Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh


 
Bên Lề Một Chuyến Tây Du
(tiêp theo & hêt...)
 

Ngày hôm sau chúng tôi đến La Mã, xe chở chúng tôi chạy quanh thành phố, hướng dẫn viên chỉ cho chúng tôi những di tích danh tiếng. Hôm nay, chúng tôi được đi ăn tối do cơ quan du lịch đãi.

Quán ăn lớn, chúng tôi được dọn riêng một góc vườn, hai nhóm du lịch ăn chung, có nhạc sĩ đàn đương cầm và hát. Người nhạc sĩ chừng trên dưới năm mươi tuổi, chăm chú đàn hát, trên bàn có cái lọ thủy tinh đựng tiền thưởng. Bạn tôi nhét một ngàn đồng Ý vào lọ và nói với tôi: “Mình chơi sang, cho nhạc sĩ một ngàn đồng, nói ra không ai tin đâu”.

Nghe thì khiếp, nhưng thực ra không phải vậy, vì khi tôi đi vào cầu tiểu, thì thấy bạc ngàn chồng chất trong cái rổ trước cửa nhà cầu. Tôi cũng vội vã móc túi, bỏ ra một ngàn đồng. Nghĩ cũng hơi tục, mình vào nhà hàng ăn phải trả tiền, mà còn phải trả thêm tiền đi tiểu. Bà xã tôi nói đùa, lương mỗi tháng chúng mình e chưa đủ để trả tiền đi tiểu, đi tiêu trong một ngày.

Tôi thì cảm thấy buồn khi thấy số tiền trong cái rổ trước cầu tiêu nhiều hơn vài chục lần số tiền trong cái bình thủy tinh của nhạc sĩ. Công khó biết bao nhiêu để luyện nên tiếng dương cầm du dương đó, và phải là thiên phú mới có được lời ca trầm ấm kia. Thực khách có thể quên tiền thưởng cho nhạc sĩ, nhưng không dám không trả tiền nhà vệ sinh. Một bên là nhu cầu tối cần, một bên là nghệ thuật. Ở Ý, khi dùng nhà vệ sinh, phải trả tiền từ năm trăm đến một ngàn đồng (Khoảng 35 xu đến 70 xu Mỹ). Ban đầu thì tôi thấy hơi kỳ, nhưng khi nghĩ kỹ lại, thì thấy công bằng, có thế nhà vệ sinh mới được chăm sóc và tiện nghi hơn. Thà mất tiền, nhưng có nơi để tiêu tiểu, còn hơn là phải ôm bụng hốt hoảng chạy quanh.

Bữa ăn chiều dọn ra, đầu tiên là một dĩa chiên, có cà tím, ớt bị, dưa leo, và các thứ quả khác, chiên dầu, có nhiều gia vị, ăn rất ngon miệng. Tôi tưởng chỉ có thế thôi, rán ăn cho sạch dĩa. Món thứ hai lại được bưng ra, dĩa mì Ý nấu chay, không có bóng dáng thịt thà chi cả, chúng tôi cũng rán nuốt hết, cũng ngon chứ không đến nỗi nào. Cũng tưởng thế là hết, nhưng một dĩa nữa bưng ra, cũng mì sợi, nhưng loại dẹp và màu xanh lá chuối, cũng chẳng nấu với thịt thà chi cả. Nhưng cũng ngon, và chúng tôi quất sạch. Anh bạn tôi bảo rằng, không ngờ ở đây, La mã, đất Thánh mà lại còn ăn chay kỹ hơn cả mấy vùng đất Phật.

Rượu nho được rót hết bình nầy qua bình khác, thiên hạ uống ào ào còn hơn uống nước lã. Ông bạn bên cạnh bảo tôi là rượu nho nơi đây ngon đặc biệt, mùi vị đặc biệt, thấm vào cổ họng, thấm vào từng thần kinh khẩu vị, chỉ có nước Ý mới có thứ rượu nầy. Tôi trả lời rằng, tôi thì thấy rượu nho nào cũng chua chua như nước đái quỷ, không thể biết được thế nào là ngon dở. Ngươi ta nói, rượu nho ở Ý còn rẻ hơn nước lã, tôi thì không có ý kiến. Sau vài chầu rượu, thì thêm một dĩa nữa dọn ra, lần nầy thì là thịt, không biết thịt gì, hình như thịt cắt mỏng và quấn lại thành một cục, ăn dai dai, vị đậm đà. Ngon, món nầy cũng rất ngon.

Ăn xong, từng cặp ra sàn nhảy theo tiếng nhạc du dương. Đàn ông thì nhoi và lắc cái mông teo rí, trong lúc bụng trước thì ỏng xề mà cái nịt lưng chạy xệ vòng xuống gần háng. Đàn bà thì tuổi tác làm xề ra, tay chân múa vụng về , chân loạng choạng đở cái thân nặng. Một cụ già lụ khụ đi xe lăn, cũng được người con gái dẫn ra sàn , cụ chập choạng, đầu gối co lại như xuống tấn, cho khỏi té, hai tay cong cong đưa ra, y hệt như trẻ con mới tập đi. Rối đến lúc nhạc trỗi lên náo nhiệt, những người đang nhảy lôi tất cả thực khách dậy, người sau vịn vai người trước, sáu bảy chục người nối đuôi nhau lắc lư bước theo tiếng nhạc, làm thành cái đuôi dài như thời nhỏ chơi trò “rồng rồng rắn rắn”. Anh bạn tôi vui quá, dậm mạnh chân mà thét lớn: “Cho xin khúc đầu – Cả xương cả xóc. Cho xin khúc giữa – Cả máu cả me. Cho xin khúc đuôi – Cả xuôi cả ngược”. Đám Việt Nam chúng tôi cười ầm lên, trong lúc những người khác không hiểu chuyện gì.

