Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh


 

Bài Ca Túi Da
 

Ghi chú: Hòa Thượng Hư Vân (1849-1959), viết bài ca này vào năm 19 tuổi để lại cho hai người vợ và bỏ nhà ra đi xuất gia tu đạo. Cuộc hôn nhân do ép buộc và ngài không bao giờ gần gủi họ. Về sau, do cảm động về Đạo đức của ngài, hai người vợ này đã xuất gia trở thành Tỳ kheo ni.

Bài ca túi da (1), túi da hề !
Trước thưở kiếp không (2), chẳng sắc danh,
Quá Phật Uy-Âm thành ngăn ngại.(4)
Ba trăm sáu chục dây gân kết,
Tám vạn bốn ngàn lỗ chân lông.
Phân tam tài, hợp tứ đại,
Đội trời đạp đất bao khí thế!
Biết nhân quả, biện thời thế,
Quán sát cổ kim chỗ tối tăm.
Bởi gốc mê lầm chấp hư huyễn,
Lụy cha mẹ, luyến vợ con,
Theo vô minh kết thành oan nghiệt.

Bài ca túi da, túi da hề!
Uống rượu ăn thịt, loạn tâm tánh.
Chạy theo dục lạc, thân bại hoại.
Làm quan ỷ thế hiếp đáp dân
Nghề buôn khôn khéo thành gian dối
Phú quý kiêu sa được mấy hồi.
Nghèo khó hiểm nguy phút chốc tới.
Phân biệt ta người, thiếu bình đẳng,
Hại vật, sinh linh, coi cỏ rác.
Nghĩ suy thường nhật tham, sân, si
Đường tà chìm nổi thành tự hoại
Giết hại, trộm cắp, tà dâm, dối
Nghiệp ác mặc tình, tùy sở thích Ngạo mạn thân hữu phân yêu ghét.
Rủa trời đất, khinh miệt quỷ thần
Chuyện sanh tử mê mờ tai hại
Ra khỏi thân trâu, vào thai ngựa
Đổi hình hài nào ai thương xót
Chẳng tu phước, tạo nhiều bất thiện
Sống cuồng, chết uổng, mãi trôi lăn
Ba nẻo ác, này địa ngục,
Này quỷ, này thú, khổ tột cùng.
Thánh hiền xưa, từng nhắc nhở
Sớm tối chuông ngân động tâm can.
Ác thiện, quả báo phân định rõ,
Cảnh tỉnh thế gian lìa ngũ trược.

Bài ca túi da, túi da hề!
Coi đời huyễn, giả danh, đối đãi
Sớm hồi tâm an nhiên tự tại
Chẳng ham danh, chẳng ham lợi
Lìa gia đình, bỏ đời dục lạc
Dứt mọi tình luyến ái vợ con
Vào cửa không, theo Phật giới,
Tìm minh sư, cầu khẩu quyết,
Tham thiền nhập định siêu ba cõi.
Âm thanh, sắc tướng, tắt mọi duyên
Thôi hết đua tranh đời thế tục.
Hàng phục sáu căn bặt nghĩ suy.
Chẳng ta, chẳng người, chẳng phiền não.
Khác người trần than đời chóng vánh.
Áo cốt che thân, ăn khi đói.
Tạm nương nhờ, gìn giữ sắc thân.
Bỏ tài sản, khinh thân mạng
Như đàm, dãi, nhổ không do dự.
Giữ tịnh giới không sơ sót,
Ngọc trắng băng trong, bốn oai nghi.
Mắng không giận, đánh không hận.
Nhẫn điều khó nhẫn chẳng bận lòng
Mặc nắng mưa, không gián đoạn
Thủy chung một niệm A-Di-Đà.
Không hôn trầm, không tán loạn
Xanh như tùng bá giữa trời đông.
Chẳng nghi Phật, không nghi pháp
Thấy, nghe, biết tận điều chân thực
Xuyên thủng bìa, thấu da trâu
Một tâm trong sáng hiện tròn đầy.
Ấy về nguồn! Ấy là giải thoát!
Ấy là thiên chơn, gốc nguyên sơ.
Chẳng phải trống không, chẳng không có.
Thấu lộ linh cơ bao mầu nhiệm.
Đạt cảnh giới đó chẳng oan uổng.
Xong rồi! Nhân gieo nay đã trổ
Mới xứng hùng danh đại trượng phu
Đủ mười danh hiệu Thầy Vạn Đời.

