện” là mặt). Như vậy, trong quãng thời gian ngắn ngủi bằng khảy ngón tay, thoáng chốc mà đất nước trải qua đến mười lần thay ngôi đổi chủ, mười lần thay đổi người lãnh tụ quốc gia. Mười triều đại này có lẽ là bao gồm năm triều đại Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, và “Ngũ Đại Tàn Đường” (năm triều đại ngay sau nhà Đường). “Hoán tân nghi” tức là đổi nghi lễ, thể thức mới. Mỗi triều đại đều có nghi lễ phép tắc khác nhau, cho nên mỗi lần bắt đầu một triều đại mới thì đều có sự thay đổi về lễ nghi, quy củ.

Dục ngã tịch đồ, đồ ngộ ngã (các ngươi muốn ta mở đường, nhưng đường dẫn ta đi lạc). Tất cả các ngươi đều muốn ta mở đường chỉ lối, nói cho các ngươi biết trước về thế cuộc và những việc sẽ xảy ra trong tương lai. Thế nhưng, bởi chính ta cũng không hiểu rõ được nên ta mới đi tu. “Đồ ngộ ngã”—ta cũng không chắc là mình biết được.

Thiên cơ nan tiết, tiết Thiền cơ (bởi không thể tiết lộ thiên cơ nên ta tiết lộ Thiền cơ vậy). Các ngươi hỏi ta về thiên cơ, nhưng ta không thể tiết lộ được vì tiết lộ cơ trời là mang tội. Cho nên, ta sẽ tiết lộ Thiền cơ, nói vài lời tiên tri vậy. Ở đây, “Thiền cơ” tức là “dự ngôn”—lời báo trước những việc chưa tới hoặc sẽ xảy ra. Ta có thể nói sơ lược đôi chút.

Những lời tiên tri này nói về các nhân vật có ảnh hưởng đến tình hình đất nước Trung Hoa, và đều đã được chứng thực là linh ứng. Tuy nhiên, khi Ngài giáng dụ thì người đương thời không biết nói về ai vì ý tứ rất hàm súc, chữ dùng lại bí ẩn; cho nên, chúng ta phải tự phỏng đoán lấy.

                                                                                        

I)  Bài thơ đầu tiên nói về ai? Bài này nói về Hoàng-đế Tuyên-Thống, vị vua cuối cùng của nhà Thanh.

Thơ như sau:

Vân ám ám, vụ sầu sầu,

Long quy nê thổ tố mị hầu, 

Tam tuế hài đồng tam tải phúc, 

Nguyệt hạ vô chủ thủy không lưu, 

Vạn khoảnh yên ba nhất đán thu.   

Vân ám ám, vụ sầu sầu” (mây u ám, sương mịt mùng). Ở đó mây đen giăng kín, âm u vô cùng và có một màn sương mù bao phủ trông rất ảm đạm, thảm sầu. Mây đen và sương mù ám chỉ sự thiếu chân lý; bấy giờ là lúc “người âm” nắm chính quyền. Người âm, được tiêu biểu bởi sự đen tối, là chỉ Tây Thái-hậu Từ-Hy. Khi Tây Thái-hậu ngồi sau rèm nghe việc triều chính, thì mặt trời và mặt trăng đều không tỏa sáng nữa. Thế gian dường như vắng ánh thái dương vậy; cho nên mây cũng u ám, sương cũng ảm đạm. Vì sao?

Bởi vì Long quy nê thổ tố mị hầu” (rồng trở về với đất, đất sét nặn thành con khỉ mặt đỏ). Lúc bấy giờ, vua Quang-Tự đã băng hà, tức là rồng đã chui xuống đất. Rồng về với đất thì đương nhiên cũng trở thành đất sét. Rồng sống mà thành đất sét tức là không  còn rồng nữa—cũng có nghĩa là không còn hoàng đế nữa. Thiên tử không còn nữa vì rồng đã biến thành đất. Dùng đất nặn hình khỉ chơi với khỉ. Con khỉ này ám chỉ ai? Đó là Hoàng-đế Tuyên-Thống, vị vua cuối cùng của nhà Thanh.

Tam tuế hài đồng tam tải phúc”  (đứa bé ba tuổi chỉ được ba năm phước báo). Lúc này, một “ông vua bù nhìn” được lập làm vua –một chú bé ba tuổi được đưa lên kế vị ngôi vua, làm hoàng đế. Đứa bé lên ba mà lên ngôi làm vua há chẳng như đóng kịch, làm trò hề sao?

Ngày lễ đăng quang của vua Tuyên-Thống, có Nhiếp-Chính Vương bồng ẵm nhà vua. Nhưng ấu vương chẳng biết thời thế, ngồi trên ngai vàng mà khóc lóc. Có lẽ vị vua mới lên ba này cảm thấy làm hoàng đế chẳng có gì là thích thú, lại cũng chẳng có đồ chơi để chơi nữa. Thời ấy cũng chưa có đồ chơi súng ống để chơi bắn “pằng pằng pằng.” Vì thế, cậu bé vua chỉ biết khóc.

Thấy vua khóc, Nhiếp-Chính Vương buột miệng dỗ dành: “Xin Bệ-hạ đừng khóc nữa. Chỉ một chốc là xong thôi mà.” Đây cũng có thể gọi là một câu “sấm ngữ,” một lời tiên tri (nói gở); tương tự như "điềm" vậy. Qúy vị thử nghĩ xem, “một chốc là xong,” có nghĩa là trong một thời gian rất ngắn là xong xuôi, finish! Đây là điềm Tuyên-Thống chẳng ở ngôi vua được lâu—chỉ có “một chốc” mà thôi; và cũng có thể là điềm báo trước triều đại nhà Thanh sắp sửa sụp đổ. Đó là nói gở, là điềm không may.

Ở Trung-Hoa, người tỉnh Quảng-Đông khi nghe ai nói lời xui xẻo thì họ liền nói: “Đại kiết lợi thị, đại kiết lợi thị!” Họ còn mê tín như thế đấy. Vậy, trong trường hợp này thì thế nào? Thì cũng “đại kiết lợi thị” thôi!

Như vậy, tam tuế hài đồng tam tải phúc,” đứa bé này có được ba năm phước báo—chỉ làm vua được ba năm mà thôi. Ba năm này tức là “một chốc.” Hết ba năm là không còn nữa, tức là “một chốc là xong” vậy.

Như thế, xong rồi thì sao? Câu thơ kế tiếp nói rất rõ ràng: Nguyệt hạ vô chủ thủy không lưu" (dưới trăng chẳng có chủ, nước cạn khô). “Nguyệt hạ vô chủ” tức là dưới chữ “nguyệt’() không có chữ “chủ” (). Thế nhưng, chẳng có chữ nào mà trên là chữ “nguyệt”, dưới là chữ “chủ” cả. Vậy trên chữ “nguyệt” thì sao? Trên chữ “nguyệt” là chữ “chủ” thì có. Trên chữ “nguyệt” ()mà có chữ “chủ”() và bên cạnh có ba chấm (bộ thủy (氵), tức là chữ “thanh” (), chỉ triều đại nhà Thanh.

Đại-sư Bộ-Hư nói “nguyệt hạ vô chủ,” nhưng muốn quý vị hiểu là trên chữ “nguyệt” không có chữ “chủ”. Ngài không thể nói rõ ra là “nguyệt thượng vô chủ” vì như thế thì quá lộ liễu, mọi người sẽ biết đó là chữ "thanh” ngay.

“Thủy không lưu” tức là không còn nước nữa, nước đã chảy hết, đã khô cạn rồi. Nước cạn khô ám chỉ sự suy vong của nhà Thanh. Ba chấm thủy khô rồi, dưới trăng cũng không còn chủ nữa vì chủ đã chạy lên trên trăng rồi. Vậy, đây là chữ “thanh” ám chỉ Thanh-triều.

Mặc dù đương thời là năm thứ 30 của triều vua Quang-Tự (cuối đời nhà Thanh), nhưng không có ai hiểu được sự tương quan này. Cho tới ngày nay, e rằng cũng chẳng có ai hiểu nổi. Vậy, “nguyệt hạ vô chủ thủy không lưu”  tức là dưới trăng không có chủ, trên trăng cũng không có chủ, và cũng chẳng có nước nữa---thế thì Thanh-triều dời đi đâu? Qúy vị hãy tham cứu, suy gẫm về ý nghĩa của chữ này. Đây là ám chỉ sự cáo chung, sụp đổ của nhà Thanh — chữ “thanh” đã biến mất.

Nhà Thanh diệt vong, cho nên câu thơ kế tiếp cho biết nhà Thanh mất bởi tay ai. “Vạn khoảnh yên ba nhất đán thu" (cả vùng khói sóng mênh mông bị xâm chiếm nội trong một ngày), “Vạn khoảnh yên ba” tức là “vạn lý giang sơn”—non sông muôn dặm. Câu này ngụ ý rằng sẽ có ngày cả giang sơn gấm vóc của Trung Hoa sẽ bị mất vào tay kẻ khác—đất nước lại thêm một phen thay ngôi đổi chủ.