Sáng hôm sau, chúng tôi dậy sớm vào thăm Vatican, chỉ cần đến chậm vài mươi phút là cái đuôi dài cả nửa cây số. Trong tòa thánh, có lính gác và viên chức ăn mặc áo vét, cà vạt, để giữ dìn trật tự và hướng dẩn du khách. Các viên chức hình như quá chán ngấy với đám du khách hành hương hỗn tạp từ năm châu, mà hàng ngày họ phải chịu đựng, nên có vẻ lạnh lùng, mệt nhọc, không thiện cảm .

Trong các phòng kín nhỏ, các linh mục đang nhận lời xưng tội của các con chiên sau bức màn. Một linh mục chưa có người xưng tội, đang rảnh rang, đem tiền ra đếm, những đồng tiền Ý màu sắc đẹp đẻ. Xa xa trong phòng riêng, một số Hồng Y già cỗi, nhăn nheo, chậm chạp, hình như họ đang nguyện cầu cho một hồng y khác vừa tạ thế. Tôi thầm thán phục họ, hiến dâng trọn đời cho Chúa, để mưu cầu sau khi rời thế gian, thì được mãi mãi về nước Chúa. Còn tôi thì kiếp nầy đây, vất vả lo còn chưa xong, đâu có dư thì giờ lo cho kiếp tới.

Trong Tòa Thánh có rất nhiều tượng và tranh vẽ nghệ thuật mà không nơi nào khác có. Tranh của Micheal Angelo là những tác phẩm quý báu nghệ thuật. Gồm những bức tranh cổ xưa, thu thập từ trước thời Chúa Giê su trong đó ghi lại sinh hoạt, phong tục của tiền nhân. Xin đừng ai xấu hổ vì dân Á Đông ăn thịt chó. Có bức tranh xưa to lớn, vẽ đám đông ăn mặc như các ông thánh đang xúm xít quanh một con cầy thui. Bà hướng dẫn xác nhận đúng là ” Cây còn”.

Thêm cái phong tục bỏ tiền vào miệng người chết để hối lộ cho ma vương quỷ sứ trên đường đi đầu thai, không phải là Việt Nam học lóm của mấy ông Tàu. Vào thời trước tây lịch, dân La mã đã có rồi. Những đồng tiền trưng bày trong thư viện Vatican nhặt được từ trong miệng các xác chết của các tín đồ Thiên Chúa chôn trong huyệt mộ bí mật từ khoảng ba trăm năm sau tây lịch. Theo bà hướng dẫn, thì dù đạo Chúa không tin chuyện hối lộ khi về bên kia thế giới, vì tin có ngày phán xét cuối cùng và phục sinh, nhưng cứ bỏ tiền vào miệng người chết, lỡ ra cần thật. (just in case).
Nhiều bức tượng khỏa thân, để phơi mông phơi nguyên “bộ” ra ở chốn trang nghiêm, mà mặt mày tượng như cứ nhơn nhơn không nể nang ai cả. Một số tượng khác, thì trần truồng, nhưng chỗ kín thì được che bằng cái lá nho, trông đỡ sổ sàng hơn.

Theo bà hướng dẫn thì tượng nguyên thủy không mang lá lay gì cả, nhưng đến một thời nào đó, người ta thấy không đẹp mắt lắm, nên làm lá nho trùm lên. Sau đó, có kẽ cho rằng lá nho làm mất vẽ tự nhiên, bèn gỡ lá nho ra, nhưng khi gỡ lá, thì nó sứt luôn cái “mầm quý báu nhất thế gian” (dịch nguyên văn lời nói). Cho nên có một số tượng háng bể nham nhở. Không hiểu sao, óc thẩm mỹ của dân Ý chuộng trần truồng, cho nên nhiều bức tượng to lớn đứng giữa công viên, trên đài cao, mà khơi khơi để phơi của quý ra, trong lúc mang một tấm vải to lớn lòng thòng sau lưng.

Đâu phải là thứ “của” có tầm vóc và hình dung đặc biệt mà đem ra khoe cho cam, cũng chỉ là thứ thường thường bậc trung, nếu không nói là dưới trung bình một chút . Không trách chi dân Ý ngày trước thường đông con. Một số ít tượng ở các xứ Âu Châu cũng ưa trình bày theo lối trần truồng. Tại Paris, quanh hàng rào thư viện quốc gia là đoàn tượng trinh nữ lõa lồ đội đèn, nhưng có chút vải bay che lấp một chút nơi kín đáo, trông nghệ thuật hơn. Duy chỉ có bức tượng tại công viên Bastille, đã trần truồng đứng trên đài cao, còn dạng cái chân đưa ra phía sau, đứng cái tư thế nầy, mà đức Khỗng Tử thấy được, thì ngài xỉ vả cho ba đời cất đầu lên không nổi. Tượng “khoe của”, thì chỉ có một pho tại Genève , Thụy sĩ, là đáng tuyên dương nhất. Pho tượng đồng là một người ốm o gầy còm dắt con ngựa, người và ngựa đều trần truồng, mà thấy cái của người gồ ghề lòng thòng, ăn đứt cái của ngựa.

