Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh



 
Chỉ có dân tộc Việt mà thôi 
 



Nhiều lần tự hỏi vì cớ làm sao từ dân tộc Việt chúng ta bị méo dạng thành dân tộc Kinh? Kinh là cái gì mà phải ghi như vậy? 
 
Xưa,ở phía nam sông Dương Tử có một xứ có nhiều tộc người có trình độ phát triển khác nhau,nhưng văn minh hơn dân Huê Hạ nhiều lần ,nhúm tộc đó kêu là Bách Việt 
 
Trước đó Tàu sanh sống ở lưu vực Hoàng Hà và phía bắc Dương Tử khá xa cổ Bách Việt.Nhưng dần dà Tàu tấn xuống xâm lăng Bách Việt 
 
Chỉ còn Lạc Việt 駱越 và Âu Việt 甌越 là còn tồn tại và độc lập,lập quốc thành công 
 
Việt tộc là dân văn minh lúa nước,biết đúc trống đồng làm tế khí,biết chia thời gian xuân hạ thu đông,biết nhìn tinh tú trên bầu trời ,nhìn nước lớn nước ròng ,chim bay cò bay mà làm ra Kinh Việt và Tàu sau này kêu là Kinh Dịch 
 
Thành ra Tàu nói rằng họ “khai hóa” Việt mà họ kêu là “Nam Man” là sai, thái thú Nhâm Diên chỉ dân Viêt làm ruộng ,cày ruộng,trồng lúa là tầm bậy ,Việt chỉ ngược lại thì có,Tàu là thứ biến trắng thành đen,phải thành trái rất giỏi 
 
Việt Nam nằm về phía nam Trung Hoa, một nước rất lớn,rất thâm độc,bạo tàn so với Việt Nam 
 
Giống Việt đã cố gằng trường tồn,tranh đấu cho sự độc lập,giữ vững văn hóa Việt của mình hàng ngàn năm nay 
 
Năm 203 TCN Triệu Đà tụ hội các bộ tộc Việt thành thủ lãnh của họ và thành lập nước Nam Việt 南越.Nam Việt Quốc là quốc gia của người Việt chúng ta
 
Triệu Võ Đế Triệu Đà là vị hoàng đế khai sáng đầu tiên của dân tộc Việt Nam chúng ta
 
"粤趙丁李陳之肇造我國,
與漢唐宋元而各帝一方。"
(Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc
Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhứt phương)
(Bình Ngô Đại Cáo Văn-Nguyễn Trãi (1380-1442)
 
Chúng ta là một dân tộc có văn hiến,có tự hào,có tự ái ,từng qua nhiều triều đại,từ Nam Việt ,Đại Cồ Việt tới Đại Việt ,Đại Nam (Đại Việt Nam) đều đề cao chữ Việt linh thiêng của giống dòng máu đỏ da vàng này
 
Tháng 5 năm Tân Dậu 1801,chúa Nguyễn Ánh thâu phục kinh thành Phú Xuân. Tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Ánh cho lập đàn tế cáo trời đất đặt niên hiệu là Gia Long 
 
Vào năm 1806 Gia Long xưng đế
 
Trước đó tháng 10 năm Nhâm Tuất (1802), Gia Long sai Thượng thư bộ Binh là Lê Quang Định sung chánh sứ sang Thanh, thiêm sự bộ Lại là Lê Chính Lộ và Đông các học sĩ là Nguyên Gia Cát sung giáp ất phó sứ xin phong và xin đổi quốc hiệu là Nam Việt
 
Gia Long lý lẽ rằng: 
 
“Các đời trước mở mang cõi viêm bang, mỗi ngày mỗi rộng, bao gồm cả các nước Việt Thường Chân Lạp dựng quốc hiệu là Nam Việt, truyền ngôi hơn 200 năm (kể từ trước 1600, Nguyễn Hoàng vào cai quản Thuận Hóa). Nay đã quét sạch Miền Nam, vô yên toàn cõi Việt nên xin khôi phục lại hiệu cũ để chính danh thôi”
 
Lúc đầu, vua Thanh không chịu, ý muốn vẫn giữ danh xưng An Nam như cũ vì cho rằng chữ Nam Việt giống chữ Đông Tây Việt bên Tàu ,rõ nhứt là Nam Việt đoạn Lưỡng Quãng của Triệu Đà xưa nên không ưng thuận 
 
Gia Long phải nói nếu vua Thanh không cho thì không chịu nhận thụ phong . Vua Thanh sợ mích lòng mới dùng chữ Việt Nam để đặt tên nước
 
