BẢN THẤT NGÔN TRƯỜNG THIÊN VĨ ĐẠI
Nhà phê bình Võ Phiến từng viết: “Sau mười năm, Tô Thùy Yên trở lại với đời. Tháng 7 năm 1985, ông viết bài “Ta về” dài 124 câu. Say sưa, ngây ngất. Thơ Việt Nam cho đến đây chưa từng có dịp biết cái khả năng kích động tận cùng của nó. Người Việt Nam chợt nhận thức ra tầm cỡ lớn lao của tâm hồn mình”.
Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại, vậy thì mười năm là bấy nhiêu ngày. Mười năm “đem thân làm gã tù lưu xứ”. Mười năm biết bao mùa “rau mác lên bờ đã trổ bông”. Mười năm mái nhà xưa liệu có còn nguyên vẹn. Mười năm cha mẹ như ngọn đèn leo lét sắp cạn dầu…
Hai tiếng “mười năm” được nhắc lại nhiều lần, cứ vang lên nhức buốt và tê điếng khắp mấy trời kim cổ. Đó là khoảng thời gian khủng khiếp mà người tù lao cải phải trải qua. Đó là “địa ngục chín tầng sâu” hiện ra giữa trần gian khổ đọa thời hậu chiến. Đó là mười năm oan nghiệt “đá cũng ngậm ngùi thay”.
Mười năm còn là bấy nhiêu đêm chong mắt chờ đợi một cuộc về. Hai tiếng “ta về” được lặp đi lặp lại, nghe chừng nhẹ nhàng, nhưng dư vang vọng đến ngàn trùng, kinh động trời đất, trải khắp truông cùng phá. Nhưng vì “ta tiếc đời ta sao hữu hạn”, nên Tô Thùy Yên đành dừng bút, không thì ông sẽ còn tiếp tục điệp khúc “ta về” đến vô cùng.
“Ta” trong “Ta về” không phải chỉ mỗi cá nhân Tô Thùy Yên mà còn là “Chúng Ta”, như nói thay tiếng lòng của cả một thế hệ trầm luân, chịu nhiều thương tổn và bất hạnh, nhưng nhất quyết không chấp nhận đánh mất lương tri và phẩm giá của mình.
Trong một bài thơ thời trai trẻ, Tô Thùy Yên từng viết: “Tôi là Tô Thùy Yên là thi sĩ là người chép sử tương lai”. Ngay từ buổi đầu, Tô Thùy Yên ý thức rõ sứ mệnh của mình: trở thành một thi sĩ thực thụ và chép sử bằng thơ.
Sau đây xin kính mời quý độc giả cùng đọc bài thơ :
TA VỀ
Tiếng biển lời rừng nao nức giục
Ta về cho kịp độ xuân sang.
*
Ta về – một bóng trên đường lớn.
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai…
Sao vẫn nghe đau mềm phế phủ?
Mười năm, đá cũng ngậm ngùi thay.
*
Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp
Chốn rừng thiêng ỉm tiếng nghìn thu.
Mười năm, mặt xạm soi khe nước,
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ.
*
Ta về qua những truông cùng phá,
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may.
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ,
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay.
*
Chỉ có thế. Trời câm đất nín.
Đời im lìm đóng váng xanh xao.
Mười năm, thế giới già trông thấy.
Đất bạc màu đi, đất bạc màu
*
Ta về như bóng chim qua trễ
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa.
Ai đứng trông vời mây nước đó,
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ.
*
Một đời được mấy điều mong ước?
Núi lở sông bồi đã lắm khi…
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động.
Mười năm, cổ lục đã ai ghi?
*
Ta về cúi mái đầu sương điểm,
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời.
Cám ơn hoa đã vì ta nở.
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi.
*
Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa,
Làng ta, ngựa đá đã qua sông,
Người đi như cá theo con nước,
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng.
*
Ta về như lá rơi về cội.
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay.