Đi thăm viếng quanh La mã, thăm hồ phun nước để ném đồng xu nguyện cầu, cả ngàn người chen chúc. Phải ném đồng xu cho đúng cách, và nguyện ba điều. Cầm đồng xu tay phải, quay lưng lại ném qua vai trái, điều thứ nhất nguyện cho bản thân mính, điều thứ hai cho người khác, điều thứ ba nguyện được trở lại nơi nầy.

Nhóm Việt Nam chúng tôi ném xu và nguyện. Điều thứ nhất mỗi người nguyện riêng, điều thứ hai thì nguyện cho đảng Cọng sản Việt Nam, mong cho các đồng chí sớm tiêu tùng để khỏi làm hại đất nước thêm nữa, điều thứ ba mong trở lại đây. Bà hướng dẫn hỏi tôi là Nhật Bản hay Đại hàn, tôi trả lời là Việt Nam, làm bà ngạc nhiên. Bà nói rằng, bà đã du lịch Việt Nam hai lần trong vòng mười lăm năm, và Việt Nam là một trong các xứ nghèo đói, tồi tệ nhất thế giới, vì đảng Cọng Sản độc trị. Tôi nói, xứ bà cũng có đảng Cộng sản vậy. Bà cười ha hả cho biết rằng cái đảng trưởng Cọng Sản Ý là một tên tư bản giàu có hạng.

Buổi sáng chúng tôi bộ dạo quanh thành phố La-Mã, mọi người đề phòng móc túi cướp giật tối đa . Khi tôi và anh du khách người Ấn Độ dừng chân trước cửa hàng đổi tiền để chờ bà xã tôi mua hàng, tôi hơi ngạc nhiên thấy du khách đổi tiền nhìn chúng tôi e-dè lấm lét, có vẽ sợ hải, có lẽ họ sợ chúng tôi cướp bóc chăng. Nhưng khi tôi nhìn lại anh Ấn Độ, thấy tướng dáng anh đen điu, to cao, tay chân lông lá, quần ngắn, áo không tay, giày da cổ cao. Thì thiên hạ nghi ngờ là phải, tôi kéo anh bạn dang xa tiệm đổi tiền cho du khách đỡ sợ.

Rồi chúng tôi đi viếng địa đạo của thành phố Lamã, gọi là Catacomb, xây dựng khoảng 300 năm sau dương lịch. Các vua chúa La Mã thời đó bách hại giáo đồ Thiên Chúa, họ phải đào hầm kín để hành lễ, và chôn xác chết theo nghi thức tôn giáo. Địa đạo Củ Chi của Việt Cọng thường khoe ầm lên, thì chẳng nhằm nhò gì với hệ thống địa đạo nơi đây. Có nhiều từng, nhiều ngõ ngách, hàng trăm cây số, mà hai bên thành hầm là huyệt mộ của tín hữu. Địa đạo nầy mới khám phá ra sau nầy nhân súc vật bị sút chân sa vào một cửa địa đạo. Nhờ những kẻ hay viết bậy, vẽ bậy lên tường còn lưu lại trong địa dạo , mà người ta biết được một phần sinh hoạt và sự thật thời xa xưa đó. Muốn đi hết La mã, thì cũng phải ít nhất một tuần lễ.

Chúng tôi đổ về Naple, miền nam nước Ý. đi thăm hải đảo Capri tài xế lái xe buýt loại trung bình chạy ào ào đưa chúng tôi lên đinh núi, con đường hẹp, ngoằn ngoèo mà một bên là vực sâu dựng đứng cao hàng trăm thước, tầm nhìn trên đường rất ngắn, xe chạy ngược chiều như đâm sầm vào nhau, xe nào cũng chạy với tốc lực cao. Xe quạch qua phải, quạch qua trái, lên dốc, xuống dốc, chẳng khác nào đi chơi hội chợ ngồi trên các xe có đường rầy quanh co tạo cảm giác. Hành khách ôm ngực đau tim thon thót, và cứ chốc chốc nhổm đít lên vì sợ. Người hướng dẫn du lịch trấn an: “Xin các bạn đừng lo. Tài xế nầy ngày trước lái máy bay cảm tử kamikazé. Ở Ý không ai có bằng lái xe cả. Bằng lái xe mua ngoài chợ trời, không cần thi”. Nói xong, anh ta làm dấu thánh giá, và vẫy tay ban phép lành cho hành khách như các linh mục làm lễ trong nhà thờ. Khoảng mười lăm phút xe lên đến khu phố thị lưng chừng núi. Một người nói: “Chắc chúng ta, mỗi người cũng sút được vài ký. May không có ai yếu tim, nếu không thì chúng ta cũng có dịp đóng tiền phúng điếu”.

Hải đảo thật thơ mộng, thần tiên, cây cối xanh rờn, nhà cửa chênh vênh san sát và khang trang, sang trọng. Có lẽ chỉ những người giàu có mới mua nhà vùng nầy.

Naple là một hải cảng quan trọng của Ý. Tàu bè thập phương tấp nập tới lui, ban đêm du khách không dám đi ra phố vì nguy hiểm. Khuya đó nằm trong khách sạn, chúng tôi nghe tiếng kêu gào rất lớn và rất lâu từ dưới phố vọng lên, tiếng của một người đàn bà nào đó, có lẽ là du khách người Nhật, thiếu thận trọng đi về giữa đêm khuya bị tấn công.

