Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh
Bai Van Khuyen Phat Bo De Tam Tiep Theo 1
Bai Van Khuyen Phat Bo De Tam Tiep Theo 1
Bai Van Khuyen Phat Bo De Tam Tiep Theo 1 Bai Van Khuyen Phat Bo De Tam Tiep Theo 1
Bai Van Khuyen Phat Bo De Tam Tiep Theo 1
Bài Văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm
Bai Van Khuyen Phat Bo De Tam Tiep Theo 1
Bai Van Khuyen Phat Bo De Tam Tiep Theo 1
Đại Sư Thật Hiền soạn


Bài Văn Khuyên Phát Bồ Đề Tâm


Đại Sư Thật Hiền Soạn

Hòa Thượng Tuyên Hóa Lược Giảng

 

Nguyên Văn:

Tâm Bồ đề này là vua trong các pháp lành, phải có nhân duyên mới phát khởi được. Nhân duyên ấy, nay nói tóm lược thì có mười thứ . Mười thứ nhân duyên ấy là gì ? Một là nhớ ơn sâu nặng của Ðức Phật, Hai là nhớ ơn cha mẹ, Ba là nhớ ơn sư trưởng, Bốn là nhớ ơn thí chủ, Năm là nhớ ơn chúng sanh, Sáu là nhớ khổ sanh tử, Bảy là vì tôn trọng linh tánh của mình, Tám là sám hối nghiệp chướng, Chín là cầu sanh Tịnh độ, Mười là vì mong muốn làm cho Phật pháp tồn tại lâu dài.

Giảng:

Tâm Bồ đề này là vua trong các pháp lành : Tâm Bồ đề này, là tâm trí huệ mà mọi người chúng ta đang tìm cầu. Bồ đề là giác đạo, giác đạo thì trái ngược với không giác đạo. Chúng ta là chúng sanh thì không giác, nếu giác rồi thì sẽ phát tâm Bồ đề ; không giác thì sẽ không biết phát tâm Bồ đề. Tâm Bồ đề này là Vua trong các pháp lành, bất luận chúng ta làm bất cứ việc lành nào cũng không quan trọng bằng việc phát tâm Bồ đề. Vậy thì phát tâm Bồ đề, nhất định phải có nhân duyên mới phát khởi được, cho nên nói phải có nhân duyên mới phát khởi được : nhân là nhân của hột giống, duyên là trợ duyên giúp đỡ tâm Bồ đề. Nhân là chánh nhân quan trọng, duyên là trợ duyên giúp đỡ cho chánh nhân này phát triển.

Tại sao cần phải phát tâm Bồ đề ? Nhân duyên ấy, nay nói tóm lược thì có mười thứ : Nay nói nhân duyên ấy có mười thứ. Mười thứ nhân duyên ấy là gì ?

Một là nhớ ơn sâu nặng của Ðức Phật : Chúng sanh không biết ân đức từ bi hỷ xả của Ðức Phật đối với chúng ta, ân này không thể nào hình dung được, không có ngôn ngữ nào có thể diễn tả được, vì thế ân này "trọng" nhất, sâu nặng nhất. Bạn xem, Ðức Phật tu phước huệ trong ba tăng kỳ kiếp, trăm kiếp vun trồng các tướng tốt, chỉ là muốn cứu độ chúng ta là những chúng sanh hiện tiền lìa khổ được vui, cho nên trước tự mình phải lấy thân làm gương tu hành, trải qua các thứ khổ cực gian nan, đủ thứ cảnh giới không thể nhẫn, khó chịu đựng, cho nên ân đức của Phật là sâu nặng nhất.

Hai là nhớ ơn cha mẹ : Ân đức của Phật không dễ đáp đền, chúng ta cần phải phát tâm Bồ đề để đền đáp ân đức của Phật ; còn cha mẹ đối với chúng ta cũng có ân đức sâu dày, cha mẹ sanh ta ra, mười tháng mang thai, ba năm bú mớm, sau đó lại nuôi dưỡng chúng ta lớn lên thành người, đó cũng là ân trọng không dễ dàng báo đáp.

Ba là nhớ ơn sư trưởng : Ân đức thứ ba chính là phải nhớ ơn Sư trưởng. Sư là những bậc Thầy mà chúng ta theo học pháp, học trí huệ. Thầy từ từ dẫn dắt, dạy dỗ chỉ bảo chúng ta, ân này chúng ta cũng cần phải báo đáp.

Bốn là nhớ ơn thí chủ : Thí chủ là những người hộ pháp ; chúng ta xuất gia tu hành học đạo, thí chủ hộ pháp hộ trì chúng ta tu hành học đạo, ân này cũng rất nặng. Nếu chúng ta không phát tâm Bồ đề, thì "tam tâm bất liễu thủy nan tiêu", nếu không quét sạch ba tâm, thì dù có uống một miếng nước của thí chủ cúng dường cho, thì cũng không dễ tiêu được, nên nhân duyên thứ bốn là phải nhớ ân thí chủ.

Năm là nhớ ơn chúng sanh : Chúng sanh đối với ta cũng đều có ân, tất cả chúng sanh hoặc là có mối quan hệ tương đương với chúng ta, cho nên chúng ta cũng cần phải báo ân.

Sáu là nhớ khổ sanh tử : Thứ sáu là nhớ khổ sanh tử chúng ta cũng cần phải phát tâm Bồ đề.

Bảy là vì tôn trọng linh tánh của mình : Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có thể làm Phật. Chúng ta đã có Phật tánh thì nên phát tâm Bồ đề, viên mãn thành tựu Phật tánh của chúng ta, cho nên cần phải tôn trọng giác tánh linh minh vốn có của mình.

Tám là sám hối nghiệp chướng : Nhân duyên thứ tám phát Tâm Bồ đề là phải sám hối nghiệp chướng của mình, khiến cho nghiệp chướng tiêu trừ.

Chín là cầu sanh Tịnh độ : Cầu sanh thế giới Tây phương Cực Lạc, được gặp Ðức Phật A Di Ðà.

Mười là vì mong muốn làm cho Phật pháp tồn tại lâu dài : Chúng ta phát tâm Bồ đề tu hành học đạo, lại có thể chân chánh tu đạo, đó chính là chánh pháp tồn tại lâu dài ; nếu không phát Tâm Bồ đề tu hành học đạo, thì chánh pháp không thể trụ thế lâu dài.

Có mười loại nhân duyên như thế, cho nên bất luận là người nào cũng nên phát tâm Bồ đề, khiến cho tâm Bồ đề sanh ra. Không nên cho rằng chúng ta tu hay không tu, không có quan hệ gì đến người khác ; chúng ta cùng với khắp cả thế giới đều có mối quan hệ lẫn nhau. Cho nên nếu chúng ta phát tâm Bồ đề, thì Phật pháp sẽ tồn tại lâu dài ở thế gian này ; không phát tâm Bồ đề thì Phật pháp sẽ mất đi.

I. Nhớ Ơn Sâu Nặng Của Ðức Phật

Nguyên Văn:

Thế nào là nhớ ơn nặng của Phật? Ðức Phật Thích Ca Như Lai của ta, lúc mới phát tâm, đã vì chúng ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực. Khi ta tạo nghiệp, Ðức Phật xót thương, phương tiện giáo hóa, mà ta ngu si, không chịu tin theo. Ta đọa địa ngục, Phật càng thương xót, muốn thay ta chịu lấy khổ sở, nhưng vì nghiệp ta quá nặng, không thể cứu vớt. Ta sinh làm người, Phật dùng phương tiện khiến cho ta gieo trồng căn lành.

Ðời đời kiếp kiếp, Phật luôn theo ta, lòng không tạm bỏ chốc lát. Khi Phật xuất thế ta còn trầm luân, nay được thân người Phật đã diệt độ. Tội lỗi gì mà sinh vào thời mạt pháp, phước đức nào lại được dự vào hàng ngũ xuất gia, nghiệp chướng gì mà không thấy được thân vàng của Phật, may mắn nào lại được cung nghinh xá lợi của Ngài. Suy nghĩ như vậy mới thấy, nếu đời quá khứ không gieo trồng căn lành thì làm sao được nghe Phật pháp, không nghe Phật pháp thì làm sao được biết thường thọ ân đức của Phật. Ân đức này, núi non cũng khó sánh bằng. Nếu không phát tâm quảng đại, hành Bồ tát đạo, xây dựng hộ trì Phật pháp, cứu độ chúng sanh, thì dù cho tan xương nát thịt cũng không thể đền đáp được. Ðó là nhân duyên thứ nhất của sự phát Tâm Bồ đề.

Giảng:

Thế nào là nhớ ơn nặng của Phật? Nhân duyên thứ nhất, ở trên đã nói sơ lược về ý nghĩa nhớ ơn sâu nặng của Phật. Sao gọi là nhớ ơn sâu nặng của Phật ? Dưới đây sẽ trình bày rõ ràng. Ðức Phật Thích Ca Như Lai của ta, lúc mới phát tâm, đã vì chúng ta mà tu Bồ tát đạo : Vị là nói, là những điều được nói. Nói cái chi ? Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni của chúng ta, nguyên nhân ban đầu phát Tâm Bồ đề là gì ? Chính là muốn cứu độ chúng ta là những chúng sanh hiện đời, Ngài mới hành Bồ tát đạo ; hành Bồ tát đạo chính là muốn lợi người, đời đời kiếp kiếp đều vì làm lợi ích cho người. Trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực : trải qua thời gian dài đăng đẳng vô lượng kiếp, nhiều kiếp đếm khôn xiết, trong thời gian ba tăng kỳ kiếp tu phước tu huệ, chịu đựng các thứ khổ cực đắng cay.

Khi ta tạo nghiệp : khi chúng ta tạo nghiệp, Ðức Phật xót thương, phương tiện giáo hóa : Ðức Phật thương xót chúng ta, cho nên Phật muốn thay chúng sanh chịu khổ, Phật muốn đem cái khổ của chúng sanh làm cái khổ của mình. Ðối với nghiệp mà chúng ta đã tạo, Phật đều thương xót tha thứ cho chúng ta, Ngài dùng các thứ phương tiện quyền xảo, thí dụ thuyết minh để giáo hóa chúng ta, khiến chúng ta sửa ác làm lành, sửa lỗi làm mới cuộc đời, phát Tâm Bồ đề. Mà ta ngu si, không chịu tin theo : Phật từ bi đối với chúng ta như thế, mà chúng ta quá ngu si, rất dại khờ, không hiểu rõ ân đức của Phật đối với chúng ta, vì thế không tiếp nhận sự giáo hóa của Ngài.

Ta đọa địa ngục : Khi ta mới đọa địa ngục, Phật càng thương xót, muốn thay ta chịu lấy khổ sở : Phật nhìn thấy chúng sanh đọa địa ngục, đau khổ bi thương giống như chính mình đọa địa ngục vậy ; cho nên Phật nguyện xuống địa ngục để thay chúng ta chịu khổ. Nhưng vì nghiệp ta quá nặng, không thể cứu vớt : Nhưng vì nghiệp chướng của chúng ta quá nặng nề, thậm chí ngay cả Ðức Phật cũng không cách nào cứu vớt.

Ta sinh làm người : Ðức Phật dùng đủ cách cứu chúng ta ra khỏi địa ngục, chúng ta nay lại được sanh vào cõi người. Phật dùng phương tiện khiến cho ta gieo trồng căn lành : Bấy giờ Phật lại dùng đủ thứ pháp môn phương tiện quyền xảo dạy chúng ta gieo trồng thiện căn. Ðời đời kiếp kiếp, Phật luôn theo ta, lòng không tạm bỏ chốc lát : trong kinh Hoa Nghiêm, Bồ tát vì giáo hóa một chúng sanh, chúng sanh đọa vào địa ngục, Bồ tát cũng theo đó mà vào địa ngục ; chúng sanh vào cõi súc sanh, Bồ tát cũng theo đó mà làm súc sanh, chúng sanh chuyển vào đường ngạ quỷ, Bồ tát cũng theo đó mà làm ngạ quỷ, ảnh hưởng Bồ tát phát Tâm Bồ đề, ảnh hưởng Bồ tát tu hành ; chúng sanh làm người, Bồ tát cũng theo chúng sanh làm người. Cứ như thế đi theo chúng sanh mà chịu khổ, theo chúng ta, trong tâm một giờ một khắc cũng không bỏ chúng ta.

Khi Phật xuất thế ta còn trầm luân : Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni khi mới xuất thế, ta còn trầm luân ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Thượng có nghĩa là vẫn còn. Nay được thân người Phật đã diệt độ : Nay ta nương nhờ oai đức của Phật được làm người, thì Phật đã vào Niết bàn.

Tội lỗi gì mà sinh vào thời mạt pháp ? Chúng ta nhất định có tội rất lớn, nên mới sanh vào thời mạt pháp ; nếu không phải tội lỗi lớn như thế, thì chúng ta lẽ ra đã được gặp Phật nghe pháp. Phước đức nào lại được dự vào hàng ngũ xuất gia : Nhưng nay chúng ta lại được xuất gia – Bài "Văn phát Tâm Bồ đề" này là nói cho người xuất gia, cho nên chúng ta cũng rất là có phước. Tuy có tội nhưng cũng là có phước ; vì có phước, nên hôm nay chúng ta mới được xuất gia.

Nghiệp chướng gì mà không thấy được thân vàng của Phật ? Chúng ta nay nay có nghiệp chướng gì mà không nhìn thấy thân vàng của Phật ? May mắn nào lại được cung nghinh xá lợi của Ngài. ? Chúng ta lại có may mắn nào, ở trong thời mạt pháp này lại có thể nhìn thấy Xá lợi của Phật.

Suy nghĩ như vậy mới thấy, nếu đời quá khứ không gieo trồng căn lành thì làm sao được nghe Phật pháp ! Có sự suy nghĩ như thế này, nếu như xưa kia, trong kiếp quá khứ không gieo trồng căn lành, ngày nay chúng ta nhất định không thể nghe được Phật pháp.

Không nghe Phật pháp thì làm sao được biết thường thọ ân đức của Phật ! Nếu chúng ta không nghe được Phật pháp, không hiểu được Phật pháp, thì chúng ta cũng không biết được ân đức lớn lao của Phật đối với chúng ta. Ân đức này, núi non cũng khó sánh bằng ! Ðức lớn ân sâu của Phật đối với chúng ta, núi cao cũng không thể sánh nổi ; biển cả cũng không sâu rộng bằng.

Nếu không phát tâm quảng đại, hành Bồ tát đạo : Vì ân đức của Phật đối với ta lớn lao như thế, nếu chúng ta không phát tâm quảng đại, hành Bồ tát đạo, Xây dựng hộ trì Phật pháp, cứu độ chúng sanh : kiến lập Phật pháp, cứu độ chúng sanh. Thì dù cho tan xương nát thịt cũng không thể đền đáp được !Nếu không hoằng dương Phật pháp, không xây dựng Phật pháp, không hộ trì Phật pháp, thì dù có tan xương nát thịt cũng không đền đáp được ân đức của Phật.

Ðó là nhân duyên thứ nhất của sự phát Tâm Bồ đề : Vì thế nhân duyên thứ nhất trong mười nhân duyên chính là nhớ ân sâu của Ðức Phật mà cần phải phát Tâm Bồ đề.

 II. Nhớ Ơn Cha Mẹ 

Nguyên Văn:

Thế nào là nhớ ơn cha mẹ? Thương thay cha mẹ sinh ta khó nhọc, mười tháng mang thai ba năm bú mớm, nhường khô nằm ướt, nuốt đắng nhả ngọt, mới được nên người. Mong ta tiếp nối gia phong, lo phần tế tự. Mà nay ta đã xuất gia, lạm xưng Thích tử, nhục hiệu Sa môn, đồ ngon vật ngọt đã không phụng dưỡng, cúng tế chạp tảo càng không chu tất. Cha mẹ còn sống, ta đã không thể nuôi dưỡng, khi cha mẹ qua đời, ta lại không thể hướng dẫn thần thức. Ðối với phương diện thế gian là sự tổn lớn, đối với phương tiện xuất thế lại không có ích chi. Hai đường đều tổn thất thì tội nặng khó thoát. Suy nghĩ như thế, chỉ có có cách trong trăm đời ngàn kiếp thường hành Phật đạo, mười phương ba đời khắp độ chúng sanh. Ðược như thế thì không phải chỉ cha mẹ một đời, mà song thân nhiều đời nhiều kiếp đều được độ thoát; không phải chỉ cha mẹ một người, mà song thân tất cả mọi người cùng được siêu thăng. Ðó là nhân duyên thứ hai của sự phát Tâm Bồ đề.

Giảng:

Thế nào là nhớ ơn cha mẹ ? Ở trên đã nhắc qua về ân đức cha mẹ, nay ở đây giải thích. Thương thay cha mẹ sinh ta khó nhọc : Ðây là nói chúng ta đối với cha mẹ thường có lòng thương nhớ ; cha mẹ cũng thương nhớ ta, "sanh ta khó nhọc", đây là câu trong Thi kinh : "Ai ai phụ mẫu, sanh ngã cù lao…… dục báo chi đức, hạo thiên võng cực". Có nghĩa là "Thương thay cha mẹ, sinh ta khó nhọc, muốn báo ân đức của cha mẹ, nhưng ân đức của cha mẹ sâu nặng như trời cao bể rộng thật khó đáp đền". Mười tháng mang thai ba năm bú mớm : Nếu nói mười tháng mang thai, ba năm bú mớm thì không hay, nên nói "mười tháng ba năm, mang thai bú mớm".

Nhường khô nằm ướt : Từ chỗ ướt đưa đến chỗ khô, chứ không phải đẩy ra khỏi chỗ khô. Ðiều này rất đơn giản, không có cách giảng đặc biệt nào, người mẹ nuôi đứa con thơ chính là nhường khô nằm ướt như thế. Nuốt đắng nhả ngọt, mới được nên người : Nuốt đắng, chính là có cái gì đắng cay, có gì khó khăn mẹ đều nuốt lấy, chịu lấy. Nhả ngọt, có gì ngọt bùi cho con. Tận tâm kiệt lực bồi dưỡng nuôi nấng con thơ như thế, con thơ mới được lớn lên thành người. Mong ta tiếp nối gia phong, lo phần tế tự : Sanh con dưỡng cái chính là hy vọng cha truyền con nối, đời nọ nối tiếp đời kia, có người hương khói, nối dõi tông đường, sau này lo phần cúng tế tổ tiên. Chỉ vọng, là dùng tay chỉ đầu, dùng mắt nhìn. "Thiệu" cũng giống như thiệu long Phật chủng, tiếp nối một cách rạng rỡ dòng giống của Phật, "Thiệu" có nghĩa là tiếp tục kế tục. Tục là làm cho nó nối tiếp không để gián đoạn. Môn phong, là phong thái nề nếp gia đình.

Mà nay ta đã xuất gia, lạm xưng Thích tử: Nhưng nay chúng ta đã xuất gia, cũng không quản đến việc có đủ tư cách làm con Phật hay không, lạm vu sung số (1), nói rằng : "A! chúng ta đã là đệ tử của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni". Nhục hiệu Sa môn (Thiểm hiệu Sa môn) : Thiểm, là không biết tàm quý, không biết xấu hổ. Nghĩa là tôi không đủ tư cách, không đáng làm Sa môn, nhưng tôi cũng mạo sung, lạm vu sung số, cũng được gọi là Sa môn. Sa môn là Tỳ Khưu, dịch là Cần Tức, có nghĩa là cần tu giới định huệ, tức diệt tham sân si.