“Nhất đán” có nghĩa là “một ngày.” Tuy nhiên, nếu ghép hai chữ “nhất (一) và đán (旦)” lại thì thành chữ “tuyên ()” của Tuyên-Thống, song phía trên thiếu mất bộ “miên(宀).” Chữ “tuyên” nếu bỏ đi bộ “miên” thì còn lại chữ “ hoàn(  ), chữ “hoàn” này có thể tách ra thành hai chữ “nhất đán (一旦).”上邊沒有「穴」字蓋兒,底下是一個「旦」字﹔這「宣」字把它分開來,就是「一旦」

Về sau, Nhật-Bản lập ra nước Mãn-Châu và đưa Tuyên-Thống lên làm ông vua bù nhìn ở đó, đặt quốc hiệu là Khang-Đức. Nước Mãn-Châu này khác với Đại Thanh và Trung-Hoa Dân Quốc. Trên đây là sơ lược về Hoàng-đế Tuyên-Thống.      

II)  Bài thơ thứ nhì là nói về ai? Đó là nói về Tôn Quốc Phụ, cha đẻ của nền Cộng Hòa (nước Trung Hoa); thơ như sau:  

Quân tác tổ, chất bân bân,

Vạn lý trường hồng phá lãng chinh,

Hoàng Hạc Lâu trung xuy ngọc tiêu,

Bát phương tề tấu khải ca ngâm,

Tinh kỳ ngũ sắc hoán tân tân.

 

Quân tác tổ, chất bân bân (ông, người có tư chất hòa nhã, được làm ông tổ). “Quân” nghĩa là ông hoặc anh. “Quân tác tổ” có nghĩa là ông là người được làm ông tổ, là tổ tiên. Là ông tổ thì tất nhiên phải có con cháu gọi mình bằng “ông”; như vậy ở đây ắt có một chữ “tôn” (孫 nghĩa là “cháu”) được hiểu ngầm. [“Tôn” (孫) cũng là họ của Tôn Quốc Phụ].  

“Chất bân bân” vốn không phải là một câu văn đủ nghĩa, mà chỉ là nửa câu lấy từ Luận Ngữ, trọn cả câu là:

Văn chất bân bân, nhiên hậu quân tử.  

(Người có dáng bề ngoài [văn] và bề trong [chất] tương xứng nhau thì mới là người quân tử.)

Trong câu thơ trên, quân tác tổ, chất bân bân, không có chữ “văn,” nó chỉ được hiểu ngầm trong nửa câu sau mà thôi. Cho nên, người tinh ý thì sẽ đoán ra ngay câu này có tiềm ẩn chữ “tôn” và chữ “văn”—ngầm chỉ Tôn Văn [tức Tôn Dật Tiên, cha đẻ của nền Cộng Hòa nước Trung Hoa].  

Vạn lý trường hồng phá lãng chinh (mống cầu vồng dài muôn dặm đã phá bỏ những chuyến đi xa trên sóng). Câu này ám chỉ việc Tôn Quốc Phụ bôn ba khắp nơi để hô hào, vận động cho cuộc cách mạng. Từ Honolulu ông đáp thuyền về Trung Hoa, rồi lại từ Trung Hoa lặn lội trở sang Honolulu , đương đầu với bao sóng gió hiểm nguy để đề xướng công cuộc cách mạng--ông chẳng khác nào một đạo cầu vồng dài bắc ngang qua đại dương.  

“Mống cầu vồng dài muôn dặm” (vạn lý trường hồng) lẽ ra phải nằm trên trời, nhưng vì đạo cầu vồng này “dẹp bỏ cuộc hành trình trên sóng nước” (phá lãng chinh), do đó chúng ta biết được rằng đây là ám chỉ việc ngồi thuyền vượt biển, “cưỡi mây lướt sóng.”  

Hoàng Hạc Lâu trung xuy ngọc tiêu (trong lầu Hoàng Hạc thổi tiêu ngọc). Lầu Hoàng Hạc vốn tọa lạc tại thành phố Vũ Xương, ở tỉnh Hồ Bắc. Chính từ trên lầu Hoàng Hạc này, tiếng tù-và đã trỗi lên để làm hiệu lệnh cho Lý Nguyên Hồng tham gia cách mạng, trợ giúp Tôn Quốc Phụ trong công cuộc “phá lãng chinh”—lật đổ nhà Mãn Thanh, thành lập Dân Quốc. Vì thế, “Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọc tiêu,” có nghĩa là tiếng tù-và hiệu lệnh cho cuộc cách mạng đã vang lên từ lầu Hoàng Hạc.  

Bát phương tề tấu khải ca ngâm (tám phương cùng hát bài ca mừng thắng lợi). Khi cuộc Khởi Nghĩa Vũ Xương bùng nổ (ngày 10 tháng 10 năm 1911-cuộc Cách Mạng Tân Hợi), dân chúng khắp nơi đều đồng lòng hưởng ứng, nô nức đáp lời kêu gọi tham gia cuộc cách mạng, khí thế như “gió cuốn mây dồn.” Nơi nơi, mọi người đều hân hoan hát vang khúc ca mừng chiến thắng.  

Tinh kỳ ngũ sắc hoán tân tân (lá cờ năm màu mới tinh bay phất phới). Lúc ban sơ, khi nền Cộng Hòa mới được thành lập, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc dùng lá cờ ngũ sắc làm quốc kỳ; về sau mới đổi sang cờ “thanh thiên bạch nhật,” tức là lá cờ có hình mặt trời màu trắng nổi bật trên nền trời xanh thẳm như hiện nay.

Vậy, trên đây là bài thơ thứ nhì, nói về cuộc Khởi Nghĩa Vũ Xương do Tôn Quốc Phụ khởi xướng.  

Có câu:  

“Hữu đạo thị chân phú quý,

vô đức nãi thanh bần.”

 

(Người có đạo hạnh là thật sự giàu sang, 

kẻ không có đức hạnh là hạng nghèo cùng.)  

Cho nên, hai chữ “đạo đức” không phải là sáo ngữ - ngôn từ trên sách vở của các nhà nho cổ hủ, mà chính là danh ngôn chí lý chứa đựng nhiều chân lý xác đáng. Luận về các triều đại lấy được cả thiên hạ, cũng như những nhân vật đã từng nắm quyền cai trị quốc gia của nước Trung Hoa, chúng ta có thể thấy rõ một điều: “Người có đức thì ở giữ quyền, kẻ không có đức thì chịu mất mát.”  

Trong số những nhân vật từng giữ các vai trò thiết yếu trong một trăm năm gần đây của lịch sử nước Trung Hoa mà chúng ta đã đề cập đến ở phần trước, có nhiều người chỉ xuất hiện trong chốc lát ngắn ngủi, giống như hoa quỳnh “thoáng nở thoáng tàn” vậy. Vì sao? Chính là vì họ không có đức hạnh! Người không có đức hạnh thì có thể chiếm được cả thiên hạ, song lại chẳng thể nào nắm giữ được thiên hạ. Trong khi đó, người có đức hạnh có thể là không lấy được thiên hạ, song lại có khả năng thâu phục được nhân tâm của cả thiên hạ. Do đó, đạo đức rất quan trọng, rất thiết yếu. Cổ nhân đã từng nói:  

“Đức giả, bổn dã; tài giả, mạt dã;

ngoại bổn nội mạt, tranh dân thí đoạt.”  

(Đạo đức là gốc, tiền tài là ngọn; 

nếu con người bỏ gốc theo ngọn thì những gì họ có được đều sẽ bị kẻ khác tước đoạt.)  

Nếu quý vị quên cái gốc, chỉ biết lo kiếm tiền, thì vì thiếu đức hạnh, bao nhiêu tiền bạc quý vị có được sẽ bị người khác cướp đoạt hết. Tuy nhiên, nếu quý vị có đức hạnh, thì quý vị sẽ được mọi người dốc lòng quy phục, ngưỡng mộ; và đó là điều mà quý vị sẽ mãi mãi trọn hưởng.  

Điển hình là trường hợp của vua Tuyên Thống nhà Thanh, vì vua không có đức hạnh cũng chẳng có đạo hạnh, cho nên triều đại nhà Thanh đã bị diệt vong. Tôn Quốc Phụ, người khởi xướng phong trào cách mạng ở Trung Hoa, thì “có trí mà chẳng có phước”—không đủ đức hạnh; cho nên sau khi cách mạng thành công liền bị Viên Thế Khải cướp hết mọi quyền hành.  

 

III)  Bây giờ là đến bài thơ thứ ba, bài này nói về Đại Tổng Thống Viên Thế Khải—Viên Hoàng Đế. Lời thơ như sau:  

Cát sĩ hoài nhu,

Tam thập niên biến,

Khởi phàm nhân tai?

Đàm hoa nhất hiện,

Nam bắc đông tây,

Long tranh hổ chiến,

Thất bát số định,

Sơn xuyên thô điện.

Cát sĩ hoài nhu  (người tốt mà có lòng ôn nhu, hòa nhã). Trong chữ “cát sĩ” (吉 )  thì “sĩ” () là tiếng trợ từ ngữ khí. “Nhu” (柔)có nghĩa là mềm mỏng, dịu dàng. Giảng theo nghĩa của từng chữ thì phải chăng ở đây muốn nói về một vị quan rất thanh liêm (cát sĩ) đi bình định, ủy lạo những kẻ phản nghịch? Không phải! Trong chữ “hoài ” (懷) nửa dưới có chữ tương tự như chữ “y” (衣) chỉ thiếu một nét chấm và một nét ngang; nếu đem ghép chữ này vào dưới chữ “cát” thì được chữ “viên” (袁). Cho nên, “cát sĩ hoài nhu” chính là ám chỉ chữ “viên” (袁) vậy.  