Hôm sau chúng tôi ngược về Florence, thành phố có công viên Micheal Angelo nhìn xuống phố và nhấp nhô những tháp nhà thờ xa xa. Ghé lại thăm thành phố Pompei, một thành phố bị chôn vùi dưới lớp tro tàn núi lữa từ mấy trăm năm trước Tây lịch, và được khai quật sau nầy. Nhìn mới biết con người từ thời đó đã văn minh, đã xây dựng được những công trình mà ngày nay cũng khó mà làm được. Thành phố nầy, vào thời đó, đã thu hút thương nhân các quốc gia lân cận đổ về như từ Phi Châu, Hy Lạp, Thổ nhĩ Kỳ, Spain, và các xứ Âu châu khác. Thành phố được xây bằng gạch, đá cùng vôi hồ, mà tất cả các bức tường đều dát đá cẩm thạch trắng. Có đủ hội trường, khách điếm, quán ăn, nhà vệ sinh công cọng, chợ búa, vận động trường, rạp hát lộ thiên có thể chứa cả chục ngàn người, tất cả đường sá đều lát đá cho xe đi và có hệ thống thoát nước. Trên mặt đường đá, có rãi rác loại đá phản chiếu, để dẫn đường cho xe đi đêm trong các ngõ.

Khách thương hồ xa nhà đến buôn bán, có khi cả năm, chưa lần gặp lại vợ con. Cho nên thành phố có rất nhiều lầu xanh, nhiều gái buôn hương bán phấn. Trước cửa mỗi lầu xanh, có một hình tượng, mà khách thương đến bất cứ xứ nào, nói tiếng nào cũng có thể hiểu được. Đó là một bộ phận sinh dục đàn ông bằng đá, chỉa thẳng ra đường, đặt trên cửa chính. Ban đêm, thì các kỹ nữ chốc chốc hú lên như tiếng sói gào đực. Dù không đèn đóm, khách làng chơi cũng biết nơi mà mò đến. Trong lầu xanh, có nhiều bức tranh gợi dục lớn cỡ nửa bức tường, vẽ cảnh ái ân. Cảnh đàn bà trần truồng cỡi lên bụng đàn ông, cảnh giao hoan theo những thế lạ. Không biết có phải vì đọa lạc như vậy nên trời phạt, cho núi lửa chôn vùi xóa bỏ. Một số xác chết trong tro vãn thạch hóa đá, được bơm thạch cao đúc khuôn lại, trưng bày trong lồng kiếng, nhiều khuôn mặt còn biểu lộ đau đớn. Không biết có kẽ nào đang hành lạc bị chôn vùi lúc đó không. Thì ra chuyện buôn hương bán phấn đã có từ thời ông bành tổ, chứ không phải nhân loại văn minh mới bày ra.

Hôm sau, chúng tôi hướng về Genova, (không phải Genève của Thụy Sĩ) thành phố quê hương của ông Kha Luân Bố (Christophe Colomb), Thành phố trên triền núi sát biển, có tượng ông Kha cao lớn, tay cầm cái mõ neo, bốn góc có bốn người đàn bà quỳ gối phủ phục. Ông nầy đã “khám phá ” ra châu Mỹ, mà ngày nay tôi được đến ở nhờ. Tôi vẫy tay chào và tỏ ý cám ơn ông. Tôi lại sực nhớ cái bia đá lớn của một ông thuyền trưởng, từ nhiều thế kỹ trước, lần đầu tiên ghé lại vùng San Francisco ngày nay, đã dựng lên tấm bia khắc chữ lớn để xí phần cho nữ hoàng của ông: “Đây là đất của Nữ Hoàng…”. Ông không thèm biết đến những cư dân da đỏ đang sinh sống nơi nầy cả ngàn năm, cứ cắm bảng xí phần cái đã.

Đến Ý, mà không thử pizza nguyên gốc thì e khi về ân hận không kịp. Chắc chắn phải ngon hơn cái pizza lai căng nấu theo hương vị Mỹ. Đất Mỹ, món ăn xứ nào cũng có bán, nhưng đã pha chế theo sở thích Mỹ. Cá thịt thì nấu nhàn nhạt, không có gia vị, ăn như nhai giấy bồi. Tôi và anh bạn đòi ăn cho được pizza, trong lúc hai bà xã thì nằng nặc không chịu. Các bà nói rằng, pizza thì Mỹ thiếu gì, cả nước, muốn ăn khi nào không được. Cuối cùng, chúng tôi ăn Pizza, thất vọng lớn. Pizza mềm xèo, nhão nhẹt, mùi vị không ra gì, thua thứ pizza hạng bét tại Mỹ. Chúng tôi cho là ăn không đúng tiệm, như phở ở Việt Nam mà ăn tại quân trường Quang Trung, thì không thể gọi là phở được. Anh bạn và tôi, mấy ngày sau, lén bà xã đi ăn thêm Pizza tại hai nơi khác nữa, cũng thất vọng não nề. May mà các bà không biết, chứ có mà căng tai ra nghe cằn nhằn.

Con đường vào nước Ý, núi non trùng điệp, đường quanh co khuất khúc. Tôi không hiểu sao ngày xưa, các quốc gia khác có thể xâm chiếm được nước Ý. Với hình thế hiểm trở nầy, cứ phục binh hai bên sườn núi, đánh chặn đầu chặn đuôi, rồi dùng hỏa công mà đốt, thì mười người không sống sót được một vài ngoe. Hay là nước Ý bị xâm lăng qua đường biển?