Đồ ngon vật ngọt đã không phụng dưỡng, cúng tế chạp tảo càng không chu tất : Ðối với cha mẹ, chúng ta không chút dưỡng nuôi, không có đem sức của ta để phụng dưỡng; đến khi cha mẹ qua đời, cũng không tảo mộ, cũng không lo phần cúng giỗ. Cha mẹ còn sống, ta đã không thể nuôi dưỡng, khi cha mẹ qua đời, ta lại không thể hướng dẫn thần thức : Khi cha mẹ còn sống, ta đã không thể phụng dưỡng. Sau khi cha mẹ qua đời, ta cũng không thể dẫn đạo tiếp dẫn thần thức của cha mẹ đến nơi an lạc.

Ðối với phương diện thế gian là sự tổn lớn, đối với phương tiện xuất thế lại không có ích chi : Ðối với thế gian pháp, tức là đối với một vài vấn đề xã hội mà nói, thì đây là một tổn thất lớn. Mà chúng ta xuất thế cũng tu hành không thành công, nên đối với cha mẹ cũng không có giúp đỡ gì. Hai đường đều tổn thất thì tội nặng khó thoát : Hai đường tức là hai đường sanh tử. Khi cha mẹ còn sống ta không phụng dưỡng, khi chết rồi cũng không cúng tế ; sau khi xuất gia lại không quản đến cha mẹ ở nhà, hai phương diện này đều tổn thất lớn. Cho nên tội này rất lớn, thật khó tránh khỏi.

Suy nghĩ như thế : Suy nghĩ như thế, chúng ta phải nên làm sao ? Chỉ có có cách trong trăm đời ngàn kiếp thường hành Phật đạo : Chỉ có cách trong trăm đời ngàn kiếp cần phải tu hành Phật đạo, thường y theo Phật pháp tu hành. Mười phương ba đời khắp độ chúng sanh : Không chỉ mười phương mà trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, đều phải độ khắp tất cả chúng sanh, mới có thể báo đáp ân sâu của cha mẹ.Ðược như thế thì không phải chỉ cha mẹ một đời, mà song thân nhiều đời nhiều kiếp đều được độ thoát : cha mẹ đời đời kiếp kiếp đều được độ thoát. Không phải chỉ cha mẹ một người, mà song thân tất cả mọi người cùng được siêu thăng : Cho đến cha mẹ của mỗi người đều được sanh thiên. Chúng ta nếu như tu hành chân chánh "một người con đắc đạo, cửu huyền thất tổ siêu thăng", cho nên chúng ta cần phải dụng công tu hành, thì không những cha mẹ đời đời kiếp kiếp trong thời quá khứ, cho đến song thân của mọi người, chúng ta cũng đều khiến cho họ được siêu thăng.

Ðó là nhân duyên thứ hai của sự phát Tâm Bồ đề : Ðây là nhân duyên thứ hai của sự phát tâm Bồ đề.

III.  Nhớ Ơn Sư Trưởng

Nguyên Văn:

Thế nào là nhớ ơn sư trưởng? Cha mẹ tuy sinh dưỡng sắc thân ta, nhưng nếu không có sư trưởng thế gian thì không hiểu biết lễ nghĩa; không có sư trưởng xuất thế thì không hiểu Phật pháp.

Giảng:

Thế nào là nhớ ơn sư trưởng ? Như thế nào là báo ân Sư trưởng ? Ðoạn văn trên nói về báo ân cha mẹ, cha mẹ sanh ta, ta nên báo ân ; vậy Sư trưởng không có sanh ta, ta phải báo ân gì ? Cho nên nói "thế nào là báo ân Sư trưởng", là từ để hỏi, chính là hỏi mọi người vấn đề này. Chữ "Sư" chính là quy tắc theo Thầy học pháp độ, quy tắc "Sư phụ" là trưởng bối. Trong nhân luân Sư là trưởng bối, bạn quy y Sư phụ, vậy vô hình trung bạn chính là vãn bối.

Cho nên tôi không dạy người quy y tôi, cũng chính vì điều đó ; nếu tôi dạy người quy y tôi, người ta sẽ hỏi :

- Thầy có đủ tư cách làm Sư phụ không ? Có phải là Thầy muốn kiếm lợi chăng? muốn làm Sư phụ của tôi lớn để hơn tôi một vế à ?

Vậy thì bạn phải trả lời như thế nào ? Cho nên từ trước đến nay tôi không dạy một người nào quy y tôi. Tôi cũng rất xấu hổ vì tôi cảm thấy nếu thu nhận một đệ tử quy y mà không dùng chánh pháp để giáo hóa họ, không thể độ họ, thì sẽ có lỗi với họ. Vậy nếu tôi dùng chánh pháp dạy họ, nhưng họ không có tâm chân thành, không nghe lời dạy của tôi, tôi phải làm sao đây ? Vì thế đây cũng là một trong những nguyên nhân mà tôi không dạy người quy y tôi. Quý vị nhìn thấy nay có rất nhiều người quy y tôi, mà quý vị nên tự hỏi, trong quý vị ai là người mà tự miệng tôi bảo đến quy y với tôi ? Thậm chí đối với những người quy y với tôi, tôi đều muốn xem xét, thử thách. Vốn muốn từng người từng người khảo sát, nhưng có lúc người quy y quá đông tôi cũng không xem xét nổi, nên đành qua loa, nhắm lại một mắt : "Ðược rồi ! đều hứa khả" chính là như thế. Ở Mãn Châu, Hương Cảng, tôi nhận đệ tử quy y, trước cần phải nói chuyện với họ, hỏi họ tại sao muốn quy y với tôi.

Không chỉ đối với người như thế, mà đối với quỷ cũng như thế. Thật vậy ! Tôi ở Hương Cảng có nhận quỷ làm đệ tử quy y. Quỷ này, nói đến thật là việc bất khả tư nghì. Có người bệnh, người nhà đi thỉnh Thầy tụng kinh. Thỉnh bảy Thầy, bảy Thầy mặc áo tràng, đắp thượng y, đến nơi đó bày bàn, đọc kinh Kim Cang, Ðại Bi chú, rồi niệm : "Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a ri da……", một ngày cho đến tối "Nam mô, Nam mô, Nam mô" không ngừng. Tụng Kim Cang cũng vậy : "Như thị ngã văn, nhứt thời Phật tại Xá Vệ quốc, Kỳ Thọ Cấp Cô Ðộc viên, dữ đại Tỷ kheo chúng thiên nhị bách ngũ thập nhơn câu. Nhĩ thời, Thế Tôn thực thời, trước y trì bát, nhập XáVệ đại thành khất thực. Ư kỳ thành trung, thứ đệ khất dĩ, hoàn chí bổn xứ. Phạn thực ngật, thâu y bát, tẩy túc dĩ, phu tòa nhi tọa." nhưng mà quỷ không có chịu nghe cách này, Thầy trải tòa mà ngồi thì nó cũng trải tòa mà ngồi, làm cho bảy Thầy tụng bảy ngày kinh chú cũng không ra được khỏi nhà.

Trong bảy Thầy này có người giới thiệu tôi, nói : "Ông muốn cho anh ta hết bệnh, thì phải đi thỉnh Hòa thượng đó".

Người này cũng tin tưởng lời của Thầy, nên đến Quan Âm động thỉnh tôi. Lần thứ nhất thỉnh tôi, tôi không nhận lời ; lần thứ hai thỉnh tôi cũng không nhận lời ; lần thứ ba đến trước mặt tôi quỳ không đứng lên, thỉnh cầu tôi nhất định phải giúp đỡ, tôi bèn nói :

- Ðược rồi ! Ông thành tâm như thế tôi sẽ đi.

Ðến nơi, thấy bệnh nhân đang nằm trên giường cùng với các Thầy đấu pháp ! Các Thầy tụng kinh ông ta cũng tụng kinh ; các Thầy niệm chú ông ta cũng niệm chú, lắc lắc lư lư, ra vẻ đắc ý kiêu ngạo! Tôi ngồi bên giường bệnh im lặng khoảng 15 phút. Chà ! Lúc đó người dẫn quỷ, quỷ dắt người đến quỳ trước mặt tôi. Lúc đó tôi có xâu chuỗi niệm Phật bèn choàng vào người bệnh; khi bị choàng vào xâu chuỗi của tôi, ông ta liền nói :

- Ai da ! Pháp sư ! Thầy tha thứ cho con, con không dám nữa !

Tôi nói :

- Ông tại sao thế !

- A ! con dường như sắp bị xâu chuỗi của Thầy thiêu cháy rồi.

- Tôi mang tại sao không bị thiêu ? Ông mang vào tại sao bị thiêu.

- Con thật chịu không nỗi nữa rồi !

- Vậy ông muốn gì đây ?

- Con muốn quy y với Thầy

- Ông muốn quy y tôi ? Bảy Thầy này vì ông tụng kinh bảy tám ngày, tại sao ông không quy y với các Thầy, mà ông quy y với tôi làm gì ?

- Ô ! họ à ! họ quy y với con, con còn không thèm !

Nói như thế xong rồi lại nói ông ta quen biết một vị Pháp sư nào đó. Tôi nói :

- Ông đã biết vị Thầy đó, thì ông có thể quy y với Thầy đó !

- Hừ ! Thầy đó à ! Thầy đó cũng không đủ tư cách làm Sư phụ của con !

- Vậy tôi làm sao đủ tư cách ?

- A ! Con tìm bao nhiêu năm nay, chính là tìm Thầy đó.

- Ông tìm tôi làm gì ?

- Con muốn quy y với Thầy.

- Quy y với tôi có ích lợi gì ?

- Nguyện lực của Thầy rất lớn, phàm là đệ tử quy y của Thầy đều sẽ thành Phật. Vì Thầy có nguyện lực như thế, nên nay con nhất định quy y với Thầy.

Quý vị xem, quỷ này chẳng phải là không hiểu lục tứ (bốn sáu), nó hiểu được lục tứ. Thế nào gọi là "lục tứ" ? Tứ chính là chữ phụ (phụ là phụ thân, là cha); lục chính là chữ mẫu (mẫu là mẫu thân, là mẹ) ; chữ phụ có bốn nét, chữ mẫu có sáu nét. Cho nên nói người mà không hiểu lục tứ, chính là ngay cả cha mẹ cũng không biết đến. Còn quỷ này thì hiểu lục tứ, nên muốn quy y.

Hôm nay không phải tôi muốn đem cái hay của tôi nói cho quý vị nghe, mà là chỉ lấy sự thực để chứng minh. Khi quỷ quy y tôi rồi thì người bệnh cũng khỏe liền. Bệnh lành rồi thì sao ? Thì người ấy cũng quy y, thân thích của người ấy cũng đều quy y, vì thế quy y cả một loạt, mà đều là cả nhà quy y. Vì thế quỷ cũng có thể giới thiệu người quy y, người nhìn thấy quỷ quy y, thì mắt cũng đỏ lên nói : "Con cũng muốn quy y".

Tại sao phải báo ân Sư trưởng ? Vì Cha mẹ tuy sinh dưỡng sắc thân ta : Cha mẹ tuy sanh dưỡng sắc thân ta, nhưng Nếu không có sư trưởng thế gian : nếu không có Sư trưởng thế gian giáo hóa ta, khiến ta có học vấn, có chút ít học thức, Thì không hiểu biết lễ nghĩa : thì ta sẽ không biết "lễ". Lễ có nghĩa là lễ tiết, lễ phép lịch sự ; bạn đối với người không khách khí, đó chính là không lễ phép lịch sự. Còn "nghĩa" là gì ? Nghĩa là nghĩa khí. Giống như Quan Công đại nghĩa cao vót trời xanh, bảo hộ hoàng huynh Lưu Bị, ai muốn lợi dụng Quan Công cũng không được. Như Tào Tháo dùng các thứ thủ đoạn để mua chuộc Quan Công, nhưng Quan Công cũng không theo Tào Tháo, cho nên Quan Công chính là đại nghĩa tham thiên – nghĩa lớn này to lớn như Trời vậy.

Lễ phép lịch sự, như chúng ta nhìn thấy người, thì cần phải cúi đầu, cung kính nghiêng mình, khiến cho người không bao giờ trách móc được mình, mắng mình. Tại sao người mắng ta ? Vì mình đối với người rất thô lỗ, không tốt, nên bị người mắng ; đây là đạo lý mà chúng ta cần nên hiểu rõ sâu sắc. Bạn xem tôi là người xuất gia, cũng thường bị người mắng, vì cảm thấy tôi đối với người không tốt. Việc này không sao, phàm là người mắng tôi, tôi đều phát nguyện sau này sẽ độ những người đó thành Phật. Vì thế người mắng tôi thì được lợi nhất, sẽ không thiệt thòi. Tôi sẽ không nói : "A ! ông mắng tôi, tôi sẽ làm ông đọa địa ngục Vô gián !". Tôi sẽ không có cái tâm như thế. Bạn mắng tôi chăng ? sau nay tôi nhất định sẽ độ bạn thành Phật ; bạn không thành Phật tôi cũng không thành Phật. Cho nên người mắng tôi cũng là thiện tri thức của tôi. Ðề Bà Ðạt Ða chính là người giúp đỡ Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni về mặt phản diện. Vậy thì người mắng tôi, thậm chí là những người đối với tôi không khách khí, đó đều là thiện tri thức của tôi, tôi đều phát nguyện tương lai sẽ độ họ. Cho nên các ông nếu ai phản đối tôi, hoặc là chưởi mắng tôi, đó là một phương pháp hay, là cùng tôi kết một pháp duyên rất lớn. Vì thế, các ông nếu mong muốn cùng tôi kết pháp duyên, thì trước mắng tôi ; tôi thì mở rộng cửa phương tiện không sợ người mắng, cũng không sợ người đánh. Nếu các ông muốn mắt của tôi, tôi bèn cho con mắt ; muốn lỗ tai của tôi, tôi bèn cho lỗ tai, muốn đầu của tôi thì tôi cho đầu. Thân tâm tánh mạng, đầu mắt não tủy đều bao gồm ở trong, chỉ cần các ông muốn tôi đều bố thí cho. Ðây không phải là nói suông, mà thật có thể làm được những điều này !

Tôi là một người ngu khờ nhất – tôi lại nói câu này rồi ! Tại sao vậy ? Việc mà người ta không muốn làm, tôi đều có thể làm. Tôi nói với các ông một việc, tôi ăn, món đồ ngon hay dở đều cảm thấy chỉ có một mùi vị. Ở Hương Cảng có người thỉnh cầu với tôi làm cho bà có được đứa cháu nội. Tôi nói :

- Bà muốn có cháu nội ? Ðược rồi !

Tôi đang rửa chân, rửa xong bèn đưa nước ấy cho bà nói :

- Bà uống nước này đi.

- A ?

Bà nhìn nước không dám uống.

- Bà uống không được à ? Ðược ! để tôi !

Tôi cầm lấy nước rửa chân và uống luôn.

- Ô !

Khắp thân bà đều toát mồ hôi nói :

- Làm sao mà có thể được ?

Tôi nói :

- Làm sao mà không thể được ?

Vì thế các ông không nên cho rằng tôi và các ông giống nhau, những việc mà tôi làm được các ông không làm được đâu.

Vì thế người thế gian chúng ta phải hiểu biết lễ, chớ nên một chút lễ cũng không hiểu, một chút nghĩa cũng không biết. Ðiều gì hợp với nghĩa thì chúng ta làm ; việc không hợp với nghĩa thì không làm. "Nghĩa" này là nghĩa của bậc có tiết tháo cao thượng, làm bất cứ việc gì thì cũng làm một cách chánh đáng đúng đắn, làm cho tốt đẹp, đó chính là nghĩa. Nói người đó có nghĩa khí, như hiệp khách xưa kia hành hiệp trượng nghĩa, đó chính là nghĩa khí. Mọi người kết nghĩa anh em, họa phúc cùng hưởng – có phúc cùng hưởng, có nạn cùng chung chịu, vì bạn dù hai bên sườn có cắm đao cũng không sợ đau, đó đều là nghĩa khí. Có nghĩa khí thì dù có thiệt thòi, cũng muốn giúp người, làm lợi ích người khác.

Thầy thế gian dạy chúng ta những lễ tiết, lễ phép lịch sự. Làm việc gì cũng cần phải lễ mạo lịch sự, không nên mắng chửi người, không nên đối xử không tốt với người, cần phải có lễ. Người và cầm thú khác nhau, chính là chỗ biết lễ ; nếu ngay cả lễ phép lịch sự mà cũng không có thì chẳng khác gì cầm thú. Cầm thú nếu gặp mặt lẫn nhau, đều có sự hảo cảm ! Cho nên chúng ta là người làm sao có thể không hiểu biết lễ nghĩa ? Lễ là một trong tám đức: Hiếu, để, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ. Cho nên chúng ta cần phải hiểu lễ, đối với người phải có nghĩa khí. Nếu không có Thầy giáo thế gian thì chúng ta sẽ không hiểu những đạo lý làm người này.

Không có sư trưởng xuất thế : Nếu ông muốn tu hành, cần phải chọn lựa một vị thiện tri thức mắt sáng. Thế nào là thiện tri thức mắt sáng ? Có bốn điều kiện khiến cho chúng ta quán sát có phải là thiện tri thức mắt sáng không. Ðiều thứ nhất là không tham tài, điều thứ hai là không tham sắc, điều thứ ba là không tham danh, điều thứ tư là không ích kỷ. Vị thiện tri thức này có phải thường nói những điều bảo bạn làm lợi ích cho người đó không ? Có phải người đó có ý đồ gì không, làm bất cứ việc gì đều muốn cho danh dự địa vị của mình lớn cao ? Người nào không tham tài, không tham danh sắc, không ích kỷ, mới là thiện tri thức.

Vị Pháp sư mà lần này từ Malaysia theo quý vị đến đây, tôi cảm thấy trong những người mà tôi nhìn thấy – tôi không nhìn thấy thì không biết – trong các Tỳ kheo Nam truyền (Theravada), là một người có tu hành nhất, cũng là một người có trí huệ nhất, có lễ nghĩa nhất. Cho nên những người quy y tôi sau khi trở về cần phải thân cận vị Pháp sư này. Vì tôi không ở đó, cho nên tôi thỉnh Sư thay tôi dạy dỗ quý vị. Quý vị nếu có sức thì cần nên hộ pháp cho Sư, quý vị hộ trì Sư cũng chính là hộ trì cho tôi. Hai chúng tôi không có sự phân biệt bỉ thử. Tôi cảm thấy Sư không có lòng ích kỷ, tôi tuy có lòng ích kỷ, nhưng cũng không nhiều. Nói thực, bảo không nhiều lắm, hoặc là có chút ít như đầu sợi tóc, nhưng tôi cũng phải dứt bỏ nó.

Tôi lại bảo với quý vị, thân cận thiện tri thức, không nên theo sát bên mình, từ sáng đến tối cứ mãi quấy rầy : "Thân cận thì không thể lìa xa tách rời". Thân cận chính là phải nghe lời Sư, có gì không hiểu thì cầu khai thị. Không phải từ sáng đến tối nhìn thấy tôi ông Sư phụ này. Thấy, tức là thân cận chăng ? không phải vậy, nếu ông muốn cầu pháp thì cần phải cung kính, không phải vừa nói vừa cười, có vẻ không đứng đắn nghiêm túc. Cần phải đứng đắn, nghiêm túc, trịnh trọng, đến nơi đó, không nên làm Sư thêm phiền phức, trước xem Sư có việc gì không, có rảnh không ? Nếu rảnh thì thưa hỏi ; nếu bận thì không thể nói rằng : "Việc của tôi rất quan trọng, đến nơi đó, bất quản Sư bận hay không, tôi trước phải thưa hỏi các vấn đề của tôi". Không thể được như thế.