Tam thập niên biến (ba mươi năm thì biến đổi). Căn cứ theo từ ngữ để giải thích thì đa số mọi người đều cho rằng câu này ngụ ý là sẽ có một sự biến chuyển sau ba mươi năm. Thật ra thì không phải như vậy; thế thì như thế nào? Đó là dưới chữ “tam thập” nếu thêm vào một nét ngang thì sẽ biến thành chữ “thế” (世) 

Câu thơ kế tiếp là Khởi phàm nhân tai? (há phải người phàm ư?) Nếu chiếu theo mạch văn thì câu này có nghĩa rằng đó không phải là một người tầm thường; song le, ở đây chẳng phải như thế. Chữ “khởi” () mà có thêm chữ “phàm” (凡) đứng bên cạnh thì là chữ “khải” (凱).Tổng hợp cả ba câu “cát sĩ hoài nhu, tam thập niên biến, khởi phàm nhân tai” lại, thì thành ba chữ “viên thế khải” (袁世凱).  

Vì thế, hễ chưa đến thời điểm, chưa đến đúng lúc, thì không ai biết gì về sự hiện diện của Viên Thế Khải cả. Song, đến đúng thời điểm rồi, mọi người vẫn chưa biết rằng những câu thơ này là ám chỉ họ Viên [袁世凱 Viên Thế Khải]. Vì không thể biết chắc được nên mới gọi là “dự ngôn” (lời đoán trước). Đối với dự ngôn, người ta cần phải suy đi ngẫm lại mới nghiệm ra được ý tứ hàm chứa bên trong. Vậy, trên đây là dự ngôn về ba chữ “Viên Thế Khải.”  

Đàm hoa nhất hiện (hoa quỳnh thoáng nở). Câu này nghĩa là gì? “Đàm hoa nhất hiện” ám chỉ một khoảng thời gian rất ngắn ngủi, như hoa quỳnh chỉ nở rộ trong chốc lát mà thôi. Đây là nói về việc Viên Thế Khải do kém đức hạnh nên chỉ làm hoàng đế được vỏn vẹn có tám mươi ba (83) ngày. Tám mươi ba ngày làm hoàng đế của ông ta có thể ví như hoa quỳnh thoáng nở thoáng tàn về đêm vậy.  

Nam bắc đông tây, Long tranh hổ chiến (khắp các phía đông, tây, nam và bắc đều có rồng tranh cọp đấu). Vào thời của Viên Thế Khải, tức là thời đại Hồng Hiến, thì ở Nam Kinh có Phong Quốc Chương, Bắc Kinh có Đoạn Kỳ Thụy, Tây Kinh và Đông Kinh cũng có những nhân vật khác. Đây là thời kỳ “quân phiệt cát cứ”—những người này đều có tham vọng làm bá chủ, tranh nhau chia cắt lãnh thổ nước Trung Hoa, mỗi kẻ chiếm cứ một phương. Họ đóng đô ở khắp các phương đông, tây, nam, bắc; rồi tranh giành, xâu xé lẫn nhau như rồng và cọp. Có câu:  

“Bát tiên quá hải, các hiển thần thông.”

(Tám vị tiên vượt biển, mỗi vị hiển lộ thần thông của riêng mình.)

Thế thì, tình trạng “quân phiệt cát cứ” này kéo dài trong bao lâu?

Thất bát số định (số bảy số tám đã được ấn định). “Thất bát” ở đây không có nghĩa là bảy năm hoặc tám năm, cũng chẳng phải là bảy nhân với tám thành năm mươi sáu; không phải như thế! Đây là bảy năm rồi cộng thêm tám năm nữa, vị chi là mười lăm năm. Do đó, câu này không phải nói về Dân Quốc năm thứ bảy hoặc năm thứ tám, mà là bảy cộng với tám thành mười lăm—ám chỉ Dân Quốc năm thứ mười lăm (1926), tức là lúc cuộc Bắc Phạt thành công. “Thất bát số định”—số mạng đã sớm định sẵn như thế rồi.  

Sơn xuyên thô điện (núi sông được tạm ổn định). Lúc bấy giờ, đất nước Trung Hoa mới bắt đầu được thanh bình, yên ổn đôi chút.  

 

IV)  Bài thơ thứ tư là đến lượt nói về Tổng Thống Tưởng Giới Thạch của chúng ta. Bài thơ ấy như thế nào? Đó là:  

Can qua khởi, trục lộc mang,

Thảo mãng anh hùng tương xuất sơn,

Đa thiểu chẩm qua hào kiệt sĩ,

Phong vân tụ hội đáo Giang Nam,

Kim Lăng nhật nguyệt hựu trùng quang.

Can qua khởi, trục lộc mang, Thảo mãng anh hùng tương xuất sơn (huơ khiên múa giáo, bận rộn đuổi nai; bậc anh hùng trong bụi rậm sắp rời núi). “Can” là cái khiên, “qua” là cái giáo; “can qua” là ám chỉ chiến tranh. Người người đều trang bị vũ khí—kẻ cầm dao, người cầm súng sẵn sàng chém giết lẫn nhau; đó gọi là “can qua khởi,” chiến tranh bùng nổ. Đây là nói về thời kỳ “quân phiệt cát cứ,” trong nước xảy ra giặc giã, loạn lạc.  

“Trục lộc mang” tức là ai nấy đều xông xáo, hăm hở đuổi bắt con nai—tranh nhau nắm quyền thống trị Trung Nguyên. Mọi người đều hăm hở muốn xưng vương xưng bá, nắm giữ những vai trò chủ chốt trên lãnh thổ Trung Hoa — như làm Tổng Thống, Chủ Tịch, hoặc Ủy Viên Trưởng. Nói chung, tất cả đều có tham vọng muốn được làm chủ “con nai” Trung Nguyên này.  

Chúng ta hãy chú ý câu “Thảo mãng anh hùng tương xuất sơn" ám chỉ Tổng Thống Tưởng Giới Thạch. Trong chữ “tưởng” (蔣 - họ của Tổng Thống Tưởng Giới Thạch), ở trên có bộ “thảo” [vì thế chữ “thảo mãng” được dùng trong câu này], và dưới là chữ “tương” (將 sắp sửa) [cũng nằm trong câu này]. Như vậy, câu này ngụ ý rằng Tổng Thống Tưởng Giới Thạch, vị anh hùng đang ẩn nấp trong bụi cỏ, sắp sửa rời khỏi núi — sắp xuất hiện để bình định thiên hạ.  

Cho nên, những câu kế mới nói là: "Đa thiểu chẩm qua hào kiệt sĩ, Phong vân tụ hội đáo Giang Nam , Kim Lăng nhật nguyệt hựu trùng quang" (Bao nhiêu hào kiệt đã sẵn sàng, Giang Nam gió mây cùng tụ hội, Kim Lăng trời trăng lại sáng ngời).” Đây là ám chỉ sự thành công của Tổng Thống Tưởng Giới Thạch trong cuộc Bắc Phạt. Đương thời, khắp lãnh thổ nước Trung Hoa, các nhóm quân phiệt tranh nhau chiếm cứ đất đai, mỗi kẻ tự xưng làm bá chủ một phương; và kế đến, Tổng Thống Tưởng Giới Thạch đã xuất hiện và bình định tất cả. Do đó, câu trên nói là “thảo mãng anh hùng tương xuất sơn.” [anh hùng áo cỏ sắp xuống núi]  

"Đa thiểu chẩm qua hào kiệt sĩ " (có rất nhiều bậc hào kiệt đã sẵn sàng chờ đợi). Lúc bấy giờ có biết bao vị anh hùng hào kiệt chống đối nhau vì tranh giành quyền lực, muốn làm chủ “con nai” Trung Nguyên.

"Phong vân tụ hội đáo Giang Nam (tụ họp ở Giang Nam như gió thổi dồn mây lại). Khi ấy, mọi người lũ lượt kéo nhau đến Nam Kinh — các anh hùng hào kiệt đương thời của nước Trung Hoa đều tựu về tụ tập ở Giang Nam, tức là Nam Kinh.  

"Kim Lăng nhật nguyệt hựu trùng quang" (ở Kim Lăng, mặt trời và mặt trăng lại chiếu sáng). Kim Lăng là một tên khác của Nam Kinh. Lúc này, ở Kim Lăng như được ánh mặt trời và mặt trăng soi sáng trở lại, không còn đen tối u ám nữa. Vầng thái dương lại ló dạng, Nam Kinh lại được thấy ánh mặt trời. Điều này có nghĩa là vào năm Quang Tự thứ ba mươi của nhà Thanh [tức là khi dự ngôn này được nói ra], đã sớm có sự chủ định là Tổng Thống Tưởng Giới Thạch sẽ xuất hiện để trị lý thiên hạ.  

Tuy nhiên, có lẽ nghiệp sát của người dân Trung Hoa quá nặng nề, cho nên họ không được hưởng niềm hạnh phúc của cảnh mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an. Vì thế, khi các cuộc nổi loạn trong nước sắp được dẹp yên, thì quốc gia lại gặp nạn ngoại xâm. Kẻ ngoại xâm đó là ai? Đó chính là Nhật Bản!  