Khi đến thăm tháp nghiêng Piza, nền lún không đều, làm xiên bè cái tháp như sắp đổ xuống. Vì tháp nghiêng nên thiên hạ khắp thế giới tò mò đến xem. Chúng tôi chụp hình đứng bên cạnh tháp như tất cả du khách khác. Tôi hỏi vợ rằng, em làm nghề công chánh, em có biết cách nào để dựng thẳng cái tháp được không?. Vợ tôi cười đáp: “Dựng nó dậy làm chi?. Phải để nghiêng như thế mới thu hút du khách đến chơi mà hốt tiền. Dựng dây thì nó cũng tầm thường như trăm ngàn nơi khác, ai mà hoài công đến xem.” Quả như vậy thật, lâu nay tôi vẫn nghĩ tại sao người ta không dựng thẳng tháp, thì nay mới nghĩ ra.

Trên đường từ Genova về Pháp, chúng tôi qua các vùng nghe quen tên như núi Mont Blanc, có thành phố nghỉ mát, cây cối xanh tươi, không khí dìu dịu, khách du tấp nập và nhiều lều trại trong rừng thông. Không trách chi các văn sĩ Pháp như Alphonse Daudet, Anatol France đã viết những câu truyện liên quanh đến vùng nầy, làm độc giả hâm mộ, ước mơ một lần ghé lại.

Xe vào Genève, Thụy sĩ, nơi mà hiệp định Geneve ký kết phân đôi hai Việt Nam, cho chúng tôi cơ hội sống thêm hai mươi năm khỏi bị ách đô hộ cực kỳ khắt khe tàn bạo của cọng sản. Tôi không biết xưa kia ông Võ Thành Minh ngồi đâu trên hồ Leman mà thổi sáo phản đối thực dân lẫn Cộng Sản? Tại đây, tượng Jean Jacque Rousseau mà (người Tàu dịch là Lư Thoa, chẳng dính dáng chi với cái âm ngữ đó cả.) Tượng cao nghều nghệu, trên đài cao nhìn xuống. Ông nầy đã đưa tư tưởng tự do dân chủ vào chính trị. Trong công viên Genève, có nhiều tượng của các ông sáng lập đạo Tin lành, mà người Việt Thiên Chúa dịch ra là “bọn Phản Thệ” . Mấy ông Phản Thệ nầy có tượng hình chiếm nguyên một bức tường dài.

Trong công viên nầy, tôi thấy có mấy người rất giống Việt Nam đang chơi cờ tướng Âu Châu, mỗi con cờ cao gần cả thước. Nhiều bàn cờ dọc ngang trên sân rộng. Tôi tưởng mình đến Genève thì lòng xúc động vô cùng, vì nơi đó dính liền với lịch sử Việt Nam qua hiệp định chia đôi đất nước kéo theo cuộc chiến tương tàn hai mươi năm do mấy ông cộng sản gây nên. Nhưng không, lòng tôi vẫn bình thường, không xúc động nào cả.

Cũng như khi đi ngang qua Fontainebleau tôi cũng chỉ thầm nghĩ, nơi đây, ông Hồ Chí Minh đã ký hiệp ước đồng ý cho Pháp trở lại Đông Dương, mà nhiều người gọi là hiệp ước bán nước. Ông Hồ lấy cớ là đuổi kẻ thù gần là Tàu ra, kẻ thù xa là Pháp thì không ngại, nhưng nhiều năm sau, chính ông lại đón thứ “kẻ thù gần” đó vào nước, lãnh đạo các cuộc cải cách ruộng đất, và tôn vinh làm đại ca. Khi đến Paris, trong lòng tôi cảm thấy buồn thật sự, vì nơi đây, bản văn khai tử miền Nam Việt Nam ra đời, để cọng sản có cơ hội phá tan tành miền Nam, đày đọa dân chúng, đưa đất nước vào lầm than thoái hậu, và tôi phải liều mình ra biển, bỏ lại quê hương.

Khi vào biên giới Pháp, thông hành bị soát kỹ, có lẽ Pháp khó khăn hơn các xứ khác. Bởi vậy nên cách đây mười mấy năm, một anh bạn nhận việc của Liên Hiệp Quốc đi làm cố vấn kỹ thuật bên Phi Châu. Khi máy bay ghé Pháp, anh muốn lưu lại vài hôm thăm viếng phong cảnh, nhưng quan thuế không cho, buộc anh ngồi lại phi trường và sẽ tống đi Phi Châu vào chuyến bay sớm nhất. Anh đòi gặp cho được sĩ quan sở di trú. Anh nói với ông rằng: “Tôi học tiếng Pháp từ vỡ lòng cho đến tú tài một, tú tài hai, đại học, tôi thuộc lòng lịch sử Pháp, văn chương Pháp, trong đầu đầy ắp hình ảnh nước Pháp, tôi còn được dạy rằng tổ tiên tôi là giống Gaulois. Thế mà không cho ghé thăm đất của tổ tiên tôi thì thậm vô lý.” Nghe cảm động quá, vị sĩ quan di trú cho anh qua cỗng phi trường ra phố.