Nếu bạn muốn xuất thế, không thể không có thiện tri thức mắt sáng. Một cử chỉ, một hành động của thiện tri thức mắt sáng, tuyệt đối sẽ không toan tính cho riêng mình, sẽ không nghĩ rằng : "Làm sao lợi ích cho tôi ? Xây cho tôi một chùa lớn đi !". Có người nói : "Thầy nay đã có Vạn Phật Thành, một ngôi chùa không nhỏ như thế mà còn muốn xây chùa nữa sao ?" Muốn chứ ! lòng tham của tôi thì không có lúc nào ngừng nghỉ. Nhưng tôi bảo với các ông, lòng tham của tôi là phát nguyện làm một đạo trường Phật giáo cơ bản cho Phật giáo quốc tế, để hoằng dương chánh pháp. Cho nên hôm nay quý vị đến đây dù đối với chỗ này có cách nhìn như thế nào, đều là những người hộ trì Vạn Phật Thành. Dù cho mắng Vạn Phật Thành cũng là ủng hộ ; ông chửi cũng tốt, đối với Vạn Phật Thành đều có quang vinh rất lớn. Bạn nhìn thấy người nào nếu như phê bình tôi, thì thay mặt tôi tìm người đó, tôi muốn lạy người đó làm Thầy. Tôi không sợ người khác chửi, cũng không sợ bị người phỉ báng phê bình, cái gì cũng không sợ. Nếu tôi sợ, thì đã không đến đất Mỹ hoằng dương Phật pháp. Tôi đến đất Mỹ hoằng dương Phật pháp, sớm đã chuẩn bị tất cả. Người càng hủy báng tôi, tôi càng cảm thấy rất thú vị, càng thú vị hơn tôi đùa giỡn nữa. Cho nên tôi thưa thật với quý vị, tư tưởng của tôi và các ông hoàn toàn không giống, tác phong hành vi của tôi, cùng với những gì mà quý vị biết cũng đều không giống.

Nếu không có vị Sư trưởng xuất thế, Thì không hiểu Phật pháp : nếu không theo một vị thiện tri thức xuất thế, thì không thể hiểu rõ Phật pháp. Không hiểu rõ Phật pháp thì làm sao có thể xuất thế được ? Tôi bảo với các ông, điều quan trọng nhất chính là phải bỏ đi tri kiến thế gian ; muốn học Phật pháp thì phải chịu nhiều thiệt thòi. Ðại sư Vĩnh Gia đã nói : "Quán ác ngôn, thị công đức", nghe người ta hủy báng, hoặc là chửi mình, đó đều là công đức, đó đều là giúp đỡ, đều là mong cho mình tốt đẹp ! người kia nếu không muốn bạn tốt, sẽ chẳng nói bạn không tốt ; người kia nói bạn không tốt, chính là muốn bạn càng gia sức nỗ lực, cây sào trăm thước thêm tiến bước. Bạn phải suy nghĩ như thế ! Cho nên "thuận nghịch giai tinh tấn, hủy dự bất động tâm", gặp thuận cảnh hay nghịch cảnh đều tinh tấn, nghe lời hủy báng hay khen ngợi đều không động tâm. Cần phải như thế ! nhưng mà điều này cũng không dễ dàng. "Quán ác ngôn, thị công đức, thử tức thành ngã thiện tri thức", đó tức là thành tựu thiện tri thức của ta. "Bất nhân sán báng khởi oán thân", không nên vì người cười chê hủy báng mà sanh tâm oán giận, cần phải oán thân bình đẳng, không có lòng sân hận; nếu không có người cười chê hủy báng "hà biểu vô sanh từ bi lực", thì làm sao có thể biểu thị ra sức "vô sanh pháp nhẫn" của mình? Cho nên các vị ! Tôi đương nhiên cũng không có nhiều tật xấu, nhưng tôi hy vọng sửa đổi tất cả tật xấu của tôi, cùng với quý vị đồng chung nghiên cứu Phật pháp. Vì thế muốn xuất thế, nhất định phải tìm một vị thiện tri thức chân chánh.

Nguyên Văn:

Không hiểu biết lễ nghĩa thì chẳng khác gì cầm thú, Phật pháp không hiểu thì cũng như người phàm tục. Nay ta được biết chút ít về lễ nghĩa, được hiểu sơ lược về Phật pháp, ca sa trang nghiêm đắp thân, giới pháp nhuận thấm thân mình, được như thế là nhờ ân đức sâu nặng của sư trưởng. Nếu chỉ cầu quả nhỏ thì chỉ có lợi riêng cho bản thân mình mà thôi. Nay phải phát tâm đại thừa, phổ nguyện lợi ích hết thảy chúng sanh. Như thế thì sư trưởng thế gian và sư trưởng xuất thế đều được lợi ích. Ðó là nhân duyên thứ ba của sự phát Tâm Bồ đề.

Giảng:

Không hiểu biết lễ nghĩa thì chẳng khác gì cầm thú : Dị loại tức là cầm thú. Chúng ta xem các thứ cầm thú – chim bay thú chạy, đều không hiểu lễ nghĩa. Nhưng cũng có thứ hiểu biết, như quạ biết mớm mồi lại cho mẹ, báo đáp ân mẹ, dê con quỳ bú sữa mẹ, đó cũng là thứ cầm thú biết hiếu thuận, vì thiên tánh của nó thiện lương. Vậy không biết lễ tiết và nghĩa khí, thì giống như dị loại, không khác gì loài súc sanh ; nếu mặt người dạ thú, cũng tức là không hiểu lễ nghĩa, cho nên nói : "không hiểu lễ".

Phật pháp không hiểu thì cũng như người phàm tục : Nếu người tu hành học đạo mà không hiểu Phật pháp, thì cùng với người thế tục có khác gì chăng ? không có gì sai khác.

Cho nên Nay ta được biết chút ít về lễ nghĩa, được hiểu sơ lược về Phật pháp : nay chúng ta, chính là Ðại sư Tỉnh Am nói những người cùng loại, tức là những người xuất gia, hoặc là những người tin theo Phật ; ngã đẳng tức là chúng ta. Thô tri, là biết một cách đại khái đơn giản. Chúng ta biết chút ít về lễ nghĩa, được hiểu sơ lược về Phật pháp.

Ca sa trang nghiêm đắp thân : Ca sa là y phục của người xuất gia. "Mạc đạo ca sa dung dị đắc, giai nhân lũ thế chủng Bồ đề", có nghĩa là chớ bảo Cà sa dễ dàng được, đều do nhiều kiếp gieo trồng hạt giống Bồ đề. Xuất gia không phải là việc dễ dàng, nếu không có căn lành thì không thể xuất gia, dù có xuất gia cũng không được lâu dài. Mà cần phải phát nguyện đời đời thế thế đồng tử nhập đạo tu hành, phát tâm Bồ đề. Chưa lập gia đình nhập đạo tương đối tu hành, cũng dễ đắc được ngũ nhãn lục thông. Một khi không phải đồng tử thì không dễ tu hành ; đương nhiên cũng có thể tu hành nhưng không dễ dàng vậy.

Giới pháp nhuận thấm thân mình : Giới có ngũ giới, bát giới, Bồ tát 10 giới trọng 48 giới khinh, Tỳ kheo 250 giới, Tỳ kheo ni 348 giới. Giới phẩm tức là thọ giới Tỳ kheo giới, Sa di giới, Bồ tát giới. Vậy thì "chúng sanh thọ Phật giới, tức nhập chư Phật vị" (kinh Phạm Võng). Chúng sanh thọ giới của Phật thì vào địa vị chư Phật, cho nên nói giới phẩm triêm thân tức là đắc được giới thể của Kim Cang quang minh bảo giới.

Được như thế là nhờ ân đức sâu nặng của sư trưởng : Cà sa trang nghiêm đắp thân, giới pháp nhuận thấm thân mình, ân đức sâu nặng như thế là nhờ Sư trưởng mà được.

Nếu chỉ cầu quả nhỏ thì chỉ có lợi riêng cho bản thân mình mà thôi : Ðã được Cà sa đắp thân, giới pháp nhuận thấm thân mình, nếu không tu pháp Ðại thừa, chỉ tu đạo Tiểu thừa, chỉ cầu chứng quả A la hán, đó cũng tốt, nhưng đây chỉ là tự lợi mà không thể lợi tha, chỉ có thể tự giác mà không thể giác tha, chỉ có thể tự độ mà không thể độ tha.

Nay phải phát tâm đại thừa, phổ nguyện lợi ích hết thảy chúng sanh : Nay vì chủng tử Ðại thừa, phát tâm Bồ đề, phổ nguyện lợi ích cho tất cả chúng sanh mà quên đi bản thân mình.

Như thế thì sư trưởng thế gian và sư trưởng xuất thế đều được lợi ích : Như thế Sư trưởng thế gian và Sư trưởng xuất thế, cả hai Sư trưởng đều được ích lợi. Ðó là báo ân Sư trưởng, vì thầy là người dạy chúng ta, chúng ta tu hành hành đạo, là do Thầy giúp cho chúng ta thành tựu. Vậy thì Sư trưởng thế gian và Sư trưởng xuất thế gian cũng đều được lợi ích.

Ðó là nhân duyên thứ ba của sự phát Tâm Bồ đề : Ðây là nhân duyên thứ ba của sự phát tâm Bồ đề.

 

IV. Nhớ Ơn Thí Chủ

Nguyên Văn:

Nhớ ơn thí chủ là thế nào? Chúng ta ngày nay, mọi thứ cần dùng hàng ngày đâu phải của mình. Cơm cháo hai buổi, quần áo bốn mùa, tật bịnh cần dùng, thân miệng tiêu xài, đều xuất từ sức lực của kẻ khác mà đem đến cho ta sử dụng. Người nhọc sức cày cấy, còn khó nuôi miệng, ta ngồi không mà ăn, vẫn chưa vừa ý. Kẻ dệt đan mãi hoài mà vẫn gian nan cực khổ, còn ta an nhàn y phụcthừa thãi, há không thương tiếc? Họ nhà tranh cửa lá, cực nhọc suốt đời, còn ta phòng lớn sân rộng, thong thả cả năm. Ðem cái cực nhọc của họ cung phụng cái an nhàn cho ta, làm sao an lòng. Ðem cái lợi ích của người để cung cấp sự no ấm cho thân xác mình, có hợp lý chăng? Do đó, phải vận dụng cả hai thứ bi trí, trang nghiêm cả hai mặt phước huệ, để thí chủ nhờ ơn, chúng sanh được phước, nếu không thì dù chỉ là một hạt gạo, một tấc vải, vẫn phải có phần trả nợ. Ðó là nhân duyên thứ tư của sự phát Tâm Bồ đề.

Giảng:

Nhớ ơn thí chủ là thế nào ? Nhớ ở đây không phải là báo đáp mà là không nên quên. Tâm niệm phải luôn nhớ ân thí chủ đối với chúng ta. Nói như thế nào đây ?

Chúng ta ngày nay : tức là nói chúng ta hiện nay, mọi thứ cần dùng hàng ngày đâu phải của mình : sở tư, là những thứ vật phẩm cần dùng hằng ngày, không phải của mình, đều do người khác cúng dường. Cơm cháo hai buổi, quần áo bốn mùa, tật bịnh cần dùng : Sáng ăn cháo, trưa ăn cơm, quần áo bốn mùa, cùng với những thuốc men khi bệnh tật cần dùng. Thân miệng tiêu xài, đều xuất từ sức lực của kẻ khác mà đem đến cho ta sử dụng : những gì mà thân miệng chi dùng, thân phải mặc y phục, miệng cần ăn cơm, đều do người khác cúng dường để ta sử dụng tu hành học đạo.

Người nhọc sức cày cấy, còn khó nuôi miệng : Người nông phu suốt ngày đổ giọt mồ hôi vô cùng cực khổ, có lúc còn không đủ cơm ăn. Ta ngồi không mà ăn, vẫn chưa vừa ý : ta thì không làm gì hết, ngồi không thọ nhận những món ẩm thực, cơm canh đã được dọn sẵn, còn chọn lựa đồ ăn thức uống, nói món này dở, món kia không ngon.

Kẻ dệt đan mãi hoài mà vẫn gian nan cực khổ : Vải mà ta mặc, do người dệt vải suốt ngày đan dệt không thôi, công việc làm hoài không hết, họ thì gian nan cực khổ mới dệt ra tấm vải. Còn ta an nhàn y phục thừa thãi, há không thương tiếc ? : còn ta ? thì an nhàn hưởng dụng, ăn mặc thừa thãi, lại không biết thương tiếc sự vất vả gian nan của vật chất.

Họ nhà tranh cửa lá, cực nhọc suốt đời : nhà cửa họ ở thì rách nát, vườn cửa đều cũ nát, trong một đời của họ cũng không được sự an lạc gì. Còn ta phòng lớn sân rộng, thong thả cả năm : còn chỗ ta ở thì rất rộng rãi, sân vườn cũng rất lớn, vườn hoa hồ nước, cái gì cũng chuẩn bị sẵn, cho nên rất thong thả tự tại, năm này qua năm khác, không cần phải cực khổ, lao nhọc.

Ðem cái cực nhọc của họ cung phụng cái an nhàn cho ta, làm sao an lòng ? Lấy sự cực khổ của người để cung phụng sự an nhàn hưởng thọ cho ta, vì thế thử hỏi lại mình có được an lòng chăng ? Ðem cái lợi ích của người để cung cấp sự no ấm cho thân xác mình, có hợp lý chăng ? Ðem sự lợi ích của người để làm no ấm thân ta, có hợp lý chăng ? Thì không hợp lý vậy !

Do đó, phải vận dụng cả hai thứ bi trí, trang nghiêm cả hai mặt phước huệ : Vậy thì phải làm như thế nào ? cần phải tu từ bi quán, tu trí huệ quán. Không những tu phước, mà còn cần phải tu huệ ; tu phước tu huệ trang nghiêm cả hai thứ, mới có thể trồng phước cho người thế gian. Ðể thí chủ nhờ ơn, chúng sanh được phước : Trang nghiêm tu cả hai mặt trí huệ, hồi hướng cho thí chủ thì thí chủ mới có thể nhờ được ân huệ, chúng sanh cũng nhận được phước của mình. Nếu không thì dù chỉ là một hạt gạo, một tấc vải, vẫn phải có phần trả nợ : Nếu không thì nhận sự cúng dường một hột gạo hoặc một tấc vải của người, sau này cũng phải trả nợ. Cho nên nói :

Thiện thí nhất lạp mễ, trọng như Tu Di sơn.

Ngật liễu bất tu đạo, phi mao đái giác hoàn.

Dịch :

Thiện thí một hạt gạo, nặng như núi Tu Di

Ăn rồi không tu đạo, đội lông mang sừng trả.

Người xưa nói : "Một bữa cháo một bữa cơm, thường suy nghĩ chỗ đến không dễ ; nửa sợi tơ sợi chỉ, thường nhớ công người làm ra vật chất khó khăn". Ðó là điều chúng ta cần phải biết, cho nên nếu quý vị không tu hành thì "tam tâm bất liễu thủy nan tiêu", dù uống một ngụm nước của người cúng dường thì sau này cũng hoàn trả, cho nên nói quả báo ác khó tránh.

Ðó là nhân duyên thứ tư của sự phát Tâm Bồ đề : Ðây là nhân duyên thứ tư của sự phát tâm Bồ đề.

 

V. Nhớ Ơn Chúng Sanh

Nguyên Văn:

Thế nào là nhớ ơn chúng sanh? Ta cùng với chúng sanh, từ vô lượng kiếp đến nay, đời đời kiếp kiếp thay đổi làm cha mẹ, kia đây đều có ơn với nhau. Nay tuy cách đời hôn mê, không nhớ biết nhau, nhưng lấy lý mà suy ra thì làm sao không đem sức báo đáp! Ngày nay đội lông mang sừng, nhưng biết đâu kiếp trước ta không phải là con cái của chúng. Hiện tại là các loài bò bay máy chạy, nhưng biết đâu quá khứ chúng đã không phải là cha của ta. Thường thường nhìn thấy thơ ấu mà lìa xa cha mẹ thì lớn lên đã quên hết hình dáng song thân, huống chi cha mẹ con cái đời trước, kiếp trước là họ Trương hay là họ Vương, ngày nay khó mà nhớ rõ. Họ gào thét trong địa ngục, ngất ngư trong ngạ quỉ, thống khổ ai biết, đói khát kêu ai. Tuy ta không thấy không nghe, nhưng họ tất cầu cứu độ. Ngoài Kinh ra nơi đâu bày tỏ được việc này, không Phật chẳng ai chỉ rõ cảnh ấy. Còn kẻ tà kiến làm sao có đủ sức mà biết được. Cho nên Bồ tát quán sát sâu kiến thấy toàn là cha mẹ quá khứ và chư Phật vị lai, thường nghĩ cách lợi ích cho chúng và thường nhớ trả ơn cho chúng. Ðó là nhân duyên thứ năm của sự phát Tâm Bồ đề.

Giảng:

Thế nào là nhớ ơn chúng sanh ? : Sao gọi là không quên ân chúng sanh ? chúng sanh thì bao gồm 12 loại chúng sanh : bay, lặn, động, trực, thai, noãn, thấp, hóa, hữu tưởng, vô tưởng, hữu sắc, vô sắc, phi hữu tưởng, phi vô tưởng. Thậm chí ngay cả các loài muỗi mòng, sâu kiến cũng đều ở trong.

Ta cùng với chúng sanh, từ vô lượng kiếp đến nay : Ta cùng với 12 loại chúng sanh này, từ vô lượng kiếp cho đến nay, đời đời kiếp kiếp thay đổi làm cha mẹ, kia đây đều có ơn với nhau : vì đời đời kiếp kiếp luân hồi chìm nổi, cho nên thay đổi làm cha mẹ, thay đổi làm con cái, kia đây đều có ân với nhau.

Nay tuy cách đời hôn mê, không nhớ biết nhau : Nay tuy cách đời hôn mê mờ mịt, rất hồ đồ, nên không hiểu rõ, kia đây đều không nhớ biết nhau. Nhưng lấy lý mà suy ra thì làm sao không đem sức báo đáp!Nhưng lấy ý nghĩa này để suy ra, để truy cầu, thì kia đây nên ra sức đền đáp lẫn nhau.

Ngày nay đội lông mang sừng, nhưng biết đâu kiếp trước ta không phải là con cái của chúng ? : Nay những loài chúng sanh đội lông mang sừng, nhưng làm sao biết được ta không phải là con cái kiếp trước của chúng.

Hiện tại là các loài bò bay máy chạy, nhưng biết đâu quá khứ chúng đã không phải là cha của ta ! : Nay những loài hàm linh bò bay máy chạy, những loài động vật rất nhỏ bé, ví dụ muỗi mòng, ruồi, là những loài động vật rất nhỏ có thể bay, những sanh linh nhỏ bé như thế, làm sao biết được chúng nó đời quá khứ không phải là cha của ta ?