Trong suốt mấy ngàn năm, Nhật Bản luôn dòm ngó, lăm le thôn tính nước Trung Hoa. Quý vị biết có một thứ thuốc mà người Nhật đem bán có tên là gì không? Đó là thuốc Khinh Khoái Hoàn (輕 快 丸 qing kuai wan: viên thuốc nhẹ và nhanh). Trong từ ngữ “khinh khoái hoàn,” chữ “hoàn” vốn là “hoàn tán cao đơn,” và có nghĩa là thuốc viên. Khi bị mắc bệnh, người ta thường đi mua thuốc Khinh Khoái Hoàn về uống. Thế nhưng, cái tên thuốc này là ám chỉ triều đại nhà Thanh sắp “xong” rồi, sắp “hết” rồi. Theo tiếng Trung Hoa, chữ “hoàn” trong tên thuốc này đồng âm với chữ “hoàn” (完) có nghĩa là xong rồi, hết rồi; còn chữ “khinh” (輕) thì đồng âm với chữ “thanh” (清). Vì thế, “khinh khoái hoàn” (viên thuốc nhẹ và nhanh) có thể được hiểu là “Thanh khoái hoàn” ( 快 完 nhà Thanh sắp hết rồi), bởi đều đọc là “qing kuai wan” cả.  

Quý vị xem, Nhật Bản đã có dã tâm thôn tính nước Trung Hoa từ lâu. Họ uống thuốc Khinh Khoái Hoàn để trị bệnh, song với thâm ý: “Nếu chúng ta lật đổ được nhà Thanh, chiếm được nước Trung Hoa, thì tất cả chúng ta đều không bị bệnh. Không bị bệnh gì ư? Không bị bệnh đói! Chúng ta sẽ không bị đói khát nữa!” Đó là câu chuyện về “qing kuai wan.”  

Lại nữa, các loại bánh như bánh nướng, bánh hấp, bánh quấn thừng, thì người Nhật không gọi đó là những món điểm tâm hay thức ăn lót dạ; thế thì gọi là gì? Họ gọi đó là “Trung Quốc.” Phàm là thức ăn, các món điểm tâm, bánh hấp, họ đều gọi chung là “Trung Quốc” cả. Họ cầm bánh lên ăn, và họ nhai nuốt “nước Trung Quốc” vào bụng!!! Đây là một cách “nhồi sọ,” gieo vào đầu óc mọi người tư tưởng “ta sẽ thôn tính nước Trung Hoa trong một ngày rất gần” vậy!

V) Bài dự ngôn nói tiếp:  

Doanh châu hổ, độ hải lang,

Mãn thiên hồng nhật cánh hôn hoàng,

Mãng mãng thần châu thương phá toái,

Thương sanh đáo xứ khốc da nương,

Xuân lôi sạ hưởng kiến thanh dương.

 

Doanh châu hổ (cọp ở cồn đảo). Đây là ý nói người Nhật ở tại đất nước Nhật Bản thì ví như hùm như cọp vậy. Mặc dù Nhật Bản là một nước nhỏ song Hội Quốc Liên cũng có phần nể sợ. Tại sao? Vì người Nhật có lòng can đảm, rất dũng mãnh, không sợ chết.  

Có một lần, trước Thế Chiến Thứ Hai, Hội Quốc Liên cho tổ chức một cuộc thao diễn quân sự trên biển. Lúc bấy giờ người ta gọi đó là Hội Quốc Liên, chứ chưa gọi là Liên Hiệp Quốc. Lần ấy xảy ra vào ngày tháng nào thì tôi không rõ, bởi tôi không phải là nhà khảo cổ hoặc là người chuyên nghiên cứu lịch sử. Tuy nhiên, chỉ biết rằng lúc đó quân đội của các quốc gia đều lên tàu để diễn tập. Quân đội của quốc gia nào—Anh, Pháp, Đức, Mỹ cùng nhiều nước khác—thì diễn tập trên tàu của quốc gia đó. Lúc diễn tập, khi vị giáo quan hô to: “Đằng trước, bước!” thì tất cả binh lính trên tàu liền rầm rập tiến bước về phía trước. Quân đội của các quốc gia khác một khi bước đến mé tàu của mình rồi thì ai nấy đều đứng dậm chân tại chỗ—hai chân đều đặn dậm lên dậm xuống ở một vị trí, không tiến thêm nữa. Thế nhưng, quân đội của Nhật Bản thì thế nào? Khi đến mé tàu, họ vẫn tiếp tục tiến tới trước, bước thẳng vào lòng biển cả, không hề nao núng sợ hãi! Kể từ đó, quân đội của Hội Quốc Liên không dám coi thường quân đội của Nhật Bản nữa; mọi người đều nghĩ: “Ồ! Thật là có tinh thần thượng võ, không sợ chết!” Do đó, người Nhật khiến cho quân đội của Hội Quốc Liên phải một phen khiếp vía! Và, chính vì thế mà họ được ví với loài cọp—họ dũng mãnh như cọp vậy. 

Độ hải lang (loài lang sói vượt biển). “Độ hải” là vượt qua biển cả—từ nước Nhật Bản, người Nhật đã vượt đại dương để đến nước Trung Hoa. Ngay tại đất nước của họ thì họ là loài cọp—người ta sợ họ như sợ cọp vậy. Thế sau khi họ vượt đại dương thì sao? Thì họ biến thành một bầy chó sói! Chó sói thì còn độc ác hơn cả cọp beo nữa. Ban đêm, chúng đi lang thang khắp nơi, gặp trẻ con thì xé xác ăn thịt, gặp heo con thì vồ lấy tha đi—chúng toàn là cướp đoạt đồ vật của người khác [về làm bữa ăn cho riêng mình] để sinh tồn.

Người Nhật sau khi vượt đại dương thì chẳng khác nào loài lang sói. Lúc xâm lược nước Trung Hoa, họ còn đáng sợ hơn cả loài cọp nữa — họ đã biến thành một bầy chó sói! Họ dùng những thủ đoạn cực kỳ xấu xa để đối xử với người dân Trung Hoa, và giết hại không biết bao nhiêu là đồng bào Trung Hoa của chúng ta nữa. 

Cho nên, lúc bấy giờ "Mãn thiên hồng nhật cánh hôn hoàng" (trên bầu trời, mặt trời màu đỏ càng mờ nhạt). Có mặt trời đấy, song rất mờ nhạt u ám, không được sáng sủa. Trên không trung, vầng thái dương vốn đỏ rực, nhưng lúc bấy giờ vạn vật lại nhuộm một màu vàng héo hắt, ảm đạm. Vì sao ư? Vì mặt trời và mặt trăng không còn chiếu sáng nữa! “Hôn hoàng” tức là cảnh sắc mờ nhạt, tranh tối tranh sáng, vì hai vầng nhật nguyệt không tỏa ánh sáng nữa.  

Do đó, lúc này nước Trung Hoa, mãng mãng thần châu thương phá toái (vùng đất thiêng liêng rộng mênh mông bị tàn phá, chia cắt). Đất nước Trung Hoa còn được mệnh danh là “thần châu” (đất thiêng), bởi từ ngàn xưa đã có rất nhiều người ở Trung Hoa tu hành và thành thần tiên. “Thần châu” có nghĩa là nơi tụ hội của thần và tiên, song bấy giờ, nơi này lại bị tàn phá, chia cắt. Lúc này người Nhật đi lùng sục, gieo rắc tai ương trên khắp đất nước Trung Hoa. Họ đốt phá, giết hại, cướp bóc, hãm hiếp ... , làm tất cả mọi việc đồi bại để tàn phá, xâu xé đất nước này.  

Thương sanh đáo xứ khốc da nương (khắp nơi dân chúng đều than khóc cha mẹ). Khi ấy, dân chúng đều phải tản cư để tránh thảm họa chiến tranh, rất nhiều em bé phải chịu cảnh bơ vơ, không nơi nương tựa, lang thang phiêu bạt khắp nơi tìm cha gọi mẹ. Tình cảnh loạn lạc, bỏ nhà bỏ quê đi lánh nạn chiến tranh của thời ly loạn này thật thương tâm đến nỗi chẳng dám nhìn. Đó là cảnh tượng “thương sanh đáo xứ khốc da nương.”  

Xuân lôi sạ hưởng kiến thanh dương (sấm mùa xuân vừa nổ vang thì thấy được bầu trời quang đãng). “Xuân lôi” ám chỉ bom nguyên tử. Khi bom nguyên tử phát nổ, tức là lúc tiếng sấm xuân rền vang, thì bầu trời sẽ trở nên trong sáng, mọi người lại thấy được vầng thái dương rực rỡ.

VI)  Kế đến là bài thơ thứ sáu, nói về biến cố Tây An. “Tây An sự biến” được đề cập đến như sau:  

Tế liễu doanh trung,

Quần hùng hào ẩm,

Nguyệt yểm trung thu,

Ham túy vị tỉnh,

Song sư bác cầu,

Nhất đọa kỳ tỉnh,

Hồng phấn giai nhân,

Diện diệp anh cảnh.

 

Ba nhân vật giữ vai trò chủ yếu trong biến cố này là Tổng Thống Tưởng Giới Thạch, Trương Học Lương, và bà phu nhân họ Tưởng — Tống Mỹ Linh [vợ của Tưởng Giới Thạch].  

Tế liễu doanh trung (trong doanh trại). “Tế liễu doanh” là ám chỉ Tây An, nơi xảy ra sự biến. Thế thì, trong doanh trại của quân đội, Quần hùng hào ẩm (các anh hùng hào hứng uống rượu). Bấy giờ, có Trương Học Lương, Tưởng Giới Thạch, Dương Hổ Thành cùng rất nhiều người khác nữa. “Quần hùng” nghĩa là rất nhiều vị anh hùng, những người có tướng mạo, phong cách của bậc anh hùng. Và, họ quây quần, cùng nhau uống rượu, chén thù chén tạc. Đó là vào ngày nào? Lúc đó là gần dịp Tết Trung Thu, cho nên nói:Nguyệt yểm trung thu (trăng sắp vào giữa thu)—có lẽ lúc ấy mặt trăng còn đang bị mây che khuất, vẫn còn một chút nữa.  

