Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh



 
Bồ-tát

菩薩

Bodhisatta – Bodhisattva

 
***


 




Nội dung

I. Bồ-tát – Biểu tượng con đường hướng tới Phật quả.
II. Bồ-tát – Biểu tượng triết lý về Chân lý và Đạo đức của đạo Phật.  
III. Bồ-tát – Biểu tượng khuyến tấn đạo đức xã hội.
IV. Bồ-tát Thánh vị –  Bồ-tát phàm phu – Bồ-tát khích lệ.
V. Kết luận.

Bài đọc thêmQuá trình tu tập của Bồ Tát
NBS:  Minh Tâm  7/2019
 
Image result for avalokiteshvara statue japan
Bodhisattva- Wikipedia
Bồ Tát– Wikipedia tiếng Việt
Chân dung Bồ-tát Quán Thế Âm
Thời Kamakura (1185-1333), Nhật Bản

Trong đạo Phật, Bồ-tát (菩薩;  Pali: Bodhisatta;   Sanskrit: Bodhisattva) là từ được sử dụng trong cả Phật giáo Nam truyền và Phật giáo Bắc truyền.
Về mặt từ nguyên học (etymology), ta có:
Bodhi (Bồ-đề= giác ngộ;  E: enlightenment) +‎ Satta hoặc Sattva (Tát-đỏa = chúng sinh, sinh vật, hữu tình;  E: being).

Theo đó, Bồ-tát hay Bồ-đề Tát-đỏa là một chúng sinh hữu tình đã giác ngộ, có những ý nghĩa sau:

I. Bồ-tát – Biểu tượng con đường hướng tới Phật quả.
Phật giáo Nguyên thủy thừa nhận các vị A-la-hán là những con người thật và không có các vị Bồ-tát. Tuy nhiên khái niệm Bồ-tát thì có, khái niệm này xuất hiện trong các kinh điển Nguyên thủy, nhiều nhất là ở Tiểu Bộ kinh (Khuddhaka Nikāya) và Tạp A-hàm (Samyukta Āgama), để chỉ những tiền thân của Đức Phật (xem Jātaka: kinh Bổn Sanh), gồm những kiếp tái sinh trên con đường tu hành trước khi đạt đến quả vị Phật.

Maitreya- Wikipedi
 Di-lặc– Wikipedia tiếng Việt

Tượng đồng Bồ-tát Di Lặc trầm ngâm, khoảng thế kỷ thứ 7.
Hiện vật nằm trong danh sách quốc bảo của Hàn Quốc.

Trong kinh Chuyển luân Thánh vương Sư tử hống (số 26, Trường bộ III) có nói về Bồ-tát Di Lặc (菩薩彌勒;  P: Metteyya Bodhisatta;;  S: Maitreya Bodhisattva) là vị Phật trong thời vị lai như sau:

Này các Tỳ-kheo, khi tuổi thọ loài người lên đến tám vạn tuổi, có Thế Tôn tên là Metteyya ra đời, là vị A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, như Ta nay sinh ra ở đời này là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Vị này tự mình biết, chứng và tuyên thuyết quả đất này, gồm có Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, thế giới này với Sa-môn, Bà-la-môn, loài trời, loài người, như Ta hiện nay tự mình biết, chứng và tuyên thuyết. Vị này sẽ thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, với nghĩa lý văn tự đầy đủ và tuyên thuyết đời sống Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh, như Ta hiện nay thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, với nghĩa lý văn tự đầy đủ và tuyên thuyết đời sống Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh. Vị này sẽ có khoảng vài ngàn vị Tỳ-kheo Tăng đoàn, như Ta hiện nay có khoảng vài trăm vị Tỳ-kheo Tăng đoàn vậy”.

Theo các kinh Tăng nhất A-hàm và kinh Di Lặc hạ sinh, Di Lặc thượng sinh (Quán Di Lặc Bồ-tát thượng sinh Đâu-suất thiên) thì Bồ-tát Di Lặc hiện đang ở cõi trời Đâu-suất thuyết pháp hóa độ chư thiên và những ai phát đại nguyện sinh về Đâu-suất Tịnh độ của Ngài. Ngài là vị Phật trong vị lai sau khi giáo pháp của đức Phật Thích Ca không còn trụ thế.

Phật giáo Phát triểnsau này có lẽ đã kế thừa và phát triển khái niệm này từ thế kỷ 1tCN, làm cho Bồ-tát trở thành một hình tượng hoành tráng vừa gần gũi, vừa phi thường trên hành trình cứu độ chúng sinh và hướng tới Phật quả. Vì thế, có thể nói rằng, Bồ-tát mang nhiều ý nghĩa triết lýnào đó trong đạo Phật.
Hơn nữa, khái niệm Bồ-tát từ thế kỷ thứ 2CN về sau là nhằm chỉ danh cho bất kỳ ai đang trên con đường hướng tới Phật quả, có quyết tâm trở thành một vị Phật, hay được một xác nhận (thọ ký) hoặc dự đoán từ một vị Phật hãy đang còn sống.

II. Bồ-tát Biểu tượng triết lý về Chân lý và Đạo đức của đạo Phật.   

Trong Phật giáo Phát triển, khái niệm Bồ-tát còn được xem một cách đơn giản như là Bậc giác ngộ đang gắn với việc độ sinh, nghĩa là đang trong hạnh nhập thế.

Phật là bậc giác ngộ Chân lý Duyên khởi, biểu hiện cho sự thanh tịnh. Phật gắn liền với Đạo đức Từ bi-Trí tuệ, biểu hiện cho việc độ sinh.  Theo đó, hình tượng văn hóa biểu hiện cho Chân lý và Đạo đức của đạo Phật là mô hình Tam Thánh, khá thích hợp để nhắc nhở cho chúng sinh tinh tấn với tinh thần Trung đạonơi các giá trị này.