Thường thường nhìn thấy thơ ấu mà lìa xa cha mẹ thì lớn lên đã quên hết hình dáng song thân : thường nhìn thấy những người tuổi còn thơ ấu mà lìa xa cha mẹ, thì lớn lên đã quên hết dung mạo của song thân. Huống chi cha mẹ con cái đời trước, kiếp trước là họ Trương hay là họ Vương, ngày nay khó mà nhớ rõ : huống chi là cha mẹ con cái đời trước ? đời trước là họ Trương hay là họ Vương, ngay nay đã không còn nhớ rõ nữa.

Họ gào thét trong địa ngục, ngất ngư trong ngạ quỉ : Họ gào thét ở trong địa ngục, xoay vòng trong ngạ quỷ, không thoát ra được. Thống khổ ai biết, đói khát kêu ai : Sự thống khổ của họ ai biết ? Hoặc là được no lòng, hoặc là vẫn còn nơi đó đói khát tột cùng, thì bảo cho ai biết đây ? Tuy ta không thấy không nghe, nhưng họ tất cầu cứu độ : Tuy ta không thấy không nghe, nhưng họ đang ở đó nhất định đang tìm người cứu giúp tế độ. Ngoài Kinh ra nơi đâu bày tỏ được việc này, không Phật chẳng ai chỉ rõ cảnh ấy : nếu không phải là kinh điển, thì không thể nói rõ những vấn đề này ; nếu không phải Ðức Phật là đấng có trí huệ sáng suốt, thì cũng không thể nói ra tiền nhân hậu quả, nói ra những ý nghĩa rõ ràng đó.

Còn kẻ tà kiến làm sao có đủ sức mà biết được : Những người tà tri tà kiến kia, không tin có nhân có quả, đương nhiên không biết được điều này ! Cho nên Bồ tát quán sát sâu kiến thấy toàn là cha mẹ quá khứ và chư Phật vị lai : Lâu nghị tức là loài sâu kiến. Cho nên Bồ tát ngay cả nhìn sâu kiến, cũng cho chúng là cha mẹ quá khứ của mình, là chư Phật vị lai. Thường nghĩ cách lợi ích cho chúng và thường nhớ trả ơn cho chúng : Thường nghĩ đến những việc lợi ích cho các loài sâu kiến, đó là muốn báo ân cha mẹ báo ân chư Phật.

Ðó là nhân duyên thứ năm của sự phát Tâm Bồ đề : Ðó là nhân duyên thứ năm của phát tâm Bồ đề.

 

VI. Nhớ Khổ Sinh Tử

Nguyên Văn:

Thế nào là nhớ khổ sinh tử? Ta cùng với chúng sanh, từ vô lượng kiếp đến nay, cứ ở mãi trong vòng luân hồi sinh tử, chưa được giải thoát. Khi sanh trong loài người, lúc ở trên thiên cảnh, khi ở thế giới này, lúc ở phương khác, ra vào đủ cách, lên xuống liền liền. Thoáng chốc làm trời, thoáng chốc làm người, thoáng chốc sanh vào cõi địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Cửa đen sáng ra chiều về, hang sắt mới tạm lìa khỏi lại bước vào. Lên núi đao thì thân thể không còn mảnh da nguyên vẹn, vào rừng kiếm thì tim gan cũng bị cắt xả. Sắt nóng không hết đói, mà nuốt vào thì ruột gan cháy nát, đồng sôi đâu khỏi khát, mà uống vào thì xương tan thịt nát. Cưa bén cắt thân, cắt đứt ra là liền lại, gió lạ thổi vào thì chết rồi lại sống ngay. Trong thành lửa dữ chỉ nghe tiếng thét gào thảm thiết, trên bàn chưng nướng toàn nghe âm thanh đau khổ thống thiết. Băng tuyết đông lại thì như sen xanh kết nhụy, máu thịt rã ra thì như sen đỏ mới nở. Ở trong địa ngục, một đêm chết sống thường đến cả vạn lần, một buổi thống khổ mà như trăm năm ở nhân gian. Mãi hoài làm cho ngục tốt mệt nhọc, nhưng có ai chịu nghe lời Diêm vương khuyên bảo. Khi thọ quả báo mới biết đau khổ, dẫu hối hận cũng đâu có kịp; lúc thoát khỏi cảnh khổ thì lại quên ngay, vẫn tạo nghiệp y như cũ. Ðánh con lừa đến đổ máu, đâu biết đó là cái bi thảm của mẹ mình; lôi con heo đến lò thịt, nào hay đích thị cái đau thương của cha ta.

Giảng:

Thế nào là nhớ khổ sinh tử ? Thế nào là không quên cái khổ sanh tử ? Sanh có gì thống khổ ? Khi chết lại có chi đau khổ ? Chúng ta khi sanh ra, đau khổ như bị ngọn núi ép lại. Khi chết tứ đại phân lìa, cũng không dễ dàng lìa bỏ cái túi da thúi, cho nên rất đau khổ. Có người nói sanh như rùa sống thoát xác, chết như lột da bò, rất là đáng sợ.

Ta cùng với chúng sanh : ta và chúng sanh đều có mối quan hệ lẫn nhau. Từ vô lượng kiếp đến nay, cứ ở mãi trong vòng luân hồi sinh tử : chúng ta từ vô lượng kiếp, rất lâu, không biết bao lâu, cứ sanh rồi lại chết, chết rồi lại sanh ; chết rồi lại sanh, sanh rồi lại chết, sanh sanh tử, tử tử sanh, cứ mãi tuần hoàn không lúc nào thôi. Chưa được giải thoát : tuy thường muốn giải thoát, nhưng hôm nay muốn tu hành, ngày mai lại muốn đi chơi, ngày mốt lại muốn ăn, ngày sau nữa chỉ muốn uống, làm mất đi chánh niệm, đều là tà niệm, không có niệm đạo tâm, cho nên không được giải thoát.

Khi sanh trong loài người, lúc ở trên thiên cảnh : Có lúc đến nhân gian làm người, có lúc lại sanh lên trời. Làm công đức thiện thì được sanh lên thiên giới, tạo nghiệp tội thì đọa địa ngục. Cho nên cứ mãi luân chuyển trong lục đạo luân hồi, thường không ra khỏi. Khi ở thế giới này, lúc ở phương khác, ra vào đủ cách : Cứ như thế, từ thế giới này đến thế giới khác, thay đổi di dân. Vốn là người Trung Quốc lại muốn nhập quốc tịch Mỹ, vốn là người Mỹ lại muốn nhập quốc tịch Trung Quốc. Ðó gọi là ra vào đủ cách, lên xuống liền liền ; không có đầu, không có mối, có đủ thứ nhân duyên. Lên xuống liền liền : xoay chuyển trong vòng sanh tử, có lúc thì thăng lên như ngồi thang máy lên trời ; có lúc giáng xuống như ngồi thang máy xuống địa ngục, xuống nhà lao dưới đất, đây đều là ví dụ, ý nói nhanh như thế ! Thoáng chốc làm trời, thoáng chốc làm người : Thoáng chốc sanh lên trời, thoáng chốc lại làm người. Thoáng chốc sanh vào cõi địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh : Thoáng chốc lại đọa địa ngục làm súc sanh hoặc chuyển vào cõi ngạ quỷ.

Cửa đen sáng ra chiều về : Ở cửa đen này - tức là trong cõi địa ngục, sáng sớm mới bước ra, chiều tối lại trở về. Hang sắt mới tạm lìa khỏi lại bước vào : Thiết quật, là hang sắt, cũng là ví dụ cho địa ngục, giống như ở trong hang sắt, không có chỗ để đi. Tuy tạm thời lìa khỏi, nhưng trong nháy mắt lại bước vào ; đó là vì vẫn tạo nghiệp như cũ cho nên lại bước vào. Lên núi đao thì thân thể không còn mảnh da nguyên vẹn : Lên núi đao thì toàn thân thịt nát máu chảy, thân thể không còn mảnh da nguyên vẹn. Vào rừng kiếm thì tim gan cũng bị cắt xả : Vào rừng kiếm thì tim bị cắt đứt. Ví dụ bệnh tim, thì cũng giống như đi đến núi đao vậy, thoát chốc cắt nát con tim.

Sắt nóng không hết đói, mà nuốt vào thì ruột gan cháy nát : Ăn sắt nóng cũng không thể no, vì nó là sắt đốt nóng lên, khi đói bụng ăn nó, tuy ăn nhưng mà gan và ruột đều bị nó đốt cháy nát. đồng sôi đâu khỏi khát, mà uống vào thì xương tan thịt nát : đồng nung biến thành nước đồng. Nhìn thấy chỗ đó có nước thì muốn uống, nhưng uống vào thì không thể đỡ khát, uống vào thì xương tan thịt nát.

Cưa bén cắt thân, cắt đứt ra là liền lại : Dùng cưa bén cắt thân, vốn cắt đứt rồi, nhưng vì nghiệp báo, cắt đứt ra là liền lại. Ðó là nói chúng ta tạo nghiệp, vốn không muốn làm nữa, nhưng lại làm tiếp như cũ, vì thế lại bị quả báo cưa xẻ. Gió lạ thổi vào thì chết rồi lại sống ngay : Ðịa ngục có một loại gió lạ đó là gió nghiệp của chúng ta, gió lạ này vừa thổi thì sau khi chết lại sống lại. Sống lại làm gì ? không phải nói mua một chiếc xe hơi, ở trong một tòa nhà đẹp đẽ, ở nơi đó hưởng thụ ; mà sống lại để chịu khổ, phải nhận quả báo, nhận tội. Cho nên nói chết cũng không thể chết, sống cũng không thể sống.

Trong thành lửa dữ chỉ nghe tiếng thét gào thảm thiết : Trong thành lửa dữ thiêu, tội nhân bị thiêu đốt kêu gào thảm thiết, kêu trời kêu đất, kêu cha kêu mẹ, rất là tàn nhẫn, rất là thê thảm. Trên bàn chưng nướng toàn nghe âm thanh đau khổ thống thiết : Ðịa ngục có một loại bàn chưng nấu, để tội nhân ở trong bàn này, ở dưới để lửa thiêu đốt. Ở trong bàn chưng thiêu đốt này cũng tức là ở trong nồi, chỉ nghe tiếng người ở trong đó nói : "Ðau quá ! khổ quá !"

Băng tuyết đông lại thì như sen xanh kết nhụy : Ðây là nói trong địa ngục băng lạnh, băng vừa đông lại, máu thịt của tội nhân giống như sen xanh kết nhụy. Máu thịt rã ra thì như sen đỏ mới nở : Ðến khi máu thịt rã ra thì giống như hoa sen đỏ mới nở. Ðây là hình dung, dường như rất đẹp mắt vậy, nhưng thật ra rất đau khổ.

Ở trong địa ngục, một đêm chết sống thường đến cả vạn lần : Trong địa ngục một đêm sống rồi lại chết, chết rồi lại sống cả vạn lần. Một buổi thống khổ mà như trăm năm ở nhân gian : Vì khi đau khổ cảm thấy thời gian rất dài. Một ngày đêm trên cõi Tứ thiên vương là năm trăm năm ở cõi người chúng ta ; một trăm năm ở cõi người chúng ta là một ngày đêm ở địa ngục. Cho nên những tội nhân ở trong địa ngục một ngày đêm thì nhân gian chúng ta đã rất dài lâu, cho nên nói chết sống thường đến vạn lần.

Mãi hoài làm cho ngục tốt mệt nhọc : Khiến cho quỷ tốt trong địa ngục vô cùng mệt nhọc, nói : "Ôi ! Thật là mệt nhọc, hôm nay công việc quá nhiều, mệt quá !" Ngay cả họ cũng than phiền mệt nhọc. Nhưng có ai chịu nghe lời Diêm vương khuyên bảo ! Nhưng lại có ai nghe lời khuyên bảo của Diêm vương ?Khi thọ quả báo mới biết đau khổ, dẫu hối hận cũng đâu có kịp : Ðến khi thọ quả báo mới biết đau khổ, biết hối hận, nhưng đã muộn màng. Lúc thoát khỏi cảnh khổ thì lại quên ngay, vẫn tạo nghiệp y như cũ : mà đến khi thoát khỏi cảnh khổ thì quên ngay cảnh khổ, vì thế cứ tạo nghiệp như cũ. Chúng ta là điên đảo như thế, vết thương lành rồi thì quên đi sự đau nhức. Khi chịu khổ đau thì nói : "Ta cần phải không làm các việc ác, phải làm các việc lành". Nhưng đến khi thoát khỏi cảnh khổ đau, lại khởi lên các vọng tưởng không chánh đáng, cứ mãi đi làm các việc sát sanh, trộm cắp, tà dâm. Con người là động vật không có tông chỉ, không có trí huệ.

Ðánh con lừa đến đổ máu, đâu biết đó là cái bi thảm của mẹ mình : Người a ! mắt thịt phàm phu, không biết tiền nhân hậu quả, cho nên "ai thuận theo ý ta thì sống, nghịch ta thì chết".

Không cần nói lừa, mà là muỗi mòng, ruồi kiến, phàm là những loài động vật có máu huyết, đều có mối quan hệ quyến thuộc với ta, có mối nhân quả không thanh tịnh ở bên trong, chúng ta không biết, cứ đánh bậy chưởi bạ, chưởi cái này, mắng cái kia, đánh cái này, đập cái kia. Kỳ thực đều là tương tàn cốt nhục, mình như kẻ mù nói bừa làm bậy. Cho nên Phật nói : "Người nam đều là cha của ta, người nữ đều là mẹ của ta". Ðây là nói người, vậy muốn nói rộng ra, thì nam tử hoặc cũng là mẹ của ta, hoặc là nữ nhân cũng có thể là cha của ta. Tại sao lại nói như thế ? Vì cha kiếp trước của ta, không nhất định thường thường là người nam, mẹ kiếp trước của ta cũng không nhất định làm người nữ. Ðức Phật chỉ nói một cách tổng quát, chúng ta nếu muốn làm một bài văn chi tiết thì cần phải suy rộng ra, bổ sung cho đầy đủ.

Không những người là cha mẹ của ta, mà ngay cả tất cả các loài bò bay máy chạy, trâu ngựa dê gà heo chó, 12 loại chúng sanh, đều có mối quan hệ quyến thuộc cốt nhục với ta. Nhưng vì chúng ta ngược giác hợp trần, nhận không rõ mối quan hệ này, cho nên rõ ràng là cha của ta mà ta xem như kẻ thù, rành rành là mẹ của ta, mà ta xem như oan gia. Cho nên tuy là lừa, nhưng ở kiếp trước là mẹ của ta. Chỉ vì bà tạo nghiệp quá nặng, thác sanh làm con lừa, vì mình là kẻ phàm phu không biết, nên lấy roi, lấy gậy đánh, cho rằng nó làm việc không siêng năng thì cần phải đánh. Nhưng mỗi khi roi đánh vào thân lừa, thì người mẹ kiếp trước đau lòng khôn xiết, bật lên tiếng khóc nức nở.

Vừa rồi Dương mỗ nói về công án cho các ông nghe, các ông không nên cho rằng là lời nói vô căn cứ, đây là điều có thể xảy ra ! Heo chó cũng thay nhau làm cha mẹ con cái. Phàm là chúng sanh đều thay đổi di dân, cùng nhau giao lưu, linh tánh cùng nhau thay đổi, thường muốn tìm cho mình một ngôi nhà mới để ở. Vì thế :

Xuất mã phúc, nhập lư thai,

Diêm vương điện tiền kỷ độ hồi.

Thủy tùng Ðế thích điện tiền quá,

Hựu đáo Diêm quân oa lý lai.

Dịch:

Ra bụng ngựa vào thai lừa

Điện Diêm Vuơng đến tới giờ nhiều phen

Cung trời Đế Thích vừa quên

Lại rơi chảo nóng giữa đền Diêm quân

Vừa mới từ cõi Trời Ðế thích đi qua lại vào trong chảo dầu của Diêm vương.

Cho nên không chỉ chúng ta thích du lịch, mà linh hồn cũng thích du lịch, cho rằng đây là trò chơi, rất thú vị, có lúc thì đi đến chỗ bình an, như ở trong khách sạn, có rất nhiều thứ để hưởng thụ, có nhà vệ sinh, phòng tắm, giường niệm lò xo, ngủ ở trên : "A ! còn sướng hơn nhà mình nữa". Vì ham hưởng thụ, ăn cũng muốn ăn cho ngon, mùi vị thơm tho, ở cũng muốn ở chỗ sang trọng danh tiếng ; như thế tham hưởng thụ thì đi sai đường, ham ăn thức ăn ngon, thì ăn gà vịt cá thịt, thay đổi cách nấu để ăn cho sướng miệng, ăn rồi thì phải lo trả nợ. Thiếu tiền của người thì phải trả lại tiền cho người, nợ thịt của người thì làm sao mà không trả thịt lại ? Cho nên chúng ta ăn nhiều như thế muốn không trả nợ thì cũng không được. Vì thế nên đi làm quyến thuộc của heo bò dê để trả nợ.

Trước kia nước Mỹ có một người được gọi là đại vương thịt gà, là người chuyên bán gà rô ti (chính là người chế biến ra món Kentucky Fries Chicken và là chủ nhân sáng lập những nhà hàng fast food KFC), bạn nghiên cứu kỹ dáng của người ấy thì giống như một con gà trống già vậy. Một ngày ông ta giết hàng vạn con gà, nhiềâu vô lượng vô số, tại sao vậy ? Vì không chỉ ông ta ở kiếp quá khứ bị người ta ăn thịt, mà quyến thuộc của ông cũng bị ăn thịt rất nhiều, cho nên kiếp này ông làm người ; thì những người ăn thịt gà, nay lại sanh làm gà bị ông giết ăn thịt. Ðó là cùng nhau bón phân, nó bón phân cho ông, để ông đi làm gà ; ông bón phân cho nó, cũng khiến cho nó sau này làm gà, đó là thay nhau trồng cái nhân lai sanh, trồng cái quả báo kiếp sau.

Cho nên bạn nhìn thấy người bán thịt dê, dáng của ông ta giống như dê vậy, vì kiếp trước bị người ta ăn thịt quá đau khổ, kiếp này muốn báo thù hận máu, cho nên ông ta làm người, thì những người ăn thịt dê, lại đi làm dê để trả nợ. Bạn nhìn thấy cặp mắt của người bán dê rất giống con dê, không chút gì sai khác ! Người bán thịt dê nhất định giống dê ; người bán thịt gà thì giống gà ; người bán gà tây thì giống như gà tây. Ông đi khắp nơi xem xem, người bán cá thì giống cá. Tôi tuy không ăn những thứ đó, nhưng tôi vừa nhìn thì biết ngay ; thì ra bán thứ gì, chính là thứ đó chuyển thế báo thù. Cho nên thế giới này chính là như thế, lưới nghiệp đan dệt, luân hồi không thôi. Hôm nay đoạn văn này nói rất rõ ràng. Vậy tôi cũng mượn đoạn văn này vì các ông nói rõ mối quan hệ nhân duyên quả báo.

Người và súc sanh hoặc là cũng cùng nhau xen kẽ, lưới nghiệp đan dệt, luân hồi không thôi. Hoặc là có người thương chó. Chó lại thác sanh làm chàng trai anh tuấn, đi tìm người đời trước ăn thịt mình làm vợ.