“Khi trước mới có Việt Thường đã xưng là Nam Việt, nay lại được toàn cõi An Nam theo tên mà xét thực thì nên tóm cả đất đai mở mang trước sau, đặt cho nên tốt, định lấy chữ Việt để tỏ rõ rằng nước ta nhân đất cũ mà nối được tiếng thơm đời trước, lấy chữ Nam đặt ở dưới tỏ rằng nước ta mở cõi Nam giao mà chịu mệnh mới, tên xưng chánh đại, chữ nghĩa tốt lành, mà đối với tên gọi cũ của Lưỡng Việt ở nội địa (Trung Quốc) lại phân biệt hẳn”
 
Sau cùng, Gia Long chấp nhận tên nước Việt Nam.
 
Trên thế giới đọc cái tên nước là biết dân tộc đó 
 
Thí dụ Nhựt Bổn –Nippon-Japan là "Đất nước Mặt Trời mọc".Dân tộc này tự kêu họ là Nihonjin 日本人 (Nhựt Bổn Nhơn) dịch là người Nhựt Bổn.Vậy Nhựt Bổn-Japan là nước của dân tộc Nhựt 
 
Còn Trung Hoa 中華 trong đó chữ Hoa 華 là tên chỉ dân tộc “Hoa Hạ” 華夏 của họ 
 
Người Tàu tự kêu mình là Huê nhơn 華人,cũng là người Hán 
 
Như vậy Việt Nam (越南) nghĩa là nước Việt của dân tộc Việt ở Phương Nam 
 
Chúng ta là tộc Việt nên chúng ta có Việt Sử,Việt Ngữ (Quốc Ngữ)...
 
Thái Dịch Lý Đông A viết rằng:"Bao nhiêu những khinh miệt, vũ nhục, nhận vơ bóc lột, đau thảm đều nồng nặc như mủ đặc trong cái mụn nhọt Việt Nam đó"
 
Chữ Việt là của Tàu gọi chung các dân tộc phía Nam
 
Âu Việt 甌越 thì ở Chiết Giang ,Mân Việt 閩越 thì ở Phúc Kiến , Dương Việt 陽越 thì ở Giang Tây , Nam Việt 南越 thì ở Quảng Đông ,Lạc Việt 駱越 thì ở nước ta
 
Tất cả đều trong “Bách Việt” 百越 hết
 
Dù ngày nay dân Quảng Đông kêu họ là Việt mà là chữ 粵Việt này ,nhưng cũng là Việt hết
 
Người Việt Nam thuộc hệ thống văn hóa Trung Hoa ,xưa cũng tứ thư ngũ kinh,cũng ông Khổng và viết chữ tượng hình
 
Dù chúng ta nói rằng Kinh Dịch là Kinh Việt,rằng trống đồng của dân tộc Việt ,tuy nhiên hàng ngàn năm nay cái bóng Tàu nó phủ quá rộng bao trùm hết mọi lý lẽ
 
Trong lý của vua Gia Long có chữ Việt Thường 越裳 trong Việt Nam 
 
Việt Thường ở đâu? 
 
Thông chí của Trịnh Tiều thời Tống (1127-1279) ghi : “Đời Đào Đường, phương Nam có Việt Thường thị qua hai lần sứ dịch sang chầu, dâng con rùa thần; có lẽ nó được đến nghìn năm, mình nó hơn ba thước, trên lưng có văn Khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở mang trở về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là quy lịch.”
 
Có nhiều người cho rằng nước Việt Thường là ở miền quận Cửu Ðức, tức là miền từ Hà Tĩnh, Quảng Bình trở vào.Có lẽ vua Gia Long theo thuyết này,vì đất Thuận Hóa Huế phát tích gầy dựng sự nghiệp Nguyễn là ở đoạn này 
 
Tuy nhiên nhiều nhà cổ sử đã khẳng định Việt Thường ở phía nam Giao Chỉ là ở lưu vực sông Dương Tử .Việt Thường nhiều là tiền thân của nước Việt của vua Câu Tiễn
 
Một lý giải nữa về hai chữ Việt Nam xin đọc cho biết luôn 
 
Thời Trịnh Nguyễn phân tranh Đàng Ngoài xưng quốc hiệu là Đại Việt. Đàng Trong năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương lấy hiệu là Đại Nam 
 
Gia Long đã thống nhứt Nam Bắc thành một ,hai nước Đại Nam và Đại Việt gọi chung là Nam Việt là trúng bài.Mãn Thanh sợ Nam Việt trùng với quốc hiệu của Triệu Đà gồm Quảng Đông và Quảng Tây, nên đổi lại là Việt Nam cũng trúng luôn 
 
Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1525-1613) vào làm trấn thủ Thuận Hóa, năm 1558, ông mang tước Đoan Quận công rồi năm 1593 là Đoan Quốc công nhưng tới đời cháu ông là Nguyễn Phúc Khoát có một giang sơn hùng mạnh và mở rộng từ sông Gianh tới Hà Tiên nên xưng Vương 
 
Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1714-1765) là vị chúa Nguyễn thứ 8,xưng Vương ngày 12 tháng 4 năm Giáp tý 1744, lấy hiệu Võ Vương 
 
“Bắt đầu một nước duy tân, danh phận đến hồi chính thuận. Đã ngoài trăm năm tích đức, lễ nhạc đến lúc chấn hưng…. 
Lấy bảy mươi dặm cõi bờ, còn tự mở nền huyền điểu ; Huống ba nghìn dặm đất nước, há lại dậm vị hoàn khuê“
 
Võ Vương cho đúc Quốc Vương chi ấn
 
Chúa Nguyễn Phúc Khoát xài Quốc Hiệu gì? 
 
Có người nói là Võ Vương tự lập vương hiệu Quốc Vương, nhưng vẫn không xác lập riêng một quốc hiệu, mà vẫn dùng quốc hiệu Đại Việt, hay còn xưng gọi “Việt Quốc",nhưng có người nói là xài là Đại Nam rồi 
 
Trên bia mộ cổ thời chúa Nguyễn và cả thời Gia Long hay có chữ 越 故 (Việt cố)
 
Chữ 越 (Việt) trên bia mộ thời chúa Nguyễn không phải là một sự tùy tiện,nó có ý nghĩa rõ 
 
越 故 (Việt cố) là gì? 
 
Chuyên khảo "Lăng mộ của người An - Nam trong phụ cận Huế" xuất bản năm 1928, của L. Cadière, qua 317 ngôi mộ được ông khảo sát, trong đó có 5 bia mộ xuất hiện hai chữ “Việt cố”. Hai chữ này được ông lý giải:
 
“Việt cố, (vương quốc) Việt ngày xa xưa. Chữ ‘cố’ được dùng khi cần chỉ người quá cố”;“Cổ Việt” từ ngữ thường kể lại cho chúng ta biết hoặc là vào thời Gia Long, hoặc là những triều vua chúa trước đó” (L. Cadière, 2004: 61, 81)
 
Hai chữ này còn được dịch: “nước Việt xưa”; “nước Cổ Việt”; “Nước Việt cổ”; “nước Việt ngày cũ” 
 
Qua thời Minh Mạng thì bia mộ hết còn tạc chữ "Việt cố" .Những tấm sau Minh Mạng trở về sau đều khắc Nam cố (南故) hoặc ghi rõ là Đại Nam 大南 luôn .Từ giữa thời Tự Đức đến các vua triều Nguyễn về sau, hiệu bia “Đại Nam” được dùng phổ biến
 
Còn quan lại ,quý tộc thời Gia Long khắc hai chữ là 皇越 “Hoàng Việt”.Thời Minh Mạng thì quan lại ,quý tộc hay xài các chữ như: 皇朝 "Hoàng Triều", "Đại Nam Hoàng Triều"
 
Nhìn sơ qua để thấy chữ Việt quan trong trong văn hiến nước ta cỡ nào ,sống làm người Việt,chết làm kẻ cố lại Việt,làm ma Việt 
 
Tháng Giêng năm Giáp Tý (1804),vua Gia Long ra Thăng Long nhận phong là Việt Nam quốc vương do sứ nhà Thanh là Án sát Quảng Tây tên Tề Bồ Sam tiến hành nghi lễ tại điện Kính Thiên 
 
Từ đó, Trung Quốc gọi nước ta là Việt Nam, chứ không dùng các tên Giao Chỉ hoặc An Nam nữa
 
Cái ấn Tàu "cho" mang dòng chữ Hán “Việt Nam quốc vương” bằng bạc mạ vàng, nặng 5,9 kg, tay nắm tạc hình con lạc đà ở tư thế ngồi
 
Tuy nhiên, đối nội cũng như đối ngoại Nhà Nguyễn xài ấn hoàng đế vẫn xưng là Đại Việt, Đại Nam Việt hay Đại Việt Nam 
 
Năm Mậu Tuất (1838), ngày 3 tháng 2, hoàng đế Minh Mạng ban chiếu đổi tên nước là Đại Nam là kêu tắt của Đại Việt Nam mà không báo gì với Tàu 
 
