Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh







 
Ai Bảo Chăn Trâu Là Khổ?



Ở đời có nhiều chuyện rất vô lý mà lại là sự thật. Có sự vô lý nào hơn nón cối, dép râu dẫm nát Sài Gòn. Mấy chị hộ lý cổ quấn khăn rằn, đít như cái thúng diễu khắp thành phố. Những ngày này tôi không đau tim mà thấy tức ngực, khó thở. Chẳng muốn khóc mà mắt cứ cay cay. Tôi như con đà điểu chui đầu vào cát, suốt ngày chẳng dám ra đường.

May mà gần nhà tôi có Cậu Sáu, tôi chẳng biết tên thật của ông là gì chỉ quen gọi ông là Cậu Sáu theo như Thành - bạn tôi. Cậu Sáu học kỹ sư hóa học ở Pháp, sau khi tốt nghiệp ông ở lại làm cho một hãng rượu. Năm 1973 đến tuổi hưu nên ông về VN mở hãng rượu. Theo ông nói thì rượu của ông không sánh bằng Martell, Hennessy nhưng sẽ ăn đứt Napoleon, Rivalet. Đáng tiếc là mọi sự đã chuẩn bị sẵn sàng thì xảy ra ngày 30/4. Hãng rượu đã bị tịch thu rồi nhưng trong nhà ông còn có một kho rượu cả ngàn chai dành để biếu. Thế là đà điểu chui đầu vào cát còn tôi và Thành thì chui vào kho rượu để tránh một sự thực quá phũ phàng: thành phố thân yêu đang bị hiếp dâm tàn bạo.

Đến giữa tháng 6 thì tụi tôi tạm chia tay để tự nguyện đi vào tù. Tôi có hai ngày ở trường nữ Trung học Lê Văn Duyệt, địa điểm tập trung cấp uý, để hưởng những bữa ăn tệ chưa từng có của khách sạn Caravelle. Khách sạn nổi tiếng nầy đã bị quốc doanh. Một đêm tối trời, mưa dầm, xe GMC chở tụi tôi vào nhà tù Long giao (Long Khánh ). Ngay bữa sáng đầu tiên tụi tôi được chia ra 70 thằng ở chung một nhà , mỗi người được 4 tấc bề ngang. Chen chúc nhau trong căn nhà mái tôn nền ximăng nên hơn một tháng sau thì tụi tôi bị lác tấn công dữ dội: lác mẹ, lác con, lác khô, lác ướt, lác nội, lác ngoại …thôi thì đủ thứ lác. Nhờ vậy mà tôi trở thành tay tổ trị bệnh lác. Chuyện ngày xưa ta còn bé, một tay quẹt thuốc xức lác hiệu Ông tiên, một tay cầm quạt quạt ào ào là chuyện đồ bỏ.

Có một ngày tôi xách thùng ra giếng tắm. Mỗi khi đi tắm phải xách theo một cái thùng và một sợi dây dài khoảng 15m để kéo nước. Tôi đang xối mấy gáo nước đục mò thì thấy một cậu trẻ hơn tôi vài ba tuổi đi tắm mà không có thùng, tôi bảo :

- Cứ lấy thùng của tao mà xài.

Sau khi tắm xong, trước khi về tôi nói :

- Tao thấy mầy lác đầy mình rồi, lúc nào rảnh thì qua đầu nhà số 8 kia tao trị cho.

Ngày hôm sau, cơm nước xong tôi đang ngồi kéo thuốc lào thì hắn tới.

- Em là Hùng. Anh có thuốc xức lác cho em xin một ít.

- Thuốc xức lác làm gì có. Tụi mình ở đây gọi bằng mầy tao cho tiện.

Tôi đi đến gốc cây dâm bụt lấy ra một cái thùng đạn 7 lít rồi nói :

- Mày nghe lời tao thì sau một tuần mày kiếm không ra một miếng lác để gãi chơi. Mày đem cái thùng đạn này về rồi qua đống củi của nhà bếp cạy vỏ cây bằng lăng càng nhiều càng tốt. Mày bẻ vỏ cây ra từng miếng nhỏ bỏ đầy thùng, đổ đầy nước rồi đun lên cho đến khi còn nửa thùng nước thì tắt lửa. Mày vớt vỏ cây ra, chờ cho nước âm ấm thì lấy nước đó mà tắm. Tao nói tắm để mày biết là phải xối từ đầu đến chân không chừa chỗ nào.

Hùng lo lắng :

- Có hết thiệt không, lác của tao nặng lắm, nhất là hai hòn bi thiếu điều muốn lọt ra ngoài.

- Đừng lo, theo tao biết thì hai hòn bi được bọc tới 7 lớp da nên còn lâu nó mới lọt ra. Nhớ một điều là tất cả quần áo của mầy cũng phải được nấu sôi bằng nước vỏ cây bằng lăng.

Hơn một tuần sau gặp lại Hùng, tôi hỏi:

- Mầy còn lác không cho tao xin một miếng coi chơi.

- Phương thuốc của mầy thiệt là hay. Tao hết lác rồi!

- Mày phải tiếp tục tắm và luộc quần áo một tuần nữa cho chắc ăn.

Trong một lần sắp xếp lại tổ đội trong trại, tôi và Hùng được ở chung trong tổ tạp dịch của nhà bếp. Bổn phận của hai đứa tôi là chẻ củi và đem đồ tiếp tế về bếp trại. Vác gạo, bắp từ kho về nhà bếp khoảng 100m không có gì vất vả. Ngán nhất là gánh rau củ, bầu bí từ sân banh về nhà bếp: xa và nặng lắm.

Mỗi buổi chiều, tôi và Hùng (Sau khi đậu tú tài 1 thì xin vào Thủ Đức, ra trường về làm việc ở tiểu khu Long Khánh). Một hôm tụi tôi ngồi đã gần tối rồi, Hùng kín đáo quan sát thấy không có ai để ý mới rút trong túi một điếu thuốc đầu lọc đưa cho tôi. Tôi ngạc nhiên hỏi:

- Ở đâu mầy có thứ hàng quý hiếm nầy vậy ?

- Tao còn nguyên một gói, tụi mình mỗi ngày lén hút vài điếu thôi, hút nhiều tụi ăng ten thấy được thì bể ổ. Trước đây tao làm đại đội trưởng ở Long Khánh nầy mấy năm trời. Tao quen đám xe tải nhiều lắm. Thằng tài xế chở tiếp phẩm sáng nay quen với tao. Trước mặt vệ binh nó không dám nhận tao. Sáng nay nó nhờ tao quay máy xe cho nó, chẳng qua để khuất thằng vệ binh nó cho tao một gói thuốc. Tao có xin nó đường và sữa, hy vọng ngày mai mình sẽ có.

Quả thật tình quân dân cá nước thiệt là vĩ đại, hôm sau tụi tôi lại được ½ ký đường và một hộp sữa để lẫn trong gánh rau muống. Thế là từ đó, ngày nào đúng chuyến anh chở hàng thì tụi tôi lại được tiếp tế đường sữa hoặc thuốc hút. Tôi chỉ nhìn anh bằng cặp mắt vô cùng biết ơn chớ đâu nói được lời nào vì thằng vệ binh kè kè bên cạnh.

Có một ngày sau khi cân đồ tiếp tế xong, tôi chuẩn bị gánh về thì tôi thấy Hùng ôm bụng ngồi bệt xuống đất. Tôi hỏi :

- Mày sao vậy ?

- Tao đau bụng quá, chờ tao chút.

Xe chở hàng đã chạy đi xa. Hùng đứng dậy và cùng tôi gánh về trại. Trong lúc lặt rau muống, tôi hỏi Hùng:

- Lúc nãy sao mày tự nhiên đau bụng vậy ?

- Tao có đau bụng gì đâu. Trời ơi, con nhỏ cân bầu bí đưa tay kéo cán cân làm bật cái nút áo. Tao liếc thấy cái ngực trắng bóc của nó, tao cầm không nổi nên sọt ti ướt cả quần ….

- Mới có mấy tháng mà mầy nực dữ vậy sao ?

- Tao còn độc thân nhưng không đêm nào vắng cái mục đó, trừ những lúc phải nằm trong rừng. Bị nhốt mấy tháng nay nó lên tới cần cổ rồi.

Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại thì có hơi quá nhưng quả thật trong tù một ngày quá dài, quá khổ. Làm như trâu ăn như chuột. Nghe một thằng nói nhiều đã mệt rồi; lúc học chính trị thằng nói nhiều lại ngu, bắt mình vỗ tay ào ào thì khổ phải biết. Ngày qua ngày như rùa bò.

Chúng tôi ở Long Giao hơn một năm thì bị chuyển ra Bắc. Tôi và Hùng dặn nhau cắn đuôi nhau mà đi, ở chung càng lâu càng tốt. Một đêm tối trời chúng tôi lên cảng Hải Phòng, được dàn chào bởi Công an súng cầm tay và đàn chó rất dữ dằn. Sau khi được lụi mỗi thằng một mũi thuốc, chẳng biết là thuốc gì, chúng tôi bị lùa lên các toa tàu hoả chở súc vật. Thằng nào được lùa lên toa chở bò thì còn đỡ, bị lên toa chở heo thì khốn nạn. Đến đêm đó tôi mới nhận ra là ngủ trên phân bò sướng hơn ngủ trên phân heo nhiều. Dọc đường đi bị dân ném đá và chửi rủa tưng bừng. Một sự dàn chào có tổ chức hẳn hoi. Chúng tôi bị đưa đến một hóc núi thuộc huyện Cẩm nhân, tỉnh Hoàng liên Sơn. Phương tiện duy nhất liên lạc với bên ngoài là chèo ghe. Hàng ngày chúng tôi phải đi đốn tre, nứa, gỗ về làm nhà và làm hàng rào tự nhốt mình. Được mấy tháng thì tôi và Hùng bị giao cho đi lấy gỗ xẻ, tức là loại gỗ to đường kính ngọn từ 3 tấc trở lên. Hai thằng được phát 1cái búa và hai con dao có vệ binh mang súng CKC đi theo. Mấy ngày đầu tụi tôi đi đâu cũng có vệ binh kè kè bên cạnh. Một buổi chiều Hùng bảo tôi:

- Ngày mai tụi mình phải cắt cái đuôi mới làm ăn được.

Là sao ?

- Ngày mai tụi mình cắt rừng mà đi chớ không theo đường mòn, càng nhiều gai góc, càng bò, càng chui nhiều càng tốt. Thằng vệ binh vác theo cây CKC sẽ theo không nổi.

Quả thật như tụi tôi đóan, thằng vệ binh leo đến lưng chừng núi thì bảo tụi tôi cứ đi đốn cây, đến chiều sẽ gặp nhau ở cửa rừng. Thế là tụi tôi có cơ hội để tự cải thiện. Một thằng đốn cây, một thằng băng rừng xuống mấy đồi khoai mì của trại để ăn trộm. Nhờ vậy mà tụi tôi tạm giữ được sức khoẻ trước công việc quá nặng nhọc.