Ở huyện Lạp Lâm Ðông Bắc của tôi có một người kết nghĩa anh em với tôi ; bạn xem, anh em kết nghĩa với tôi, người nào cũng đều có. Kiếp trước anh ta là đào kéo đóng tuồng, làm nghề minh tinh điện ảnh. Anh ta đóng tuồng, thì hát những loại tuồng có tính cách văn nhân nho nhã, lúc nào cũng đóng vai tiểu sinh ; vì thế kiếp này sanh ra rất nho nhã lịch sự. Nhưng vợ của anh thì mập thù lù, thì ra cô ta chính là con chó cái nhỏ ở kiếp quá khứ thường theo anh ta khi anh ta đóng tuồng. Vì anh ta rất thương chó, cho nên khi anh ta thác sanh lại làm người, con chó này bèn đi theo làm vợ của anh. Nhưng bạn đoán như thế nào ? Một ngày từ sáng đến tối ầm ầm đùng đùng, giống như con chó con cắn anh ta vậy, suốt ngày cãi lộn với anh, cãi lộn đến nỗi anh muốn tìm cách thoát mà thoát không được : "Làm sao đây ? làm sao đây ?". Suốt ngày cứ nhăn mặt khổ não. Cho nên người diễn tuồng thương con chó, kiếp sau bèn làm vợ chồng. Nếu là người nữ thì sao ? Hoặc cũng là người thương chó, nó bèn làm chồng của cô ta, cũng suốt ngày đánh nhau cãi lộn, hoặc là người chồng kia - là con chó đực thích tìm một con chó cái khác, cho nên đến khi làm người, cũng vẫn muốn đi tìm người nữ khác, đó là tranh đoạt tình cảm, ghen tương đố kỵ, làm cho gia đình náo loạn, không được an ổn. Bạn xem có đáng thương không ? Tôi chỉ nói đại khái như thế. Hôm nay ông La nhắc đến việc đoạn trừ ái dục, thật đoạn trừ ái dục? Nên tôi hỏi ông ta : "Thật vậy chăng ?". Ông không dám thừa nhận, ấp a ấp úng nói lảng qua chuyện khác, trả lời qua loa lấy hệ. Ðây chính là người đang đóng tuồng trong lục đạo luân hồi, ôi, một khi sanh được làm người, thì cảm thấy không có gì đáng lo nữa, ở đó điên điên đảo đảo, giong ruổi khắp nơi.

Ðánh con lừa ra máu, "thùy tri ngô mẫu chi bi", "thùy" là người nào. Người đánh con lừa ra máu, lừa đau thương khôn xiết, khóc la thảm thiết, nhưng mà ai biết được, lừa này vốn là mẹ kiếp trước của người ? Lôi con heo đến lò thịt, nào hay đích thị cái đau thương của cha ta : Lấy dây trói con heo, lôi đến lò thịt, khi heo bị giết vô cùng đau khổ. Nhưng con heo này chính là cha của người kiếp trước, nhưng người vẫn không biết, vẫn kéo đi giết : "Mầy ăn mập như thế, giết đi rồi nói chuyện sau !". Cho nên cha của người kia đau khổ khôn cùng.

Nguyên Văn:

Ăn thịt con mà không biết, Văn vương mà còn như thế; ăn thịt cha mẹ mà không hay, phàm phu đều như vậy. Kiếp trước thương yêu mà đời nay trở thành oan gia, ngày xưa là giặc là thù mà ngày nay trở thành ruột thịt. Quá khứ là mẹ mà hiện tại là vợ, túc thế là cha mà hiện tiền là chồng. Nếu có cái trí túc mạng biết được nhân quả đời trước thì thật đáng hổ đáng thẹn, nếu dùng con mắt thiên nhãn để nhìn thì quả đáng cười đáng thương.

Bị bao bọc trong rừng dơ bẩn mười tháng thì thật khó chịu, ở chỗ máu mủ mà khi bị dốc xuống thì thật là đáng thương. Khi nhỏ thì biết chi, đông tây trước sau cũng chẳng phân biệt rõ, lớn lên hiểu biết, tham lam dục vọng bèn tăng trưởng. Nhưng khoảnh khắc là già bịnh truy tầm, chốc lát mà vô thường lại đến. Bấy giờ, gió với lửa giao tranh, tâm thức bấn loạn trong đó, tinh huyết đã kiệt lực, da thịt teo khô từ ngoài, không một sợi lông nào mà không như bị chích đốt, không một kẽ huyệt nào mà không như bị cắt xả. Con rùa đem nấu, sự thoát vỏ của nó còn dễ; thần thức lúc tàn, sự thoát xác của nó thật là quá khó.

Giảng:

Ăn thịt con mà không biết : Có người nói Văn Vương biết trước sự việc, cho nên khi Văn Vương bị nhốt vào trong ngục, Vua Trụ có ý thử ông ta, xem ông ta có tài tiên đoán không ? Cho nên cho ông ta ăn thịt con của ông; Văn Vương nhìn thấy thịt bèn ăn như thường. Văn Vương ăn thịt vì không biết đó là thịt của con mình ; nếu biết là thịt của con mình thì sẽ không ăn đâu. Có người nói ông ta biết, nhưng cố ý ăn để tỏ ta rằng mình không biết. Không phải vậy ! Nếu ông biết thì làm sao có thể ăn được. Cho nên đó cũng là định nghiệp !

Vậy chính vì người không hiểu biết nên làm sai nhiều việc. Chúng ta không biết, gái thì theo đuổi bạn trai, không ngờ đến bạn trai đó kiếp trước chính là ông của mình, hoặc là ông cố nội, tằng tổ phụ, thậm chí là cha của mình, đó đều không nhất định. Nhưng cô ta nhìn thấy chàng trai trẻ thanh niên anh tuấn, vội vàng theo đuổi, theo đuổi được rồi, kết quả là điên đảo ; cho nên đều là làm bừa làm bậy. Văn vương mà còn như thế : Văn Vương là người thông minh trí huệ, là người có thánh đức mà còn không biết. ăn thịt cha mẹ mà không hay, phàm phu đều như vậy : Vậy thì chúng ta là người phàm phu tục tử, mỗi ngày ăn thịt ông bà cha mẹ, anh em ruột thịt của ta còn vẫn không biết ! Người đều như thế, không ai tránh thoát được nhân quả.

Kiếp trước thương yêu mà đời nay trở thành oan gia : Trước kia ân ân ái ái, thương thương yêu yêu, anh anh em em, thương nhau đòi sống đòi chết, không ngờ kiếp sau biến thành bò, thành ngựa, không còn thương yêu nữa. Biến thành bò thì ăn thịt của nó ; ăn thịt của nó, thì nó sân giận suốt đời : "Ðược rồi ! Mầy thật là thứ chẳng ra gì ! Nay đối với tao không có một chút gì khách khí, ăn thịt của tao. Tương lai tao nhất định sẽ nhai xương của mầy !". Cho nên cứ cùng nhau kết oán thù, làm oan gia như thế. Ngày xưa là giặc là thù mà ngày nay trở thành ruột thịt : Trước kia là giặc, là thổ phỉ, ngày nay biến thành lục thân quyến thuộc, tình thân cốt nhục.

Quá khứ là mẹ mà hiện tại là vợ : Kiếp trước là mẹ, nhưng kiếp này là vợ của mình. Bạn xem ! chính là thay đổi cái túi da thúi này, linh hồn vẫn là một, nhưng đã không còn nhận biết nữa. Túc thế là cha mà hiện tiền là chồng : Quá khứ làm cha, mà nay làm chồng, cô ta còn không cho là lạ, cảm thấy điều này rất bình thường, bạn nói, vậy thì có khác gì súc sanh không ? Nếu có cái trí túc mạng biết được nhân quả đời trước : Túc mạng, là nhân quả kiếp trước ; biết được điều này, Thì thật đáng hổ đáng thẹn : biết được việc này, thật là đáng hổ đáng thẹn, thì làm sao có thể ngẩng mặt nhìn đời ? Nếu dùng con mắt thiên nhãn để nhìn thì quả đáng cười đáng thương : Dùng thiên nhãn để quán sát thì thật đáng cười đáng thương !

Bị bao bọc trong rừng dơ bẩn mười tháng thì thật khó chịu : Ðứa trẻ khi ở trong bụng mẹ, thì như ở trong rừng phân tiểu. Mười tháng ở trong chỗ dơ bẩn đó cùng chung với máu mủ, rất khó chịu. ở chỗ máu mủ mà khi bị dốc xuống thì thật là đáng thương : Khi đứa trẻ ra đời thì ở trong chỗ máu huyết mà bị dốc xuống. Cho nên rất là đáng thương !

Khi nhỏ thì biết chi, đông tây trước sau cũng chẳng phân biệt rõ : Ðứa trẻ khi mới ra đời có tri thức gì ? Cái gì cũng không biết, phía đông cũng không biết, phía tây cũng không biết. Hai chữ "Ðông tây" này, có thể nói là vật chất, cái gì cũng không hiểu. Lớn lên hiểu biết, tham lam dục vọng bèn tăng trưởng : Khi lớn khôn thì có chút trí giác, thì biết cái gì ? không biết nhân quả báo ứng tuần hoàn, mà biết nam tham nữ ái, nữ thì theo đuổi bạn trai, nam thì theo đuổi bạn gái. Theo đuổi không được, hai người có lúc đi đến chỗ cùng chết với nhau, không thể kết hôn được thì tự sát cho xong ! "Tham lam dục vọng bèn tăng trưởng"chính là nói cái này ; kỳ thực người đó không biết, ở trong đó thì thật không có ý nghĩa gì.

Nhưng khoảnh khắc là già bịnh truy tầm : Thời gian rất ngắn ngủi ; một đời người bất quá là một cái chớp mắt, đã già rồi. Già rồi thì da gà tóc hạc ; lúc đó người nữ dù có đẹp đến đâu cũng không ai muốn. Vợ của người kia muốn tái giá, bạn nhìn thấy bà ta già rồi, ôi! không cần đâu ; thậm chí người chồng nếu trẻ hơn một chút, nhìn thấy vợ mình già hơn mình, cũng muốn tìm người mới, muốn đi tìm một cô gái trẻ hơn. Bạn tin hay không ? Tin đi ! Thế giới này chính là như thế ! Cho nên nhìn thấu suốt rồi thì nên sớm buông bỏ, không nên mê mờ nữa ! Chốc lát mà vô thường lại đến : Rất nhanh thì đã chết rồi. Rất nhanh, nhanh như ánh chớp tia lửa là lại đến.

Bấy giờ, gió với lửa giao tranh, tâm thức bấn loạn trong đó : Gió vừa thổi, lửa liền bốc cao. Lúc này gió lửa ở trong tứ đại giao tranh, tứ đại không còn điều hòa nữa. Nếu gió lớn thì sanh lửa, lửa lớn thì làm cho người nóng sốt đến mấy trăm độ, mấy ngàn độ, đốt khô héo. Lúc đó mất đi tri giác chân chánh, không còn lý trí nữa, cái gì cũng không hiểu.

Tinh huyết đã kiệt lực : người a! lúc đó tinh khí thần, tinh hết thì chết, cho nên nói việc kết hôn nam nữ chính là đi tìm cái chết, chính là đi trên con đường đến cõi chết ! Vì người sợ sống lâu năm nên muốn chết sớm. Cho nên con gái thì tìm con trai nói : "Anh mau làm cho tôi chết, tôi không muốn sống nữa", còn con trai cảm thấy mình nên chết thế nào ? Vội vàng đi tìm cô bạn gái nói : "Em làm tôi chết sớm cho rồi". Cho nên họ là những nam tham nữ ái, cùng không muốn sống.

Tinh khí thần của người, tinh không còn thì nhất định phải chết ; khí đoạn rồi thì đương nhiên không thể sống ; thần nếu không có thì không có tri giác. Chúng ta có trí giác là cái gì ? Chính là thần có trí giác. Chúng ta sống là vì có khí, có tinh. Tinh của người là mỗi ngày ăn rất nhiều mới biến thành một chút ít tinh. Cho nên ông ngày ngày đi tìm, từ sáng đến tối không đếm xỉa mạng sống, nam thì cho rằng có bạn gái là việc tốt, rất vui. Thật là điên đảo!

Có người hỏi : "Bạch Thầy ! Thầy không thể nói như thế. Thầy nói như thế, thế giới này chẳng phải không còn người sao ?". Ông không có cách khiến cho người trên thế giới hiểu rõ đạo lý này, ông nói cặn kẽ như rót vào tai, bảo cho người đó cái này không tốt không tốt, người đó vẫn không tin tưởng, vẫn đi trên con đường bất hảo này. Ông nói : "Ô ! Ði trên con đường đó thì chỉ có một con đường chết !". Người đó nói : "Tôi thử xem chết như thế nào ?". Bạn xem, thật là điên đảo. Cho nên bạn rất khó thức tỉnh anh ta. Bạn nên ghi nhớ là không nên lo lắng, nói rằng : "A, nếu không ai kết hôn, nhân loại ở thế gian này sẽ không còn nữa". Bạn không kết thì ông ta kết, ông ta không kết thì cô kia kết ! bạn không có cách nào mà đi bảo từng người rằng : "không nên kết hôn, kết hôn thì sẽ chết đó a !". Người đó bèn nói : "Chết ? Tôi chưa có chết bao giờ, tôi muốn thử xem ! Tôi chết một lần cho bạn xem". Thật là không có cách nào cả, cho nên bạn không nên lo lắng. Như Quả Không đến đây nói : "Giả như mọi người đều xuất gia, thì xã hội này còn thành xã hội chăng ?". Tôi nói : "Con có thể kêu họ hoàn tục hết đi". Quả Không nói : "Con không có cách kêu họ hoàn tục". Tôi nói : "Vậy con có cách nào khiến họ đều xuất gia ?"

- Nhưng mà con nghĩ như thế.

- Con nghĩ như thế là vọng tưởng !

Rất thật thà, đem hàng ngàn câu hỏi muốn đến hỏi tôi, trong khoảnh khắc những vấn đề đều bị bác bỏ.

Vì thế các vị ! hôm nay những gì tôi nói với quý vị là đập nồi dìm thuyền (2), quay lưng về phía thành mà quyết chiến ; các ông nếu vẫn cứ không hiểu, không buông bỏ được, vẫn nhìn không thấu suốt, dù cho là Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng hết cách, cũng cứu không được các ông. Nói : "Như Chúa trời không vui a !". Chúa trời ! Ông ta còn chưa hiểu rõ a ! Nếu phản đối tôi thì ông ta là Chúa trời hồ đồ ; nếu không phải là Chúa trời hồ đồ, thì tuyệt đối không bao giờ phản đối tôi. Tinh huyết đã kiệt, giống như một người nào đó đi buôn lậu trốn thuế, làm sao mà được !

Da thịt teo khô từ ngoài : Tinh khí thần không còn nữa, da thịt teo khô từ bên ngoài, hóa làm đất nước lửa gió. Ðịa đại thì trả về đất, thủy đại thì trả về nước, phong đại thì trả về gió, hỏa đại thì trả về lửa, tứ đại phân tán. Không một sợi lông nào mà không như bị chích đốt : Khi gần chết thì mỗi sợi lông đau nhức như bị chích đốt. Không một kẽ huyệt nào mà không như bị cắt xả : Lúc đó tinh khí thần đã khô, mỗi một kẽ huyệt đều đau nhức như bị dao cắt.

Con rùa đem nấu, sự thoát vỏ của nó còn dễ : chữ  xác, các ông có người đọc là , kỳ thực đọc là  (3) khi người lấy dầu nấu con rùa, khi rùa còn sống, lột lấy mai cứng của nó. Rùa bị lột mai vẫn không gọi là khó khăn, nhưng mà đau đớn vô cùng. Thần thức lúc tàn, sự thoát xác của nó thật là quá khó : Dục tạ là tàn héo, là lúc sắp đi, mà thần thức lúc sắp lìa thân thể, còn đau khổ hơn rùa bị lột mai nữa. Chữ "nan" này, chính là đau khổ, còn đau khổ hơn con rùa sống bị lột mai nữa.

Nguyên Văn:

Tâm không phải thường trụ nên giống như thương khách bôn ba giong ruổi mọi nơi, thân không có hình dáng cố định nên khác nào phòng ốc thường dời đổi. Vi trần của đại thiên thế giới cũng khó sánh thân luân hồi, nước đầy trong bốn biển vẫn không bằng lệ biệt ly. Xương mà chất thì hơn núi cao, thây nằm ngang dọc thì nhiều hơn đại địa. Giả sử không được nghe lời Phật thì việc ấy ai thấy ai nghe, chưa được đọc văn Kinh thì lý này ai hay ai biết. Vậy mà có kẻ vẫn tham luyến như xưa, si mê như cũ, chỉ e rằng muôn kiếp ngàn đời một lần sai lầm là trăm lần sai lầm. Thân người khó được mà dễ mất, giờ tốt dễ trôi mà khó kéo. Rồi đường hướng mịt mờ, biệt ly dài dặc, ác báo tam đồ tự mình phải chịu, thống khổ không nói hết được, mà ai chịu thay. Trình bày đến đây, há chẳng lo sợ sao! Cho nên hãy dứt nguồn sinh tử, vượt bể ái dục, mình người cùng siêu thoát, đồng lên bờ giác. Từ vô lượng kiếp cho đến nay quan trọng là ở chỗ này. Ðó là nhân duyên thứ sáu của sự phát Tâm Bồ đề.

Giảng:

Tâm không phải thường trụ nên giống như thương khách bôn ba giong ruổi mọi nơi : Tâm của chúng ta không làm chủ được, nếu thật có thể làm chủ thì sẽ có định, sẽ không vọng tưởng. Vì không có thường trụ, cho nên giống như những người buôn bán, bôn ba khắp nơi mua bán. Làm thương khách, hôm nay ở chỗ này, ngày mai đến chỗ kia, khắp nơi chào hàng, mua hàng, bôn ba khắp chốn.

Thân không có hình dáng cố định nên khác nào phòng ốc thường dời đổi : Thân của chúng ta không có hình dáng nhất định, đời này cao hơn một chút, đời sau hoặc là thấp hơn một chút. Nó không phải là của chúng ta, giống như một căn nhà vậy ; cho nên mới nói :

"Nhân thân hảo tỷ nhất gian phòng

Khẩu vi môn hộ nhãn vi song

Tứ chi hảo tỷ phòng tứ trụ

Ðầu phát hảo tượng sơn phòng thảo

Sấn trước hảo thời cần tu bổ

Mạc đãi hoại trước liễu mang"

Dịch :

Thân người ví tựa gian nhà,

Mắt là cửa sổ miệng là cửa đi.

Bốn cột ấy chính tứ chi,

Trên tường cỏ mọc, đầu thì tóc xanh

Nên lo tu sửa lúc lành,

Đợi khi hư hỏng cầm canh mệt nhoài.

"Thân người ví tựa gian nhà, Mắt là cửa sổ miệng là cửa đi, ": miệng dùng để ăn, giống như cửa của căn nhà; cặp mắt, lỗ mũi, lỗ tai như cửa sổ, có thể thông gió; lỗ mũi dưới con mắt giống như lỗ thông hơi, bịt miệng lại mũi có thể hô hấp. "Bốn cột ấy chính tứ chi ": hai tay hai chân giống như bốn cột nhà. "Trên tường cỏ mọc, đầu thì tóc xanh ": tóc của người giống như cỏ dại mọc trên tường nhà. "Nên lo tu sửa lúc lành " : thừa lúc nhà còn đang tốt, nên siêng năng tu bổ, sửa chữa. "Đợi khi hư hỏng cầm canh mệt nhoài": Chớ nên đợi đến lúc nhà hư rồi, mới lo lắng không có nhà ở, thì không có ích dụng gì.