Cái ấn của Tàu chỉ xài duy nhứt là trong văn thư gửi nhà Thanh thôi 
 
Tới những năm Pháp qua Việt Nam 
 
Khoản 2 của Hòa ước Giáp Tuất 1874, có đoạn: “Tổng thống Cộng hòa Pháp quốc thừa nhận quyền lực của vua nước An Nam và quyền độc lập hoàn toàn đối với bất kỳ một thế lực ngoại bang nào,…” 
 
Hòa ước Giáp Thân (Hòa ước Patenôtre) ký ngày 6/6/1884 xác lập chế độ bảo hộ của Pháp đối với Bắc kỳ và Trung kỳ
 
Và Pháp moi vụ cái ấn của Tàu đó ra,yêu cầu Huế nộp cho Pháp 
 
Theo sách “Chính sách của Pháp ở Đông Dương”, tác giả Silvestre viết lại cuộc nghị đàm này như sau:
 
" Patenôtre đòi triều đình Huế phải giao nộp cho Pháp chiếc ấn phong vương (để khỏi còn dấu vết ảnh hưởng Trung Quốc).
 
Đại thần Nguyễn Văn Tường và cả phái bộ Việt Nam cực lực phản đối. Giằng co mãi, cuối cùng đi đến thỏa thuận là sẽ nấu chảy để tiêu hủy chiếc ấn chứ không giữ lại và cũng không giao nộp
 
Thế là ngày 6/6/1884, tại Tòa Nhà Trú Sứ của Pháp ở bờ Nam sông Hương một chiếc lò nấu đồng được đặt bên chiếc bàn có văn bản hòa ước viết sẵn. Khi lò được châm lửa, Patenôtre vẫn còn nói nên ngưng việc thiêu hủy để giao chiếc ấn cho ông ta, nhưng ông ta vẫn chỉ nhận được cái lắc đầu dứt khoát của Nguyễn Văn Tường, và chiếc ấn được quăng vào lửa, phút chốc biến thành một thỏi xù xì không ra hình dạng gì nữa"
 
Lịch sử Việt Nam đầy sóng gió,biến động,dân tộc chúng ta chưa có ngày nào yên ổn mà nhẹ nhàng nghĩ ngơi ,hầu như tất cả mọi thủ đoạn mọi âm mưu trên thế giới đều đi qua hai chữ Việt Nam này.
 
Nói như Trịnh là ngàn năm giặc Tàu,trăm năm giặc Tây ,Trầm Tử Thiêng đau hơn khi nói rằng :
 
"Ôi! Cả thời gian, tóc mẹ bạc màu, áo chị sờn bâu.
Đêm qua đêm súng ru em ngủ, còn đâu nồng nàn.
Bảy ngàn đêm giấc ngủ chưa tròn.
Giấc ngủ hao mòn, cơn mơ thành bại, mắt còn đỏ hoe"
 
Kẻ thù của Việt Nam không chỉ ngoại xâm mà còn là "đàn con nay lớn khôn mang gươm đao vào xóm làng " và tới ngày nay người Việt Nam vẫn chưa cười cho hết một nụ cười tươi 
 
Hạ mình xuống,bỏ bản thân mình ra đặng nâng hai chữ Việt Nam lên ,bỏ cái tôi mình để tôn cái tôi dân tộc ,lợi ích chung và mai sau sẽ sáng chói 
 
"Trên bàn chông hát cười đùa vang vang
Còn Việt Nam
Triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng"
 
Ngày nay người Việt Nam đã đi khắp địa cầu ,những đôi chân miệt mài,những con người rộng mở vẫn luôn hướng về dân tộc mình trong một khoảnh khắc giữa đời thường 
 
Mặc tình nghĩa ra làm sao,với chúng ta hai chữ Việt Nam có nghĩa là người Việt ở Phương Nam ,chúng ta tự hào vì điều đó 
 
Việt là một chữ thiêng liêng 
 
"Tôi đi giữa trời bồi hồi
Cờ bay phất phới tôi quên chuyện ngày xưa
Mong sao nước Việt đời đời
Anh dũng oai hùng chen chân thế giới"
 
Trở lại vấn đề 
 
Nhưng vì sao sau 1975 tại Việt Nam lại có khái niệm”Người Kinh”,dân tộc "Kinh”? 
 