Chút rượu hồng đây, xin rưới xuống,
Giải oan cho cuộc biển dâu này
*
Ta khóc tạ ơn đời máu chảy
Ruột mềm như đá dưới chân ta.
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó,
Người thức nghe buồn tận cõi xa.
*
Ta về như hạt sương trên cỏ
Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời.
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt.
Tội tình chi lắm nữa, người ơi!
*
Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ.
Mười năm, người tỏ mặt nhau đây.
Nước non ngàn dặm, bèo mây hỡi,
Đành uống lưng thôi bát nước mời.
*
Ta về như sợi tơ trời trắng
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh.
Ai gọi ai đi ngoài quãng vắng?
Phải, ôi vàng đá nhắn quan san?
*
Lời thề truyền kiếp còn mang nặng
Nên mắc tình đời cởi chẳng ra.
Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ.
Mười năm, ta vẫn cứ là ta.
*
Ta về như tứ thơ xiêu tán
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên.
Nhà cũ, mừng còn nguyên mái, vách,
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền.
*
Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ.
Nhà thương khó quá, sống thờ ơ.
Giậu nghiêng, cổng đổ, thềm um cỏ.
Khách cũ không còn, khách mới thưa…
*
Ta về khai giải bùa thiêng yểm.
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi!
Hãy kể lại mười năm mộng dữ.
Một lần kể lại để rồi thôi.
*
Chiều nay, ta sẽ đi thơ thẩn,
Thăm hỏi từng cây những nỗi nhà.
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở?
Mười năm, cây có nhớ người xa?
*
Ta về như đứa con phung phá
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu.
Mười năm, con đã già như vậy.
Huống mẹ cha, đèn sắp cạn dầu…
*
Con gẫm lại đời con thất bát,
Hứa trăm điều, một chẳng làm nên.
Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn.
Hạt lệ sương thầm khóc biến thiên.
*
Ta về như tiếng kêu đồng vọng.
Rau mác lên bờ đã trổ bông.
Cho dẫu ngàn năm, em vẫn đứng
Chờ anh như biển vẫn chờ sông.
*
Ta gọi thời gian sau cánh cửa.
Nỗi mừng ràn rụa mắt ai sâu.
Ta nghe như máu ân tình chảy
Từ kiếp xưa nào tưởng lạc nhau.
*
Ta về dẫu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em.
Đau khổ riêng gì nơi gió cát…
Hè nhà, bụi chuối thức thâu đêm.
*
Cây bưởi xưa còn nhớ trắng hoa.
Đêm chưa khuya lắm, hỡi trăng tà!
Tình xưa như tuổi già không ngủ,
Bước chạm khua từng nỗi xót xa.
*
Ta về như giấc mơ thần bí
Tuổi nhỏ đi tìm những tối vui.
Trăng sáng lưu hồn ta vết phỏng.
Trọn đời, nỗi nhớ sáng không nguôi.
*
Bé ơi, này những vui buồn cũ,
Hãy sống, đương đầu với lãng quên.
Con dế vẫn là con dế ấy,
Hát rong bờ cỏ, giọng thân quen.
*
Ta về như nước tào khê chảy.
Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ.
Thân thích những ai giờ đã khuất?
Cõi đời nghe trống trải hơn xưa.
*
Người chết đưa ta cùng xuống mộ.
Đêm buồn, ai nữa đứng bờ ao?
Khóc người, ta khóc ta rơi rụng.
Tuổi hạc, ôi ngày một một hao.
*
Ta về như bóng ma hờn tủi
Lục lại thời gian, kiếm chính mình.
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt sắp vô danh.
*
Ngồi đây, nền cũ nhà hương hỏa,
Đọc lại bài thơ buổi thiếu thời.
Ai đó trong hồn ta thổn thức?
Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi.
*
Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thuở trần gian bay lướt qua.
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn,
Đành không trải hết được lòng ta.
TÔ THÙY YÊN
7-1985
_____________
Đỗ Hứng gởi