    Phổ Hiền       Thích Ca          Văn Thù
      Từ bi          Thanh tịnh        Trí tuệ
              Tình cảm       Tuệ Giác           Lý trí 
     Mô hình “Thích Ca Tam Tôn”
 

   Đại Thế Chí                    A Di Đà             Quán Thế Âm
           Trí tuệ                  Thanh tịnh            Từ bi
        Lý trí                      Tuệ Giác            Tình cảm
Mô hình “Di Đà Tam Tôn”
[Tịnh độ hiện thực]

III. Bồ-tát – Biểu tượng khuyến tấn đạo đức xã hội.

         Trong Phật giáo Phát triển, khái niệm Bồ-tát còn được mở rộng là mẫu người có nhân cách lý tưởng và cao thượng giúp xây dựng một xã hội tốt đẹp. Bồ-tát như tấm gương sáng đi vào trong đời, vừa tu tập hoàn thiện bản thân và vừa làm cho cuộc đời tốt đẹp và nhân bản hơn.

Bản chất của chư Bồ-tát là Tuệ Giác nhận thức rõ tính Không của tất cả các pháp, nhưng công việc Từ Bi cứu độ của họ thì không bao giờ nằm ngoài thế giới khổ đau.  Bồ-tát thể hiện lòng Từ Bi làm lợi ích chúng sanh từ động cơ trong sáng và lương thiện, bởi đólà việc thực hành các Ba-la-mật (Pāramitā), trái với mục đích bất thiện, là điều mà ta có thể thường gặp ở bất cứ nơi đâu trong đời sống xã hội hiện nay.

Điều kiện sống của Bồ-tát là ở nơi đời sống của những con người bình thường. Con đường Bồ-tát do đó không phải là con đường êm đềm phẳng lặng, vì cõi đời vốn gập ghềnh và luôn đầy những chướng ngại trên lối đi.
- Theo kinh Lăng Già (Laṅkāvatāra Sūtra), Bồ-tát vì muốn độ tất cả chúng sanh đạt đến Niết-bàn, nên phát nguyện ở lại thế giới nhiều khổ đau này để làm lợi ích cho chúng sanh bằng nhiều phương cách khác nhau.
- Theo kinh Hoa Nghiêm (Avataṃsaka Sūtra), Bồ-tát đóng chức năng như một ngọn đèn có thể soi sáng thế gian. Trong mười hạnh nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền, hạnh thứ chín nói đến việc “hằng thuận chúng sanh”, là tùy thuận theo chúng sanh, là tùy theo căn cơ, nghiệp lực, hoàn cảnh… của mỗi chúng sanh để tuỳ nghi hóa độ.
- Theo kinh Pháp Hoa (Saddharmapuṇḍarīka Sūtra) – phẩm Phổ môn, Bồ-tát có thể “hóa hiện” thành những hình hài khác nhau để cứu độ chúng sanh. Bồ-tát có thể ở trong hình hài phụ nữ, trong hình hài người nam, trong hình hài cư sĩ, trong hình hai tu sĩ, trong hình hài vua quan, trong hình hài thường dân, trong hình hài người lớn tuổi, trong hình hài trẻ thơ… Nhưng dù ở trong hình hài nào, Bồ-tát cũng vì tha nhân, hy sinh bản thân và luôn sống theo những thệ nguyện cao cả của Bồ-tát đạo.

Cũng nơi kinhPháp Hoa, phép ẩn dụ hoa sen trắng thanh khiết mọc lên từ bùn lầy muốn nói rằng việc đạt lấy trạng thái tâm thanh tịnh cần thực hiện giữa cuộc đời này, hay ngay giữa xã hội loài người, dù rằng điều này không dễ. Theo cách này, Bồ-tát tuy trong sự tĩnh tại cá nhân, nhưng không bao giờ chạy trốn thực tại, và không bao giờ rời bỏ chúng sanh đang chịu đau khổ trong cuộc sống.
- Theo kinh Duy Ma Cật (Vimalakīrti Sūtra), lý tưởng Bồ-tát xuất phát từ một thế giới tương quan, tương duyên, tương thuộc “Tôi bệnh vì chúng sanh bệnh. Khi bệnh của chúng sanh được khỏi thì bệnh của tôi sẽ khỏi”, được thể hiện sống động cùng với giáo lý phương tiện:
Ông chấp trì luật pháp, duy trì trật tự dưới trên. Hợp tác hài hòa trong tất cả sự nghiệp buôn bán, tuy cũng gặt hái những tài lợi thế tục, ông không lấy đó làm mừng. Rong chơi trên các ngõ đường để giúp ích mọi người. Vào chốn công đường để bảo vệ kẻ thế cô. Tham gia các luận nghị để đưa người vào Chánh giác. Đến các trường học để khai sáng tâm mọi người. Vào nơi kỹ viện để cho thấy tai họa của dục vọng. Vào trong tửu lâu để khiến mọi người giữ vững ý chí”. Và, “Bằng gia sản bất tận của mình, ông bao bọc người cùng khổ. Bằng giới thanh tịnh, ông bao bọc người hủy phạm cấm giới. Bằng sự nhu thuận của nhẫn, ông bao bọc người sân hận hung dữ. Bằng đại tinh tấn, ông bao bọc người biếng nhác. Bằng nhất tâm, thiền định, tịch tĩnh, ông bao bọc những kẻ có tâm ý tán loạn. Bằng tuệ quyết định, ông bao bọc những hạng vô trí”.
- Theo kinh Thắng Man (Srimala Devi Sūtra), Bồ-tát không bao giờ thoát ly khỏi thực tại xã hội, như lời nguyện của hoàng hậu Shrimala: “Nếu tôi nhìn thấy những người cô độc bị cầm tù một cách bất công và đánh mất sự tự do, những người khổ đau vì bệnh tật, tai ách và đói nghèo, tôi sẽ không rời bỏ họ. Tôi sẽ đem lại cho họ sự an ổn cả vật chất lẫn tinh thần”.
Có thể nói xã hội dù bất cứ ở thời kỳ nào cũng luôn cần đến những mẫu người Bồ-tát như vậy, những người luôn nghĩ đến tha nhân, muốn chia sẻ những lợi ích vật chất và tinh thần cho những người đang còn chịu nhiều đau khổ trong cõi ta bà vốn uế trược và lắm bất an này.