Ham túy vị tỉnh (say sưa chưa tỉnh). Lúc này, mọi người đều đã uống quá nhiều, đều say mèm và ngủ mê mệt. Thế nhưng, trước khi mọi người tỉnh dậy thì có Song sư bác cầu (hai con sư tử giành nhau trái cầu). Trong khi xảy ra biến cố Tây An, có một vị liên trưởng tên là Tôn Danh Cửu hay Tôn Danh Thập gì đó (tôi không rõ lắm), đã bắt Tổng Thống Tưởng Giới Thạch. Bấy giờ, có hai con sư tử cùng tranh nhau một trái cầu; trái cầu này là gì? Đó chính là mảnh đất Trung Hoa. Cả hai con sư tử đều chiến đấu để đoạt trái cầu này cho bằng được.  

Song le, Nhất đọa kỳ tỉnh (một rớt xuống giếng)—có một con sư tử vì thiếu cẩn thận nên bị rớt xuống giếng. Con sư tử bị rớt xuống giếng có thể là Tổng Thống Tưởng Giới Thạch, mà cũng có thể là Tướng quân Trương Học Lương. Dù thế nào đi nữa, nói tóm lại là cả Tổng Thống Tưởng Giới Thạch lẫn Trương Học Lương đều có lúc bị “rớt xuống giếng.”  

Có thể nói rằng kẻ bị rớt xuống giếng lúc này là Tổng Thống Tưởng Giới Thạch. Bấy giờ có hồng phấn giai nhân, diện diệp anh cảnh (người đẹp phấn hồng, má lúm đồng tiền, mặt như hoa anh đào). "Hồng phấn giai nhân" chính là nữ sĩ Tống Mỹ Linh, phu nhân của Tổng Thống Tưởng Giới Thạch. Tưởng phu nhân và Tống Tử Văn, cùng với nhiều người khác nữa, đều đến Tây An để giảng hòa với Trương Học Lương.

Trương Học Lương cũng không phải thật sự muốn bắt Tổng Thống Tưởng Giới Thạch, mà chỉ muốn dùng cách này để can gián họ Tưởng. Vì thế, khi Tưởng phu nhân đến đó và vừa ngỏ lời, thì Trương Học Lương, vốn là người trọng nghĩa khí, liền nói: “Được, tôi sẽ hộ tống Tưởng Chủ tịch trở về!” Thế là ông ta đích thân đi theo bảo vệ Tổng Thống Tưởng Giới Thạch về tận Nam Kinh.  

Về tới Nam Kinh, ngờ đâu con sư tử này leo ra khỏi giếng rồi, thì con sư tử kia lại bị rớt xuống hầm và bị giam lỏng hơn năm mươi năm. Khi con sư tử thứ nhất bị rớt xuống giếng thì có “hồng phấn giai nhân” đến và, Diện diệp anh cảnh bằng nụ cười cùng nước mắt, đã làm biến đổi lịch sử nước Trung Hoa.  

Vậy, vào năm Quang Tự thứ 30 (1904), biến cố Tây An đã sớm được dự đoán là sẽ xảy ra.

VII) Bài thơ kế tiếp nói về sự đầu hàng của Nhật Bản:  

Xuân lôi sạ, thụ bạch kỳ,

Thiên vạn hoạt quỷ khốc đề đề,

Thạch Đầu thành trung phi phù đáo,

Hựu kiến trùng chỉnh Hán cung nghi,

Đông sơn hựu hữu hỏa quang chiếu.

 

Xuân lôi sạ, thụ bạch kỳ (sấm xuân nổ, cờ trắng giương lên). Ngay sau khi quả bom nguyên tử được thả xuống, Nhật Bản không biết phải xoay sở thế nào, đành phải giương cờ trắng, chịu đầu hàng vô điều kiện.  

Thiên vạn hoạt quỷ khốc đề đề (ngàn vạn con quỷ sống khóc hu hu). Bấy giờ, người Nhật giống như một bầy quỷ sống. Đội quân cảm tử của Nhật Bản vốn không sợ chết, giờ đây đều kêu gào than khóc, lớp thì tự sát, lớp thì chán nản, không muốn sống nữa; cho nên nói “thiên vạn hoạt quỷ khốc đề đề.”  

Người Nhật vốn đều có tinh thần thượng võ, hùng dũng hiên ngang, phô trương võ lực ở khắp nơi. Họ làm thành một đội quân hung hãn như hổ lang, đến đâu cũng gieo rắc sự kinh hoàng, khiếp đảm; thế mà nay phải chịu đầu hàng vô điều kiện, khiến ai nấy đều không cầm được nước mắt. “Thiên vạn hoạt quỷ” — họ bấy giờ chẳng khác nào một bầy quỷ sống. Vẻ oai phong không còn, nét vũ dũng cũng biến mất; cho nên cả ngàn vạn con quỷ sống đều khóc sướt mướt. Đương thời, khi họ đã đầu hàng, người Trung Hoa liền bắt nạt, lấn lướt họ như để báo thù, bởi họ đã sang xâm lược lãnh thổ và sát hại vô số đồng bào Trung Hoa.  

Trước đây tôi đã từng nói với mọi người rằng: “Chúng ta chớ nên xem thường người Nhật. Chớ nên đánh giá thấp người Nhật. Hai mươi năm nữa Nhật Bản sẽ là một cường quốc trong cộng đồng quốc tế!” Tại sao tôi nói như thế? Bởi vì tuy chiến bại, nhân dân Nhật Bản vẫn đoàn kết, yêu nước, và luôn luôn tìm cách làm cho đất nước được cường thịnh trở lại. Thế nên, hai mươi năm sau khi đầu hàng, Nhật Bản đã dùng chiến thuật kinh tế để áp đảo toàn thế giới, và lại trở thành một quốc gia giàu mạnh.  

Thạch Đầu thành trung phi phù đáo (có tin nhanh đưa đến thành Thạch Đầu). Thành Thạch Đầu tức là Nam Kinh, và cũng chính là Kim Lăng. Có mệnh lệnh từ Nam Kinh truyền xuống; mệnh lệnh gì? Đó là phải làm lễ mừng thắng lợi của cuộc kháng chiến tám năm. Mọi người đều được lệnh phải ăn mừng thắng lợi thành công.  

Hựu kiến trùng chỉnh Hán cung nghi (lại thấy nghi lễ của cung điện nhà Hán lần nữa). Bấy giờ, vì ăn mừng thắng lợi, mọi người đều mặc lễ phục tươm tất. Nước Trung Hoa với “ba trăm nghi lễ, ba ngàn oai nghi” nay đã được xuất hiện trở lại!  

Thế nhưng, mọi người cần phải biết là: Đông sơn hựu hữu hỏa quang chiếu (ở rặng núi phía đông có ánh lửa lập lòe). Về phía đông của rặng núi lại có ánh lửa lóe sáng. Ánh lửa này là gì? “Đông sơn” là ám chỉ Mao Trạch Đông, kẻ thành lập Bát Lộ Quân ở vùng Đông Bắc. Còn Lâm Bưu, con chó sói, dẫn theo một bầy lang sói, thì ví như ánh lửa lập lòe vậy. “Hỏa quang” cũng ám chỉ màu đỏ của Đảng Cộng Sản. Ánh lửa ở phía đông ngọn núi lại cháy bùng lên sáng rực.

VIII)  Bài thơ kế tiếp nói về sự xuất hiện của Đảng Cộng Sản Trung Hoa:  

Nhật nguyệt thực, ngũ tinh hy,

Nhị thất giao gia quải thái y,

Dã nhân cử túc bách kim hổ,

Biến địa hồng hoa biến địa cơ,

Phú quý bần tiện vô cao đệ.

Quý vị xem, đấy không phải là khẩu hiệu của Đảng Cộng Sản thì là cái gì? Nhật nguyệt thực, ngũ tinh hy (mặt trời và mặt trăng bị che khuất, năm ngôi sao thì hiếm có). “Nhật nguyệt thực” ý nói là sắp tới những ngày đen tối. Tuy rằng có mặt trời nhưng lại bị che khuất, mặt trăng cũng bị che khuất. Mặt trời và mặt trăng đều không còn chiếu sáng nữa.  

“Ngũ tinh hy” tức là các ngôi sao cũng thưa thớt, ít ỏi. “Ngũ tinh” có nghĩa là năm ngôi sao, ám chỉ lá cờ của Đảng Cộng Sản — cờ năm sao. “Nhật nguyệt thực”  là hiện tượng mặt trời và mặt trăng bị che khuất, ngụ ý là lá cờ “thanh thiên bạch nhật” không còn nữa. “Ngũ tinh hy” tức là năm ngôi sao rất hiếm hoi — cờ “năm sao” cũng không được nhiều lắm, ý nói là họ còn hoạt động bí mật, chứ chưa được công khai rộng rãi.  

Thế nhưng, nhị thất giao gia quải thái y (hai bảy thêm vào, khoác y phục nhiều màu sắc). Chữ “nhị” (二) mà có ghép thêm chữ “thất” (七) thì thành chữ “mao” (), rõ ràng là muốn nói đến Mao Trạch Đông. Trong câu thơ này có tiềm ẩn hai chữ “mao trạch". “Mao” mà “quải thái y.” “Thái y” tức là y phục có màu sắc rực rỡ. “Trạch” là “nhuận trạch” (thấm nhuần), cũng hàm ý tươi tắn, có đôi chút rực rỡ. Đó gọi là “quải thái y.”  