Một hôm tụi tôi leo lên đến một khu rừng nứa thì nghe có tiếng đốn. Hai đứa tôi đứng khuất sau một bụi nứa nhìn ra thì thấy một bé gái khoảng 13, 14 tuổi. Nhìn cách đốn nứa của em tụi tôi vô cùng ngạc nhiên. Phải nói là em múa với con dao và bụi nứa mới đúng. Một tay cầm cây nứa, tay kia cầm con dao, chỉ một nhát là đứt ngọt gốc nứa. Thêm hai nhát nữa cho gốc nứa khỏi bén rồi em dùng bản của con dao gõ một cái vừa đánh bằng gốc nứa vừa đẩy ngọn nứa ra xa. Thuật thì dài dòng như vậy nhưng tất cả động tác đó xảy ra chỉ vài chục giây. Tụi tôi từ sau bụi bước ra, em bé thấy động quay lại, em mở to mắt có vẻ rất sợ hãi, tay vẫn cầm chặt con dao em lùi lại đến gần một ông già cũng đang đốn nứa gần đó. Ông quay lại nhìn, chúng tôi gật đầu chào rồi băng rừng đi làm công việc của mình.

Sau khi hạ một cây rất lớn, tôi và Hùng gầy lửa hút thuốc lào và luộc nồi khoai mì làm bữa ăn trưa. Ông già và cô bé đến. Ông lẳng lặng đến bên đống lửa lấy cái điếu cày, nhồi thuốc, kéo một hơi rõ dài rồi lim dim mắt nhìn đống lửa. Lát sau ông nói:

- Các cậu ở K8 nầy phải không ?

Hùng nói :

- Thưa bác đúng ạ !

Ông chỉ cô bé ngồi xa xa :

- Các cậu đừng ngạc nhiên sao con Dung, con tôi, lại sợ các cậu như vậy. Trước khi các cậu ra đây, cán bộ tuyên truyền các cậu là thành phần rất ác ôn. Ăn gan, uống máu đồng bào. Mỗi lần lên một cấp thì phải giết hàng trăm người. Mà các cậu là thành phần sĩ quan cao cấp nên nợ máu với nhân dân và tội ác rất lớn. Bọn con nít không biết phán đoán nên rất sợ các cậu.

Hùng nói:

- Dạ thưa bác, thật ra …

- Các cậu khỏi phải giải thích với tôi. Trước đây tôi làm việc cho chánh quyền thời thuộc Pháp. Sau 1954 tôi bị chỉ định cư trú ở đây, tôi phân biệt được ai chánh, ai ngụy, ai gian, ai ngay.

Hùng nói:

- Trong hoàn cảnh đất nước bị tấn công từ miền Bắc, chúng cháu phải gia nhập quân đội để bảo vệ tự do của miền Nam.

- Thật ra các cậu có hai tội rất lớn.

- Thưa bác xin bác cho biết.

- Thứ nhất, các cậu làm trai mà không bảo vệ được đất nước của mình. Đất nước ngày nay bị đặt dưới sự thống trị của bọn cộng sản. Theo tôi, nỗi khổ nô lệ cho cộng sản còn tàn tệ hơn thời phong kiến Tàu. Còn lâu dân ta mới được tự do độc lập thực sự.

Tôi nói:

- Con hiểu ý của bác. Con còn tội gì nữa?

- Đồng bào miền Bắc rất kỳ vọng các cậu chiến thắng bọn cộng sản để giải thoát cho họ. Chẳng những không giải thoát cho đồng bào miền Bắc mà còn để mất cả miền Nam.

Tội các cậu lớn quá rồi còn gì nữa !

Chúng tôi cúi đầu im lặng, thấm thía nỗi đau của người mất nước, nỗi đau như xé ruột gan qua lời nói đơn sơ của ông già.

Một lát sau ông già nói :

- Thôi thì sự thể như thế. Đó là số phận của đất nước, của dân tộc. Riêng các cậu bây giờ phải cố mà giữ sức khoẻ. Chớ tin vào câu cải tạo tốt sẽ được cho về sớm mà làm quá sức sẽ không có cơ hội gặp lại vợ con. Đừng có trốn trại, các cậu không thoát được đâu.

- ….. ?.

- Các cậu biết là ở đây gạo thóc rất hiếm, ngay chúng tôi đây cũng ăn độn gần như quanh năm. Gạo bắp đã hiếm mà muối còn hiếm gấp trăm lần. CS dùng muối để khống chế người dân ở đây. Ai bắt được một người tù cải tạo thì được thưởng 6 cân muối. Bởi vậy nghe tin có tù trốn trại, người ta bỏ hết mọi công việc để lùng bắt cho bằng được.

Sau một lúc im lặng Hùng nói:

- Thưa bác, chắc nhà bác ở gần đây?

- Qua khỏi cái yên ngựa kia, xuống hết cái dốc núi thì tới một con suối, qua khỏi con suối thì tới xóm nhà của tôi, hầu hết là thành phần chỉ định cư trú. Bây giờ tôi về, nếu các cậu còn ở đây mình còn có cơ hội gặp nhau.

Không biết vô tình hay hữu ý ông già bỏ quên gói thuốc lào, loại thuốc mộc Tiên Lãng quá ngon. Tôi và Hùng xuống núi về trại. Hai thằng lẳng lặng không nói với nhau câu nào. Trong lòng chúng tôi nặng trĩu những lời nói của ông già.

Mấy ngày sau chúng tôi gặp lại ông già và Dung. Hùng mời:

- Chúng tôi mới luộc nồi khoai mì còn nóng, xin mời bác.

- Tôi vừa ăn xong. Còn lại ít muối mè mời các cậu.

Chưa lần nào tôi ăn khoai mì chấm muối mè ngon như vậy. Tôi và Hùng ăn khoai mì, ông già hút thuốc lào. Dung đốn mấy cây nứa non để chẻ lạt. Động tác chẻ của em như cái máy. Tôi cầm cọng lạc thấy nó đều trân từ trên xuống dưới, cạnh không bén. Thấy tôi cầm cọng lạt với vẻ quá ngạc nhiên, ông già nói:

- Dễ thôi chớ có khó khăn gì. Nó xử dụng con dao từ lúc 5, 6 tuổi.

Tôi hỏi:

- Thưa bác, hôm nay bác lấy nứa hay lấy gỗ ạ

- Hôm nay tôi lấy một bó nứa nhỏ để sửa lại cái chuồng gà và tìm cây để đẽo mái chèo

- Cây đẽo mái chèo như thế nào, bác cho biết, tụi cháu sẽ tìm giúp bác.

- Tôi già rồi, không còn làm ruộng nương được nữa, tôi chuyên đẽo mái chèo để bán. Nếu các cậu lấy được gỗ, tôi sẽ mua cho các cậu các thứ cần thiết xử dụng ngay trong rừng nầy, không được đem về trại. Tụi bò vàng (Công an mặc đồ vàng) biết được thì phiền phức lớn cho các cậu mà cả cho tôi nữa.

- Cây đẽo mái chèo là cây gì, thưa bác ?

- Cây dầu hay cây dẻ. Cây dẻ thì tốt hơn vì thớ nó thẳng, cây phải thẳng, gốc to ít nhất một gang rưởi.

- Dễ thôi, bác cần mấy cây, chừng nào?

- Mỗi tháng có hai phiên chợ, mỗi lần tôi bán được 4, 5 cây. Nếu các cậu kiếm được cây thì đem ngâm xuống con suối đàng kia để khỏi bị nứt, tôi sẽ đến lấy.

Mấy ngày sau tụi tôi đã đốn được mấy cây dẻ đúng như yêu cầu của ông già

Một hôm tụi tôi đến chỗ thường đến để ăn trưa thì thấy ông già đang ngồi hút thuốc lào bên đống lửa. Bé Dung lúc nầy không còn sợ tụi tôi nữa, cô bé ngồi bên cạnh cha, luôn tay nghịch con dao.

Sau khi chào hỏi, Hùng nói :

- Thưa bác, tụi con đã tìm được mấy cây dẻ, ngâm dưới suối.

- Tôi đã coi qua rồi, tốt lắm. Tôi có quà cho các cậu đây (Ông quay qua bé Dung) con đem xôi gà ra mời các anh.

Tôi không tin vào tai mình cho đến khi Dung mở nắp đậy cái giỏ tre: một rổ xôi và một con gà luộc. Hùng nói:

- Mời bác và em Dung !

- Các cậu cứ tự nhiên.

Chẳng chén đũa gì, tôi và Hùng tay bóc xôi tay xé gà, chẳng mấy chốc con gà chỉ còn lại mấy miếng xương còn xôi thì được lượm đến hột cuối cùng. Chưa bao giờ tôi ăn xôi gà ngon như vậy.

- Cám ơn, cám ơn bác nhiều lắm. Quá lâu tụi con mới có bữa ăn ngon như thế này.

- Tôi biết, thật ra gà thì cũng dễ nuôi, chỉ có nếp thì hiếm, dù hiếm tôi cũng cố, thấy các cậu ăn ngon là tôi vui rồi.

Thế là từ đó tụi tôi có nguồn lương thực và thuốc lào. Bù lại cứ mỗi tuần đốn cho ông già mấy cây dẻ. Tụi tôi còn đẽo bớt phần gỗ thừa để ông chỉ đem về đẽo sơ lại là được một mái chèo

Một sáng nọ tôi theo Hùng lên núi. Thình lình Hùng ngừng lại ra thủ hiệu cho tôi đứng lại và im lặng. Hùng ngồi sau một bụi rậm vạch lá nhìn xuống dòng suối đang chảy róc rách phía trước. Tôi đi từng bước tới sau Hùng, nhẹ nhàng vạch lá, tôi nhìn xuống dòng suối. Một cảnh tượng như tranh vẽ hiện ra trước mắt tôi. Một cô gái ngồi trên tảng đá giữa dòng suối đang khoát nước rửa mặt. Không biết người ta lạc vào chốn thiên thai có giống tụi tôi lúc đó không. Tôi nghe rõ tiếng thở của Hùng. Tôi mong cho thời gian ngừng lại. Cô gái cứ ở đó rửa mặt, rửa tay, rửa chân, rửa cái gì cũng được …tụi tôi đứng trong bụi nhìn trộm một năm , hai năm , năm năm …lâu hơn nữa có xá gì.

Bỗng nghe tiếng bé Dung gọi xa xa :

- Chị Dung đến giúp em

Cô gái đưa tay vuốt tóc, cầm con dao để bên cạnh buộc vào ngang lưng rồi bước từng bước trên những gộp đá. Khi cô đã đi khuất. Hùng nhìn tôi :

- Người hay tiên ?

- Đẹp thì có đẹp, tại tụi mình lâu nhìn bóng đàn bà quá nên thấy cô ta càng đẹp hơn. Mầy có bị…

Hùng đưa tay vuốt quần :

- Không, tao cứ nghĩ cô ta là tiên ở trên trời nên không có nghĩ tới chuyện dâm dục.

Ngay trưa hôm đó, chúng tôi gặp ông già, bé Dung và nàng tiên bên suối. Thì ra cô ta là con của ông già, tên Dung – Dung chị. Cô làm nghề thợ may. Bởi vậy dáng cô thon thả chớ không như bịch muối, bàn chân cô rất đẹp chớ không chân voi như các cô gái miền núi.