IV. Bồ-tát Thánh vị –  Bồ-tát phàm phu – Bồ-tát khích lệ.
Theo Phật giáo Phát triển, mọi người từ khi mới phát tâm cho đến khi thành Phật đều được gọi là Bồ-tát. Điều này được xem là tư tưởng xuất phát từ  các kinh sau:
- Theo kinh Pháp Hoa, Phẩm Phương tiện: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tính”.
- Theo kinh Phật Thuyết Phạm Võng, Bồ Tát Tâm Địa Phẩm: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành!”.
Phật giáo Phát triển còn cho rằng lý tưởng tu hành của Bồ-tát là “Thượng cầu Phật đạo, hạ hoá chúng sanh”.  Muốn thành tựu lý tưởng cao cả đó, trên bước đường tu hành chư vị Bồ tát đều phát thệ nguyện. Quyết tâm này được trình bày trong 4 lời nguyện trong tu học, gọi là Tứ hoằng thệ nguyện  như sau:
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,     
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,        
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,   
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Theo kinh Bồ-tát Anh Lạc Bổn Nghiệp, Bồ Tát chia làm 52 cấp vị phân biệt là Bồ tát phàm phuBồ tát Thánh vị.
1) Bồ-tát phàm phu.
Chỉ danh cho Bồ-tát phàm phu là 40 cấp vị tu tập ban đầu là:
1/-Thập Tín vị: Là 10 cấp vị thuộc về thứ bậc của Bồ Tát Nhập Môn hay Bồ Tát Ngoại Phàm.
2/-Thập Trụ vị, Thập Hạnh vị, Thập Hồi Hướng vị:  Là 30 cấp vị thuộc về thứ bậc của Bồ Tát Tam Hiền hay Bồ Tát Nội Phàm.
Bồ-tát phàm phuhiểu theo đúng nghĩa, rất khác với quan niệm Bồ-tát trong dân gian là những vị thần ban phúc, như các vị thần được thờ phục ở các đền miếu. Bồ-tát phàm phu là người, sau khi tin Phật, học Phật, phát nguyệntự độ, độ tha, thậm chí hy sinh cả bản thân mình để cứu giúp người.
Bồ-tát phàm phu cũng khác biệt với Bồ-tát khích lệ nơi xã hội. Bởi trong đời sống xã hội hiện thực, có rất nhiều trường hợp cá nhân đã sáng chói từ sự cống hiến hy sinh bản thân mình một cách cao cả và vô vị lợi dành cho tha nhân, cho xã hội, …  Những người này đã làm những việc thiện cứu giúp người nghèo khổ bằng vật chất (ngoại tài), người gặp hoạn nạn, hoặc hiến máu, hiến mô, hiến tạng … (nội tài) cho những người bệnh.  Các hành động này tương cận như hành động theo hạnh của một vị Bồ-tát đang tu học, nên được khích lệ tôn vinh danh hiệu Bồ-tát.  Do đó cách gọi Bồ-tát nơi đây cần hiểu là Bồ-tát khích lệ.
Trong nhiều trường hợp khích lệ, hành giả đang tu học cũng được xưng hô là Bồ-tát.  Đó cũng là dạng Bồ-tát khích lệ.
2) Bồ-tát Thánh vị.
Chỉ danh cho Bồ-tátThánh vị là 12 cấp vị sau cùng, đó là từ Bồ-tát Sơ địa đến Bồ-tát Thập địa, cộng thêm Bồ-tát Đẳng Giác, Bồ-tát Diệu Giác.  Thực ra:
- Bồ-tát Đẳng Giác là đại Bồ-tát sắp thành Phật.  
- Bồ-tát Diệu Giác là Phật.  
Các vị Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc, Địa Tạng .v.v. mà chúng ta biết chính là biểu tượng của các đại Bồ-tát Đẳng Giác.
(Xin xem Bài đọc thêm “Quá trình tu tập của Bồ Tát” bên dưới)
 

V. Kết luận.
Tưtưởng Bồ-tát bắt đầu ảnh hưởng trong các tông phái Phật giáo Ấn Độ vào những năm cuối của vương triều A-dục (Ashoka). Không lâu sau đó, khi Phật giáo Đại Chúng bộ phát triển, tư tưởng nhập thế này đã nhanh chóng ảnh hưởng mạnh mẽ khắp Ấn Độ và truyền rộng đến các quốc gia Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Tây Tạng, Việt Nam …
Theo truyền thống tư tưởng này, có vô lượng Bồ-tát thị hiện trong nhiều hình tướng và chủng tộc, trong nhiều không gian và thời gian để cứu giúp chúng sanh đang trôi lăn trong khổ đau.
Với tinh thần thông suốt không dính mắc, chúng ta có thể nhận ra rằng giá trị của biểu tượng Tam Thánh chính là biểu tượng của bậc giác ngộ-giải thoát, là biểu tượng của đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni và ba đời chư Phật.
Xem thêm:
- Theravada- What is the difference between a Bodhisatta and a Bodhisattva
- Future Buddhas - The Concept of Bodhisatta- Google Sites
- Bodhisatta - definition of Bodhisatta by The Free Dictionary
- SelfSacrifice of the Bodhisatta in the Paññāsa Jātaka
- Bodhisattva | Buddhist ideal | Britannica.com
- Bodhisattva - Encyclopedia of Buddhism
- Bodhisatta - Wiktionary
 