Do đây mà thấy, thân của chúng ta giống như căn nhà vậy, đã là nhà thì bên trong phải có người chủ ; người chủ vốn là ai ? Chính là tâm. Nhưng tâm này nhu nhược bất tài, không thể làm chủ, cứ nghe theo những lời của tà ma quỷ quái, cứ mãi vọng tưởng. Vọng tưởng vừa khởi, thi bị vật bên ngoài lôi kéo ; cho nên tâm này khắp chốn bôn ba, thân thể thì thường thường thay đổi. Thân cảm thấy cái nhà này ở đủ rồi, già rồi, không còn muốn căn nhà này nữa, quăng nó đi ; cho nên thường thường dọn nhà xoay chuyển, từ nhà này dọn đến nhà kia. Có lúc từ nhà lá nhà tranh dọn đến nhà cao cửa rộng, cho nên mới nói "thường thường dời đổi". Giống như nhà ở, kiếp này ở trong nhà này, kiếp sau ở trong nhà kia.

Vi trần của đại thiên thế giới cũng khó sánh thân luân hồi : Chúng ta đến rồi lại đi, đi rồi lại đến, đi đi đến đến không biết bao nhiêu lần, nhiều như số vi trần của đại thiên thế giới cũng khó sánh nỗi thân luân hồi !Nước đầy trong bốn biển vẫn không bằng lệ biệt ly : Nước trong bốn biển nhiều như thế, e rằng cũng không sánh bằng nước mắt của chúng ta khóc khi bi hoan ly hợp.

Xương mà chất thì hơn núi cao : Xương cốt mà chúng ta tích chứa trong những kiếp sanh tử rất nhiều, còn cao hơn núi. Thây nằm ngang dọc thì nhiều hơn đại địa : Nếu tính thì thây chết của chúng ta rất nhiều, nhiều như cây cỏ, còn nhiều hơn đất của đại địa.

Giả sử không được nghe lời Phật thì việc ấy ai thấy ai nghe ! Giả như không nghe được lời dạy của Phật thì đạo lý này ai hay ai biết ? Ai có thể nhìn thấy ? Ai có thể nghe thấy ? Sẽ không có !

Chưa được đọc văn Kinh thì lý này ai hay ai biết ! Nếu không đọc được những ý nghĩa ở trong kinh ; thì lý luận này ông làm sao biết được ? ông làm sao có thể giác ngộ được ?

Vậy mà có kẻ vẫn tham luyến như xưa, si mê như cũ : Nếu ông vẫn y như cũ tham luyến cái túi da thúi này, vẫn không rõ đạo lý này, thì Chỉ e rằng muôn kiếp ngàn đời một lần sai lầm là trăm lần sai lầm :e rằng một lần sai lầm thì cả trăm lần đều sai lầm.

Thân người khó được mà dễ mất : Thân người không dễ dàng mà được, chúng ta nay đã được thân người, không nên bỏ lỡ ! nếu không rất dễ dàng mất đi. Giờ tốt dễ trôi mà khó kéo : Giờ tốt tức là thời thanh niên, cũng rất dễ dàng trôi qua, muốn kéo trở lại cũng không kéo được.

Rồi đường hướng mịt mờ, biệt ly dài dặc : mịt mờ là nhìn không thấy vật gì. Ở trên con đường tối tăm mờ mịt, biệt ly dài dặc. Ác báo tam đồ tự mình phải chịu : Ông trồng nhân ác thì chịu quả báo ác trong tam đồ địa ngục, ngã quỷ, súc sanh.

Thống khổ không nói hết được, mà ai chịu thay ? Thật là vô cùng đau khổ ! Ai có thể thay thế ta chịu cái quả báo này ? Trình bày đến đây, há chẳng lo sợ sao ? Ta nay nói đến chỗ này, ông không lo sợ sao ?

Cho nên hãy dứt nguồn sinh tử, vượt bể ái dục : Vì thế ông nên vội lo tu hành, liễu thoát sanh tử, vượt ra ngoài biển khổ ái tình và dục niệm. Mình người cùng siêu thoát, đồng lên bờ giác : không những mình lìa khổ được vui, mà người khác cũng lìa khổ được vui, đều được cứu độ, cùng đến bờ bên kia, không sanh không diệt.

Từ vô lượng kiếp cho đến nay quan trọng là ở chỗ này : Từ vô lượng kiếp xa xưa cho đến nay, ông lập được một đại công chính là ở chỗ này ; chính là việc này - liễu thoát sanh tử.

Ðó là nhân duyên thứ sáu của sự phát Tâm Bồ đề : Ðây là nhân duyên thứ sáu của sự phát tâm Bồ đề.

 

VII. Trọng Linh Tánh Của Mình

Nguyên Văn:

Thế nào là trọng linh tánh của mình? Tâm hiện tiền của chúng ta cùng với đức Thích Ca Như Lai không hai không khác. Vậy mà tại sao Thế Tôn từ vô lượng kiếp đã sớm thành chánh giác, còn chúng ta thì vẫn còn là phàm phu hôn mê điên đảo. Lại nữa Ðức Phật Thế Tôn thì có vô lượng thần thông, trí huệ, công đức trang nghiêm, còn chúng ta chỉ có vô biên nghiệp chướng phiền não, sinh tử buộc ràng. Tâm tánh là một mà vì mê ngộ nên cách xa một trời một vực. Lặng đi mà nghĩ mới thấy hổ thẹn. Ví như ngọc báu vô giá vùi xuống bùn dơ mà xem như ngói gạch, không chút thương tiếc quí trọng. Vì thế hãy dùng vô lượng thiện pháp mà đối trị vô biên phiền não. Tu đức có công, thì tánh đức mới lộ. Bấy giờ thì như ngọc báu được rửa, treo trên phướn cao, ánh sáng rực rỡ, chói lấp tất cả. Thế mới gọi là không uổng công Ðức Phật giáo hóa, không phụ tánh linh của mình. Ðó là nhân duyên thứ bảy của sự phát Tâm Bồ đề.

Giảng:

Thế nào là trọng linh tánh của mình ? Thế nào gọi là tôn trọng tánh linh của mình ? Tánh linh cũng chính là Phật tánh ; Phật tánh cũng chính là tánh linh của chúng ta, Phật và chúng sanh không sai khác. Vậy tại sao Phật có trí huệ lớn như thế, mà chúng ta vẫn còn là ngu si mê muội như thế ? Chính vì Ðức Phật tu đức có công, cho nên tánh đức mới hiển lộ ra ; đức hạnh tu hành thành tựu rồi thì trí huệ bổn tánh sẽ hiện ra. Nếu không mài giũa, tu sửa, bổn tánh tuy có nhưng sẽ không hiện ra. Như cái bàn này, vốn là từ cái cây làm ra; sau khi cây lớn lên, cưa xẻ nó thành miếng gỗ rồi làm thành cái bàn, làm một món đồ có thể sử dụng. Nhưng khi nó còn ở trên cây, ông không thể lấy cái cây cho là cái bàn, chỉ có thể nói nó là cái cây. Cái cây có thể làm đủ thứ dụng cụng, các thứ vật liệu, nhưng nếu ông không biết dùng, chỉ có thể dùng nó làm củi đốt; nếu biết dùng thì có thể chế tạo các thứ gia cụ ích dụng, muốn chế tạo thứ gì cũng được. Tánh linh của ta cũng vậy, nếu chúng ta biết dùng thì trí huệ sáng suốt sẽ hiện ra ; nếu không biết dùng, thì giống như cây đang ở đó, sau này người không nhận thức, chỉ có thể dùng nó làm củi đốt - sanh rồi lại chết, chết rồi lại sanh.

Phật giáo chúng ta sở dĩ khác với các Tôn giáo khác, là vì thần của các Tôn giáo này thì con người không thể đạt đến ; chỉ có Phật giáo, Phật là một đấng có đại trí huệ, Ngài dạy chúng ta mỗi người khai mở trí huệ, đều có thể thành Phật.

Thành Phật thì như thế nào ? chính là không tranh, không tham, không mong cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngư. Hỏi : "Ðơn giản như thế sao ?". Ừ, đơn giản như thế ! Nếu ông thực hành được sáu đại tông chỉ thì sẽ thành Phật, chỉ sợ rằng ông không làm được. Nói tôi không tranh ! nhưng khi sự việc đến vẫn tranh như cũ ; nói tôi không tham, nhưng đến khi gặp lúc hơn thiệt vẫn là tham ; nói tôi không cầu, nhưng đến lúc cần thiết vẫn phải cầu ; nói tôi không ích kỷ, nhưng khi cảnh đến, có rất nhiều chỗ quan trọng, vẫn không buông bỏ được, nhìn không thấu suốt, vẫn là tự tư ích kỷ; nói không tự lợi nhưng vẫn là tự lợi ; lại thêm vọng ngữ ! Vọng ngữ này không cần học mà mỗi người đều biết. Như một người nào đó, bạn nói người đó vọng ngữ, người đó bèn nói, đây là lời phương tiện, phải cần nói như thế ! Bạn xem có cách gì chăng ? Vọng ngữ, họ cho rằng là phương tiện ngữ, phương tiện ngữ họ cho rằng phải nên như thế.

Vậy thì sáu đại tông chỉ này, nếu mà triệt để nhận thức, triệt để theo đó mà làm, tuy không thể nói lập tức thành Phật, nhưng ngày thành Phật không xa.

Vậy thì tôn trọng tánh linh của mình như thế nào ? Chính là cần phải tôn trọng Phật tánh của mình, không nên lãng phí chà đạp nó. Không nên đem món đồ quý giá có thể làm bàn thờ Phật mà làm củi đốt, thì một chút giá trị cũng không có. Cho nên nhân duyên thứ bảy của sự phát tâm Bồ đề chính là cần phải tôn trọng tánh linh của mình, không nên xem thường mình, cần phải tôn trọng trí huệ của mình.

Tâm hiện tiền của chúng ta : tánh linh của mình, cũng tức là tâm của ông. Một niệm tâm này, không phải là tâm quá khứ, cũng không phải là tâm vị lai, mà là một niệm tâm hiện tiền. Cùng với đức Thích Ca Như Lai không hai không khác : Ðức Phật đã dùng tánh linh của Ngài, dùng tâm của Ngài thành tựu Phật quả ; chúng ta cũng nên dùng tánh linh của mình, dùng tâm của mình thành Phật. Vì thế tâm của chúng ta và Phật không sai không khác, không có gì khác biệt.

Vậy mà tại sao Thế Tôn từ vô lượng kiếp đã sớm thành chánh giác : Ðã là như thế tại sao Ðức Phật từ vô lượng kiếp đã sớm thành Phật ? "Chánh giác" cũng tức là Phật. Còn chúng ta thì vẫn còn là phàm phu hôn mê điên đảo : Mà chúng ta vẫn còn ở đây hôn mê điên đảo, không có giác ngộ. Tại sao chúng ta chưa thành Phật vẫn còn làm phàm phu ?

Lại nữa Ðức Phật Thế Tôn : lại nữa Ðức Phật Thế Tôn Thì có vô lượng thần thông, trí huệ, công đức trang nghiêm : Ðức Phật có Tam thân Tứ trí, Ngũ nhãn Lục thông. Tam thân là Pháp thân, hóa thân, báo thân. Tứ trí là bốn loại trí huệ : Bình đẳng tánh trí, Diệu quan sát trí, Thành sở tác trí, Ðại viên cảnh trí. Ngũ nhãn là Phật nhãn, Pháp nhãn, Huệ nhãn, Thiên nhãn, Nhục nhãn. Sáu loại thần thông : Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông, Túc mạng thông, Lậu tận thông, Thần túc thông. Ðức Phật có Ngũ nhãn Lục thông, Thiên nhãn thông thì có thể nhìn thấy biết tất cả mọi động tác của trời người. Thiên nhĩ thông thì có thể nghe rõ tiếng của người trời. Tha tâm thông chính là giữa đôi bên, tâm của mình có động niệm gì, không cần nói ra, Ngài cũng biết được chúng ta đang nghĩ gì. Túc mạng thông chính là kiếp trước chúng ta là bò, là ngựa, là người, làm heo, Ngài vừa nhìn liền biết ; thậm chí kiếp trước kiếp trước, đời đời kiếp kiếp về trước, bao nhiêu kiếp làm người, bao nhiêu kiếp làm ngựa, bao nhiêu đời làm lừa, bao nhiêu đời làm phi cầm, bao nhiêu kiếp làm kiến, bao nhiêu kiếp làm muỗi mòng Ngài đều biết hết. Ðức Phật làm sao có được thần thông trí huệ như thế ? Vì Ngài công đức trang nghiêm, công đức viên mãn. Trang nghiêm có nghĩa là muôn vạn đức hạnh trang nghiêm thân mình.

Còn chúng ta chỉ có vô biên nghiệp chướng phiền não, sinh tử buộc ràng : Mà chúng ta vẫn còn ở đây bị nghiệp chướng buộc ràng, phiền lụy, lại có rất nhiều phiền não. Sanh rồi là chết, chết rồi lại sanh, bị trói buộc trong vòng luân hồi sanh tử, không thể nào được giải thoát, không được tự do.

Tâm tánh là một mà vì mê ngộ nên cách xa một trời một vực : Tâm tánh của chúng ta - tâm của Phật và tâm của chúng ta là một, tánh linh của Phật và tánh linh của chúng ta là một ; nhưng vì Ðức Phật biết sử dụng, nên Ngài đã giác ngộ ; mà chúng ta vẫn còn mê muội ! cho nên nói cách xa một trời một vực. "Uyên" không phải là đất mà là vực sâu, chỗ sâu có nước, thậm chí ở phía dưới mặt đất. Lặng đi mà nghĩ mới thấy hổ thẹn. Suy nghĩ về việc đó. Ðầu óc của chúng ta cần phải tỉnh táo, nghiên cứu về vấn đề này, há không hổ thẹn sao ? Ðức Phật đã thành Phật, mở đại trí huệ, mà chúng ta vẫn còn ngu si điên đảo như thế, thật không đáng là bậc đại trượng phu, đại anh hùng, đại hào kiệt, cho nên chúng ta rất đáng hổ thẹn.

Ví như ngọc báu vô giá vùi xuống bùn dơ : Linh tánh của chúng ta giống như hạt bảo châu vô giá, vùi dưới bùn nhơ. Ứ nê, tức là bùn nhơ, bùn đen, thứ không có giá trị. Mà xem như ngói gạch, không chút thương tiếc quí trọng : không thương tiếc quý trọng tánh linh của mình, xem như ngói vụn gạch nát.

Vì thế hãy dùng vô lượng thiện pháp mà đối trị vô biên phiền não : Cho nên cần phải dùng vô lượng thiện pháp để đối trị với vô biên phiền não. Nếu công đức thiện lành viên mãn thì sẽ được sanh lên thiên giới ; tội lỗi sai lầm tích chứa quá nhiều thì sẽ đọa địa ngục, vì thế chúng ta cần phải các việc ác không làm, làm các việc lành ; cũng tức là tu vô lượng thiện pháp, có công đức rồi thì tự nhiên phiền não không còn.

Tu đức có công, thì tánh đức mới lộ : tu hành vun bồi đức hạnh, nếu có chỗ thành tựu thì linh tánh, đức hạnh của ta sẽ lộ ra ngoài, hiện ra trí huệ. Bấy giờ thì như ngọc báu được rửa, treo trên phướn cao :giống như hạt châu vùi trong đất bùn, ông chùi rửa nó sạch sẽ, treo trên đầu ngọn phướn cao. ánh sáng rực rỡ, chói lấp tất cả : thì nó sẽ chiếu sáng bốn phương, chói lấp tất cả ánh sáng khác. Thế mới gọi là không uổng công Ðức Phật giáo hóa, không phụ tánh linh của mình : Làm được như thế có thể nói rằng không phụ sự giáo hóa của Phật, cũng không phụ tánh linh của mình.

Ðó là nhân duyên thứ bảy của sự phát Tâm Bồ đề : Ðây là nhân duyên thứ bảy của sự phát tâm Bồ đề, tức là tôn trọng tánh linh của mình, không nên lãng phí tánh linh của mình.

 

VIII. Sám Hối Nghiệp Chướng

Nguyên Văn:

Thế nào là sám hối nghiệp chướng? Kinh dạy: "Phạm một tội kiết la cũng phải đọa địa ngục bằng năm trăm tuổi thọ của bốn Thiên vương. Kiết la là tội nhỏ mà còn bị quả báo đến thế, huống chi tội nặng, quả báo thật khó tả. Nay chúng ta, mỗi cử chỉ động tác hằng ngày, hằng trái với giới luật, lúc ăn lúc uống thường phạm vào thi la. Một ngày tội lỗi đã phạm, cũng đã vô lượng, huống chi trọn đời nhiều kiếp, tội lỗi đã phạm khó mà nói hết. Cứ lấy ngũ giới mà xét, thì mười người đã có đến chín người phạm, phát lộ thì ít mà che giấu lại nhiều. Ngũ giới là giới của Ưu bà tắc mà còn không giữ gìn đầy đủ, huống chi các giới Sa di, Tỳ kheo, Bồ tát, thì không cần nói đến vậy.

Giảng:

Thế nào là sám hối nghiệp chướng? Sám là "sám kỳ tiền khiên", ăn năn lỗi đã qua; hối là "hối kỳ hậu quá", chừa bỏ lỗi sau này. Những lỗi đã phạm trước kia và chưa phạm sau này, đều phải sám hối. Sức mạnh của sự sám hối thì bất khả tư nghì.

Kinh dạy: "Phạm một tội kiết la cũng phải đọa địa ngục bằng năm trăm tuổi thọ của bốn Thiên vương." : Kinh nói : Phạm một tội kiết la, tức là đột kiết la, gọi là khinh cấu tội, cũng tức là một pháp ô nhiễm rất nhỏ. Phạm tội này, giống như tuổi thọ của Tứ đại thiên vương vậy, sau năm trăm năm mới có thể trả hết tội này, phải ở trong địa ngục năm trăm năm.

Kiết la là tội nhỏ mà còn bị quả báo đến thế : Ðột kiết la vốn là khinh cấu tội, là một tội nhẹ, mà còn có quả báo như thế. Huống chi tội nặng, quả báo thật khó tả : Huống chi là phạm các tội lớn ? Như phạm bốn trọng tội, tăng tàn v.v… thì càng không biết phải thọ quả báo bao lâu.

Nay chúng ta, mỗi cử chỉ động tác hằng ngày, hằng trái với giới luật : Nay chúng ta là người xuất gia trong mỗi ngày, trong sự sử dụng hằng ngày, hoặc là mỗi cử chỉ mỗi động tác, hoặc là một lời nói một hành vi, đi đứng nằm ngồi bốn oai nghi thường vi phạm giới luật. Lúc ăn lúc uống thường phạm vào thi la :Hoặc là một bữa cơm, hoặc là một hớp nước đều không hợp với giới luật.

Một ngày tội lỗi đã phạm, cũng đã vô lượng : Những tội lỗi đã phạm trong mỗi ngày cũng nhiều vô lượng vô biên. Huống chi trọn đời nhiều kiếp, tội lỗi đã phạm khó mà nói hết ! Hà huống tội lỗi đã phạm trong một đời thì càng nhiều hơn ; mà trong thời gian lâu dài, tội nghiệp đã tạo trong nhiều đời nhiều kiếp thì càng không biết bao nhiêu nữa !