Tôi định thưởng thức món ăn Pháp nấu tại Paris cho biết, những người bà con của bạn tôi đến đón về nhà ăn phở. Giữa Paris mà phở ngon không thua chi ngày xưa ngồi bên hè ăn phở Pasteur khi đêm về. Ông nầy cư ngụ tại Pháp trên năm mươi năm, đã hành nghề dạy học, rồi sau ra mở khách sạn, giàu có vào bậc triệu phú, nay về hưu. Ông lái xe đưa chúng tôi đi thăm những thắng cảnh có tên quen thuộc như Đài Chiến Thắng, Thư viện Quốc Gia, Thư viện Nghệ Thuật, Nhà Hát Opera, Grand Palais, Petit Palais, Công Trường Concorde, Điện Louvre, Mộ Napoleon, Viện Đại Học, Vườn Luxembourg, Đại học Sorbonne, Khu Latin, Tuileries, Nhà thờ Đức Bà, Tháp Eiffel. Những nơi nầy, tôi đọc nhiều trong văn chương, thơ phú, mà nay mới thấy và bước chân đến.

Xe qua vài phố, có những tấm bích chương quảng cáo lớn cở 3×6 thước tây, vẽ những hình tục tĩu đáng ra không nên phô trương ra nơi công cộng. Không nên để trẻ con thấy, kích thích tính tò mò, làm mất cả cái thơ ngây của chúng. Điển hình nhất là bức tranh dâm ô trong nhà thổ tại Pompeii vẽ người đàn bà trần truồng cỡi lên bụng đàn ông. Thứ nầy không phải là tranh nghệ thuật, mà là tranh kích dục của người xưa tại thành phố bị núi lửa vùi lấp. Một tấm bích chương lớn khác, vẽ người đàn ông trần truồng quay lưng lại, sau lưng là đôi chân của đàn bà ngoéo chặt, có tiêu đề nhỏ là “Kama Sutra”. Bức quảng cáo nầy, làm cho một cô giáo già chưa chồng người Canada nhìn sửng sốt, khi xe chạy qua rồi, cô còn ngoảnh đầu lại, có lẽ cô chưa có kinh nghiệm đó, nên không biết “chúng nó làm cái trò gì mà lạ vậy”. Khi đó tôi không dám hỏi có phải vùng phố nầy là khu ăn chơi, nơi cư ngụ của gái lầu xanh không? Sợ các bà hiểu lầm.

Anh bạn chỉ cho chúng tôi một viện bảo tàng, gồm những đồ cổ sưu tập các di tích quý báu khắp Đông Dương, do mấy ông Tây thuộc địa đem về. Mới nghe thì buồn và giận, nhưng nghĩ lại, cũng may mà bị Tây nó cướp mang về cất , nên còn đó. Chứ lọt vào tay mấy ông Cộng Sản, thì cũng đã tiêu tan, thất tán và hủy hoại cả. Đồ đồng thì nấu chảy lấy đồng, vàng bạc thì đem bán, đồ sành thì đập vỡ nát. Cả Việt Nam, Lào, Miên, những thứ lãnh đạo gốc tam đời bần cố, thì làm sao thấy được chuyện bảo tồn văn hóa, di tích lịch sử.

Chúng tôi chỉ ghé chụp hình, nhìn sơ qua phố xá. Tối đó , ông đưa chúng tôi đi khu Montmartre, chạy xe quanh quanh tìm không ra chỗ đậu. Ở đây, chạy xe cũng loạn xà ngầu, bất kể luật lệ, còn tệ hơn tình trạng lưu thông tại Phố Tàu San Francisco, ai muốn chạy ra sao thì chạy. Chúng tôi chạy quanh mấy vòng mà vẫn không tìm ra chỗ đậu xe. Có khi tôi hỏi nhỏ : “Hình như anh chạy ngược chiều ?” Anh cười đáp : “Thì cứ giả như mình không biết, rồi cũng xong”. Có lúc anh đậu lại, tôi nói : “Hình như có bảng cấm đậu”. Anh thản nhiên rằng : “Biết chứ, nhưng lờ đi cho xong chuyện”. Rồi anh kết luận: “Tây nó có câu, nếu không dám làm những điều cấm đoán, thì chẳng làm được việc chi cả”. Nhờ vậy mà chúng tôi đậu được xe, và theo xe dây, kéo lên khu Montmartre. Người đi lại tấp nập, phải chăng đây là nơi đào tạo được rất nhiều nghệ sĩ chết trong nghèo đói lạnh lẽo? Nhiều người ôm mãi mộng ảo nổi danh mà suốt đời bán chưa được một bức tranh. Tôi chợt mừng cho mình, ngày xưa khi mới xong trung học, tôi ôm mộng thành họa sĩ, anh tôi khuyên rằng nên học cho có cái nghề nuôi miệng trước đã, rồi sau đó muốn vẽ vời chi cũng không muộn. Từ ngày có nghề nghiệp đến nay, tôi không hề cầm cọ vẽ được một bức tranh nào. Thật là may. Khu Montmartre cũng có rất nhiều họa sĩ gốc Việt Nam hành nghề vẽ truyền thần. Không biết họ có chịu những hệ lụy của áo cơm không? Đi đến khuya mới ra về.

Tôi hỏi ông bạn sao dân Âu Châu thích ăn chơi, thích hưởng thụ nhiều thế?. Anh nói rằng: “Chúng tôi nghèo, nhưng chúng tôi sống đời đáng sống hơn, vui hơn, hạnh phúc hơn. Các anh ở Mỹ, chỉ có đi làm việc, rồi về nhà ngủ, đời sống phí đi uổng lắm”.