Dã nhân cử túc bách kim hổ (người quê mùa giơ chân bức bách con cọp vàng). “Dã nhân” nghĩa là gì? “Dã nhân” tức là người không có văn hóa — công nhân, nông dân, quân nhân — quân đội của Bát Lộ Quân. “Cử túc bách kim hổ” có nghĩa là giơ chân đá ngã con cọp vàng, ám chỉ việc những người này đi lùng sục khắp nơi để ruồng bắt, thanh toán các đại địa chủ, đem các địa chủ ra tòa để xét xử, đấu tố. “Kim hổ” (con cọp vàng) là ám chỉ các đại địa chủ. Đảng Cộng Sản gọi các đại địa chủ là “kim lão hổ” vì họ có rất nhiều tiền. Bởi họ bóc lột nhân dân cho nên họ được mệnh danh là “cọp,” con cọp vàng. “Bách” tức là áp bức, chèn ép. Những người quê mùa (dã nhân) giơ chân đàn áp “con cọp vàng” — mặc dù họ quê mùa, song những “con cọp vàng” đều phải kiêng dè nể sợ bởi vì họ ngang ngạnh, bất chấp lý lẽ.  

Biến địa hồng hoa biến địa cơ  (khắp mặt đất là hoa màu đỏ, khắp nơi toàn là những người đói khát). Lúc này, toàn nước Trung Hoa đều tràn ngập một màu đỏ—màu đỏ Cộng Sản—giống như hoa màu đỏ đang nở rộ trên khắp đất nước vậy.  

“Biến địa cơ” có nghĩa là khắp nơi đều đói khát. Chữ “cơ” (飢) này có nghĩa là đói khát, chứ không phải là chữ “kê” (雞 con gà), mặc dù trong tiếng Trung Hoa hai chữ này phát âm giống nhau (đều đọc là "ji" cả). Nếu hiểu đó là chữ “kê,” thì “biến địa kê” có nghĩa là khắp nơi đều nhung nhúc những gà vịt, và chúng ta không phải nuôi, không phải cho chúng ăn; mà lúc nào cần thì chỉ việc bắt vô giết, làm thịt — không phải như vậy! Đây là chữ “cơ,” có nghĩa là đói khát. Bấy giờ, khắp mặt đất đều là hoa màu đỏ, thế nhưng, khắp đất nước dân chúng lại đều bị đói khát.  

Phú quý bần tiện vô cao đệ (giàu sang nghèo hèn, không cao thấp). Bấy giờ, khẩu hiệu của Đảng Cộng Sản là “Không có giàu, không có nghèo. Người người đều có cơm ăn, ai nấy đều có việc làm.” Tuy nói là “vô cao đệ,” tức là trong xã hội không còn giai cấp cao thấp nữa, song lúc họ vừa thành công thì lại bày ra đủ loại đặc quyền đặc lợi. Vì thế, giữa người giàu và kẻ nghèo, cũng như giữa người sang và kẻ hèn, lại càng cách biệt nhau hơn cả trước kia nữa. Vậy, đoạn này là nói về Mao Trạch Đông.  

Tôi còn nhớ trước khi tôi rời Đông Bắc thì nơi đây đã có người của Đảng Cộng Sản đang bí mật hoạt động. Bấy giờ tôi là một thầy tu, đã xuất gia rồi. Một người trong bọn họ tuyên truyền với tôi về những điểm ưu việt của Đảng Cộng Sản—mọi người đều bình đẳng như thế nào, rồi tài sản được phân chia đồng đều ra làm sao... Ông ta nói thao thao về quyền bình đẳng và tài sản chung (cộng sản), và về viễn ảnh mọi người đều có cơm ăn, ai nấy đều có áo mặc, tất cả đều có việc làm. Bất luận thế nào thì mọi người cũng đều như nhau cả—không có người giàu cũng chẳng có kẻ nghèo, mà chỉ có bình đẳng, hoàn toàn bình đẳng, một sự bình đẳng tuyệt đối!  

Lúc đó, tôi chẳng nghĩ ngợi, liền lý luận lại rằng: “Cộng sản các ông chỉ có thể cộng chung cái tài sản hữu hình; còn tài sản vô hình thì các ông cộng chung không được. Các ông chẳng có cách nào cộng chung được thứ tài sản không hình tướng.”  

Ông ta nói gì ư?  

Tôi nói tiếp: “Lấy thí dụ, nhà cửa, đất đai, của cải—đây là những thứ mà ông có thể cộng vào, và cũng có thể chia ra. Thế nhưng, tài sản vốn có trong bản thân của mỗi người thì ông chia không được mà cộng cũng chẳng được nốt. Vì sao ư? Như con mắt chẳng hạn, nếu ông thật sự cộng sản thì ông phải chia bớt một con mắt của mình cho người mù mới phải. Tôi thử hỏi những người trong Đảng Cộng Sản các ông, chẳng hay có ai sẵn lòng cho bớt người mù kia một con mắt chăng?”  

Ông ta lặng thinh, không nói gì cả. Tôi lại nói tiếp: “Chẳng có ai bằng lòng chia bớt một con mắt của mình cho người khác cả. Mà dầu có đi chăng nữa, thì cũng chỉ có một hoặc hai người được chia cho mà thôi—không thể nào chia đều cho tất cả mọi người được. Lại nữa, cho dù ông có cho người mù nọ một con mắt đi nữa, thì sau khi được đem cấy vào trũng mắt của anh ta, cũng chưa chắc là anh ta có thể nhìn thấy được. Vì vậy, người mù nọ vẫn không thể hưởng tài sản này được.  

“Tai của ông nghe được, thế thì ông có sẵn lòng cho người điếc kia bớt một cái tai để hắn cũng có ‘tài sản’ tai không? Có thể như thế được chăng?”  

Tôi nói tiếp: “Như người câm không nói được, vậy ông có vui lòng cho anh ta bớt nửa cái lưỡi của ông không? Nếu ông chia cho anh ta một nửa cái lưỡi của ông thì chính bản thân ông cũng chẳng thể nói được nốt—thế là cả hai đều bị câm cả! Nếu ông cộng chung con mắt thì cả ông lẫn người mù nọ đều bị mù, ông cộng chung lỗ tai thì cả ông cùng người nhận đều bị điếc. Thậm chí, tay, chân, và năm giác quan của cơ thể đều như thế cả—ông có thể cộng chung với người khác được chăng?”  

Nghe tôi nói như thế, ông ta không còn gì để nói nữa, bèn lẳng lặng bỏ đi. Hôm sau, ông ta đến rất sớm và nói với tôi: “Những điều Thầy nói hôm qua cũng khá hữu lý đấy! Người như Thầy cũng rất hiếm, Thầy nên ra làm việc để phục vụ quốc gia. Thầy nên đi theo cách mạng. Hãy tiếp tay với chúng tôi, chúng ta cùng nhau thành lập Đảng Cộng Sản.”  

Ông ta muốn lôi kéo tôi tham gia Đảng Cộng Sản, nhưng tôi tự nghĩ: “Mình chẳng có tài sản gì để cộng với người ta, mà mình cũng không muốn cộng tài sản của người khác vô mình làm chi. Hơn nữa, cả đời tôi, tôi không hề muốn bất cứ thứ gì. Tôi không muốn cộng tài sản của người khác, người ta cũng chẳng muốn cộng tài sản của tôi. Mà tôi cũng chẳng có tài sản gì để cộng được cả!”  

Tôi bèn nói với ông ta: “Để tôi suy nghĩ xem! Phục vụ quốc gia cũng là điều tốt, hãy để tôi nghĩ lại xem!”

Thế là ông ta ra về. Sang hôm sau thì tôi cũng ra đi; và kể từ đó, tôi từng bước từng bước đi đến Hoa Kỳ; song từ Hương Cảng đến Hoa Kỳ thì tôi đi bằng máy bay.

Phần kế tiếp là nói về Đài Loan. Nói gì về Đài Loan?  

Nhị thất tung hoành,

Nhất ngưu song vĩ,

Vô phục nhân hình,

Nhật hành hằng quỹ,

Hải thượng kim ngao,

Huyền phục luật lữ,

Thiết điểu lăng không,

Đông nam tận hủy.

 

Nhị thất tung hoành (hai bảy dọc ngang.) [Chữ “nhị”(二) ghép với chữ “thất” (七) thì thành chữ “mao” (毛) ám chỉ Mao Trạch Đông.] Câu này mô tả sự kiêu căng, ngang ngược của Mao Trạch Đông lúc mới bắt đầu nắm được chủ quyền tối cao ở Trung Hoa lục địa. Tại quảng trường Thiên An Môn, họ Mao hô hào quần chúng: “Nhân dân Trung Hoa hãy đứng dậy!” Ông ta lấy làm đắc ý, tự cho rằng trước đây chưa có ai được như mình và sau này cũng chẳng có ai bằng được mình; bởi ông ta ngạo mạn như thế cho nên nói “nhị thất tung hoành.”  

Nhất ngưu song vĩ (một con trâu có hai đuôi). Quý vị đã có bao giờ trông thấy con trâu hai đuôi chưa? Quý vị thấy có kỳ lạ hay không chứ? Đó ắt hẳn là một con quái vật!? Song, ở đây không phải nói tới con trâu hai đuôi; mà ngụ ý là dưới chữ “ngưu” (牛 con trâu) có thêm hai nét phẩy (八), và đó là chữ “chu” (朱).