- Bồ Tát - Thich Tri Sieu 
- Bodhisattva - Wikipedia
- Bồ Tát – Wikipedia tiếng Việt
- Nhân quả và nhân duyên
- Thâm Ý Qua Hình Tượng Phật -Bồ Tát
- Khái niệm Bồ-tát - Quang Duc Homepage
- Khái niệm về Bồ Tát- Đạo Phật Ngày Nay
- Bồ Tát Là Gì - Phật Học - THƯ VIỆN HOA SEN
- Tiếp Hiện và Bồ Tát Đạo - Deer Park Monastery
- Giới thiệu Tiểu Bộ Kinh –Pháp Đăng Thiền Tuệ
- Bồ-tát có thật không? - Triết học - Giác Ngộ Online
- A-LA-HÁN, PHẬT VÀ BỒ TÁT | Đạo Phật nguyên thủy
- Chương 3:Sự Phát Triển Của Giáo Lý Bồ-tát - Chùa Bửu Châu
- Bồ Tát tại gia, Bồ Tát xuất gia - Thanh Nguyen Xuan - Wattpad
- Ba Mươi Bảy Pháp Hành Bồ Tát Đạo -Drikung Dharmasurya Việt Ngữ
- Kinh Tiểu Bộ Tập I (Khuddhaka Nikàya)- Kinh Pali - THƯ VIỆN HOA ...
- Bồ tát - Vị giác ngộ vẫn còn trong vòng luân hồi - Kiến Thức Phật Giáo
- Hệ thống các vị Phật, bồ tát và thần, quỷ trong Phật giáo -Book Hunter
 
 
VIDEO
-  Bồ Tát là gì ?| Lời hay nên đọc
- Bồ Tát Là Ai ? - Đại Đức Thích Tâm Đức
-  Vấn đáp: Thế nào là Phật và Bồ tát ? | Thích Nhật Từ
- TT Thích Trí Siêu - Chư Phật và Bồ Tát - Phần 1 - Chùa Tịnh Luật
- TT Thích Trí Siêu - Chư Phật và Bồ Tát - Phần 2 - Chùa Tịnh Luật
- What is a Buddha, Arahant, Bodhisatta, Liberation, Enlightenment ...
 
 

 
Bài đọc thêm.
Quá trình tu tập của Bồ Tát
Theo kinh Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp, hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt quả, được gọi là Bồ Tát Giai Vị, gồm có: Thập Tín Vị, Thập Trụ Vị, Thập Hạnh Vị, Thập Hồi Hướng Vị và Thập Địa Vị. 
1/- Thập Tín vị: Là 10 ngôi vị thuộc về thứ bậc của Bồ Tát Nhập Môn hay Bồ Tát Ngoại Phàm.
2/- Thập Trụ vị, Thập Hạnh vị, Thập Hồi Hướng vị:  Là 30 ngôi vị thuộc về thứ bậc của Bồ Tát Tam Hiền. hay Bồ Tát Nội Phàm.
3/- Thập Địa vị:  Là 10 ngôi vị thuộc về thứ bậc của Bồ Tát Thánh Nhân  hay Bồ Tát Thánh Vị.
I.- Thập Tín vị:
Thập Tín Vị cũng gọi là Thập Tín Tâm, nghĩa là mười tâm để tu tập của một vị Bồ Tát mà trong đó Tín Tâm đứng đầu. Đây là mười ngôi vị ban đầu của Bồ Tát Nhập Môn.
1.- TÍN TÂM: Nghĩa là Bồ Tát tu học tâm Chánh tín, để vững chắc và an vui trong sự tu tập. Bồ Tát không lay chuyển thối tâm lùi bước trước mọi trở lực của tâm Mê tín vọng tưởng nơi thế gian.
2.- NIỆM TÂM: Nghĩa là Bồ Tát tu học tâm về sáu niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Bố Thí và niệm Thiên (các cõi Trời).
3.- TINH TẤN TÂM: Nghĩa là Bồ Tát tu học tâm chuyên cần tinh tấn theo Bồ Tát Tạng (Bodistsattva Pitaka) không gián đoạn. Bồ Tát Tạng gồm có các kinh điển như:  Kinh Pháp Hoa, Kinh Hoa Nghiêm v.v...
4.- ĐỊNH TÂM: Nghĩa là Bồ Tát tu học tâm an trụ nơi sự lý của Phật Pháp. Khi tu tập Định Tâm, Bồ Tát cẩn trọng xa lìa ý niệm phân biệt về tất cả các pháp giả thô của thế gian (tà kiến).
5.- HUỆ TÂM:  Nghĩa là Bồ Tát tu họctâm quán sát Bồ Tát Tạng, phải nên, xét đoán và cân nhắc một cách kỹ lưỡng về nghĩa lý của vạn pháp để nhận được tự tánh Vô Ngã của muôn pháp, tức biết các pháp không có tự tánh.
6.- GIỚI TÂM:  Nghĩa là Bồ Tát tu học tâm giữ gìn giới luật, như giữ gìn Thân Miệng Ý cho được thanh tịnh, không vi phạm. Bồ Tát nếu như có phạm lỗi thì phải sám hối.
7.- HỒI HƯỚNG TÂM: Nghĩa là Bồ Tát tu học tâm nguyện hướng về chúng sinh những gì mình có.
8.- HỘ PHÁP TÂM: Nghĩa là Bồ Tát tu học tâm phòng hộ không phát khởi phiền não. Bồ Tát phải tu tập:
                    - Mặc Hộ (giữ gìn sự tĩnh lặng)
- Niệm Hộ (giữ gìn Chánh niệm)
- Trí Hộ (giữ gìn Trí Tuệ)
- Tức Tâm Hộ (giữ gìn không phiền não)
                    - Ngũ Chủng Hạnh Hộ (giữ gìn năm pháp hành khác) là: Thọ Trì, Đọc, Tụng, Giải Thuyết (Giải thích và Thuyết pháp Kinh Luận) và Thơ Tả (Viết sách).
9.- XẢ TÂM: Nghĩa là Bồ Tát tu học tâm xả ly luyến tiếc hoặc hối tiếc về sanh mạng và tài sản của mình.
10.- NGUYỆN TÂM: Nghĩa là Bồ Tát tu học tâm phát nguyện theo lời Phật dạy. Bồ Tát làm cho lời Phật dạy ngày càng thêm sáng tỏ và phổ biến đến cùng khắp mọi tầng lớp chúng sanh. 