Khách sạn tôi ngụ nằm bên bờ sông Seine. Bờ sông cũng khá sạch sẽ, không phải toàn đầy phân chó như bạn bè cho biết. Sông Seine cũng cỡ kinh đào Đông ba Huế, hoặc kinh băng qua cầu Công Lý cũ. Cũng không có gì gọi là thơ mộng như trong trí tương tượng. Có lẽ nếu trẻ lại thời hai mươi lăm tuổi, rồi buổi chiều vàng nào đó, nắm tay một em gái “tóc vàng sợi nhỏ” dung dăng dung dẻ dạo bên bờ sông mới thấy lại được cái thơ mộng chăng?

Chúng tôi viếng nhà thờ Đức Bà, cũng không có gì đặc biệt, có lẽ vì đã thấy quá nhiều nhà thờ to lớn, huy hoàng bên Ý, La Mã, nên không còn hứng khởi nữa.

Điều tôi nhớ nhất ở Pháp là chầu phở rất ngon, nấu tại nhà một người đã cư ngụ tại Pháp trên năm mươi năm , và một con gà quay độn thịt rất đậm đà, không có một chút mỡ nào, vị ngon rất lạ. Ỏ Pháp, chúng tôi cũng ấm ớ, nói năng chữ được chữ mất, vì sau hơn ba mươi năm không dùng lại, nói tiếng Pháp mà cứ chen tiếng Anh vào ngang xương, giống như hồi mới qua Mỹ, nói tiếng Anh mà khi bí thì tiếng Pháp tự nhiên thay vào rất gọn.

Tôi nhớ buổi trưa kia, tại một siêu thị ở Ý, bạn tôi thấy cà tím nướng ướp gia vị. Bạn tôi hỏi cô bán hàng có biết tiếng Anh không, cô không nói. Bạn tôi hỏi có biết tiếng Pháp không? Cô trả lời là biết chút chút. Anh bạn liền nói: “Trois cent grammes de cazaillet, s'il vous plait”. và nhìn vào chạn kiếng thức ăn. Bà bán hàng cân ba trăm gram cà tím. Tôi phục bạn quá, bỏ lâu ngày mà còn nhớ tên cái thứ khó khăn và ít khi dùng đến như là cà tím. Tôi thắc mắc, không biết chữ “cazailler” ở đâu ra, đem hỏi, thì bạn tôi cười bảo là “Cà dái dê ” ấy mà, đọc ra tiếng Pháp là cailler. “Phải dạy cho dân Ý học đôi tiếng VN chứ”. May mà bà bán hàng người Ý không rành tiếng Pháp nên mới hiểu được bạn tôi muốn gì. Tôi sực nhớ một anh bạn kể chuyện tại Pháp, khi một phái đoàn Việt Cọng qua Pháp công tác, đến ở khách sạn. Người thông dịch kiêm hướng dẫn có việc cần, khi ra đi hẹn sẽ trở lại dẫn đi ăn. Nhưng quá giờ cơm rồi mà chờ mãi không được. Đói meo, mấy anh trong phái đoàn định liều xuống quán kiếm gì ăn tạm. Một anh cán ngố nói rằng “Ngày xưa tôi đi giữ trâu, nghe con địa chủ học tiếng Tây, bây giờ còn nhớ chút chút, cứ thêm chữ la, chữ lơ vào tưới lượi thì ra tiếng Tây chứ gì khó. Chúng ta vượt Trường Sơn còn được, thì nói tiếng Pháp không được sao? Thôi thì xuống phòng ăn, tôi kêu thức ăn , chứ đói quá rồi, chiu chi thấu”. Sáu anh cán ngố dắt nhau xuống phòng ăn. Bồi bàn là một ông Tây già mũi lõ đưa tấm thực đơn đến, anh cán ngố dõng dạc hô: “La thịt gà, lơ heo xào, lơ bánh mì, la trà tàu”. Anh bồi bàn ghi chép, rồi bỏ đi. Một chốc sau dọn lên đúng thịt gà, heo xào, bánh mì, trà tàu. Anh cán ngố rung đùi sung sướng thấy mình thông minh quá, và hãnh diện với bạn bè. Khi ăn xong trả tiền, mấy ông cán ngố cố tình quên tiền “boa”, “boa” theo tiếng Việt Cọng, (pour boire theo tiếng Pháp, tiền “tip” theo tiếng Anh). Ông bồi bàn lẩm bẩm bằng tiếng Pháp “Tiên sư mấy thằng Việt cọng, tao mà không đi lính lê dương, và không lấy vợ Việt Nam thì tụi bây đói chẩu mỏ”.

Cuộc Âu du của chúng tôi, xem như thành công. Hãng du lịch lo hết về di chuyển, khách sạn và một phần các bữa ăn. Được đi xem nhiều nơi đáng đến, đáng xem, đỡ mất thì giờ tìm kiếm thắng cảnh, khách sạn, tìm kiếm phương tiện lưu thông, nếu đi tự túc thì không chừng phải tiêu tốn nhiều hơn. Có người tự đi lấy, đêm ngủ trên tàu, sáng dậy đi chơi, cũng khổ nhọc như thời hành quân trong rừng già. Mệt lắm, tuổi không còn trẻ nữa để chịu ngủ ngồi gà gật, đau xương sống, mất sức. Vả lại, ngủ nhưng phải tỉnh táo mà canh chừng hành lý, không thì ” bừng con mắt dậy, thấy mình tay không”. Đi chơi thì phải thoải mái, thong dong.