Sự liên hệ cây dẻ - xôi gà vẫn tiếp tục. Có lần ông già bịnh sao đó mà Dung chị đem xôi gà đến cho chúng tôi. Hùng khéo léo bắt chuyện nhưng cô gái trả lời nhát gừng, không thân cũng không chán ghét. Tôi thì dửng dưng, đối với tôi lúc đó xôi gà là trên hết. Tôi biết Hùng cảm mến Dung lắm nhưng trong hoàn cảnh tù tội nó không dám tán tỉnh.

Rồi một ngày, sau khi đốn cây xong, tụi tôi đến chỗ ăn trưa như thường lệ thì thấy bé

Dung đang ngồi bên đống lửa. Hùng hỏi :

- Ba em đâu ?

- Ba em ở nhà kiếm thuốc cho chị Dung, chị ấy đau nặng lắm.

- Chị em bị bịnh gì ?

- Hình như là dịch tả, ba em có đưa chị Dung đến phòng y tế của huyện, họ chỉ cho mấy viên Xuyên tâm liên. Cả tuần rồi chị Dung uống rất nhiều thuốc dân tộc mà không hết. Đến nay chị Dung yếu lắm rồi, không còn đi lại được nữa.

Bé Dung vừa nói vừa ứa nước mắt, chực khóc. Tôi thấy vô cùng xót xa nhưng nhất thời chẳng biết phải làm sao!

Bé Dung chào chúng tôi rồi đi xuống núi. Chợt Hùng gọi :

- Bé Dung này, nhà em có nuôi chó không ?

Tôi ngạc nhiên vô cùng, nhà người ta đang có chuyện đáng lo như thế, chẳng lẽ nó lại thèm thịt cầy! Bé Dung chắc cũng ngạc nhiên như tôi, nên nó đứng nhìn chúng tôi mà không trả lời. Hùng gọi :

- Dung, em trở lại đây cho anh dặn chút việc.

Cô bé quay lại bên chúng tôi. Hùng nói:

- Đêm nay, anh sẽ đem thuốc ra cho chị em. Nếu nhà có nuôi chó thì xích nó lại. À mà nhà em là nhà thứ mấy tính từ suối lên.

- Nhà em thứ ba tính từ suối lên, trước nhà có cây xoan rất lớn

- Thôi em về đi, nhớ dặn ba em là đêm nay anh sẽ đem thuốc đến.

Bé Dung xuống núi. Tôi nhìn Hùng:

- Mày có làm được không mà hứa ẩu? Đường nào mày ra khỏi trại? Tụi nó gặp mày đi đêm sẽ bắn bỏ, hơn nữa tụi mình đâu có thằng nào có thuốc!

- Tao phải liều phen nầy. Gần đây có một số thằng nhận đồ tiếp tế của gia đình, chắc chắn tụi nó có thuốc. Khi về trại mày đổi chác làm sao để có thuốc cho tao trước khi trời tối. Tao cũng sẽ lo như vậy. Việc còn lại là làm sao đem thuốc đi và trở về mày để tao lo. Dù có bị bắn chết tao cũng phải đem thuốc cho Dung.

Trên đường về trại tôi lo lắng vô cùng. Làm sao biết được thằng nào có thuốc, thằng nào có thể đổi chác được, làm sao tránh tai mắt của mấy thằng ăng ten. Bằng đủ mọi cách kể cả giả bịnh, tôi chỉ kiếm được có 6 viên thuốc. Trời tối. Tôi đưa cho Hùng, nó nói:

- Tạm được rồi, cộng với số thuốc của tao đủ uống được hai ngày, sau đó tụi mình tính tiếp, đêm nay tao sẽ theo dòng suối chảy ngang qua trại để đi ra, chỗ đó nước chảy xói mòn một lỗ lớn vừa đủ cho tao chui lọt. Qua khỏi hàng rào tao sẽ bò theo bờ suối, đến bìa rừng thì tao băng rừng đến nhà Dung, tao dự trù đi về khoảng 3 tiếng. Chỉ mong sao thời gian đó không có điểm danh bất thình lình...

Nửa đêm thì Hùng khều nhẹ tôi cho biết nó đi. Tôi nắm chặt tay nó ý nói phải hết sức thận trọng. Ba giờ đồng hồ mà sao lâu quá, tôi mở mắt nhìn trừng trừng lên đỉnh màn, thầm van vái đừng có tiếng súng nào. Mãi đến khi Hùng nắm tay tôi báo hiệu nó đã về thì tôi mới an tâm.

Sáng hôm sau, vào tới rừng Hùng kể lại: vượt rào ra vô trại thì dễ dàng, trên đường đi băng rừng chỗ nào trống thì chạy, chỗ nào rậm rạp thì đi, nó bị té mấy lần như trời giáng nhưng không dám nghỉ. Gần tới xóm nhà Dung nó cũng phải đi trong rừng chớ không dám ra đường mòn, sợ gặp người lạ hoặc công an thì bỏ mạng. Đến nhà Dung nó gõ cây làm hiệu. Ông già đi ra, nó đưa thuốc, dặn cách uống rồi trở về ngay.

Ngày hôm đó tụi tôi chờ bé Dung nhưng em không đến. Tụi tôi vô cùng lo lắng. Không biết thuốc có công hiệu hay không. Hùng không nói gì nhưng qua ánh mắt tôi biết nó lo lắng gấp mười tôi.

Hôm sau nữa, khi lên tới rừng Hùng bảo tôi;

- Hôm nay mày đốn cây đủ chỉ tiêu cho hai thằng, tao ở đây chờ. Nếu hôm nay bé Dung không đến thì trước khi về trại khoảng 2 tiếng tức 3, 4 giờ chiều tao sẽ đến nhà Dung coi sự thể thế nào.

Tôi biết tâm trạng của nó nên xách búa đi, để Hùng ngồi chờ bên đống lửa.

Đến giờ ăn trưa tôi trở lại thì thấy Hùng và bé Dung. Hùng nói:

- Dung đã đỡ nhiều, nhưng chưa thiệt hết, mày tính sao?

- Ngay bây giờ mình đâu có cách gì, có lẽ đêm nay mày phải đi một chuyến nữa.

Hùng dặn bé Dung đêm nay nó sẽ đem thuốc đến. Ông già phải thức chờ như lần trước.
Đêm hôm đó trời mưa dầm, đoán chừng gần tới giờ Hùng về, tôi đem bộ quần áo khô chờ nó bên ngoài. Nửa đêm mặc quần áo ước vô nhà gặp mấy thằng ăng ten thì từ chết tới bị thương.

Ở vùng khỉ ho cò gáy nầy, dân có bao giờ được uống thuốc tây cho nên Dung dù bịnh nặng chỉ uống mấy ngày thuốc là hết.

Mươi ngày sau, hai chị em Dung gặp tụi tôi ở chỗ ăn trưa. Dung có vẻ xanh sao, ốm hơn trước. Cô ngỏ lời cám ơn tụi tôi. Tôi nói:

- Tôi chẳng làm gì giúp cô đâu. Cô có cảm ơn thì cảm ơn Hùng đây
Bé Dung đã xách dao đi đốn nứa ở xa xa. Tôi nói với Hùng:

- Tao bỏ quên bịch thuốc lào ở góc cây đốn hồi nãy. Mầy ở đây với cô Dung, tao trở lại đó tìm bịch thuốc.

Tôi cầm dao đi, hai người không thèm mời tôi ở lại ăn uống mà hình như muốn tôi biến càng sớm càng tốt. Báo hại một ngày tôi nhịn đói tới chiều. Hai người nói gì không biết mà mãi tới giờ bắt buộc phải về trại họ mới chia tay nhau.

Chiều hôm đó tôi hỏi Hùng:

- Sao mậy, cá đã cắn câu chưa?

- Cá chưa cắn câu, nhưng tao bị chỉ định cư trú ở đây rồi!

Rất bất ngờ tụi tôi bị chuyển trại về tỉnh Vĩnh Phú, tôi ở trại Tân Lập, Hùng trại Vĩnh Quang. Chúng tôi không kịp từ giã ông già, Dung chị, Dung em.

Cộng sản dú tôi sáu năm rưỡi thì cho về. Là phó thường dân chắc chắn không thể xin vào làm cơ quan nhà nước. Nghề ngỗng cũng không có. Nhỏ học dốt lớn làm đại úy, buông súng ra thì chỉ còn cơ bắp. Người ta phân biệt cổ trắng, cổ xanh còn tôi làm việc nặng nhọc, thường thì ở trần trùng trục chớ có áo đâu mà cổ này cổ nọ. Qua cả chục nghề thì tới nghề xẻ gỗ. Tôi sắm được một cái máy dầu để kéo một lưỡi cưa đường kính 6 tấc. Gỗ thì mua của các xe củi, đem về xẻ ra bán cho mấy trại cưa. Một buổi chiều tôi đang xếp cây lên xe ba gác chuẩn bị đi giao thì có người vỗ mạnh vai tôi. Tôi quay lại thì thấy thằng Hùng bằng xương bằng thịt trước mắt tôi. Chúng tôi siết chặt tay nhau mà lòng chỉ muốn khóc oà lên cho đã. Tôi đưa Hùng về nhà nhậu một bữa quên trời quên đất. Sau đó Hùng từ giã tôi để tìm bà phước đã nuôi nó từ nhỏ. Mấy ngày sau nó đến nói là không tìm được bà phước nhưng có gặp mấy người bạn tù. Nó nói là đang ở chung với mấy người bạn ở gần bến xe Miền Đông. Nó lấy cây của tôi đóng một cái tủ để bán vé số, thuốc lá lẻ. Tôi đưa tiền vốn cho nó. Mỗi tuần vài ba lần tụi tôi gặp nhau để tâm sự bên xị rượu thuốc.

Một buổi sáng Hùng đến tìm tôi. Tôi thấy tay nó bị băng lại, trên mặt có vài vết bầm.

Tôi nói :

- Tụi mình già rồi mà mày còn hăng tiết vịt. Đánh lộn bị bắt vô đồn, Công an biết lý lịch của tụi mình nó xử ép mình lắm. Mà có chuyện gì vậy?

- Chiều hôm qua tao đang bán thuốc lá lẻ thì thấy 5, 6 thằng bộ đội thuê 2 chiếc xe ba gác chở đồ cho tụi nó. Đến cổng bến xe tụi nó kêu thằng Tý, thằng Cam, làm bốc vác ở bến xe, đưa hàng của tụi nó lên xe tải. Xong rồi mấy thằng bộ đội chỉ quăng có 30 đồng bạc bảo tụi thằng Tý và xe ba gác chia nhau. Tụi thằng Tý không chịu, đòi thêm, mấy thằng bộ đội không đưa thêm còn xừng xộ rồi xông vào đánh. Tao thấy tụi thằng Tý chống không nổi nên mới nhảy vào. Tao có đai đen Thái cực đạo nên một chọi một tụi nó chơi sao lại tao. Thế là 5, 6 thằng cầm cây và dao vây đánh một mình tao. Mãnh hổ nan địch quần hồ, tao bị mấy cú nhưng tụi nó bị nặng hơn tao nhiều. Thế rồi công an kéo đến, tao vọt ngay vào hẻm chạy thoát. Bây giờ mầy giúp tao một chuyện.

- Chuyện gì cũng được, trừ chuyện đi đánh lộn

- Thằng Tý, thằng Cam đang bị bắt ở đồn công an, tao muốn lãnh nó ra.

- Bằng cách nào ?