II.- Thập Trụ vị:
Thập Trụ vị cũng gọi là Thập Địa trụ hay Thập Pháp trụ hoặc gọi là Thập Giải. Thập Trụ vị gồm từ ngôi vị thứ 11 cho đến ngôi vị thứ 20, gồm có:
1.- SƠ PHÁT TÂM TRỤ: Cũng gọi là Phát Ý trụ.
Bồ Tát tu tập an trụ vào khởi điểm tiến tu các Thiện căn, như không phạm (1)Thập Ác, (2) Ngũ Nghịch,  (3) Bát Đảo.
Bồ Tát cũng cần thường nghiên cứu học rộng Phật Pháp để được biết nhiều Pháp môn hướng tới an trụ nơi tánh Không.
2.- TRÌ ĐỊA TRỤ: Cũng gọi là Trị Địa Trụ, nghĩa là Bồ Tát tu tập an trụ vào nơi hành trì sửa trị.  Bồ Tát nương theo tâm Không, tu tập để tiêu trừ nghiệp chướng.
3.- TU HÀNH TRỤ: Cũng gọi là Ứng Hành Trụ, nghĩa là Bồ Tát tu tập an trụ vào nơi sự hành trì tu tập khắp nơi, như sự du hành để khất thực. Bồ Tát đã đầy đủ trí sáng suốt của Sơ Pháp Tâm Trụ và Trì Địa Trụ thì có thể tu tập du hành khắp mười phương mà không bị chướng ngại.
4.- SANH QUÍ TRỤ: Nghĩa là Bồ Tát tu tập an trụ vào tự chọn cha mẹ từ thân trung ấm nhờ diệu hạnh của Tu Hành Trụ ở trước (tức hạt giống Như Lai).
Từ 1-:-4 nói trên được gọi là Bồ Tát mới vào Bào Thai của bậc Thánh – tức Thánh Thai.
5.- TRỤ THÀNH TRỤ:  Cũng gọi là Phương Tiện Cụ Túc Trụ, nghĩa là Bồ Tát tu tập an trụ vào việc sử dụng các thiện căn để làm lợi ích cho mình cũng như lợi ích cho mọi người. Nhờ tu tập như thế, Thân Tướng của Bồ Tát trở nên tròn đầy tốt đẹp và dung mạo của mình lộ nét đoan trang thanh thoát.
6.- CHÁNH TÂM TRỤ: Nghĩa là Bồ Tát tu tập an trụ vào tâm Chân chánh, là Bát Nhã để thành tựu Diệu Quan Sát Trí (= Bát nhã trí, Trí TuệDiệu Quan Sát).
7.- BẤT THỐI TRỤ: Cũng gọi là Bất Thối Chuyển Trụ. Bồ Tát tu tập an trụ vào ngôi vị Bất thối, tức để thể nhập cứu cánh Vô Sanh, là thế giới Không tướng của Chân Như, không còn dấu vết của ý niệm sinh tử nữa. Lúc đó Thân và Tâm của Bồ Tát hòa hợp lại nhau làm thành một thể. Sự hòa hợp Thân Tâm này mỗi ngày mỗi tăng trưởng thêm lớn.
8.- ĐỒNG CHƠN TRỤ: Nghĩa là Bồ Tát tu tập an trụ vào nơi thanh tịnh trong trắng như trẻ con. Thân Tâm hòa hợp của Bồ Tát phát khởi trước sau đều chuyên nhất, không chút điên đảo mê tưởng. Nhờ đó, cùng một lúc, mười Thân Tướng linh ứng của Phật (5) liền hiện bày đầy đủ trọn vẹn.
Từ 5-:-8 nói trên được gọi là Bồ Tát ở vào giai đoạn nuôi dưỡng Thánh Thai để sớm được mau lớn.
9.- PHÁP VƯƠNG TỬ TRỤ: Cũng gọi là Liễu Sanh Trụ, nghĩa là Bồ Tát tu tập an trụ ở Thánh Thai, chấm dứt lẽ sống chết.
Pháp Vương Tử Trụ là chỉ cho Thánh Thai đã đầy đủ hình tướng để trở thành Phật.
10.- QUÁN ĐẢNH TRỤ: Cũng gọi là Bổ Xứ Trụ, nghĩa là Bồ Tát tu tập an trụ bước vào thế giới chư Phật, biểu hiện qua 3 tướng, đó là:
1) Độ chúng sanh:   Nghĩa là Bồ Tát đó đã đủ khả năng thi hành và có thể thành tựu được mười Chủng Trí (4) để hóa độ chúng sanh.
2) Đạt cảnh giới mầu nhiệm: Nghĩa là Bồ Tát đó đắc cảnh giới Pháp Vương Tử Trụ mà chưa biết.
3) Học rộng mười chủng trí:  Nghĩa là Bồ Tát đó thấu hiểu tường tận và rành mạch tất cả pháp.
Một vị Bồ Tát trọn vẹn ba tướng nói trên tức là đã tu tập an trụ vào Thập Trụ vị của Bồ Tát.

