BAO GIỜ CHO TỚI NGÀY XƯA
Đầu thập niên 70, tôi bước chân vào giảng đường Đại Học. Từ miền Trung vào, Sài Gòn đối với tôi như một miền đất hứa vừa hấp dẫn, vừa hứa hẹn những điều mới lạ.
Hồi đó, đậu được mảnh bằng Tú Tài toàn phần cũng khó như thi đậu vào một trường Đại Học lớn bây giờ. Cả lớp 60 học sinh chỉ đậu có sáu đứa. Chín mươi phần trăm phải thi lại vào kỳ hai.
Ở một thành phố nhỏ của miền Trung như quê tôi, con gái đỗ Tú Tài toàn phần có thể đếm trên đầu ngón tay.
Vào đến thành phố được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông, tôi thấy cái gì cũng lạ lẫm. Từ những tòa nhà cao tầng, đến những con đường xe cộ tấp nập, đến những cô gái Sài Gòn ăn mặc theo mốt Hippy (1), rồi áo dài tay Raglan, mini jupe…
Ngày Văn Khoa khai giảng, số lượng sinh viên đông đến mức chóng mặt. Nữ sinh viên thì quá nhiều cô đẹp, cô nào cũng ăn diện ngất trời như đi dạ hội.
Sau này, tôi còn biết Đại Học Văn Khoa Sài Gòn cũng là nơi nhiều ca sỹ nổi tiếng thời đó đang theo học như Hoàng Oanh, Thanh Lan, Từ Dung… Và các nhạc sỹ như Trịnh Công Sơn, Từ Công Phụng… thỉnh thoảng vẫn thấy xuất hiện tại đây.
Ngay cả khí hậu Sài Gòn hồi đó cũng là một điều lạ lẫm. Những năm tháng đó chưa có biến đổi khí hậu như bây giờ. Trời nắng nóng quanh năm, thỉnh thoảng vào mùa Hè có những cơn mưa giông đến thật nhanh, thật ào ạt. Người đi đường chỉ cần tạt vào một mái hiên đứng trú mưa khoảng ba, bốn phút là cơn mưa dứt hẳn. Và nắng lại bừng lên chói chang gay gắt như chưa từng có cơn mưa bao giờ.
Mưa Sài Gòn khác hẳn với mưa miền Trung. Ngoài đó, mùa mưa kéo dài lê thê hết ngày nọ đến ngày kia, có khi kéo dài cả mươi ngày, tuần lễ là chuyện thường.
Đi học hầu như lúc nào cũng mang áo mưa, hai vạt áo dài trắng bao giờ cũng gấp lên, hai ống quần trắng bao giờ cũng buộc túm bằng hai sợi dây thun, nếu không muốn bị dính đầy bùn nước. Mùa lạnh, đi học sớm hai hàm răng đánh vào nhau lập cập, hai bàn tay tê cóng thu trong tà áo dài.
Vào Sài Gòn quanh năm không cần có áo mưa, cũng không cần mặc áo lạnh, tôi thấy hành trang đi học của mình đơn giản hơn nhiều.
Và những người bạn Sài Gòn học cùng giảng đường cho tôi cảm nhận tính cách người Nam hồn hậu tự nhiên, ít rào đón như người miền Trung.
Có khi họ giành chỗ cho bạn nhưng bạn chưa đến, họ vui vẻ vẫy tôi đến ngồi vào chỗ, khi thấy tôi đi trễ phải trải giấy dưới nền mà ngồi – chuyện thường ngày ở những giảng đường đông đúc như Văn Khoa Sài Gòn.
Nhà trọ cách trường không xa lắm, nên hàng ngày đi học tôi vẫn đi bộ.
Hôm nào cũng đi qua cầu Phan Thanh Giản, (2) để đến trường.
Những hôm có thời khóa biểu học cả ngày, tôi mua một ổ bánh mì, một chai nước. Buổi trưa, bạn bè ở lại giảng đường khá đông, người nào cũng gặm bánh mì, nói chuyện rôm rả, rồi ngả lưng xuống ghế giảng đường. Trước giờ vào học không quên rải sách vở ở các dãy ghế có tay quay để giành chỗ cho bạn.
Hồi đó, không hiểu sao khu trung tâm Sài Gòn có một sức hấp dẫn kỳ lạ đối với tôi.