- Mày đang mướn đất của thằng Chủ tịch phường để đặt máy cưa. Mày chung chi với tụi nó quen rồi. Hơn nữa thằng trưởng đồn công an có biết mày, vậy thì bằng cách nào không biết, mày đưa tụi thằng Tý ra cho tao.

- Tụi nó có bà con dòng họ gì với mầy đâu mà mày lo cho tụi nó.

- Tao có chuyện cần tụi nó. Trước hết tao phải lo cho tụi nó ra cái đã.

Tôi lấy xe đạp lên đồn công an, tìm gặp trưởng đồn, tôi nói:

- Anh Hai cho tôi mượn chiếc xe Honda, tôi có chuyện gấp, một tiếng sau tôi đem xe lại trả.

Vì công ăn việc làm, tôi đã hối lộ cho thằng này nhiều lần cho nên nó sẵn sàng đưa chìa khóa xe cho tôi.

Tôi lấy xe chạy ngay ra tiệm sửa xe bảo họ thay hai cái vỏ đã cũ bằng hai cái vỏ mới tinh của Nhật. Xong tôi đem xe về trả. Nhìn cặp vỏ mới, thằng trưởng đồn biết tôi muốn nhờ cậy gì đây. Sẵn không có ai, nó hỏi:

- Có chuyện gì vậy ?

- Anh đang giữ thằng Tý, thằng Cam, chuyện đánh lộn ngoài đường chẳng có gì quan trọng. Anh cho tôi đóng tiền phạt lãnh tụi nó ra.

Có tiền mua tiên cũng được xá gì hai thằng du côn. Thằng Tý, thằng Cam được thả ra, tôi dặn tụi nó:

- Hùng nhờ tao lãnh tụi mày ra, có rảnh thì đến gặp nó.

Sau chuyện đó cả tháng tôi không gặp lại Hùng. Một bữa tôi đến tìm nó thì thấy xe thuốc đã dẹp rồi. Tôi vào nhà tìm thì thấy nó đang phân phát vé số cho mấy em bán vé dạo. Nó ra dấu cho tôi ngồi chờ. Đến em cuối cùng thì nó nhờ em kêu giùm hai ly cà phê sữa đá và một gói Hero. Tôi ngạc nhiên lắm:

- Sao lúc nầy mày làm ăn lớn và xài sang vậy. Chuyện như thế nào kể lại cho tao mừng.

- Mầy nhớ thằng Tý, thằng Cam chớ ?

- Nhớ, rồi sao ?

- Từ cái vụ đánh lộn hai thằng phục tao lắm, tao vẽ gì tụi nó cũng nghe. Hai thằng đó cầm đầu một đám du côn ở bến xe miền đông. Tao bảo tụi nó, đứa nào lãnh vé số của tao đi bán lẻ thì cho vô bến xe. Đứa nào không lãnh vé của tao mà lãnh chỗ khác thì không cho vô nếu cần đánh luôn. Được mấy ngày thì chỉ vé của tao là bán được còn vé của mấy chỗ khác bị trả về nhiều lắm. Được thế tao áp lực luôn thằng vé số của tỉnh. Nó phải chấp nhận giao cho tao độc quyền vé ở khu vực nầy. Bây giờ tao ngồi không mà kiếm bạc ngàn như chơi. Khỏi nói mày cũng biết là tao nuôi thằng Tý, thằng Cam kỹ lắm.

Công việc làm ăn của Hùng phất lên thấy rõ. Nó đã có xe Honda và mua được một căn nhà.

Một buổi tối, tôi và nó nhậu đã ngà ngà, nó hỏi tôi:

- Mày còn nhớ Cẩm Nhân không?

- Trại tù ở đó tao và mày đổ biết bao mồ hôi, làm sao tao quên được

- Không phải trại tù, tao muốn nói Dung, em Dung bị dịch tả.

- À, tao nhớ ra rồi, mà xa xôi quá mày ơi, lâu quá rồi chắc giờ nầy Dung đã lấy một thằng cán bộ nào đó đẻ ra một bầy con nheo nhóc.

- Không, không bao giờ. Tao tin là Dung vẫn chờ tao, dù biết là chờ đợi một thằng tù cải tạo là vô vọng. Lâu nay tao cố gắng làm ăn. Bây giờ tao có nhà, có tiền ngày mai tao sẽ đi tìm Dung.

Hùng đi hơn mươi ngày thì trở về. Nó kêu bằng được tôi ra quán nhậu.

- Hôm nay tao đãi mày uống bia chớ không uống rượu thuốc nữa, tao đang vui.

- Mày có tìm được Dung không?

- Rồi, đúng như tao đoán, em vẫn chờ tao. Tội nghiệp ông già mừng lắm, ổng giết ngay một con dê để đãi tao. Tao đã bàn với gia đình Dung là tao sẽ đưa cả nhà vô Sài Gòn sinh sống, mọi chuyện tao lo hết. Cả nhà đã đồng ý. Tao cho một tháng để ông già bán hết nhà cửa ngoài đó. Tao sẽ ra đón.

Hơn tháng sau thì Hùng đưa được cả nhà Dung vô Sài Gòn. Tôi biết là nó tốn tiền nhiều lắm. Dung chị vẫn đẹp như ngày nào, Dung em đã 18 tuổi rồi, xinh lắm.

Rồi chuyện phải đến, đám cưới Hùng Dung dù không lớn lắm nhưng rất vui, tôi đứng làm chủ hôn cho chú rể mồ côi.

Sau đám cưới cả nhà tập trung vào phân phối vé số. Công việc làm ăn ngày càng phất lên. Hơn năm sau thì Dung có bầu và đẻ ra một thằng con trai. Cả nhà mừng lắm, đặt tên cháu là Dịch, Nguyễn kinh Dịch. Tôi hỏi Hùng:

- Mày đặt tên con khó nghe quá vậy!

- Tao đặt tên Dịch để cảm ơn trận dịch tả của Dung, không nhờ căn bệnh ngặt nghèo đó làm gì tao ẵm được em. Ông già thấy tao đặt tên Dịch thì lót thêm chữ Kinh vào cho có vẻ văn hóa cổ. Ý tao còn muốn đặt tên Nguyễn Dịch Tả nữa kìa.

Bỗng một ngày Dung em chạy xe Honda tìm tôi, nhìn cặp mắt đỏ hoe của em tôi lo lắng hỏi:

- Có chuyện gì vậy em?

- Ba em mời anh đến có chút chuyện.

Tôi đến nhà thì Hùng đang lo vé số, thấy tôi nó nói:

- Ba đang chờ mày đàng sau.

Tôi đi ra nhà sau thì thấy ông già đang ngồi uống trà, chắc ông chỉ ngồi đó thôi chớ ly trà trước mặt ông vẫn còn đầy và đã nguội.

- Chào bác!

- Mời anh ngồi uống trà

- Thưa bác, có chuyện gì mà bác cho gọi…

- Nhà tôi vô phúc quá anh ạ! Tôi tin thằng Hùng thật tình thương con Dung, nên đưa cả nhà vào đây. Đúng ra thời gian qua tụi nó sống rất hạnh phúc, nào ngờ bây giờ xảy ra chuyện động trời.

- Thưa bác chuyện gì vậy?

Ông già gằn từng tiếng:

- Dung em có bầu!

Tôi sững sờ ngồi chết lặng. Trời ơi, không ngờ thằng nầy hái hoa hái cả cụm, đốn mía đốn cả bụi!

Đột nhiên Hùng đi vào:

- Thưa ba, không phải tại con đâu.

Ông già quắc mắt :

- Tại ai, tại ai nào?

- Thưa ba, hồi xây căn nhà nầy con xây cái bếp cao và sát vào bức tường kia. Khi ba vào ba nhất định bắt đập bỏ để xây cái bếp dưới đất ở giữa nhà. Mỗi bữa cơm cả nhà quay quần bên bếp lửa hồng giống như ngoài Bắc vậy. Thưa ba, vợ con thì đang đẻ, Dung em cứ chổng mông thổi lửa hoài làm sao con chịu nổi!

- Trời ơi là trời, mày lại đổ thừa cho cái bếp.

Tôi nói :

- Thưa bác chuyện đã lỡ rồi, bác làm lớn chuyện thì cũng chẳng đi đến đâu. Thôi thì trai năm thê bảy thiếp là chuyện thường. Dung chị, Dung em ở chung một nhà đỡ lo cho Bác hơn là nó đi ngoài đường. Hơn nữa con thấy thằng Hùng dư sức lo cho hai chị em Dung. Con xin bác, xin bác thương con thì thương cho trót.

- Con xin ba cưới luôn em Dung. Vợ nào cũng là vợ chỉ có chị em trong nhà chớ không có lớn bé gì cả. Con sẽ lo cho cả hai không thiếu thứ gì.

Ông già cầm tách trà nguội ngắt nuốt ực một hơi:

- Tôi chẳng còn biết nói sao !

Rồi tới chuyện làm hồ sơ để đi Mỹ theo diện HO, tôi xúi Hùng cũng làm như tôi, nó nói:

- Tao không đi Mỹ đâu. Đi Mỹ tao chỉ đem theo được một vợ, tao đâu biết bỏ lại vợ nào! Nói cho mày biết bây giờ tao giàu lắm. Ba cái vụ xổ số trúng độc đắc, cá cặp đều được dàn xếp trước cả. Tao đứng ra lo rồi chung lại cho tụi lãnh đạo. Không nói mầy cũng biết là tao phải dành phần lại cho tao. Chuyện nầy không bền đâu. Ngày nào đó tụi nó tranh ăn đấu đá lẫn nhau, có thể lôi cả tao ra nữa thì tao mất sạch Cho nên mày cứ đi Mỹ, tao bỏ hết ở đây, dẫn vợ con về Cẩm Nhân sinh sống.

Tôi ngạc nhiên :

- Người ta từ quê mong muốn ra thành, còn mầy ở thành lại muốn ra hóc núi, sao lạ vậy?

- Có gì đâu, bây giờ tao có nhiều tiền, về hóc núi tao cũng đâu thiếu thứ gì. Tao có đủ tiền để lo cho ba vợ chồng tao sung sướng đến mãn đời. Bây giờ tụi cộng sản không còn để ý tới vùng xa xôi đó nữa cho nên tao tin là sẽ sống thoải mái. Các con tao có ở đây mà mang lý lịch của tao cũng chẳng học hành được đâu.

Tôi qua Mỹ cày như trâu, nợ nần ngày càng chồng chất: nợ nhà, nợ xe, nợ TV, tủ lạnh, nợ cạc xanh, cạc đỏ…thôi thì đủ thứ nợ. Tôi ráng dành dụm mấy năm trời mới đủ tiền về Việt Nam ra Cẩm Nhân thăm gia đình thằng Hùng. Nó sống như một ông hoàng. Nó cất một cái nhà sàn cột to đúng ngay cạnh bờ hồ. Có một chiếc tàu gắn máy Yamaha 150 ngựa để chở vợ con đi chơi. Trên bờ nó nuôi cả một bầy ngựa chớ không phải một hai con. Nuôi ngựa để cỡi đi chơi chớ đâu có bán. Trong nhà không thiếu thứ gì: máy phát điện, TV, karaoke và một cái bếp nằm ở giữa nhà…

Ai bảo chăn trâu là khổ ?