III.- Thập Hạnh vị:
Thập Hạnh nghĩa là mười phương pháp tu tập về công hạnh lợi tha của Bồ Tát. Thập Hạnh vị cũng gọi là Thập Tâm Hạnh. Thập Hạnh vị là chỉ từ ngôi vị thứ 21 cho đến ngôi vị thứ 30, gồm có:
1.- HOAN HỶ HẠNH: Nghĩa là Bồ Tát tu tập hạnh hoan hỷ để tùy thuận hóa độ cho chúng sanh trong mười phương cõi.
2.- NHIÊU ÍCH HẠNH: Nghĩa là Bồ Tát tu tập với hạnh khéo léo để làm lợi ích cho chúng sanh và khiến cho chúng sanh không bị mặc cảm trong sự thọ nhận lợi ích.
3.- VÔ SÂN HẬN HẠNH: Nghĩa là Bồ Tát tu tập hạnh nhẫn nhục với mọi công việc, không bao giờ có thái độ giận tức trước bất cứ việc trái nghịch nào, cho đến cũng không bao giờ có ý hại mình và hại người. Một vị Bồ Tát thực hành hạnh nhẫn nhục là nhún nhường cung kính mọi người và nhẫn nại mỗi khi đối diện trước oán cừu thù nghịch.
4.- VÔ TẬN HẠNH: Cũng gọi là Vô Khuất Nạo Hạnh (Công hạnh không chùn bước). Nghĩa là Bồ Tát tu tập hạnh độ sanh không cùng tận. Trên con đường độ sanh, Bồ Tát không giãi đãi, không chùn bước trước mọi sự khó khăn đưa đến.
5.- LY SI LOẠN HẠNH(Lìa mê loạn tâm):  Nghĩa là Bồ Tát tu tập hạnh Chánh niệm (niệm Chánh tri kiến), để tâm không bị tán loạn và sáng suốt đối với tất cả pháp môn.
6.- THIỆN HIỆN HẠNH(Khéo thực hành công hạnh hiện tại):  Nghĩa là Bồ Tát tu tập hạnh giáo hóa chúng sanh mà không bị ràng buộc bởi một pháp nào cả.
7.- VÔ TRƯỚC HẠNH: Nghĩa là Bồ Tát tu tập hạnh không nhiễm trước, bằng cách dùng trí tuệ tịch diệt (= Chân lý) để quán chiếu và nhận chân các pháp. Nhờ đó đối với các pháp môn, Bồ Tát không còn khởi tâm nhiễm trước.
8.- TÔN TRỌNG HẠNH: Nghĩa là Bồ Tát tu tập hạnh tôn trọng các pháp thuộc thiện căn phước đức (như những người có thiện căn), cũng như các pháp thuộc trí tuệ giác ngộ với hai lợi hạnh là: hạnh tư lợihạnh lợi tha,  nhằm thành tựu vô lượng công đức an lạc và giải thoát.
9.- THIỆN PHÁP HẠNH: Nghĩa là Bồ Tát tu tập hạnh bảo hộ Chánh Pháp, khiến cho giống Phật không bị diệt mầm.
10.- CHÂN THẬT HẠNH: Nghĩa là Bồ Tát tu tập hạnh thành tựu Đệ Nhất Nghĩa Đế, đó là lời nói có thể thực hành và điều thực hành có thể diễn đạt, tức lời nói và hành động đều dung hợp với nhau, cho đến Sắc và Tâm đều hòa thuận tương đắc lẫn nhau.
Bồ Tát tu Thập Hạnh có bốn mục đích:
1) Nhận thực tính giả huyễn của các pháp hữu vi (do Nhân Duyên sinh).
2) Viên thành quả Bồ Đề và tròn đầy công đức Phật hạnh.
3) Cứu độ chúng sanh trong đời hiện tại và đời vị lại.
4) Chứng ngộ được pháp Nhứt Như Chân Thật của Phật.
Theo Kinh Luận, Thập Hạnh là một trong Tam Hiền, cũng gọi là Tư Lương Vị trong năm Ngôi Vị của Bồ Tát (Tư Lương Vị, Gia Hạnh Vị, Thông Đạt Vị, Tu Tập Vị và Cứu Cánh Vị). 