Nói về đắt đỏ, thì Âu Châu đắt dỏ hơn Mỹ nhiều, nhưng nếu chỉ ăn uống những thứ bình thường như bánh mì thịt, mì xào, cây trái, và các thứ bình dân khác thì cũng chẳng có gì là đắt. Nếu không thì giới bình dân làm sao mà sống, sinh viên làm sao mà có ăn?. Bởi vậy, nên thức ăn chúng tôi mang theo đều đổ hết, không có dịp dùng đến . Khi đi được nữa đường thì phải tống khứ đi hết các thứ như giấy đi cầu, giấy lót bàn cầu, thức ăn, đồ uống, cho khỏi nặng hành lý.

Còn trộm cắp và cướp bóc, thì có lẽ chúng tôi may mắn, chưa ai bị gì. Có lẽ nhờ đề phòng kỹ, nên không bị mất mát. Nhưng tình trạng trộm cắp cũng không đến nỗi ghê rợn hãi hùng như đã nghe trước khi đi. Một ông bảo rằng, cứ chờ các cô ngực nở nang đến cọ quẹt (để móc túi) mà chờ mãi chẳng có ai cả. Đi hoài mà cũng chẳng ai thèm cọ quẹt mình. Phần tiện nghi, thì có lẽ nhờ được ở các khách sạn bốn, năm sao, nên tiện nghi không thua chi tại Mỹ. Không hề có cảnh phải tắm chung, đi cầu chung. Nói chung, các thành phố Âu Châu đã thành lập từ ngàn năm trước, đường xá nhỏ hẹp dành cho xe ngựa , nay xe hơi dùng thì phải chịu đông đúc chật chội, không có chỗ đậu.

Nhìn những cung điện lâu đài nguy nga, kiến trúc đồ sộ công phu, những nhà thờ vĩ đại, những pháo đài kiên cố của các lãnh chúa, nhan nhản khắp Âu Châu, tôi bỗng cảm phục lòng nhân từ của các vị vua Việt Nam xưa, thương dân, không nỡ nhìn dân khổ để xây dựng những lâu đài huy hoàng tráng lệ, với mồ hôi, máu và nước mắt của dân. Những công trình vĩ đại đó, chỉ cấu tạo bằng đá, gạch, hồ, gỗ, và sức người. Đá thì sẵn trên núi, gổ thì sẵn trên rừng , chỉ còn đủ cái tàn nhẫn bắt dân đóng mồ hôi và máu nữa mà thôi. Chỉ cần thêm lòng tàn bạo là xây dựng được những thứ vĩ đại. Nhiều người chê Việt Nam không có những kiến trúc vĩ đại, không có những công trình của tiền nhân để lại như Đế thiên Đế Thích, như Vạn Lý Trường Thành, như cung điện nhà Minh bên Tàu… Không có là nhờ lòng nhân từ của các bậc vua chúa, thương dân như thương con, có những vua như Lý thánh Tông, Lê thánh Tông… Không như vua Lê Tương Dực, bạo chúa, bắt dân xây lầu trăm nóc, để sau khi bị giết, lầu bị đốt cháy, để làm gương cho các vua đời sau.

Dân Âu châu có hình dáng thon thả gọn gàng hơn dân Mỹ, ít thấy những tấm thân bồ tượng như các bà tại Mỹ. Đàn bà con gái, thân thể thanh tao, mặt mũi có đường nét mỹ miều đẹp, dễ nhìn. Đàn ông thân thể đa số cũng rắn rõi, chắc chắn, ít có bụng nước lèo . Có lẽ họ ít ăn thịt hơn dân Mỹ. Cách ăn mặc cũng lịch sự, nghi lể hơn. Cứ nhìn ông tài xế lái xe cho chúng tôi thì biết . Ăn mặc áo quần lịch sự như đi dự hội nghị quốc tế, với khuôn mặt sáng sủa, có râu quai nón vàng chải chuốt, mang kiếng trắng, cử chỉ khoan thai, đứng đắn, trông có dáng dấp của một nhà bác học , không có dáng tài xế xe buýt. Nhưng lái xe thì khiếp, không thua ai. Tôi nghĩ, nếu phải lái xe nầy tại Âu Châu , thì trong vòng chưa đầy nửa giờ, là bị còng tay đem vào tù.

Đi về, có người hỏi, vợ tôi đáp rằng, đi thì vui, xứng đáng đồng tiền, nhưng không nơi nào đẹp bằng quê hương (Mỹ) cả.

Để kết luận cho bài nầy, tôi xin kể câu chuyện của một bà từ Úc qua California thăm con. Được đón từ phi trường Nam Cali khi gần sáng, để về Bắc Cali. Suốt ngày xe chạy trên đường liên bang số 5.

Khi đến nơi bà nói: “Tưởng California nông nghiệp kỹ nghệ giàu có lắm, thì ra chỉ có đồi khô cỏ cháy, và chăn nuôi thì lèo tèo. Thôi con dọn qua Úc ở với mẹ”. Có lẽ tôi cũng chỉ là một kẻ mù sờ voi như bà khách Úc Châu nầy thôi ./.



Tram Ca mau
 
____________

 
Đỗ Hứng gởi