“Nhị thất” thì ám chỉ Mao Trạch Đông, còn “nhất ngưu song vĩ” là ám chỉ Chu Đức. Đương thời, hai nhân vật này thường được nhắc tới với danh xưng “Chu Mao, Chu Mao.”  

Vô phục nhân hình (không còn hình dạng con người). Hình dạng của họ trông không còn giống của con người nữa.  

Nhật hành hằng quỹ (mặt trời đi theo một quỹ đạo không đổi). Lúc ấy, mặt trời và mặt trăng vẫn luân chuyển như thường lệ; và tình hình sinh hoạt hằng ngày của người dân cũng cứ thế mà trôi qua, không có thay đổi gì mấy.  

Hải thượng kim ngao (con rùa vàng trên biển). Đây là nói về Đài Loan. Địa thế của hòn đảo này trông giống như một con rùa vàng khổng lồ nằm giữa biển khơi vậy. Phật giáo ở nơi đây rất hưng thịnh—giống như Bồ Tát Quán Âm đặt chân trên lưng con rùa vàng này—và có rất nhiều người xuất gia rời lục địa Trung Hoa để sang Đài Loan. Vì thế, hòn đảo này được ví như “con rùa vàng trên biển.”  

Huyền phục luật lữ (y phục màu đen và âm nhạc). “Huyền phục” tức là lễ phục màu đen. “Luật lữ” có nghĩa là hòa nhạc, ca hát. Câu này ngụ ý rằng mọi người reo mừng hòa bình, và ai nấy đều được trải qua những tháng ngày an lành, sung túc.  

Thế rồi, thiết điểu lăng không, đông nam tận hủy (con chim sắt bay lượn trên trời cao, đông nam bị hủy sạch). “Thiết điểu” (chim sắt) tức là máy bay. “Thiết điểu lăng không” có nghĩa là máy bay vần vũ trên không trung. Còn nhớ vào năm bốn mươi mấy hoặc năm mươi mấy gì đó, Đảng Cộng Sản Trung Hoa đã dùng máy bay để dọ thám tình hình quân sự của Đài Loan. Bấy giờ, Đài Loan đã có hỏa tiễn [rattlesnake missiles] nên đã bắn rơi được các máy bay dọ thám. Và kể từ đó, phía Cộng Sản không dám trở lại để đột kích nữa.  

 “Đông nam tận hủy có nghĩa là phía đông nam bị thiêu hủy toàn bộ. Câu này ám chỉ sự cắt đứt quan hệ giữa Đại Lục với Đài Loan—họ không còn giao thông, liên lạc với nhau nữa. Và trong suốt mấy thập niên, dân chúng của đôi bên vẫn sinh hoạt như thế, và Đài Loan được hưởng cảnh thái bình, phồn thịnh.

 

Hồng hạ uý, bạch vân chưng,

Lạc hoa lưu thủy lưỡng vô tình,

Tứ hải thủy trung giai xích sắc,

Bạch cốt như khưu mãn cương lăng,

Tương tướng ngọc thổ tiệm đông thăng.


Những câu này có lẽ đề cập đến tình hình hiện tại. 

Hồng hạ uý, bạch vân chưng (ráng mây đỏ thành xanh, mây trắng bốc hơi). 
Cộng sản vốn được tượng trưng bằng màu đỏ nhưng rồi sẽ đổi sang màu xanh lam, tức là Chủ Nghĩa Cộng Sản sẽ được đổi thành Chủ Nghĩa Tư Bản. Và, đó chính là tình hình hiện tại của Cộng Sản. Cửa ngõ đuợc rộng mở. Chẳng phải bây giờ Trung Quốc cũng tự xưng là "kinh tế đại quốc (nước lớn mạnh về mặt kinh tế)" sao? Như vậy, màu đỏ biến thành xanh lơ và không còn đỏ nữa. Màu xanh lơ tiêu biểu việc con người chỉ lo nhậu nhẹt vui chơi, phung phí tiền bạc. Tương tự như ở Trung Quốc đại lục hiện nay, dân chúng ra sức ăn uống, hưởng thụ (bất kể đến ngày mai). Cộng Sản vốn là màu đỏ nhưng nay biến thành màu xanh lơ - phải thay đổi thì mới cải cách được.

"Bạch vân" tức là "thanh thiên bạch nhật kỳ" - lá cờ có hình mặt trời màu trắng nổi bật giữa nền trời màu xanh- cờ của Quốc Dân Đảng. Câu nầy ngụ ý rằng Quốc Dân Đảng ví như một áng mây trắng được chưng cất và bốc hơi hết vậy. Mây đã thành hơi nước và tan biến vào hư không - chẳng còn mây nữa!

Cho nên, Lạc hoa lưu thủy lưỡng vô tình (hoa rơi, nước chảy - cả hai đều vô tình). "Lạc hoa" ám chỉ Đảng Cộng Sản, còn "lưu thủy" là chỉ Quốc Dân Đảng. Hai đảng phái nầy xưa nay chẳng có thiện cảm với nhau. Đôi bên đều không thành thật và đều tìm cách lường gạt lẫn nhau. "Lưỡng vô tình" - cả hai bên đều không có cảm tình với nhau, không bên nào nể nang bên nào cả. Do đó thế lực của họ đều kiệt quệ, hầu như không còn nữa.

Bởi cả hai đảng phái đều không chịu nhượng bộ, chẳng ai chịu nhường ai cả, cho nên Tứ hải thủy trung giai xích sắc (nước trong bốn biển đều thành màu đỏ). Nước trong bốn biển đều biến thành màu đỏ - đây là cảnh "sông nhuộm máu đào".

Bạch cốt như khưu mãn cương lăng (xương trắng chồng chất như gò khắp cả núi đồi). Xương người chết nhiều và chồng cao như gò núi. Khắp vùng núi non sơn dã, đâu đâu cũng toàn là hài cốt.

Tương tướng ngọc thố tiệm đông thăng (con thỏ ngọc sẽ từ từ nhô lên ở phương đông). Khi đất nước loạn lạc đến cực điểm, mọi người đều mơ ước cảnh thái bình thịnh trị. Cho nên vào lúc này, mọi việc dần dần khôi phục tốt đẹp hơn. "Thỏ ngọc" tức là mặt trăng. Trăng sẽ từ từ nhô lên ở phương đông và dần dần phát ra ánh sáng trở lại. Do đó, mọi người sẽ thấy lại được vầng trăng sáng tỏ.


Quan cái định, công tội phân,

Mang mang hải vũ kiến thừa bình,

Bách niên đại sự hỗn như mộng,

Nam triều kim phân thái bình xuân,

Vạn lý sơn hà xứ xứ thanh.

Lúc nầy vầng thái dương sẽ lại xuất hiện ở Trung Hoa - đất nước thái bình, dân chúng an cư lạc nghiệp, trời đất mưa thuận gió hòa.

Quan cái định, công tội phân (nắp quan tài đóng lại, công tội được phán xét phân minh). Phải đến khi người ta chết rồi, nắp quan tài của họ đã đậy lại rồi, mới có thể luận định về họ được. Bấy giờ, ai có công, ai có tội đều được phán đoán phân minh và được ghi chép rõ ràng trong sử sách.

Mang mang hải vũ kiến thừa bình (đất nước mênh mông chứng kiến cảnh thái bình). Bấy giờ là lúc thái bình. Có câu:

Vật cực tắc phản, bỉ cực thái lai.

(Hễ tới tột cùng thì sẽ trái ngược lại; xấu tới cực điểm thi tốt đến.)

Khi sự rối loạn lên đến cực điểm là đến lúc hòa bình được lập lại; lúc hòa bình đến cực điểm thì cũng là khi hỗn loạn xảy ra. Từ xưa đến nay, quốc vận của nước Trung Hoa đều là “hết hưng tới suy, hết yên tới loạn" nên nói:

Ngũ bách niên tất hữu vương giả hưng, kỳ gian tất hữu danh sĩ giả.

(năm trăm năm tất có vua chúa hưng khởi, trong thời gian đó ắt có bậc danh sĩ xuất hiện.)

Mang mang hải vũ là chỉ lãnh thổ Trung Hoa. Lúc bấy giờ có thể thấy được dải giang sơn mênh mông như chẳng có ranh giới nầy sắp được thái bình.

Bách niên đại sự hỗn như mộng (việc lớn trong một trăm năm rối ren mờ mịt như giấc mộng). Tính từ cuối đời nhà Thanh cho đến nay là ngót một trăm năm, những biến cố trọng đại xảy ra trong thời gian này giống như trong chiêm bao vậy.

Nam triều kim phân thái bình xuân (màu xanh thái bình rộn rã và phấn vàng tràn ngập vào thời Nam triều). Trong tương lai, kinh đô sẽ được đặt tại Nam kinh. "Nam triều" ám chỉ Nam Kinh (kinh đô ở phương nam). Bấy giờ, đất nước như sống trở lại thời ca vũ thái bình, khắp nơi tưng bừng tiếng nhạc reo vui. Không khí hoan lạc lại trở về với Nam kinh. Kinh thành này sẽ tràn ngập với niềm vui mừng cảnh thanh bình, dân chúng an hưởng cuộc sống sung túc, đất nước giàu mạnh, yên ổn, người người đều ấm no hạnh phúc.