IV.- Thập Hồi Hướng vị:
Thập Hồi Hướng vị là chỉ từ ngôi vị thứ 31 đến ngôi vị thứ 40. Bồ Tát phát khởi tâm đại bi để cứu hộ tất cả chúng sanh. Thập Hồi Hướng vị gồm có:
1.- CỨU HỘ HỒI HƯỚNG: Nghĩa là Bồ Tát tu tập hồi hướng về sự cứu hộ tất cả chúng sinh trong tinh thần bình đẳng đối với người thân thương cũng như thù oán. Thực hành Lục Độ Ba La Mật và Tứ Nhiếp Pháp (Bố thí nhiếp, Ngôn ngữ nhiếp, Lợi hành nhiếp, Đồng dự nhiếp).
2.- BẤT HOẠI HỒI HƯỚNG: Nghĩa là Bồ Tát tu tập hồi hướng Chân lý bất hoại – đó là Tam Bảo.  Bồ Tát dùng Tam Bảo để giáo hóa và khiến cho chúng sanh được nhiều thiện lợi.
3.- ĐẲNG NHỨT THIẾT PHẬT HỒI HƯỚNG: Nghĩa là Bồ Tát tu tập hồi hướng không rời Bồ Đề (Giác ngộ–Giải thoát), là những hành động mà chư Phật trong ba đời đã làm.
4.- CHÍ NHỨT THIẾT XỨ HỒI HƯỚNG: Nghĩa là Bồ Tát tu tập hồi hướng cúng dường những lợi ích, cho tất cả các chúng sanh.
5.- VÔ TẬN CÔNG ĐỨC TẠNG HỒI HƯỚNG: Nghĩa là Bồ Tát tu tập hồi hướng thiện căn không cùng tận đã tu tập được, tùy hỷ đem ra phụng sự Phật Pháp.
6.- TÙY THUẬN BÌNH ĐẲNG THIỆN CĂN HỒI HƯỚNG: Nghĩa là Bồ Tát tu tập hồi hướng thiện căn để bảo vệ chúng sanh một cách bình đẳng và khiến cho tất cả chúng sanh thành tựu kiên cố những thiện căn nói trên.
7.- TUỲ THUẬN ĐẲNG QUÁN HỒI HƯỚNG: Nghĩa là Bồ Tát tu tập hồi hướng tuỳ thuận làm tăng trưởng thiện căn cho tất cả chúng sanh.
8.- NHƯ TƯỚNG HỒI HƯỚNG: Nghĩa là Bồ Tát tu tập hồi hướng thiện căn về hòa hợp với tướng Chân Như (Phật tính).
9.- VÔ PHƯỢC VÔ TRƯỚC HỒI HƯỚNG: Nghĩa là Bồ Tát tu tập hồi hướng về sự giải thoát không bị trói buộc và không chấp trước. Bồ Tát ở ngôi vị này là không còn bị trói buộc cũng như không còn chấp trước tất cả pháp. Do đó Tâm của các vị đều được giải thoát hoàn toàn. Các vị Bồ Tát nói trên sở dĩ thành tựu những công hạnh vừa kể là nhờ hướng về các thiện pháp để thực hành hạnh nguyện Phổ Hiền, cho nên họ được đầy đủ tất cả hạt giống công đức.
10.- PHÁP GIỚI VÔ LƯỢNG HỒI HƯỚNG: Nghĩa là Bồ Tát tu tập hồi hướng về vô lượng pháp giới. Bồ Tát ở ngôi vị này là đem tất cả thiện căn không cùng tận đã tu tập được nguyện cho vô lượng thế giới sai biệt đều được hết thảy công đức.
Thập Hồi Hướng trên đây là Tư Lương Vị, một trong 5 ngôi vị (Tư Lương Vị, Gia Hạnh Vị, Thông Đạt Vị, Tu Tập Vị và Cứu Cánh Vị). Thập Hồi Hướng này là một ngôi vị Hiền thứ ba trong Tam Hiền ở trước.