Pilot Dỏm
Ai Bảo Chăn Trâu Là Khổ


Tác giả: Pilot Dỏm

Ở đời có nhiều chuyện rất vô lý mà lại là sự thật. Có sự vô lý nào hơn nón cối, dép râu dẫm nát Sài Gòn. Mấy chị hộ lý cổ quấn khăn rằn, đít như cái thúng diễu khắp thành phố. Những ngày này tôi không đau tim mà thấy tức ngực, khó thở. Chẳng muốn khóc mà mắt cứ cay cay. Tôi như con đà điểu chui đầu vào cát, suốt ngày chẳng dám ra đường.

May mà gần nhà tôi có Cậu Sáu, tôi chẳng biết tên thật của ông là gì chỉ quen gọi ông là Cậu Sáu theo như Thành - bạn tôi. Cậu Sáu học kỹ sư hóa học ở Pháp, sau khi tốt nghiệp ông ở lại làm cho một hãng rượu. Năm 1973 đến tuổi hưu nên ông về VN mở hãng rượu. Theo ông nói thì rượu của ông không sánh bằng Martell, Hennessy nhưng sẽ ăn đứt Napoleon, Rivalet. Đáng tiếc là mọi sự đã chuẩn bị sẵn sàng thì xảy ra ngày 30/4. Hãng rượu đã bị tịch thu rồi nhưng trong nhà ông còn có một kho rượu cả ngàn chai dành để biếu. Thế là đà điểu chui đầu vào cát còn tôi và Thành thì chui vào kho rượu để tránh một sự thực quá phũ phàng: thành phố thân yêu đang bị hiếp dâm tàn bạo.

Đến giữa tháng 6 thì tụi tôi tạm chia tay để tự nguyện đi vào tù. Tôi có hai ngày ở trường nữ Trung học Lê Văn Duyệt, địa điểm tập trung cấp uý, để hưởng những bữa ăn tệ chưa từng có của khách sạn Caravelle. Khách sạn nổi tiếng nầy đã bị quốc doanh. Một đêm tối trời, mưa dầm, xe GMC chở tụi tôi vào nhà tù Long giao (Long Khánh ). Ngay bữa sáng đầu tiên tụi tôi được chia ra 70 thằng ở chung một nhà , mỗi người được 4 tấc bề ngang. Chen chúc nhau trong căn nhà mái tôn nền ximăng nên hơn một tháng sau thì tụi tôi bị lác tấn công dữ dội: lác mẹ, lác con, lác khô, lác ướt, lác nội, lác ngoại …thôi thì đủ thứ lác. Nhờ vậy mà tôi trở thành tay tổ trị bệnh lác. Chuyện ngày xưa ta còn bé, một tay quẹt thuốc xức lác hiệu Ông tiên, một tay cầm quạt quạt ào ào là chuyện đồ bỏ.

Có một ngày tôi xách thùng ra giếng tắm. Mỗi khi đi tắm phải xách theo một cái thùng và một sợi dây dài khoảng 15m để kéo nước. Tôi đang xối mấy gáo nước đục mò thì thấy một cậu trẻ hơn tôi vài ba tuổi đi tắm mà không có thùng, tôi bảo :

- Cứ lấy thùng của tao mà xài.

Sau khi tắm xong, trước khi về tôi nói :

- Tao thấy mầy lác đầy mình rồi, lúc nào rảnh thì qua đầu nhà số 8 kia tao trị cho.

Ngày hôm sau, cơm nước xong tôi đang ngồi kéo thuốc lào thì hắn tới.

- Em là Hùng. Anh có thuốc xức lác cho em xin một ít.

- Thuốc xức lác làm gì có. Tụi mình ở đây gọi bằng mầy tao cho tiện.

Tôi đi đến gốc cây dâm bụt lấy ra một cái thùng đạn 7 lít rồi nói :

- Mày nghe lời tao thì sau một tuần mày kiếm không ra một miếng lác để gãi chơi. Mày đem cái thùng đạn này về rồi qua đống củi của nhà bếp cạy vỏ cây bằng lăng càng nhiều càng tốt. Mày bẻ vỏ cây ra từng miếng nhỏ bỏ đầy thùng, đổ đầy nước rồi đun lên cho đến khi còn nửa thùng nước thì tắt lửa. Mày vớt vỏ cây ra, chờ cho nước âm ấm thì lấy nước đó mà tắm. Tao nói tắm để mày biết là phải xối từ đầu đến chân không chừa chỗ nào.

Hùng lo lắng :

- Có hết thiệt không, lác của tao nặng lắm, nhất là hai hòn bi thiếu điều muốn lọt ra ngoài.

- Đừng lo, theo tao biết thì hai hòn bi được bọc tới 7 lớp da nên còn lâu nó mới lọt ra. Nhớ một điều là tất cả quần áo của mầy cũng phải được nấu sôi bằng nước vỏ cây bằng lăng.

Hơn một tuần sau gặp lại Hùng, tôi hỏi:

- Mầy còn lác không cho tao xin một miếng coi chơi.

- Phương thuốc của mầy thiệt là hay. Tao hết lác rồi!

- Mày phải tiếp tục tắm và luộc quần áo một tuần nữa cho chắc ăn.

Trong một lần sắp xếp lại tổ đội trong trại, tôi và Hùng được ở chung trong tổ tạp dịch của nhà bếp. Bổn phận của hai đứa tôi là chẻ củi và đem đồ tiếp tế về bếp trại. Vác gạo, bắp từ kho về nhà bếp khoảng 100m không có gì vất vả. Ngán nhất là gánh rau củ, bầu bí từ sân banh về nhà bếp: xa và nặng lắm.

Mỗi buổi chiều, tôi và Hùng (Sau khi đậu tú tài 1 thì xin vào Thủ Đức, ra trường về làm việc ở tiểu khu Long Khánh). Một hôm tụi tôi ngồi đã gần tối rồi, Hùng kín đáo quan sát thấy không có ai để ý mới rút trong túi một điếu thuốc đầu lọc đưa cho tôi. Tôi ngạc nhiên hỏi:

- Ở đâu mầy có thứ hàng quý hiếm nầy vậy ?

- Tao còn nguyên một gói, tụi mình mỗi ngày lén hút vài điếu thôi, hút nhiều tụi ăng ten thấy được thì bể ổ. Trước đây tao làm đại đội trưởng ở Long Khánh nầy mấy năm trời. Tao quen đám xe tải nhiều lắm. Thằng tài xế chở tiếp phẩm sáng nay quen với tao. Trước mặt vệ binh nó không dám nhận tao. Sáng nay nó nhờ tao quay máy xe cho nó, chẳng qua để khuất thằng vệ binh nó cho tao một gói thuốc. Tao có xin nó đường và sữa, hy vọng ngày mai mình sẽ có.

Quả thật tình quân dân cá nước thiệt là vĩ đại, hôm sau tụi tôi lại được ½ ký đường và một hộp sữa để lẫn trong gánh rau muống. Thế là từ đó, ngày nào đúng chuyến anh chở hàng thì tụi tôi lại được tiếp tế đường sữa hoặc thuốc hút. Tôi chỉ nhìn anh bằng cặp mắt vô cùng biết ơn chớ đâu nói được lời nào vì thằng vệ binh kè kè bên cạnh.

Có một ngày sau khi cân đồ tiếp tế xong, tôi chuẩn bị gánh về thì tôi thấy Hùng ôm bụng ngồi bệt xuống đất. Tôi hỏi :

- Mày sao vậy ?

- Tao đau bụng quá, chờ tao chút.

Xe chở hàng đã chạy đi xa. Hùng đứng dậy và cùng tôi gánh về trại. Trong lúc lặt rau muống, tôi hỏi Hùng:

- Lúc nãy sao mày tự nhiên đau bụng vậy ?

- Tao có đau bụng gì đâu. Trời ơi, con nhỏ cân bầu bí đưa tay kéo cán cân làm bật cái nút áo. Tao liếc thấy cái ngực trắng bóc của nó, tao cầm không nổi nên sọt ti ướt cả quần ….

- Mới có mấy tháng mà mầy nực dữ vậy sao ?

- Tao còn độc thân nhưng không đêm nào vắng cái mục đó, trừ những lúc phải nằm trong rừng. Bị nhốt mấy tháng nay nó lên tới cần cổ rồi.

Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại thì có hơi quá nhưng quả thật trong tù một ngày quá dài, quá khổ. Làm như trâu ăn như chuột. Nghe một thằng nói nhiều đã mệt rồi; lúc học chính trị thằng nói nhiều lại ngu, bắt mình vỗ tay ào ào thì khổ phải biết. Ngày qua ngày như rùa bò.

Chúng tôi ở Long Giao hơn một năm thì bị chuyển ra Bắc. Tôi và Hùng dặn nhau cắn đuôi nhau mà đi, ở chung càng lâu càng tốt. Một đêm tối trời chúng tôi lên cảng Hải Phòng, được dàn chào bởi Công an súng cầm tay và đàn chó rất dữ dằn. Sau khi được lụi mỗi thằng một mũi thuốc, chẳng biết là thuốc gì, chúng tôi bị lùa lên các toa tàu hoả chở súc vật. Thằng nào được lùa lên toa chở bò thì còn đỡ, bị lên toa chở heo thì khốn nạn. Đến đêm đó tôi mới nhận ra là ngủ trên phân bò sướng hơn ngủ trên phân heo nhiều. Dọc đường đi bị dân ném đá và chửi rủa tưng bừng. Một sự dàn chào có tổ chức hẳn hoi. Chúng tôi bị đưa đến một hóc núi thuộc huyện Cẩm nhân, tỉnh Hoàng liên Sơn. Phương tiện duy nhất liên lạc với bên ngoài là chèo ghe. Hàng ngày chúng tôi phải đi đốn tre, nứa, gỗ về làm nhà và làm hàng rào tự nhốt mình. Được mấy tháng thì tôi và Hùng bị giao cho đi lấy gỗ xẻ, tức là loại gỗ to đường kính ngọn từ 3 tấc trở lên. Hai thằng được phát 1cái búa và hai con dao có vệ binh mang súng CKC đi theo. Mấy ngày đầu tụi tôi đi đâu cũng có vệ binh kè kè bên cạnh. Một buổi chiều Hùng bảo tôi:

- Ngày mai tụi mình phải cắt cái đuôi mới làm ăn được.

Là sao ?

- Ngày mai tụi mình cắt rừng mà đi chớ không theo đường mòn, càng nhiều gai góc, càng bò, càng chui nhiều càng tốt. Thằng vệ binh vác theo cây CKC sẽ theo không nổi.

Quả thật như tụi tôi đóan, thằng vệ binh leo đến lưng chừng núi thì bảo tụi tôi cứ đi đốn cây, đến chiều sẽ gặp nhau ở cửa rừng. Thế là tụi tôi có cơ hội để tự cải thiện. Một thằng đốn cây, một thằng băng rừng xuống mấy đồi khoai mì của trại để ăn trộm. Nhờ vậy mà tụi tôi tạm giữ được sức khoẻ trước công việc quá nặng nhọc.