Từ Đại Học Văn Khoa ở đường Đinh Tiên Hoàng, tôi đi bộ xuống chợ Bến Thành, lang thang qua những con đường như Lê Thánh Tôn, Nguyễn Huệ. Lê Lợi… như thể phải đến đấy mới thấy được linh hồn Sài Gòn.
Đến trung tâm Sài Gòn, thế nào tôi cũng ghé vào nhà sách Khai Trí để thấy cả một thế giới tri thức của con người Đông Tây kim cổ.
Không có tiền mua thì tôi coi… cọp.
Rồi sà vào những đống hàng hóa bán solde (3) đổ đống ven lề đường với vải vóc. giày dép…
Túi tiền sinh viên chỉ cho phép tôi mua những món hàng như thế.
Bây giờ nghĩ lại, tôi ngạc nhiên không hiểu sao ngày xưa mình lại có thể đi bộ khỏe thế. Có lẽ vì vui nên không thấy đường dài.
Một lần vào ngày Chủ Nhật, tôi đi xe Velo- Solex lên nhà một người chị ruột ở đường Lê Đại Hành. Lúc đi ngang qua Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (4), do mất bình tĩnh khi tránh một người đi bộ ngang qua đường, tôi bị té xe ngã giữa đường, bị một vết thương rách da ở cằm. Mấy người dân sống ở gần đó chạy đến đưa dầu cho tôi thoa. Đau thì ít, sợ thì nhiều, tôi hoảng hốt chẳng biết phải làm gì.
Hồi đó, đâu có điện thoại để gọi người thân như bây giờ. Lúc đó, một anh thanh niên đi xe Honda dừng xe đỡ tôi dậy. Anh bảo tôi gởi tạm chiếc xe Velo cho một thanh niên đang ngồi sửa xe đạp ven đường trước Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, để anh chở tôi đến bệnh viện may vết thương ở cằm. Tôi đã gởi xe cho anh thanh niên không hề quen biết này, mà không hề có chút nghi ngại để cho anh thanh niên kia chở đến bệnh viện.
Vị bác sĩ vừa may vết thương ở cằm tôi, vừa nói:
“Em mà không may chỗ vết thương này thì sẽ trở thành một cái sẹo to đấy.”
May xong vết thương, anh thanh niên tốt bụng kia lại chở tôi về chỗ cũ. Từ xa, tôi đã thấy chiếc xe Velo – Solex của tôi vẫn dựng bên đường.
Tôi cảm ơn hai người thanh niên không quen biết kia và nghĩ sao Sài Gòn lại có nhiều người tốt như vậy.
Nếu là người gian, anh thanh niên kia có thể thu dọn đồ nghề rồi mang luôn chiếc xe của tôi đi thì ai biết đâu mà tìm.
Hình ảnh hai con người tốt bụng đó vẫn mãi mãi ở trong ký ức tôi với lòng cảm mến và biết ơn sâu sắc.
Sau này, trải qua bao nhiêu năm, có dịp vào Sài Gòn đi ngang qua con đường Trần Quốc Toản, ngang qua Học Viện Quốc Gia Hành Chánh (5) năm xưa, tôi vẫn nhớ về chuyện xưa với một chút ngậm ngùi dâu bể.
Bây giờ – mấy chục năm sau – khi đã sống định cư ở thành phố Sài Gòn, có dịp chứng kiến cảnh cướp giật, hôi của ngoài đường mỗi khi có tai nạn xảy ra, hoặc sự vô cảm, thờ ơ của người Sài Gòn mỗi khi có tai nạn thương tâm ngoài đường, tôi lại bồi hồi nhớ lại hình ảnh Sài Gòn năm xưa cách đây năm mươi năm, hơn nửa thế kỷ.
Mức độ văn minh hiện đại của cuộc sống tỷ lệ nghịch với sự băng hoại của thế thái nhân tình!
Hai người thanh niên tốt bụng ngày xưa bây giờ làm gì?
Ở đâu?
Còn sống hay đã chết?
Nếu còn sống, họ đã là những ông già trên dưới tám mươi tuổi.
“Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
(Vũ Đình Liên)
Trong lòng tôi, họ mãi mãi vẫn là biểu tượng cho một Sài Gòn nhân hậu năm xưa.
Vương Hoài Uyên
________________
Đặng Hữu Phát gởi