V.- Thập Địa vị:
Thập Địa vị là kể từ ngôi vị thứ 41 cho đến ngôi vị thứ 50 trong quá trình tu tập hạnh Bồ Tát. Bồ Tát tu tập Thập Địa vị là bắt đầu bước lên bờ mé Chứng Ngộ, nghĩa là Bồ Tát đã phát sanh được Trí Tuệ Vô Lậu, tức đạt được Phật Trí để bảo hộ cũng như để giáo dưỡng cho tất cả chúng sanh trong vô lượng thế giới.
Có 3 điều kiện sau để được xem là Bồ Tát bước vào địa vị của Bồ tát Thập Địa:
1- Tâm Đại bi (kết nối rộng lớn).
2- Tâm Bồ đề (không dính mắc).
3- Tuệ Bất nhị (không thành kiến, cố chấp cực đoan).
Bồ Tát Thập Địa được phân làm 10 địa vị theo chứng đắc các Ba La Mật: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát nhã, Phương tiện, Nguyện, Lực, Trí.  Thập Địa vị gồm có:
1.- HOAN HỶ ĐỊA:(Pramudità-Bhùmi) cũng gọi là Cực Hỷ Địa hay là Duyệt Dự Địa, [dịch nghĩa: tâm ý hoan hỷ, tức rất vui (Cực Hỷ), rất an vui (Duyệt dự)].  
Bồ Tát ở ngôi vị này đã tu tập và đắc viên mãnBố thí Ba La Mật, chứng được Phật Tính cũng như đã giác ngộ được hai nguyên lý Nhân Không và Pháp Không để làm lợi ích cho chúng sanh, nên gọi là Hoan Hỷ Địa.
2.- LY CẤU ĐỊA:(Vimalà-Bhùmi), cũng gọi là Vô Cấu Địa hay Tịnh Địa, [dịch nghĩa: địa vị tâm thoát ly hẳn bụi nhơ phiền não ô nhiễm (Vô Cấu), tâm Bồ Đề hoàn toàn thanh tịnh (Tịnh Địa)].
Bồ Tát ở ngôi vị này là đãtu tập và đắc viên mãn Trì giới Ba La Mật, tẩy sạch hết tất cả trần cấu Phiền Não ô nhiễm và giữ Tâm Bồ Đề được hoàn toàn thanh tịnh, nên gọi là Ly Cấu Địa.
3.- PHÁT QUANG ĐỊA:(Prabhàkarì-Bhùi), cũng gọi là Minh Địa, Hữu Quang Địa hay Hưng Quang Địa, [dịch nghĩa: tâm phát sanh Tuệ sáng suốt (Hữu Quang hay Hưng Quang Địa)].
Bồ Tát ở ngôi vị này đãtu tập và đắc viên mãnNhẫn nhục Ba La Mật, phát sanh được Tuệ sáng suốt mầu nhiệm vô biên, nên gọi là Phát Quang Địa.
4.- DIỄM HUỆ ĐỊA:(Arcismatì-Bhùmi), cũng gọi là Diễm Địa, Tăng Diệu Địa hay Huy Diệu Địa. [dịch nghĩa: tâm phát sanh Tuệ rực rỡ (Huy Diệu) tăng thêm sáng suốt (Tăng Diệu).
Bồ Tát ở ngôi vị này đãtu tập và đắc viên mãn Tinh tấn Ba La Mật, phát huy Tuệ tăng thêm sáng suốt lên mãi và phát huy cho đến khi nào lửa Tuệ đó đã đốt sạch hết tất cả phiền não của vô lượng kiếp, nên gọi là Diễm Huệ Địa.
5.- NAN THẮNG ĐỊA:(Sudurjayà-Bhùmi), cũng gọi là Cực Nan Thắng Địa, [dịch nghĩa: tâm vượt qua việc rất khó (Cực Nan Thắng)].
Bồ Tát ở ngôi vị này đãtu tập và đắc viên mãnTĩnh lự Ba La Mật, thành công được trở ngại khó vượt qua. Bồ Tát đã thắng được một việc rất khó khăn là khiến cho hai Tuệ thuộc Chân Đế và Tục Đế trái ngược nhau lại hòa hợp nhau thành một thể, nên gọi là Nan Thắng Địa.
6.- HIỆN TIỀN ĐỊA:(Abhimukhì-Bhùmi), cũng gọi là Hiện Tại Địa, Mục Kiến Địa hay Mục Tiền Địa [dịch nghĩa: tâm hiện ra trước mặt có thể nhìn thấy được (Mục Kiến hay Mục Tiền Địa)].
Bồ Tát ở ngôi vị này đãtu tập và đắc viên mãnBát nhã Ba La Mật, giữ vững Tuệ Hữu Phân Biệt (Tuệ phân biệt) để soi sáng và phát khởi Tuệ Vô Phân Biệt của Phật (Tuệ vượt lên phân biệt) luôn luôn hiện ra trước mặt một cách rõ ràng, nên gọi là Hiện Tiền Địa.
7.- VIỄN HÀNH ĐỊA:(Dùramgamà-Bhùmi), cũng gọi là Thâm Hành Địa, Thâm Nhập Địa, Thâm Viễn Địa hay Huyền Diệu Địa, [dịch nghĩa: tâm đi rất xa (Thâm Viễn), thâm nhập vào một nơi rất huyền diệu].
Bồ Tát ở ngôi vị này là đãtu tập và đắc Phương tiện Ba La Mật vượt qua xa thẳm của hai đạo Thế Gian và Xuất Thế Gian và đạt đến Vô Tướng, nghĩa là Bồ Tát tự tại không còn bị ràng buộc bởi những hình tướng khuôn mẫu nào cả, nên gọi là Viễn Hành Địa.
8.- BẤT ĐỘNG ĐỊA:(Acalà-Bhùmi) [dịch nghĩa: tâm không lay động (bất động)].
Bồ Tát ở ngôi vị này đãtu tập và đắcNguyện Ba La Mật là nhờ vận dụng được Trí Tuệ Vô Phân Biệt một cách liên tục cho nên không bao giờ bị lay chuyển biến động bởi những phiền não, những hình tướng hấp dẫn của thế gian, nên gọi là Bất Động Địa.
9.- THIỆN HUỆ ĐỊA:(Sàdhumatì-Bhùmi), cũng gọi là Thiện Tại Ý Địa hay Thiện Căn Địa, [dịch nghĩa: trí tuệ diệu dụng].
Bồ Tát ở ngôi vị này đãtu tập và đắc viên mãnLực Ba La Mật, thành tựu Tứ vô ngại trí 四無礙智hay Tứ vô ngại biện四無礙辯(tứ biện tài vô ngại),là bốn năng lực lý giải và diễn đạt thông suốt, đó là:
1) Pháp vô ngại trí:  Thông đạt giáo pháp.
2) Nghĩa vô ngại trí:  Tinh thông tất cả các nghĩa lý uẩn áo của giáo pháp.
3) Từ vô ngại trí:  Tinh thông các ngôn ngữ, tùy nghi diễn thuyết.
4) Nhạo thuyết vô ngại trí:  Khéo thuyết giáo pháp, khiến chúng sanh dễ được tín giải, thọ trì.
10.- PHÁP VÂN ĐỊA:(Dharmameghà-Bhùmi), cũng gọi là Pháp Vũ Địa. Pháp Vân Địa, [dịch nghĩa: mây pháp phủ khắp muôn loài chúng sanh].
Bồ Tát ở ngôi vị này là đãtu tập và đắc viên mãnTrí Ba La Mật, chứng được Pháp Thân thanh tịnh và dùng Đại Trí kết hợp vô lượng nước công đức tạo thành đám mây Đại Pháp trong sạch che khắp cả vô lượng quốc độ và tưới mát cả muôn loài chúng sanh, nên gọi là Pháp Vân Địa.
Tóm lại, 50 ngôi vị tu tập đã được trình bày ở trên chính là những thứ bậc để định mức giá trị chứng đạo và trách nhiệm độ tha của một vị Bồ Tát. Một hành giả muốn thành một vị Bồ Tát thật thụ thì phải trải qua 50 ngôi vị công phu tu tập nói trên để hoàn thành nhiệm vụ là tự độ và độ tha, tự giác và giác tha. Trên con đường tu tập, một vị Bồ Tát phải hoàn thành cho xong từ thứ bậc một, phải bắt đầu từ thấp đến cao, nghĩa là Bồ Tát phải khởi hành từ Nhập Môn của Thập Tín cho đến hoàn thành Thánh Quả của Thập Địa.
Xem thêm:
- Thập địa – Wikipedia tiếng Việt
- Phật và Bồ Tát -chùa Vạn Hạnh
- 50 ngôi vị của Bồ tát - Trang Nha Quang Duc
- Sự khác biệt giữa A la hán và Bồ tát- Chùa Quang Minh
- BỒ TÁT THẬP ĐỊA hay THẬP THÁNH -Viện nghiên cứu Phật học ...
- Chương 1: Thứ Lớp Và Cảnh Giới Của Bồ Tát - Luật - THƯ VIỆN HOA ...
- Thứ lớp quả vị của Bồ tát Thập địa| Đại Bảo Tháp Mandala Tây Thiên ...
 

Hoan nghênh các bạn góp ý trao đổi!

***

Huy Thai g
ởi