Cứ lấy ngũ giới mà xét, thì mười người đã có đến chín người phạm, phát lộ thì ít mà che giấu lại nhiều : Cứ lấy ngũ giới mà nói, mười người thọ đã có chín người phạm, nhưng rất ít người phát lồ, tức là phạm giới cũng không phát lồ sám hối. Ða tàng tức là giấu giếm trong tâm, cho rằng mọi người không biết thì mình không có phạm giới. Ngũ giới là giới của Ưu bà tắc mà còn không giữ gìn đầy đủ : Ngũ giới là giới của người tại gia - Ưu bà tắc (Cận sự nam), Ưu bà di (Cận sự nữ), mà còn không thể giữ gìn đầy đủ. Sự phạm giới này cũng bao gồm người xuất gia ; người xuất gia cũng thường phạm các tội trong ngũ giới, không viên mãn. Bất cụ túc chính là không viên mãn. Huống chi các giới Sa di, Tỳ kheo, Bồ tát, thì không cần nói đến vậy ! Huống chi là mười giới của Sa di, 250 giới của Tỳ kheo, 48 giới khinh 10 giới trọng của Bồ tát v.v… ? Càng không cần nói đến, nhất định phạm rất nhiều.

Nguyên Văn:

Hỏi cái tên thì nói "Tôi là Tỳ kheo", hỏi cái thật thì hãy còn chưa đủ làm Ưu bà tắc, như thế mà không xấu hổ sao! Phải biết, giới luật của Phật không thọ thì thôi, thọ thì không được hủy phạm, vì không phạm thì thôi, phạm thì cuối cùng nhất định bị đọa lạc. Trừ phi cảm thương thân mình, thân người, lại xót xa cho mình và kẻ khác, thân và khẩu cùng tha thiết, lệ rơi theo tiếng, khắp cùng với chúng sanh khẩn cầu sám hối, nếu chẳng thế thì quả báo ác ngàn đời muôn kiếp cũng khó tránh khỏi. Ðó là nhân duyên thứ tám của sự phát Tâm Bồ đề.

Giảng:

Hỏi cái tên thì nói "Tôi là Tỳ kheo" : Nếu hỏi người xuất gia : "Gọi là gì ?", người đó bèn trả lời "Tôi là Tỳ kheo". Tỳ kheo có ba nghĩa là khất sĩ, bố ma, phá ác.

1. Khất sĩ : Trên xin pháp của chư Phật, dưới khất thực chúng sanh.

2. Bố ma : Người xuất gia sau khi thọ giới Tỳ kheo, Hòa thượng Giáo thọ, Yết ma sẽ hỏi : "Ông có phải là trượng phu chăng ?"

Trả lời :

- Là trượng phu.

Lúc đó cung điện của thiên ma trên cõi trời chấn động, ma vương lo lắng sợ sệt. Ma vương nghĩ rằng :

- Ai da! Nay quyến thuộc của Thích Ca lai tăng thêm mà quyến thuộc của ta lại giảm đi.

Do ma vương lo sợ, nên gọi là Bố ma.

3. Phá ác : Tức là phá phiền não ác, phá ác tham sân si.

Hỏi cái thật thì hãy còn chưa đủ làm Ưu bà tắc : Nếu chân thật mà hỏi, thì thậm chí cũng không bằng Ưu bà tắc, Ưu bà di là những người tại gia. Chính là có hạng người xuất gia như thế ; nhưng người xuất gia cũng có vị giới hạnh thanh cao, đáng làm thầy trời người. Cho nên ở đây cũng không thể quơ đũa cả nắm, không thể gộp chung lại mà xét được, ông không thể nói :

- Ô, tất cả người xuất gia đều không bằng người tại gia.

Không thể nói như thế.

Như thế mà không xấu hổ sao ! Thân là người xuất gia mà không bằng kẻ tại gia thì nên sanh lòng tàm quý xấu hổ.

Phải biết, giới luật của Phật không thọ thì thôi, thọ thì không được hủy phạm : Kinh Bồ Tát Giới nói: "Chúng sanh thọ Phật giới, tức nhập chư Phật vị, vị đồng đại giác dĩ, chân thị chư Phật tử", chúng sanh thọ giới của Phật, có thể tinh tấn tu hành, đến khi giác ngộ rồi, thì có tư cách thành Phật; cũng khai ngộ như nhau, đó chính là con của Phật. (Lời giảng của HT trong Kinh Lăng Nghiêm) Ðã thọ giới luật của Phật thì phải giữ gìn giới luật, cho nên nói không thể phạm giới. Vì không phạm thì thôi, phạm thì cuối cùng nhất định bị đọa lạc : Tại sao không thể phạm giới ? Ông không phạm giới đương nhiên không có vấn đề gì ; nếu phạm thì tương lai nhất định sẽ bị đọa lạc.

Trừ phi cảm thương thân mình, thân người, lại xót xa cho mình và kẻ khác : Trừ phi cảm thương thân mình, cũng cảm thương kẻ khác, xót xa cho mình và cũng xót xa cho kẻ khác. Vì thế lúc này, cần phảithân và khẩu cùng tha thiết, lệ rơi theo tiếng, khắp cùng với chúng sanh khẩn cầu sám hối : thân khẩu ý đều phải chuyên nhất tha thiết, lệ rơi theo tiếng, nguyện cùng với tất cả chúng sanh, đối trước Phật khẩn cầu sám hối. Nếu chẳng thế thì quả báo ác ngàn đời muôn kiếp cũng khó tránh khỏi : Nếu không thì quả báo ác từ vô lượng kiếp đến nay sẽ khó tránh. Nếu ông không sám hối thì sẽ phải thọ quả báo ác, quả báo ác này không dễ dàng trốn tránh, nhất định phải thọ lấy ; trừ phi ông chân chánh sám hối, ác báo này mới có thể miễn trừ.

Ðó là nhân duyên thứ tám của sự phát Tâm Bồ đề : Ðây là nhân duyên thứ tám của sự phát tâm Bồ đề.

 

IX. Cầu Sanh Tịnh Độ

Nguyên Văn:

Thế nào là cầu sinh Tịnh độ? Ở cõi này tu hành thì sự tiến đạo rất khó khăn, vãng sinh cõi kia thì sự thành Phật cũng rất dễ dàng. Dễ dàng nên một đời đã có thể đạt đến, khó nên nhiều kiếp vẫn chưa thành tựu. Do đó mà thánh ngày xưa, hiền ngày trước, người người xu hướng; kinh cả ngàn, luận cả vạn, chỗ chỗ chỉ qui. Sự tu hành trong thời kỳ mạt pháp này, không có pháp nào vượt qua pháp môn này. Nhưng kinh đã nói : " Căn lành nhỏ thì khó được vãng sanh, phước đức nhiều mới chắc chắn đến được". Nói phước đức nhiều thì không chi bằng sự chấp trì danh hiệu, nói căn lành lớn thì không chi bằng sự phát tâm quảng đại. Vì thế tạm trì danh hiệu Phật hơn cả trăm năm bố thí, một niệm phát tâm Bồ đề rộng lớn vượt hơn cả sự tu hành trong nhiều kiếp. Vì niệm Phật vốn mong thành Phật, vậy tâm lớn không phát thì niệm Phật để làm chi; còn phát tâm vốn để tu hành, vậy Tịnh độ không sanh thì có phát cũng dễ thối chuyển. Cho nên gieo hạt giống Bồ đề, cày bằng lưỡi cày niệm Phật, thì đạo quả tự nhiên lớn lên; ngồi chiếc thuyền đại nguyện, vào trong bể cả Tịnh độ, thì Tây phương Cực Lạc quyết định vãng sanh. Ðó là nhân duyên thứ chín của sự phát Tâm Bồ đề.

Giảng:

Thế nào là cầu sinh Tịnh độ ? Thế nào mới có thể cầu sanh Tịnh độ ? Thế nào gọi là cầu sanh Tịnh độ ?Ở cõi này tu hành thì sự tiến đạo rất khó khăn : Ở thế giới Ta bà này, tuy có thể tu hành, nhưng có thể tiến lên phía trước, có thể càng ngày càng tăng trưởng đạo nghiệp thì không phải là chuyện dễ dàng. Vãng sinh cõi kia thì sự thành Phật cũng rất dễ dàng : Cõi kia tức là thế giới Cực lạc. Một khi được vãng sanh thế giới Cưc lạc thì hoa nở thấy Phật, ngộ Vô sanh pháp nhẫn. Dễ dàng nên một đời đã có thể đạt đến : Vì dễ dàng cho nên một đời cũng có thể dễ dàng đạt đến, thành tựu. Khó nên nhiều kiếp vẫn chưa thành tựu : Vì ở thế giới Ta bà này tu hành không dễ dàng, chướng duyên rất nhiều, cho nên rất nhiều kiếp, trải qua thời gian rất lâu dài, cũng không dễ dàng thành tựu.

Do đó mà thánh ngày xưa, hiền ngày trước, người người xu hướng : Vì lý do này, cho nên các bậc thánh nhân và hiền nhân xưa kia, người người - là Tổ sư nhiều đời về trước, tất cả những bậc thánh hiền này đều mong cầu sanh Tịnh độ. Kinh cả ngàn, luận cả vạn, chỗ chỗ chỉ qui : tất cả kinh điển do Phật nói ra, và các bộ luận do chư Tổ sư tạo, mỗi một bộ kinh, mỗi một bộ luận và mỗi một bộ luật đều là chỉ quy Tịnh độ ; mục đích cuối cùng đều là dạy chúng ta cầu sanh Tịnh độ.

Sự tu hành trong thời kỳ mạt pháp này, không có pháp nào vượt qua pháp môn này : chúng ta nay ở thời đại mạt pháp tu hành, không có pháp môn nào có thể vượt qua pháp môn Tịnh độ, đây là pháp môn phương tiện nhất, dễ dàng nhất, trực tiếp nhất, đơn giản nhất. Nhưng kinh đã nói : " Căn lành nhỏ thì khó được vãng sanh, phước đức nhiều mới chắc chắn đến được" : Nhưng mà "kinh A Di Ðà" nói : "Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên, đắc sanh bỉ quốc", không thể chỉ có chút ít nhơn duyên phước đức căn lành mà được sanh về nước kia. Cần phải gieo trồng nhiều thiện căn, vun bồi nhiều phước đức mới được vãng sanh, cũng chính là cần phải tu nhiều phước báu mới có thể đến được cõi kia.

Nói phước đức nhiều thì không chi bằng sự chấp trì danh hiệu : Như thế nào mới có thể vun trồng được nhiều phước đức ? Chúng ta niệm Phật chính là gieo trồng phước đức rất lớn, tức là tăng trưởng phước đức cho chúng ta. Nói căn lành lớn thì không chi bằng sự phát tâm quảng đại : Sao gọi là căn lành lớn ? chính là phải phát tâm Bồ đề rộng lớn.

Vì thế tạm trì danh hiệu Phật hơn cả trăm năm bố thí : Vì thế cho nên dù chỉ trong thời gian ngắn ngủi thọ trì danh hiệu Ðức Phật A Di Ðà cũng lớn hơn dùng bảy báu bố thí trong trăm năm. Một niệm phát tâm Bồ đề rộng lớn vượt hơn cả sự tu hành trong nhiều kiếp : Một niệm phát tâm rộng lớn thì có thể vượt qua sự tu hành trong nhiều kiếp.

Vì niệm Phật vốn mong thành Phật : Tóm lại tại sao cần phải niệm Phật ? Niệm Phật chính là muốn thành Phật ; nếu không muốn thành Phật thì không cần phải niệm Phật. Cho nên Vậy tâm lớn không phát thì niệm Phật để làm chi : nếu ông không phát tâm rộng lớn, không phát tâm Bồ đề, niệm Phật để làm chi ? Không cần phải niệm Phật. Còn phát tâm vốn để tu hành, vậy Tịnh độ không sanh thì có phát cũng dễ thối chuyển : tại sao cần phải phát tâm, chính là vì để tu hành. Nếu không cầu sanh Tịnh độ, tuy có phát tâm rộng lớn, cũng dễ dàng thối thất tâm Bồ đề.

Cho nên gieo hạt giống Bồ đề : Gieo hột giống Bồ đề tức là phát tâm rộng lớn, cày bằng lưỡi cày niệm Phật : niệm Phật như dùng lưỡi cày nơi đó cày ruộng. Thì đạo quả tự nhiên lớn lên : Vậy khi ông vừa niệm Phật thì ở bên thế giới Tây phương Cực lạc liền sanh ra đóa hoa sen. Ngồi chiếc thuyền đại nguyện, vào trong bể cả Tịnh độ : Ngồi chiếc thuyền đại nguyện của Ðức Phật A Di Ðà, vào trong biển lớn Tịnh độ. Thì Tây phương Cực Lạc quyết định vãng sanh : ông ngồi chiếc thuyền đại nguyện, chấp trì danh hiệu Phật thì nhất định vãng sanh thế giới Cực lạc, vãng sanh vào cõi Tịnh độ.

Ðó là nhân duyên thứ chín của sự phát Tâm Bồ đề : Ðây là nhân duyên thứ chín của sự phát tâm Bồ đề.

 

X. Làm Cho Chánh Pháp Tồn Tại Lâu Dài 

Nguyên Văn:

Thế nào là làm cho Chánh pháp tồn tại lâu dài? Ðức Thế Tôn của ta, từ vô lượng kiếp đến nay, vì chúng ta mà tu đạo Bồ đề, Ngài đã làm việc khó làm, nhẫn sự khó nhẫn, nhân tròn, quả mãn, mới được thành Phật. Sau khi thành Phật, giáo hóa tròn đầy, nhập vào Niết bàn. Nay thì thời kỳ Chánh pháp tượng pháp đã diệt tận, chỉ còn tồn tại thời kỳ mạt pháp. Giáo pháp còn đó mà không người hành trì, tà chánh không phân, thi phi lẫn lộn, tranh giành nhân ngã, mãi chạy theo danh lợi. Mở mắt ra là thấy đầy dẫy thiên hạ đều là như vậy. Chẳng ai biết Phật là bực nào, Pháp là nghĩa gì, Tăng là người chi. Suy tàn đến thế, bất nhẫn thốt ra lời. Mỗi khi nghĩ đến, bất giác rơi lệ. Ta là con Phật mà ta không thể báo đáp ân đức của ngài. Trong vô ích cho mình, ngoài vô ích cho người, sống vô ích đương thời, chết vô ích mai sau. Trời tuy cao cũng không che nổi ta, đất tuy dày cũng khó chở ta. Tội nhân cực trọng, không phải ta thì là ai?

Giảng:

Thế nào là làm cho Phật pháp tồn tại lâu dài ? Như thế nào khiến cho chánh pháp tồn tại lâu dài ? khiến cho chánh pháp không bị diệt vong ?

Ðức Thế Tôn của ta, từ vô lượng kiếp đến nay : Thế Tôn là danh hiệu khác của Ðức Phật. Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni từ vô lượng kiếp cho đến nay, Vì chúng ta mà tu đạo Bồ đề : Ðức Phật tại sao muốn tu hành thành Phật ? Ngài muốn tu hành thành Phật vì để cứu độ tất cả chúng ta lìa khổ được vui, khiến chúng ta đều được liễu thoát sanh tử, không bị luân chuyển trong vòng luân hồi sanh tử, cho nên Ðức Phật mới "ba tăng kỳ tu phước huệ, trăm kiếp vun trồng tướng tốt" (tam kỳ tu phúc huệ, bách kiếp chủng tướng hảo), Ba kỳ, tức là ba đại tăng kỳ kiếp ; A tăng kỳ là tiếng Phạn, Tàu dịch là "vô lượng số". Ba đại A tăng kỳ kiếp tức là ba số lớn vô lượng. Vô lượng số này là một trong mười sáu số mục lớn, vậy ba vô lượng số lớn, bạn thử nghi xem thời gian bao lâu ? Rất dài rất dài. Trong ba vô lượng số kiếp này, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni vì để giáo hóa chúng sanh, vì để tu thành Phật, vì để phát tâm Bồ đề, Ngài xả sanh rồi lại thọ sanh, cho nên mỗi hạt vi trần đều là nơi Ðức Phật bỏ sanh mệnh. Như xả thân cứu cọp, Ðức Phật nhìn thấy một con cọp già tuy rất độc ác, nhưng đã sắp chết đói, Ðức Phật ngay cả thân mệnh của mình cung không cần, cho cọp ăn khiến nó được sống, sự hy sinh vi đại này, không ai có thể sánh bằng. Chúng ta đều là những người tham sống sợ chết, không một ai dám hy sinh mạng sống, thành tựu cho người khác, khiến người khác được sống. Vậy thì Ðức Phật ở trong thời gian dài đăng đẳng ba đại A tăng kỳ kiếp, đời đời kiếp kiếp đều lấy sanh mạng bố thí cho chúng sanh, cho nên chúng ta cần phải báo đáp ân sâu của Phật. Như chúng ta hiện nay, xưa kia hoặc là đã ăn thịt của Phật, uống máu của Phật ; cho nên chúng ta hiện nay tin Phật, cần nên báo đáp ân sâu của Phật. Ðức Phật vì muốn chúng ta được sống, phải hy sinh thân mạng của mình, vì thế chúng ta cần phải nhớ ơn Ðức Phật.

Ngài đã làm việc khó làm, nhẫn sự khó nhẫn : tại sao gọi là làm việc khó làm ? Chính là những việc mà người thường làm không được, Ngài có thể làm được. Như xả bỏ đầu mắt não tủy, đầu mắt của mình đều có thể bố thí cho người. Không phải chết mới bố thí cho người, đang sống cung có thể bố thí. Bạn cần con mắt, Ngài sẽ bố thí mắt cho bạn. Bạn có bệnh, cần có não người để trị, Ngài sẽ không cần đến sanh mạng của mình đem não bố thí cho bạn, cứu độ bạn. Tủy là cốt tủy ; cốt tủy của mình cung bố thí cho người. Không những đầu mắt não tủy, mà quốc thành thê tử cung bố thí luôn. Quốc là đất đai của Ngài cung không cần, nhường cho kẻ khác. Thành là thành trì, tài sản của mình cung nhường cho kẻ khác. Vợ thì mọi người rất khó xả bỏ, Ngài cung có thể xả bỏ tặng cho người. Con, cung có thể tặng cho người. Nội tài là đầu mắt não tủy Ngài có thể bố thí ; ngoại tài là quốc thành thê tử Ngài cung có thể bố thí. Có người cần chăng ? Ngài đều bố thí cho. Vì thế, không ai có thể sánh được với Ngài, không ai có thể hy sinh được như Phật. Cho nên Phật tu đạo Bồ đề là làm những việc khó làm, nhẫn những việc khó nhẫn, những việc mà người ta không thể nhẫn Ngài đều có thể nhẫn.

Nhân tròn, quả mãn, mới được thành Phật : Ngài trồng nhân đã được viên mãn cho nên quả báo cũng được viên mãn thành tựu, vì thế thành tựu Phật quả. Sau khi thành Phật, giáo hóa tròn đầy, nhập vào Niết bàn : Sau khi đã thành Phật, những chúng sanh cần giáo hóa đều giáo hóa xong, Ngài nhập Niết bàn. Thế nào là Niết bàn ? Niết bàn là không sanh không diệt, không có sanh tử, liễu thoát sanh tử.