Một hôm tụi tôi leo lên đến một khu rừng nứa thì nghe có tiếng đốn. Hai đứa tôi đứng khuất sau một bụi nứa nhìn ra thì thấy một bé gái khoảng 13, 14 tuổi. Nhìn cách đốn nứa của em tụi tôi vô cùng ngạc nhiên. Phải nói là em múa với con dao và bụi nứa mới đúng. Một tay cầm cây nứa, tay kia cầm con dao, chỉ một nhát là đứt ngọt gốc nứa. Thêm hai nhát nữa cho gốc nứa khỏi bén rồi em dùng bản của con dao gõ một cái vừa đánh bằng gốc nứa vừa đẩy ngọn nứa ra xa. Thuật thì dài dòng như vậy nhưng tất cả động tác đó xảy ra chỉ vài chục giây. Tụi tôi từ sau bụi bước ra, em bé thấy động quay lại, em mở to mắt có vẻ rất sợ hãi, tay vẫn cầm chặt con dao em lùi lại đến gần một ông già cũng đang đốn nứa gần đó. Ông quay lại nhìn, chúng tôi gật đầu chào rồi băng rừng đi làm công việc của mình.

Sau khi hạ một cây rất lớn, tôi và Hùng gầy lửa hút thuốc lào và luộc nồi khoai mì làm bữa ăn trưa. Ông già và cô bé đến. Ông lẳng lặng đến bên đống lửa lấy cái điếu cày, nhồi thuốc, kéo một hơi rõ dài rồi lim dim mắt nhìn đống lửa. Lát sau ông nói:

- Các cậu ở K8 nầy phải không ?

Hùng nói :

- Thưa bác đúng ạ !

Ông chỉ cô bé ngồi xa xa :

- Các cậu đừng ngạc nhiên sao con Dung, con tôi, lại sợ các cậu như vậy. Trước khi các cậu ra đây, cán bộ tuyên truyền các cậu là thành phần rất ác ôn. Ăn gan, uống máu đồng bào. Mỗi lần lên một cấp thì phải giết hàng trăm người. Mà các cậu là thành phần sĩ quan cao cấp nên nợ máu với nhân dân và tội ác rất lớn. Bọn con nít không biết phán đoán nên rất sợ các cậu.

Hùng nói:

- Dạ thưa bác, thật ra …

- Các cậu khỏi phải giải thích với tôi. Trước đây tôi làm việc cho chánh quyền thời thuộc Pháp. Sau 1954 tôi bị chỉ định cư trú ở đây, tôi phân biệt được ai chánh, ai ngụy, ai gian, ai ngay.

Hùng nói:

- Trong hoàn cảnh đất nước bị tấn công từ miền Bắc, chúng cháu phải gia nhập quân đội để bảo vệ tự do của miền Nam.

- Thật ra các cậu có hai tội rất lớn.

- Thưa bác xin bác cho biết.

- Thứ nhất, các cậu làm trai mà không bảo vệ được đất nước của mình. Đất nước ngày nay bị đặt dưới sự thống trị của bọn cộng sản. Theo tôi, nỗi khổ nô lệ cho cộng sản còn tàn tệ hơn thời phong kiến Tàu. Còn lâu dân ta mới được tự do độc lập thực sự.

Tôi nói:

- Con hiểu ý của bác. Con còn tội gì nữa?

- Đồng bào miền Bắc rất kỳ vọng các cậu chiến thắng bọn cộng sản để giải thoát cho họ. Chẳng những không giải thoát cho đồng bào miền Bắc mà còn để mất cả miền Nam.

Tội các cậu lớn quá rồi còn gì nữa !

Chúng tôi cúi đầu im lặng, thấm thía nỗi đau của người mất nước, nỗi đau như xé ruột gan qua lời nói đơn sơ của ông già.

Một lát sau ông già nói :

- Thôi thì sự thể như thế. Đó là số phận của đất nước, của dân tộc. Riêng các cậu bây giờ phải cố mà giữ sức khoẻ. Chớ tin vào câu cải tạo tốt sẽ được cho về sớm mà làm quá sức sẽ không có cơ hội gặp lại vợ con. Đừng có trốn trại, các cậu không thoát được đâu.

- ….. ?.

- Các cậu biết là ở đây gạo thóc rất hiếm, ngay chúng tôi đây cũng ăn độn gần như quanh năm. Gạo bắp đã hiếm mà muối còn hiếm gấp trăm lần. CS dùng muối để khống chế người dân ở đây. Ai bắt được một người tù cải tạo thì được thưởng 6 cân muối. Bởi vậy nghe tin có tù trốn trại, người ta bỏ hết mọi công việc để lùng bắt cho bằng được.

Sau một lúc im lặng Hùng nói:

- Thưa bác, chắc nhà bác ở gần đây?

- Qua khỏi cái yên ngựa kia, xuống hết cái dốc núi thì tới một con suối, qua khỏi con suối thì tới xóm nhà của tôi, hầu hết là thành phần chỉ định cư trú. Bây giờ tôi về, nếu các cậu còn ở đây mình còn có cơ hội gặp nhau.

Không biết vô tình hay hữu ý ông già bỏ quên gói thuốc lào, loại thuốc mộc Tiên Lãng quá ngon. Tôi và Hùng xuống núi về trại. Hai thằng lẳng lặng không nói với nhau câu nào. Trong lòng chúng tôi nặng trĩu những lời nói của ông già.

Mấy ngày sau chúng tôi gặp lại ông già và Dung. Hùng mời:

- Chúng tôi mới luộc nồi khoai mì còn nóng, xin mời bác.

- Tôi vừa ăn xong. Còn lại ít muối mè mời các cậu.

Chưa lần nào tôi ăn khoai mì chấm muối mè ngon như vậy. Tôi và Hùng ăn khoai mì, ông già hút thuốc lào. Dung đốn mấy cây nứa non để chẻ lạt. Động tác chẻ của em như cái máy. Tôi cầm cọng lạc thấy nó đều trân từ trên xuống dưới, cạnh không bén. Thấy tôi cầm cọng lạt với vẻ quá ngạc nhiên, ông già nói:

- Dễ thôi chớ có khó khăn gì. Nó xử dụng con dao từ lúc 5, 6 tuổi.

Tôi hỏi:

- Thưa bác, hôm nay bác lấy nứa hay lấy gỗ ạ

- Hôm nay tôi lấy một bó nứa nhỏ để sửa lại cái chuồng gà và tìm cây để đẽo mái chèo

- Cây đẽo mái chèo như thế nào, bác cho biết, tụi cháu sẽ tìm giúp bác.

- Tôi già rồi, không còn làm ruộng nương được nữa, tôi chuyên đẽo mái chèo để bán. Nếu các cậu lấy được gỗ, tôi sẽ mua cho các cậu các thứ cần thiết xử dụng ngay trong rừng nầy, không được đem về trại. Tụi bò vàng (Công an mặc đồ vàng) biết được thì phiền phức lớn cho các cậu mà cả cho tôi nữa.

- Cây đẽo mái chèo là cây gì, thưa bác ?

- Cây dầu hay cây dẻ. Cây dẻ thì tốt hơn vì thớ nó thẳng, cây phải thẳng, gốc to ít nhất một gang rưởi.

- Dễ thôi, bác cần mấy cây, chừng nào?

- Mỗi tháng có hai phiên chợ, mỗi lần tôi bán được 4, 5 cây. Nếu các cậu kiếm được cây thì đem ngâm xuống con suối đàng kia để khỏi bị nứt, tôi sẽ đến lấy.

Mấy ngày sau tụi tôi đã đốn được mấy cây dẻ đúng như yêu cầu của ông già

Một hôm tụi tôi đến chỗ thường đến để ăn trưa thì thấy ông già đang ngồi hút thuốc lào bên đống lửa. Bé Dung lúc nầy không còn sợ tụi tôi nữa, cô bé ngồi bên cạnh cha, luôn tay nghịch con dao.

Sau khi chào hỏi, Hùng nói :

- Thưa bác, tụi con đã tìm được mấy cây dẻ, ngâm dưới suối.

- Tôi đã coi qua rồi, tốt lắm. Tôi có quà cho các cậu đây (Ông quay qua bé Dung) con đem xôi gà ra mời các anh.

Tôi không tin vào tai mình cho đến khi Dung mở nắp đậy cái giỏ tre: một rổ xôi và một con gà luộc. Hùng nói:

- Mời bác và em Dung !

- Các cậu cứ tự nhiên.

Chẳng chén đũa gì, tôi và Hùng tay bóc xôi tay xé gà, chẳng mấy chốc con gà chỉ còn lại mấy miếng xương còn xôi thì được lượm đến hột cuối cùng. Chưa bao giờ tôi ăn xôi gà ngon như vậy.

- Cám ơn, cám ơn bác nhiều lắm. Quá lâu tụi con mới có bữa ăn ngon như thế này.

- Tôi biết, thật ra gà thì cũng dễ nuôi, chỉ có nếp thì hiếm, dù hiếm tôi cũng cố, thấy các cậu ăn ngon là tôi vui rồi.

Thế là từ đó tụi tôi có nguồn lương thực và thuốc lào. Bù lại cứ mỗi tuần đốn cho ông già mấy cây dẻ. Tụi tôi còn đẽo bớt phần gỗ thừa để ông chỉ đem về đẽo sơ lại là được một mái chèo

Một sáng nọ tôi theo Hùng lên núi. Thình lình Hùng ngừng lại ra thủ hiệu cho tôi đứng lại và im lặng. Hùng ngồi sau một bụi rậm vạch lá nhìn xuống dòng suối đang chảy róc rách phía trước. Tôi đi từng bước tới sau Hùng, nhẹ nhàng vạch lá, tôi nhìn xuống dòng suối. Một cảnh tượng như tranh vẽ hiện ra trước mắt tôi. Một cô gái ngồi trên tảng đá giữa dòng suối đang khoát nước rửa mặt. Không biết người ta lạc vào chốn thiên thai có giống tụi tôi lúc đó không. Tôi nghe rõ tiếng thở của Hùng. Tôi mong cho thời gian ngừng lại. Cô gái cứ ở đó rửa mặt, rửa tay, rửa chân, rửa cái gì cũng được …tụi tôi đứng trong bụi nhìn trộm một năm , hai năm , năm năm …lâu hơn nữa có xá gì.

Bỗng nghe tiếng bé Dung gọi xa xa :

- Chị Dung đến giúp em

Cô gái đưa tay vuốt tóc, cầm con dao để bên cạnh buộc vào ngang lưng rồi bước từng bước trên những gộp đá. Khi cô đã đi khuất. Hùng nhìn tôi :

- Người hay tiên ?

- Đẹp thì có đẹp, tại tụi mình lâu nhìn bóng đàn bà quá nên thấy cô ta càng đẹp hơn. Mầy có bị…

Hùng đưa tay vuốt quần :

- Không, tao cứ nghĩ cô ta là tiên ở trên trời nên không có nghĩ tới chuyện dâm dục.

Ngay trưa hôm đó, chúng tôi gặp ông già, bé Dung và nàng tiên bên suối. Thì ra cô ta là con của ông già, tên Dung – Dung chị. Cô làm nghề thợ may. Bởi vậy dáng cô thon thả chớ không như bịch muối, bàn chân cô rất đẹp chớ không chân voi như các cô gái miền núi.