Ô hay ! Cũng xác này hư huyễn
Mười phương thế giới hiện toàn thân.
Thiện ác rõ bày không lầm lẫn.
Cớ sao y giả chẳng nương chân?
Từ thái cực, phân lưỡng nghi
Tâm linh hoạt bát, chuyển càn khôn.
Kiếp xưa tu nay thành vua chúa.
Giầu có sang hèn bởi túc nhân
Đã có sanh, ắt là có tử.
Than thở chi, ai nấy đều hay.
Tiền cho vợ, lộc cho con
Tham sân làm hỏng đời mai hậu.
Đuổi theo danh, cầu được lợi
Uổng phí thời gian mười chín năm.
Muôn ngàn vạn thứ chuyện trái ý,
Đọa đầy người thế lắm gian truân.
Cảnh già tới, mắt mờ tóc bạc
Uổng một đời điều thiện chẳng hay.
Ngày lại tháng, tháng lại năm
Luyến tiếc chẳng nguôi năm tháng qua.
Dám hỏi người đời ai sống mãi?
Chi bằng nương tựa bóng từ vân.
Hoặc tại danh sơn, nơi thắng địa
Tiêu dao tự tại bước nhàn du.
Vô thường chớp nhoáng chi đáng kể,
Nghiền ngẫm đôi câu được dặn dò,
Niệm Di-Đà, dứt sanh tử.
Khinh khoái trong lòng chẳng giống ai.
Học tham thiền, vững tông chỉ
Tinh thần vô hạn chỉ bấy nhiêu.
Trà thanh, cơm đạm, tâm an tịnh
Một niềm vui pháp trọn đêm ngày.
Chẳng ta, chẳng người, chẳng nầy nọ
Thân, oán, khen, chê, coi bình đẳng.
Không chướng ngại, không xấu hổ.
Phật Tổ một lòng há chuyện chơi?
Thế tôn cắt ái lên núi tuyết,
Quán Âm lìa nhà làm con Phật.
Đời Nghiêu Thuấn có Hứa,
Nghe chuyện nhường ngôi vội rửa tai.
Trương Tử Phòng, Lưu Thành Ý
Cũng bỏ công danh du sơn thủy.
Huống nay mạt kiếp, nhiều gian khổ
Thấy người xưa sao không tỉnh ngộ?
Theo vô minh, tạo thập ác.
Phí tâm cơ rước về tai họa.
Nào nạn đao binh, nào ôn dịch,
Nạn đói chưa hết đến chiến tranh.
Càng quái đản càng nhiều yêu nghiệt.
Động đất, sóng thần, núi lở sụt.
Rủi lâm cảnh huống biết làm sao!
Kiếp xưa tạo ác là như vậy.
Chẳng cho xứng ý lạc đường mê

Khởi tâm lành,
Bước vào cửa không, lễ Pháp Vương
Gặp khi hoạn nạn khởi tâm lành.
Sám hối nghiệp tội tăng thêm phước.
Bái minh sư, cầu ấn chứng
Thoát vòng sanh tử minh tâm tánh,
Khám phá vô thường lại là thường
Đường tu, trong pháp lại có pháp.
Hiền thánh khuyên đời để chữ lại
Ba tạng kinh điển tôn quý thay!
Mấy lời tâm huyết, phơi gan ruột.
Dám mong người thế giữ đường ngay.
Xin đừng coi nhẹ, nên ghi nhớ!
Hết lòng tu, kiến tánh có ngày
Tu gấp gáp, năng tinh tấn.
Gieo giống bồ-đề là chánh nhân.
Sanh về chín phẩm, Phật chứng giám
Di-Đà tiếp dẫn đến Tây phương.
Túi da bỏ lại, siêu thượng thừa.
Bài ca túi da! Xin lắng nghe!

Chú thích: 1.Thân người được ví như cái túi da. 2. Kiếp không: Đây là một trong 4 kiếp mà thế giới trải qua. Đó là các kiếp thành, kiếp trụ, kiếp hoại, kiếp không, rồi một chu kỳ khác, thành-trụ-hoại-không lại bắt đầu. Đây là thời kỳ thế giới chưa hình thành, vạn vật chưa sanh ra. 3. Chẳng có hình sắc, chẳng có tên gọi. 4. Phật Uy-Âm : Uy-Âm Pháp Vương là tên chung của vô số lượng vị Phật lần lượt xuất hiện theo chu kỳ các đại kiếp. Mỗi lần Phật Uy Âm trụ thì kiếp đó không có các khổ nạn, như nghèo khó, đói kém, ôn dịch, thiên tai v.v. 5. “Xuyên thủng bìa” ngụ ý đi sâu vào kinh tạng, hiểu trọn nghĩa kinh; “thấu da trâu” dụ cho nghĩa phá thủng màn vô minh, chứng được chân lý.

 
Bồ đề hải 
St Kiến Con

________________


Hoang Nguyen gởi