Nay thì thời kỳ Chánh pháp tượng pháp : khi Ðức Phật còn tại thế là thời kỳ chánh pháp ; thời kỳ chánh pháp mọi người đều tu hành, mọi người đều có thiền định, đều sẽ khai ngộ. Thời đó tu hành thì sẽ chứng quả ; chứng quả thì sẽ liễu thoát sanh tử. Thời kỳ tượng pháp, thì chỉ có hình tượng, người không chân chánh tu hành. Thời kỳ chánh pháp thì thiền định kiên cố, vừa ngồi thì có thể nhập định, còn đến đời tượng pháp thì sao ? Chỉ là da bên ngoài, chính là chùa chiền kiên cố ; lúc đó mọi người đều ưa thích xây dựng chùa chiền, tạo tượng Phật, nên gọi là thời kỳ tượng pháp. Thời kỳ chánh pháp một ngàn năm, tượng pháp cung một ngàn năm, nay là thời đại mạt pháp. Mạt pháp chính là pháp đã ở trên đầu ngọn cây, nên vô cùng nhỏ bé, ít ỏi. Chánh pháp chính là thời kỳ gốc cây ; tượng pháp là thời kỳ cành cây ; còn mạt pháp thì đã lên ngọn cây. Thời kỳ mạt pháp có bao lâu ? thời kỳ mạt pháp là một vạn năm. Vì thế trừ đi hiện tại, còn hơn tám ngàn năm đều là thời kỳ mạt pháp.

Nhưng trong thời kỳ mạt pháp, nếu có người chân chánh tu hành, thì đó là chánh pháp trong thời mạt pháp ; thời kỳ mạt pháp có người ham thích xây dựng chùa chiền, tu sửa chùa chiền, tạo tượng Phật, đó là tượng pháp trong thời mạt pháp ; vậy nếu trong thời mạt pháp không có người tu hành, cũng không có người tạo tượng Phật, xây dựng chùa chiền, thì thật đúng là thời kỳ mạt pháp.

Ðến khi pháp sắp diệt, tất cả kinh Phật đều hủy diệt, chỉ còn bộ "kinh A Di Ðà" vẫn còn tồn tại trên thế giới này. "Kinh A Di Ðà" còn trụ trên thế giới này năm trăm năm, rồi sau đó ngay cả "Kinh A Di Ðà" cung không còn, lúc đó chỉ còn một câu "A Di Ðà Phật". Câu danh hiệu "A Di Ðà Phật" lại trụ trên thế gian một trăm năm độ vô lượng chúng sanh, sau đó Phật pháp sẽ không còn nữa, không ai biết được câu niệm Phật, cái gì cung không hiểu. Chúng ta hiện nay vẫn là thời tốt, tuy ở thời kỳ mạt pháp vẫn có thể dụng công tu hành.

Cho nên nay là chánh pháp tượng pháp đã diệt tận, chỉ còn tồn tại thời kỳ mạt pháp : thời kỳ chánh pháp tượng pháp đã diệt tận, chỉ còn tồn tại thời kỳ mạt pháp mà thôi.

Giáo pháp còn đó mà không người hành trì : Thời kỳ mạt pháp có Phật giáo tồn tại, nhưng không có người tu hành ; ngôn hạnh của người tu hành đều trái ngược với giáo nghĩa của Phật giáo. Người xuất gia vốn không nên ăn thịt, uống rượu, có nữ nhân, nhưng họ lại phạm vào những việc này giống như người tại gia, đó có nghĩa là không còn pháp nữa. Hữu giáo có nghia là còn có danh từ Phật giáo, nhưng không có người tu hành. "Hữu nhân" là người tu hành chân chánh, không nhất định nói là người hoằng pháp. Không có người tu hành chân chánh, làm gì có người hoằng pháp ? tự nhiên sẽ không có. Thời này thì như thế nào ? tà chánh không phân, thi phi lẫn lộn : như những người mạo hiểm để cầu lợi danh, những người xuất gia mà không làm việc xuất gia, đó đều là tà chánh không phân. Ví dụ có một vài ngoại đạo, họ cho rằng : "Ðây cung là lễ Quán Âm mà ! cung là bái Quan Ðế mà ! lại là lễ cái gì cái gì, v.v…", những điều như thế. Họ không biết cái nào là tà ? cái nào là chánh ? tà chánh không phân, thị phi cung không biện biệt được.

Tranh giành nhân ngã, mãi chạy theo danh lợi : Thường tranh hơn thua, yếu mạnh, cạnh tranh nhân ngã thị phi, đều tranh danh tranh lợi, không phải chấp trước vào danh thì chấp vào lợi, cứ mãi chạy theo danh lợi.Mở mắt ra là thấy đầy dẫy thiên hạ đều là như vậy : mở mắt ra mà nhìn, khắp thiên hạ đều là như thế, thao thao vô tận như biển cả mênh mông bát ngát, những người này đều làm những việc danh lợi, đeo đuổi danh lợi, vì thế những vị theo tôi xuất gia, mà còn chạy theo danh lợi thì tuyệt đối không thể được ! Quyết không nên chung dòng nhơ bẩn, cùng một giuộc xấu xa. Chúng ta tuy ở trong thời đại mạt pháp, nhưng quyết làm một người đệ tử Phật chân chánh.

Chẳng ai biết Phật là bực nào ? : không biết Phật là gì ? Pháp là nghĩa gì ? : Pháp có nghia là muốn người dứt các điều ác, tăng trưởng điều lành, sửa đổi lỗi lầm, làm mới cuộc đời, muốn người hiểu rõ, nhưng mà họ không hiểu, càng học càng hồ đồ, càng học càng không hiểu biết. Tăng là người chi ? : Tăng có nghĩa là gì ? Ngay Phật Pháp Tăng tam bảo mà cũng không biết. Thế nào là Tăng ? không phải một người gọi là Tăng, mà bốn người trở lên mới được gọi là Tăng. Người thường cho rằng một người cũng gọi là Tăng, đó là sai lầm ; Tăng là mọi người cùng hòa hợp với nhau, lục hòa đồng trụ.

Suy tàn đến thế, bất nhẫn thốt ra lời ! : Ngay cả Phật Pháp Tăng cung không hiểu, suy tàn đến mức này khiến cho tôi thật nói không nên lời, tôi không có cách nào nói ra được. Mỗi khi nghi đến, bất giác rơi lệ : Mỗi khi nghi đến việc này, lệ rơi như mưa, lệ rơi như suối.

Ta là con Phật mà ta không thể báo đáp ân đức của ngài : ta là người xuất gia, là đệ tử của Phật, mà không thể báo đáp ân đức của Ngài. Trong vô ích cho mình, ngoài vô ích cho người : đối với bên trong mà nói, ta không có nỗ lực tu hành, đối với mình không có lợi ích ; bên ngoài cung không lợi ích cho người.Sống vô ích đương thời, chết vô ích mai sau : Khi ta còn sống thì vô ích đương thời; khi chết rồi cung không có gì ích lợi cho mai sau. Trời tuy cao cung không che nổi ta : Trời tuy cao, cung không dung chứa được ta ở giữa trời đất. Đất tuy dày cũng khó chở ta : Ðất tuy dày, ta cũng không có tư cách ở giữa trời đất, cùng trời đất dung hợp. Tội nhân cực trọng, không phải ta thì là ai ? Tội nhân cực trọng nhất, ngoài ta ra thì là ai ? Không phải là người khác mà chính là ta. Ðây là Ðại sư Tỉnh Am dạy người xuất gia chúng ta đều phải hồi quang phản chiếu, cần phải sám hối ; không phải ta thì là ai, đó không phải người khác, mà chính là ta. Cho nên chúng ta là người xuất gia cần phải ghi nhớ không nên tật đố chướng ngại người khác.

Nguyên Văn:

Vì thế mà đau lòng không thể nhẫn nổi, nhưng suy nghĩ thì lại không thấy có cách nào khác hơn, nên quên ngay tư cách quê mùa, liền phát tâm rộng lớn. Tuy không thể vãn hồi mạt vận ngay lúc này, nhưng quyết có thể hộ trì chánh pháp trong mai sau. Vì thế nên cùng với chư thiện hữu, cùng đến đạo tràng, soạn thuật sám pháp, lập pháp hội này, phát bốn mươi tám điều đại nguyện, nguyện nguyện hóa độ chúng sanh, mong thâm tâm suốt trăm ngàn đời kiếp, tâm tâm thành Phật, từ ngày hôm nay cho đến cùng tận đời vị lai, hết một đời này nguyện sanh Cực Lạc, lên chín phẩm xong thì trở lại Ta bà. Khiến cho mặt trời Phật pháp rạng soi, pháp môn rộng mở, để tăng giới được trong lặng ở cõi này, dân chúng được tiếp hóa ngay cõi phương Ðông, vận Chánh pháp nhờ đó mà kéo dài thêm nữa, Phật pháp do đó được tồn tại lâu dài. Ðây là tấm lòng khổ tâm chân thành, tha thiết nhỏ mọn của tôi. Ðó là nhân duyên thứ mười của sự phát Tâm Bồ đề.

Giảng:

Vì thế mà đau lòng không thể nhẫn nổi : Nói đến đây ta thật đau lòng không thể nhẫn nỗi ! nhẫn việc khó nhẫn, nhưng cũng không thể nhẫn được. Nhưng suy nghĩ thì lại không thấy có cách nào khác hơn : Ta cũng không có cách nào để trốn cho được nơi tụ hội của tội nghiệp. Nên quên ngay tư cách quê mùa, liền phát tâm rộng lớn : Vì thế lập tức quên đi mình tệ lậu hèn kém như thế, bèn phát tâm Bồ đề rộng lớn. Ta không thể làm kẻ tội nhân đại cực ác như thế, ta cần phải phát tâm Bồ đề rộng lớn !

Tuy không thể vãn hồi mạt vận ngay lúc này : Tuy ta phát tâm Bồ đề rộng lớn, không thể hoàn toàn vãn hồi cứu vớt khí số của thời mạt pháp, Nhưng quyết có thể hộ trì chánh pháp trong mai sau : nhưng ta quyết phát nguyện trong thời vị lai hộ trì chánh pháp.

Tôi bảo với các ông, tại sao tôi phải trụ trì chánh pháp ? Vì đời đời kiếp kiếp tôi đều phát nguyện hộ trì chánh pháp, tôi quyết hành trì chánh pháp. Tôi từ vô lượng kiếp đến này phát cái nguyện này, cho nên tôi đến đây, nhất định cố gắng mà làm, tôi nhất định phải trụ trì chánh pháp. Bất quản là bao nhiêu khó khăn gian khổ, dù là có người mắng tôi, hủy báng tôi, tật đố tôi, chướng ngại tôi, tôi đều phải trụ trì chánh pháp. Chí nguyện này tôi quyết không bao giờ buông thả lơi là !

Vì thế nên cùng với chư thiện hữu : Vì thế tôi nay cùng với các bạn lành, Cùng đến đạo tràng : cùng đến Vạn Phật Thành. Ðến Vạn Phật Thành biết không ? Soạn thuật sám pháp, lập pháp hội này : Chúng ta đến chỗ này, tu Ðại Bi Sám Pháp. Quý vị có biết không ? đến Vạn Phật Thành chính là đạo trường, đạo trường chính là Vạn Phật Thành. Vạn Phật Thành chính là đạo trường của mỗi vị, quý vị cần phải ghi nhớ không nên chê bỏ đạo trường lớn của mình. Tại sao đạo trường lớn này là của quý vị ? Một mình tôi cũng không dùng cho hết đạo trường lớn như thế ! cho nên đây là của tất cả Phật giáo đồ toàn thế giới, không phải chỉ riêng mình tôi, tôi bất quá chỉ ở chỗ này ngày ngày xem nhà cửa giùm quý vị. Quý vị đều rất bận rộn, đều muốn làm hoàng đế, hoặc làm tổng thống ; đến mỗi chỗ mỗi nơi, hoạt động công tác của quý vị. Hoặc là làm ông chủ, hoặc là làm tổng giám đốc, hoặc là ở trong nhà làm ông chủ, mỗi người đều có chức vụ của mình ; chỉ có tôi là người thất nghiệp, không có chức nghiệp gì, ở đây làm công cho quý vị, trông nhà cửa cho quý vị. Cho nên đợi quý vị làm hoàng đế, làm tổng thống, lúc đó quý vị cần phải phát tâm lớn để hộ trì Vạn Phật Thành. Nói : "Ô ! Thầy, Thầy cứ nói đùa hoài". Ông làm sao biết được sau này ông không làm tổng thống ? Ông làm sao biết được ông kiếp sau không làm hoàng đế ? Ông đời sau làm hoàng đế, vì ông phát nguyện : "Kiếp sau khi tôi làm hoàng đế, nhất định sẽ ủng hộ Vạn Phật Thành, ta dùng điện kim loan của ta tu sửa Vạn Phật Thành, dùng vàng xây dựng Phật điện nguy nga tráng lệ như điện kim loan". Ðây là điều không biết trước được, không thể đoán được. Cho nên đệ tử hoàng đế của tôi, nay ông không muốn trở về hoàng cung. Tôi hỏi ông, tam cung lục viện thì làm sao ? ông ta nói không quản đến, kêu cả tam cung lục viện đến Vạn Phật Thành. Kêu họ đến Vạn Phật Thành thì chỗ này biến thành một nơi tu hành học đạo ; cho nên đây là điều rất quan trọng.

Chúng ta sang năm từ ngày 21 tháng 7 âm lịch, buổi tối sái tịnh, ngày 22 chính thức cử hành thất Ðịa Tạng, niệm danh hiệu Bồ tát Ðịa Tạng, hoặc là niệm "Án ma ni bát di hồng". Trước kia chúng ta đã thử đả thất "Án ma ni bát di hồng", ngày đêm sáu thời, ba phiên thay đổi. Phiên thứ nhất niệm tám tiếng thì thay phiên khác, phiên này lại niệm tám tiếng rồi đổi phiên khác, cứ luân phiên đổi ca, trong bảy ngày thanh âm này không bao giờ gián đoạn. Sau khi viên mãn thất, tôi nhìn thấy những đứa bé Mỹ đều rất thích thú, rất có thành tâm, bèn viết một bài từ "Vu Trụ Bạch" để làm kỷ niệm pháp hội đó. Vậy sang năm chúng ta cùng nghiên cứu, các ông muốn niệm "Án ma ni bát di hồng" cũng được, muốn niệm "Ðịa Tạng vương Bồ tát" cũng được, chúng ta dùng bảy ngày, một ngày sáu thời để niệm Phật. Lần trước không biết mỗi ca là tám giờ ? hay là mười hai giờ ? Tôi cung không quản đến, tự họ niệm, tôi cung không có tham gia.

Các ông không nên cho rằng ở đây, mỗi Phật sự tôi đều phải tham gia. Như có người nói : "A ! Chúng con ngồi thiền cung không thấy Thầy đến ?". Ngày ngày tôi đều ở đây, ông nhìn không thấy thì lại trách ai ? Ông không có mắt, làm sao nhìn thấy được tôi ? Tôi đến ông cung không biết. Vì bước chân tôi đi nhẹ không phát ra tiếng, tôi đi qua bên cạnh ông, ông cung không biết. Không phải nói chuyện thần thoại, mà đích xác là như thế ! Lại cho rằng không nhìn thấy tôi. Không nhìn thấy tôi ? ông đến đây vậy ông nhìn thấy ai ?

Vậy ngày 22 bắt đầu đả thất Ðịa Tạng, ngày 22, 23, 24, 25, 26, 27 ; ngày 27 thì viên mãn. Ngày 28, 29, 30 mấy ngày này đều có bái Phật, có niệm Phật. Chúng ta pháp hội lần này khoảng mười ngày, mười một ngày. Nếu các ông ai hoan hỷ đến, một mình đến cũng tốt, đoàn thể đến cũng tốt ! Nhưng khi đến nhất định phải thông báo trước cho chúng tôi để chúng tôi chuẩn bị chỗ ở, bố trí các ông đến đây dụng công biện đạo. Ðiều này rất cần thiết, không nên thình lình mà đến, khiến chúng tôi không có thời gian bố trí sắp đặt. Trong thời gian đả thất, chúng tôi càng không thể đi đón người, cung không thể đưa tiễn người.

Cho nên trong Vạn Phật Thành của chúng ta, sau này bất luận ai đến chúng ta cung không tiếp cũng không đưa, đều xem như người nhà đến chỗ này. Nếu như chúng tôi tiếp rước, đưa tiễn, thì lãng phí rất nhiều thời gian của người dụng công tu hành học đạo ở đây, làm cho ông không có công đức. Vì để thành tựu công đức của quý vị, chúng ta hai bên cần phải yên ổn vô sự ; đều là người nhà, không nên khách sáo. Ðiểm này hy vọng quý vị đặc biệt chú ý.

Khi soạn thuật sám pháp, lập pháp hội này, cần phải Phát bốn mươi tám điều đại nguyện, nguyện nguyện hóa độ chúng sanh : mỗi nguyện đều là hóa độ chúng sanh. Mong thâm tâm suốt trăm ngàn đời kiếp, tâm tâm thành Phật : Chúng ta dùng thâm tâm trong thời gian trăm ngàn muôn kiếp, dùng tâm này làm cái gì ? Chính là muốn thành Phật.

Từ ngày hôm nay cho đến cùng tận đời vị lai : Từ ngày hôm nay cho đến cùng tận đời vị lai, Hết một đời này nguyện sanh Cực Lạc : đời này nguyện sanh thế giới Cực lạc. Chính là khi ta mạng chung nhất định sanh vào thế giới Cực lạc. "An dưỡng" chính là thế giới Cực lạc.

Lên chín phẩm xong thì trở lại Ta bà : Ðã lên chín phẩm, hoa nở thấy Phật, sau khi thấy Phật thì trở lại thế giới Ta bà, Khiến cho mặt trời Phật pháp rạng soi, pháp môn rộng mở : khiến cho mặt trời Phật pháp lại huy hoàng sáng chói, pháp môn lần nữa xiển dương rộng mở. Ðể tăng giới được trong lặng ở cõi này : chư Tăng đều trừng thanh, thanh tịnh, chẳng có những người không tu hành. Dân chúng được tiếp hóa ngay cõi phương Ðông : tất cả nhân dân đều được Phật giáo hóa, được giáo hóa nơi cõi Ðông phương. Vận Chánh pháp nhờ đó mà kéo dài thêm nữa : Chánh pháp của Phật vì đó được kéo dài thêm nữa. Không phải nói kiếp vận kéo dài mà là chánh pháp kéo dài, kiếp vận sẽ không còn nữa. Phật pháp do đó được tồn tại lâu dài : nếu người người đều tu hành dụng công biện đạo, người người đều không có lòng ích kỷ, không có tâm cầu danh cầu lợi, không có tham tâm, không có những dục niệm, đó chính là chánh pháp tồn tại lâu dài.

Ðây là tấm lòng khổ tâm chân thành, tha thiết nhỏ mọn của tôi : Ðại sư Tỉnh Am nói, đây là sự khổ tâm nhỏ bé của tôi. Vì Ngài khiêm nhường cho nên nói nhỏ bé, vi tế, không có sức mạnh gì, là khổ tâm chân thành nhỏ bé yếu ớt.

Ðó là nhân duyên thứ mười của sự phát Tâm Bồ đề : Ðây là nhân duyên thứ mười của sự phát tâm Bồ đề.
 
Tải về xem


(Tiếp theo 1)

PHẦN CHÁNH TÔNG

Bai Van Khuyen Phat Bo De Tam Tiep Theo 1