Sự liên hệ cây dẻ - xôi gà vẫn tiếp tục. Có lần ông già bịnh sao đó mà Dung chị đem xôi gà đến cho chúng tôi. Hùng khéo léo bắt chuyện nhưng cô gái trả lời nhát gừng, không thân cũng không chán ghét. Tôi thì dửng dưng, đối với tôi lúc đó xôi gà là trên hết. Tôi biết Hùng cảm mến Dung lắm nhưng trong hoàn cảnh tù tội nó không dám tán tỉnh.

Rồi một ngày, sau khi đốn cây xong, tụi tôi đến chỗ ăn trưa như thường lệ thì thấy bé

Dung đang ngồi bên đống lửa. Hùng hỏi :

- Ba em đâu ?

- Ba em ở nhà kiếm thuốc cho chị Dung, chị ấy đau nặng lắm.

- Chị em bị bịnh gì ?

- Hình như là dịch tả, ba em có đưa chị Dung đến phòng y tế của huyện, họ chỉ cho mấy viên Xuyên tâm liên. Cả tuần rồi chị Dung uống rất nhiều thuốc dân tộc mà không hết. Đến nay chị Dung yếu lắm rồi, không còn đi lại được nữa.

Bé Dung vừa nói vừa ứa nước mắt, chực khóc. Tôi thấy vô cùng xót xa nhưng nhất thời chẳng biết phải làm sao!

Bé Dung chào chúng tôi rồi đi xuống núi. Chợt Hùng gọi :

- Bé Dung này, nhà em có nuôi chó không ?

Tôi ngạc nhiên vô cùng, nhà người ta đang có chuyện đáng lo như thế, chẳng lẽ nó lại thèm thịt cầy! Bé Dung chắc cũng ngạc nhiên như tôi, nên nó đứng nhìn chúng tôi mà không trả lời. Hùng gọi :

- Dung, em trở lại đây cho anh dặn chút việc.

Cô bé quay lại bên chúng tôi. Hùng nói:

- Đêm nay, anh sẽ đem thuốc ra cho chị em. Nếu nhà có nuôi chó thì xích nó lại. À mà nhà em là nhà thứ mấy tính từ suối lên.

- Nhà em thứ ba tính từ suối lên, trước nhà có cây xoan rất lớn

- Thôi em về đi, nhớ dặn ba em là đêm nay anh sẽ đem thuốc đến.

Bé Dung xuống núi. Tôi nhìn Hùng:

- Mày có làm được không mà hứa ẩu? Đường nào mày ra khỏi trại? Tụi nó gặp mày đi đêm sẽ bắn bỏ, hơn nữa tụi mình đâu có thằng nào có thuốc!

- Tao phải liều phen nầy. Gần đây có một số thằng nhận đồ tiếp tế của gia đình, chắc chắn tụi nó có thuốc. Khi về trại mày đổi chác làm sao để có thuốc cho tao trước khi trời tối. Tao cũng sẽ lo như vậy. Việc còn lại là làm sao đem thuốc đi và trở về mày để tao lo. Dù có bị bắn chết tao cũng phải đem thuốc cho Dung.

Trên đường về trại tôi lo lắng vô cùng. Làm sao biết được thằng nào có thuốc, thằng nào có thể đổi chác được, làm sao tránh tai mắt của mấy thằng ăng ten. Bằng đủ mọi cách kể cả giả bịnh, tôi chỉ kiếm được có 6 viên thuốc. Trời tối. Tôi đưa cho Hùng, nó nói:

- Tạm được rồi, cộng với số thuốc của tao đủ uống được hai ngày, sau đó tụi mình tính tiếp, đêm nay tao sẽ theo dòng suối chảy ngang qua trại để đi ra, chỗ đó nước chảy xói mòn một lỗ lớn vừa đủ cho tao chui lọt. Qua khỏi hàng rào tao sẽ bò theo bờ suối, đến bìa rừng thì tao băng rừng đến nhà Dung, tao dự trù đi về khoảng 3 tiếng. Chỉ mong sao thời gian đó không có điểm danh bất thình lình...

Nửa đêm thì Hùng khều nhẹ tôi cho biết nó đi. Tôi nắm chặt tay nó ý nói phải hết sức thận trọng. Ba giờ đồng hồ mà sao lâu quá, tôi mở mắt nhìn trừng trừng lên đỉnh màn, thầm van vái đừng có tiếng súng nào. Mãi đến khi Hùng nắm tay tôi báo hiệu nó đã về thì tôi mới an tâm.

Sáng hôm sau, vào tới rừng Hùng kể lại: vượt rào ra vô trại thì dễ dàng, trên đường đi băng rừng chỗ nào trống thì chạy, chỗ nào rậm rạp thì đi, nó bị té mấy lần như trời giáng nhưng không dám nghỉ. Gần tới xóm nhà Dung nó cũng phải đi trong rừng chớ không dám ra đường mòn, sợ gặp người lạ hoặc công an thì bỏ mạng. Đến nhà Dung nó gõ cây làm hiệu. Ông già đi ra, nó đưa thuốc, dặn cách uống rồi trở về ngay.

Ngày hôm đó tụi tôi chờ bé Dung nhưng em không đến. Tụi tôi vô cùng lo lắng. Không biết thuốc có công hiệu hay không. Hùng không nói gì nhưng qua ánh mắt tôi biết nó lo lắng gấp mười tôi.

Hôm sau nữa, khi lên tới rừng Hùng bảo tôi;

- Hôm nay mày đốn cây đủ chỉ tiêu cho hai thằng, tao ở đây chờ. Nếu hôm nay bé Dung không đến thì trước khi về trại khoảng 2 tiếng tức 3, 4 giờ chiều tao sẽ đến nhà Dung coi sự thể thế nào.

Tôi biết tâm trạng của nó nên xách búa đi, để Hùng ngồi chờ bên đống lửa.

Đến giờ ăn trưa tôi trở lại thì thấy Hùng và bé Dung. Hùng nói:

- Dung đã đỡ nhiều, nhưng chưa thiệt hết, mày tính sao?

- Ngay bây giờ mình đâu có cách gì, có lẽ đêm nay mày phải đi một chuyến nữa.

Hùng dặn bé Dung đêm nay nó sẽ đem thuốc đến. Ông già phải thức chờ như lần trước.
Đêm hôm đó trời mưa dầm, đoán chừng gần tới giờ Hùng về, tôi đem bộ quần áo khô chờ nó bên ngoài. Nửa đêm mặc quần áo ước vô nhà gặp mấy thằng ăng ten thì từ chết tới bị thương.

Ở vùng khỉ ho cò gáy nầy, dân có bao giờ được uống thuốc tây cho nên Dung dù bịnh nặng chỉ uống mấy ngày thuốc là hết.

Mươi ngày sau, hai chị em Dung gặp tụi tôi ở chỗ ăn trưa. Dung có vẻ xanh sao, ốm hơn trước. Cô ngỏ lời cám ơn tụi tôi. Tôi nói:

- Tôi chẳng làm gì giúp cô đâu. Cô có cảm ơn thì cảm ơn Hùng đây
Bé Dung đã xách dao đi đốn nứa ở xa xa. Tôi nói với Hùng:

- Tao bỏ quên bịch thuốc lào ở góc cây đốn hồi nãy. Mầy ở đây với cô Dung, tao trở lại đó tìm bịch thuốc.

Tôi cầm dao đi, hai người không thèm mời tôi ở lại ăn uống mà hình như muốn tôi biến càng sớm càng tốt. Báo hại một ngày tôi nhịn đói tới chiều. Hai người nói gì không biết mà mãi tới giờ bắt buộc phải về trại họ mới chia tay nhau.

Chiều hôm đó tôi hỏi Hùng:

- Sao mậy, cá đã cắn câu chưa?

- Cá chưa cắn câu, nhưng tao bị chỉ định cư trú ở đây rồi!

Rất bất ngờ tụi tôi bị chuyển trại về tỉnh Vĩnh Phú, tôi ở trại Tân Lập, Hùng trại Vĩnh Quang. Chúng tôi không kịp từ giã ông già, Dung chị, Dung em.

Cộng sản dú tôi sáu năm rưỡi thì cho về. Là phó thường dân chắc chắn không thể xin vào làm cơ quan nhà nước. Nghề ngỗng cũng không có. Nhỏ học dốt lớn làm đại úy, buông súng ra thì chỉ còn cơ bắp. Người ta phân biệt cổ trắng, cổ xanh còn tôi làm việc nặng nhọc, thường thì ở trần trùng trục chớ có áo đâu mà cổ này cổ nọ. Qua cả chục nghề thì tới nghề xẻ gỗ. Tôi sắm được một cái máy dầu để kéo một lưỡi cưa đường kính 6 tấc. Gỗ thì mua của các xe củi, đem về xẻ ra bán cho mấy trại cưa. Một buổi chiều tôi đang xếp cây lên xe ba gác chuẩn bị đi giao thì có người vỗ mạnh vai tôi. Tôi quay lại thì thấy thằng Hùng bằng xương bằng thịt trước mắt tôi. Chúng tôi siết chặt tay nhau mà lòng chỉ muốn khóc oà lên cho đã. Tôi đưa Hùng về nhà nhậu một bữa quên trời quên đất. Sau đó Hùng từ giã tôi để tìm bà phước đã nuôi nó từ nhỏ. Mấy ngày sau nó đến nói là không tìm được bà phước nhưng có gặp mấy người bạn tù. Nó nói là đang ở chung với mấy người bạn ở gần bến xe Miền Đông. Nó lấy cây của tôi đóng một cái tủ để bán vé số, thuốc lá lẻ. Tôi đưa tiền vốn cho nó. Mỗi tuần vài ba lần tụi tôi gặp nhau để tâm sự bên xị rượu thuốc.

Một buổi sáng Hùng đến tìm tôi. Tôi thấy tay nó bị băng lại, trên mặt có vài vết bầm.

Tôi nói :

- Tụi mình già rồi mà mày còn hăng tiết vịt. Đánh lộn bị bắt vô đồn, Công an biết lý lịch của tụi mình nó xử ép mình lắm. Mà có chuyện gì vậy?

- Chiều hôm qua tao đang bán thuốc lá lẻ thì thấy 5, 6 thằng bộ đội thuê 2 chiếc xe ba gác chở đồ cho tụi nó. Đến cổng bến xe tụi nó kêu thằng Tý, thằng Cam, làm bốc vác ở bến xe, đưa hàng của tụi nó lên xe tải. Xong rồi mấy thằng bộ đội chỉ quăng có 30 đồng bạc bảo tụi thằng Tý và xe ba gác chia nhau. Tụi thằng Tý không chịu, đòi thêm, mấy thằng bộ đội không đưa thêm còn xừng xộ rồi xông vào đánh. Tao thấy tụi thằng Tý chống không nổi nên mới nhảy vào. Tao có đai đen Thái cực đạo nên một chọi một tụi nó chơi sao lại tao. Thế là 5, 6 thằng cầm cây và dao vây đánh một mình tao. Mãnh hổ nan địch quần hồ, tao bị mấy cú nhưng tụi nó bị nặng hơn tao nhiều. Thế rồi công an kéo đến, tao vọt ngay vào hẻm chạy thoát. Bây giờ mầy giúp tao một chuyện.

- Chuyện gì cũng được, trừ chuyện đi đánh lộn

- Thằng Tý, thằng Cam đang bị bắt ở đồn công an, tao muốn lãnh nó ra.

- Bằng cách nào ?