"Thái bình xuân" tức là thời kỳ hết sức tốt đẹp huy hoàng. "Kim phân" là chỉ những người con gái sống trên thuyền chuyên hát xướng và uống rượu với khách ở Nam Kinh. Những cảnh sống giàu sang, xa hoa lộng lẫy lại tái diễn. Đó là điều chắc chắn.

Vạn lý sơn hà xứ xứ thanh (non sông muôn dặm chốn chốn xanh tươi). Khắp nơi, đâu đâu cũng chú trọng đến trang phục màu xanh. Trong tương lai, lực lượng quân đội thay thế vai trò của Đảng Cộng sản đều chú trọng màu xanh. Màu xanh là tiêu biểu cho sự tang tóc, do đó ngụ ý là "thăm dân, trị tội" - tức là nhận thấy đối phương quá sức bạo ngược nên muốn thay mặt muôn dân mà sửa trị. "Xứ xứ thanh" tức là áo quần của mọi người và đồng phục của quân đội đều là màu xanh.

Khắp cả vạn dặm sơn hà đều có quân đội chiếm đóng, cho nên nói rằng "Vạn lý sơn hà xứ xứ thanh". Lực lượng quân đội đề cập ở đây là đội quân mới và sẽ xuất hiện trong tương lai, chứ không phải của Đảng Cộng Sản hay Quốc Dân Đảng. Mặc dù vậy, nó vẫn là thoát thai từ hai đảng này. Định luật "hết trị tới loạn, hết hưng đến suy" chính là quốc vận của quốc gia vậy.

Đường Cao tổ, khởi nghĩa sư,

Trừ Tùy loạn, sáng quốc cơ.

 

(Đường Cao Tổ dấy binh khởi nghĩa,

Dẹp nhà Tùy, sáng lập quốc cơ.)

Đây là thời quật khởi, tương tự như buổi đầu của Trung Hoa Dân Quốc, lúc Lý Nguyên Hồng dấy binh khởi nghĩa và được toàn dân nhiệt liệt hưởng ứng vậy.

Đoạn thơ kế tiếp như sau:

Thế vũ tam phân, hữu thánh nhân xuất.

Huyền sắc kỳ quan, long chương kỳ phục. 

Nhật nguyệt phục minh, xử trị vạn vật.

Tứ hải âu ca, ấm thọ kỳ phúc.

Thế vũ tam phân (thế giới sẽ được chia làm ba). Đây không phải chỉ đơn thuần đề cập đến nước Trung-Hoa; mà ngụ ý rằng thế giới sẽ do ba nước lớn lãnh đạo. Ba đại quốc ấy là gồm những nước nào thì chưa thể khẳng định được. Có thể là nước Mỹ, Trung-Hoa và Nhật-Bản; hoặc nước Liên-Sô, Nhật-Bản và Trung-Hoa. Nói chung, Trung-Hoa sẽ là một trong ba nước làm bá chủ hoàn cầu. Ba đại quốc này sẽ như ba chân vạc, chia nhau trị vì và quản lý thiên hạ.

Hữu thánh nhân xuất (có bậc thánh nhân xuất hiện). Trong tương lai sẽ có bậc thánh nhân xuất hiện ở nước Trung-Hoa. 

Huyền sắc kỳ quan (mũ màu đen). Vị thánh nhân ấy sẽ đội mũ màu đen.

Long chương kỳ phục (huy hiệu con rồng rực rỡ trên y phuc). “Chương” tức là “chương minh biểu trứ”--sáng rỡ, dễ thấy. “Long chương” nghĩa là phù hiệu hình con rồng gắn rõ ràng, lấp lánh trên áo. Phần lớn những người trong quân đội đều có đeo phù hiệu trên vai--như cấp bậc Thượng-tướng thì trên vai áo có đính quân hàm hình năm ngôi sao. Trong trường hợp này, huy hiệu gắn trên vai của bậc thánh nhân nọ sẽ có hình con rồng. 

Nhật nguyệt phục minh (mặt trời và mặt trăng lại sáng tỏ). Trời đất sẽ bình thường trở lại--vầng thái dương sẽ xuất hiện. Lúc này, trời đất bắt đầu sáng sủa trở lại.

Xử trị vạn vật (coi sóc vạn vật). Lúc này, vị thánh nhân kia sẽ cai quản thế giới, ngày ngày giải quyết những việc quan trọng, vì nhân loại trên thế giới mà mưu cầu hạnh phúc.

Vì vị thánh nhân này lo nghĩ và mưu cầu hạnh phúc cho muôn dân, cho nên, tứ hải âu ca (bốn biển âu ca), nơi nơi đều tưng bừng múa hát trong cảnh thái bình, người người đều được an cư lạc nghiệp, ai nấy đều sinh sống vui vẻ, không còn lo âu phiền não nữa.

Ấm thọ kỳ phúc (được che chở bởi phước đức ấy). Toàn thể nhân loại trên thế giới đều được hưởng sự che chở do phúc ấm của vị thánh nhân này mang lại. Có câu:

Nhất nhân hữu khánh, triệu dân lại chi.

(Một người có đức, triệu dân được nhờ--cậy nương.) 

Nếu người ấy thông minh thì hào quang từ phúc ấm của người ấy sẽ tỏa khắp tất cả bá tánh trên toàn thế giới.

Cho nên, nước Trung-Hoa sẽ lãnh đạo thế giới ở thế kỷ thứ hai mươi mốt. Thế nhưng, nếu người dân Trung-Hoa đều hướng thiện thì mới mong lãnh đạo được thế giới; còn nếu không hướng thiện thì Trung-Hoa khó có thể tồn tại được bởi các nước ngoài đều lăm le dòm ngó, rình chờ lúc Trung-Hoa suy yếu, hoặc trong nước có sự phân tán, chia rẽ. Có câu: 

Cáp bạng tương tranh, ngư ông đắc lợi. 

(Nghêu sò đánh nhau, ngư ông được lợi.) 

Nếu người Trung-Hoa đàng hoàng, lương thiện, thì trong tương lai họ sẽ lãnh đạo thế giới; bằng không, nếu họ không hướng thiện, không đi theo con đường sáng sủa, quang minh chánh đại, e rằng họ sẽ bị người khác lãnh đạo, điều khiển! 

Trên đây là lời thơ của Đại Sư Bộ-Hư. Tiếp đến, Ngài nói thêm bốn câu thơ như sau: 

Mang mang thiên số bổn nan tri,

Duy tại thương sanh cảm thái hư,

Lão tăng bất cảm đa nhiễu thiệt,

Tiết lộ thiên cơ khủng bị tru.

 
Mang mang thiên số bổn nan tri (số trời mù mịt vốn khó biết). Ở đây lại đề cập đến thiên số (số phận do trời định sẵn) một đạo lý bao la, không giới hạn. Thứ đạo lý vô cùng vô tận này vốn không dễ gì mà biết được.

Duy tại thương sanh cảm thái hư (chỉ có chúng sanh làm thái hư cảm động). Bất luận quý vị có biết hay không và bất kể đạo lý thiên số rộng lớn bao nhiêu, nếu quý vị đều có thể “sửa ác, theo thiện,” thì có thể làm cho trời đất cảm động, khiến cho nơi nơi đều thái bình an lạc, khí lành trùm khắp đất trời.

Lão tăng bất cảm đa nhiễu thiệt (Sư già này không dám lắm lời). Vị Đại Sư Bộ-Hư này nói rằng: “Lão tăng chẳng dám nói quá nhiều!”. 

Tiết lộ thiên cơ khủng bị tru (ta sợ bị phạt vì dám tiết lộ thiên cơ). Nếu ta tiết lộ toàn bộ thiên cơ, ta sợ mình sẽ bị trời trừng phạt khiển trách, cho sét đánh chết.

Trên đây là sơ lược về các nhân vật thời sự của Trung-Hoa trong ngót một trăm năm cận đại. Tôi hy vọng chúng ta đều sẽ không lãng quên tổ quốc, không thờ ơ với gia đình, và cũng không lơ là đối với sức khỏe của mình. Chúng ta chẳng những chăm sóc sức khỏe bản thân, mà còn phải yêu tổ quốc, yêu gia đình. Đây là hy vọng của tôi đối với tất cả Thiện-tri-thức ở Đài-loan. Vì sao tôi lại nói những điều này với quí vị? Đó là để làm cho mọi người thức tỉnh và ý thức được rằng: tất cả đều là số trời, đều đã được quyết định. Con người chẳng qua chỉ như một cái máy -- phải chịu sự chi phối, điều khiển của trời đất. Vì thế mà họ trở nên điên đảo, làm những việc tán tận lương tâm, chỉ biết tranh giành quyền lợi. Thật ra, quý vị tranh giành thì cũng vậy mà không tranh giành thì cũng vậy thôi. Mọi người nên học lấy gương của Đại Sư Bộ-Hư -- đừng tranh quyền đoạt lợi nữa, mà hãy gấp rút lo tu hành!  

 

 

Ghi chú: Nhà Tùy (581-618), Nhà Thanh (1644-1911), Đường (618-907), Ngũ Đại Tàn Đường (Hậu Lương 907-923, Hậu Đường 923-936, Hậu Tấn 936-946, Hậu Hán 947-950, Hậu Chu 951-960), Tống (Bắc Tống 960-1127, Nam Tống 1127-1279), Nguyên (1271-1368), Minh (1368-1644), Thanh (1644-1911).




(Còn tiếp)

 

Tải về xem
Trở về
Khai Thi Quyen 6 Tiep Theo 1