- Mày đang mướn đất của thằng Chủ tịch phường để đặt máy cưa. Mày chung chi với tụi nó quen rồi. Hơn nữa thằng trưởng đồn công an có biết mày, vậy thì bằng cách nào không biết, mày đưa tụi thằng Tý ra cho tao.

- Tụi nó có bà con dòng họ gì với mầy đâu mà mày lo cho tụi nó.

- Tao có chuyện cần tụi nó. Trước hết tao phải lo cho tụi nó ra cái đã.

Tôi lấy xe đạp lên đồn công an, tìm gặp trưởng đồn, tôi nói:

- Anh Hai cho tôi mượn chiếc xe Honda, tôi có chuyện gấp, một tiếng sau tôi đem xe lại trả.

Vì công ăn việc làm, tôi đã hối lộ cho thằng này nhiều lần cho nên nó sẵn sàng đưa chìa khóa xe cho tôi.

Tôi lấy xe chạy ngay ra tiệm sửa xe bảo họ thay hai cái vỏ đã cũ bằng hai cái vỏ mới tinh của Nhật. Xong tôi đem xe về trả. Nhìn cặp vỏ mới, thằng trưởng đồn biết tôi muốn nhờ cậy gì đây. Sẵn không có ai, nó hỏi:

- Có chuyện gì vậy ?

- Anh đang giữ thằng Tý, thằng Cam, chuyện đánh lộn ngoài đường chẳng có gì quan trọng. Anh cho tôi đóng tiền phạt lãnh tụi nó ra.

Có tiền mua tiên cũng được xá gì hai thằng du côn. Thằng Tý, thằng Cam được thả ra, tôi dặn tụi nó:

- Hùng nhờ tao lãnh tụi mày ra, có rảnh thì đến gặp nó.

Sau chuyện đó cả tháng tôi không gặp lại Hùng. Một bữa tôi đến tìm nó thì thấy xe thuốc đã dẹp rồi. Tôi vào nhà tìm thì thấy nó đang phân phát vé số cho mấy em bán vé dạo. Nó ra dấu cho tôi ngồi chờ. Đến em cuối cùng thì nó nhờ em kêu giùm hai ly cà phê sữa đá và một gói Hero. Tôi ngạc nhiên lắm:

- Sao lúc nầy mày làm ăn lớn và xài sang vậy. Chuyện như thế nào kể lại cho tao mừng.

- Mầy nhớ thằng Tý, thằng Cam chớ ?

- Nhớ, rồi sao ?

- Từ cái vụ đánh lộn hai thằng phục tao lắm, tao vẽ gì tụi nó cũng nghe. Hai thằng đó cầm đầu một đám du côn ở bến xe miền đông. Tao bảo tụi nó, đứa nào lãnh vé số của tao đi bán lẻ thì cho vô bến xe. Đứa nào không lãnh vé của tao mà lãnh chỗ khác thì không cho vô nếu cần đánh luôn. Được mấy ngày thì chỉ vé của tao là bán được còn vé của mấy chỗ khác bị trả về nhiều lắm. Được thế tao áp lực luôn thằng vé số của tỉnh. Nó phải chấp nhận giao cho tao độc quyền vé ở khu vực nầy. Bây giờ tao ngồi không mà kiếm bạc ngàn như chơi. Khỏi nói mày cũng biết là tao nuôi thằng Tý, thằng Cam kỹ lắm.

Công việc làm ăn của Hùng phất lên thấy rõ. Nó đã có xe Honda và mua được một căn nhà.

Một buổi tối, tôi và nó nhậu đã ngà ngà, nó hỏi tôi:

- Mày còn nhớ Cẩm Nhân không?

- Trại tù ở đó tao và mày đổ biết bao mồ hôi, làm sao tao quên được

- Không phải trại tù, tao muốn nói Dung, em Dung bị dịch tả.

- À, tao nhớ ra rồi, mà xa xôi quá mày ơi, lâu quá rồi chắc giờ nầy Dung đã lấy một thằng cán bộ nào đó đẻ ra một bầy con nheo nhóc.

- Không, không bao giờ. Tao tin là Dung vẫn chờ tao, dù biết là chờ đợi một thằng tù cải tạo là vô vọng. Lâu nay tao cố gắng làm ăn. Bây giờ tao có nhà, có tiền ngày mai tao sẽ đi tìm Dung.

Hùng đi hơn mươi ngày thì trở về. Nó kêu bằng được tôi ra quán nhậu.

- Hôm nay tao đãi mày uống bia chớ không uống rượu thuốc nữa, tao đang vui.

- Mày có tìm được Dung không?

- Rồi, đúng như tao đoán, em vẫn chờ tao. Tội nghiệp ông già mừng lắm, ổng giết ngay một con dê để đãi tao. Tao đã bàn với gia đình Dung là tao sẽ đưa cả nhà vô Sài Gòn sinh sống, mọi chuyện tao lo hết. Cả nhà đã đồng ý. Tao cho một tháng để ông già bán hết nhà cửa ngoài đó. Tao sẽ ra đón.

Hơn tháng sau thì Hùng đưa được cả nhà Dung vô Sài Gòn. Tôi biết là nó tốn tiền nhiều lắm. Dung chị vẫn đẹp như ngày nào, Dung em đã 18 tuổi rồi, xinh lắm.

Rồi chuyện phải đến, đám cưới Hùng Dung dù không lớn lắm nhưng rất vui, tôi đứng làm chủ hôn cho chú rể mồ côi.

Sau đám cưới cả nhà tập trung vào phân phối vé số. Công việc làm ăn ngày càng phất lên. Hơn năm sau thì Dung có bầu và đẻ ra một thằng con trai. Cả nhà mừng lắm, đặt tên cháu là Dịch, Nguyễn kinh Dịch. Tôi hỏi Hùng:

- Mày đặt tên con khó nghe quá vậy!

- Tao đặt tên Dịch để cảm ơn trận dịch tả của Dung, không nhờ căn bệnh ngặt nghèo đó làm gì tao ẵm được em. Ông già thấy tao đặt tên Dịch thì lót thêm chữ Kinh vào cho có vẻ văn hóa cổ. Ý tao còn muốn đặt tên Nguyễn Dịch Tả nữa kìa.

Bỗng một ngày Dung em chạy xe Honda tìm tôi, nhìn cặp mắt đỏ hoe của em tôi lo lắng hỏi:

- Có chuyện gì vậy em?

- Ba em mời anh đến có chút chuyện.

Tôi đến nhà thì Hùng đang lo vé số, thấy tôi nó nói:

- Ba đang chờ mày đàng sau.

Tôi đi ra nhà sau thì thấy ông già đang ngồi uống trà, chắc ông chỉ ngồi đó thôi chớ ly trà trước mặt ông vẫn còn đầy và đã nguội.

- Chào bác!

- Mời anh ngồi uống trà

- Thưa bác, có chuyện gì mà bác cho gọi…

- Nhà tôi vô phúc quá anh ạ! Tôi tin thằng Hùng thật tình thương con Dung, nên đưa cả nhà vào đây. Đúng ra thời gian qua tụi nó sống rất hạnh phúc, nào ngờ bây giờ xảy ra chuyện động trời.

- Thưa bác chuyện gì vậy?

Ông già gằn từng tiếng:

- Dung em có bầu!

Tôi sững sờ ngồi chết lặng. Trời ơi, không ngờ thằng nầy hái hoa hái cả cụm, đốn mía đốn cả bụi!

Đột nhiên Hùng đi vào:

- Thưa ba, không phải tại con đâu.

Ông già quắc mắt :

- Tại ai, tại ai nào?

- Thưa ba, hồi xây căn nhà nầy con xây cái bếp cao và sát vào bức tường kia. Khi ba vào ba nhất định bắt đập bỏ để xây cái bếp dưới đất ở giữa nhà. Mỗi bữa cơm cả nhà quay quần bên bếp lửa hồng giống như ngoài Bắc vậy. Thưa ba, vợ con thì đang đẻ, Dung em cứ chổng mông thổi lửa hoài làm sao con chịu nổi!

- Trời ơi là trời, mày lại đổ thừa cho cái bếp.

Tôi nói :

- Thưa bác chuyện đã lỡ rồi, bác làm lớn chuyện thì cũng chẳng đi đến đâu. Thôi thì trai năm thê bảy thiếp là chuyện thường. Dung chị, Dung em ở chung một nhà đỡ lo cho Bác hơn là nó đi ngoài đường. Hơn nữa con thấy thằng Hùng dư sức lo cho hai chị em Dung. Con xin bác, xin bác thương con thì thương cho trót.

- Con xin ba cưới luôn em Dung. Vợ nào cũng là vợ chỉ có chị em trong nhà chớ không có lớn bé gì cả. Con sẽ lo cho cả hai không thiếu thứ gì.

Ông già cầm tách trà nguội ngắt nuốt ực một hơi:

- Tôi chẳng còn biết nói sao !

Rồi tới chuyện làm hồ sơ để đi Mỹ theo diện HO, tôi xúi Hùng cũng làm như tôi, nó nói:

- Tao không đi Mỹ đâu. Đi Mỹ tao chỉ đem theo được một vợ, tao đâu biết bỏ lại vợ nào! Nói cho mày biết bây giờ tao giàu lắm. Ba cái vụ xổ số trúng độc đắc, cá cặp đều được dàn xếp trước cả. Tao đứng ra lo rồi chung lại cho tụi lãnh đạo. Không nói mầy cũng biết là tao phải dành phần lại cho tao. Chuyện nầy không bền đâu. Ngày nào đó tụi nó tranh ăn đấu đá lẫn nhau, có thể lôi cả tao ra nữa thì tao mất sạch Cho nên mày cứ đi Mỹ, tao bỏ hết ở đây, dẫn vợ con về Cẩm Nhân sinh sống.

Tôi ngạc nhiên :

- Người ta từ quê mong muốn ra thành, còn mầy ở thành lại muốn ra hóc núi, sao lạ vậy?

- Có gì đâu, bây giờ tao có nhiều tiền, về hóc núi tao cũng đâu thiếu thứ gì. Tao có đủ tiền để lo cho ba vợ chồng tao sung sướng đến mãn đời. Bây giờ tụi cộng sản không còn để ý tới vùng xa xôi đó nữa cho nên tao tin là sẽ sống thoải mái. Các con tao có ở đây mà mang lý lịch của tao cũng chẳng học hành được đâu.

Tôi qua Mỹ cày như trâu, nợ nần ngày càng chồng chất: nợ nhà, nợ xe, nợ TV, tủ lạnh, nợ cạc xanh, cạc đỏ…thôi thì đủ thứ nợ. Tôi ráng dành dụm mấy năm trời mới đủ tiền về Việt Nam ra Cẩm Nhân thăm gia đình thằng Hùng. Nó sống như một ông hoàng. Nó cất một cái nhà sàn cột to đúng ngay cạnh bờ hồ. Có một chiếc tàu gắn máy Yamaha 150 ngựa để chở vợ con đi chơi. Trên bờ nó nuôi cả một bầy ngựa chớ không phải một hai con. Nuôi ngựa để cỡi đi chơi chớ đâu có bán. Trong nhà không thiếu thứ gì: máy phát điện, TV, karaoke và một cái bếp nằm ở giữa nhà…

Ai bảo chăn trâu là khổ ?


Pilot Dỏm


Đỗ Hứng gởi