Kinh là gì? Là kinh thành,kinh dị ,kinh khủng ...hay đánh bài “kinh” một cái ,rồi ....(??),có người láo táo nói đó là Kinh của Kinh Dương Vương (Xỉu à) 
 
Thời Nguyễn có nhiều người Việt,người Tàu,người Chàm hay đem hàng hóa từ đồng bằng lên núi non bán,trao đổi với người thiểu số.Khi đó có vài nơi kêu người thiểu số trên núi là người Thượng,rồi người Thượng kêu lại người Việt,Hoa,Chàm là người dưới kinh thành lên,kêu gọn là người Kinh 
 
Cái này không logic, đã kêu trên là"thượng thì dưới phải là" hạ" chứ,Kinh đâu ra?
 
Nhưng chuyện Kinh và Thượng chỉ là cách nói tình thế,là khẩu ngữ cho gọn miệng mà thôi
 
Suy cho cùng người Jrai, Êđê,Stieng,Hre,Bana ....cũng là Thượng đó ,còn Kinh có cả người Chàm,người Tàu
 
Vì cớ làm sao sau 1975 chia ra đủ 54 dân tộc "anh em" mà dân tộc Việt bị méo thành dân tộc Kinh? 
 
Người Việt phải là “Dân tộc Việt” trong cộng đồng  54 dân tộc -mà dân tộc Việt là đông nhứt chứ
 
Người Chàm phải khai cho đúng là người Việt gốc Chàm chứ 
 
Kinh đâu ra vậy Kinh? 
 
À,nguyên do là đây 
 
Bên kia Trà Cổ Móng Káy có một vùng Trường Bình - Bạch Long,xứ này sau Công ước Pháp-Thanh 1887 thuộc Tàu,thành ra hơn 2 vạn người Việt xứ này thành dân Tàu,Tàu đặt cho họ cái tên là “Kinh Tộc”京族 và được công nhận là một dân tộc thiểu số chánh thức tại Trung Quốc 
 
Mặc dù chữ 京 kinh là kinh đô,nhưng cái tên một dân tôc thiểu số của Mao Trạch Đông lại che chữ "dân tộc Việt",đặt người Việt trong nước Việt Nam mình kêu nhau là người Kinh thì hơi kỳ cục 
 
Có lẽ chuyện dân Quảng Đông vẫn tự kêu họ là “người Việt” và cái “Lưỡng Quảng” vẫn âm ỉ trong lịch sử,đất cũ của Việt Nam và Tàu tìm cách né xa xa ra đã có gì đó ảnh hưởng tới chuyện kêu dân tộc Việt ở tại Việt Nam chăng? 
 
Sao không đổi tên nước từ Việt Nam thành Kinh Nam luôn cho tiện ?
 
Mỗi khi ngồi lượm lặt từng con chữ Việt mà bần thần,tinh thần dân tộc trỗi dạy,hồn bừng bừng ngẫm ngợi,nghe chữ "Kinh" nhiều khi khó chịu 
 
Tỉ dụ như đọc những lời của chí sĩ Phan Bội Châu sau đây bạn sẽ hiểu tôc Việt thiêng liêng biết chừng nào 
 
Nhà chánh trị tiền bối Phan Bội Châu có những ước mơ về tương lai quốc gia Việt Nam đẹp tuyệt vời từ những năm 1907 trong cuốn” Tân Việt Nam “như sau: 
 
”Miền núi sẽ đẹp như gấm vóc, thôn quê cũng hóa đô thành
 
Đến lúc ấy người nước ta đầu óc thông minh, tay chân khôn khéo rong ruổi khắp non sông đất nước, vật phẩm tuyệt đẹp đến nỗi Châu Âu, Châu Mỹ cũng phải chịu thua giá trị. Chúng ta bay nhảy đến thế, sướng biết chừng nào
 
Chúng ta sẽ lấy của cải mà đắp nên thành trì, trên thế giới không có loại pháo nào mà công phá nổi
 
Chúng ta sẽ kết tàu làm trận, thì Châu Mỹ, Châu Âu cũng dễ lướt qua như sóng vậy. 
 
Người nước ta đầy đủ và mạnh đến thế, sướng biết chừng nào
 
Trời không thể đoạt được cái mong muốn đó của ta, đất không thể giữ được cái then chốt đó của ta. Nếu người trong nước ta đều đồng lòng thì việc dời đất trời, xoay sông núi đều làm dư sức. Người nước ta há lẽ nào lại tụt lùi mà không làm được hay sao? Gom chí khí của muôn người để xây nên thành cao ngút trời, góp trí tuệ lớn rung chuyển cả núi cao thì biển nào mà không lấp nổi
 
Xin cúi đầu lạy, xin cúi đầu chào nước Việt Nam mới muôn muôn năm! Đồng bào nước Việt Nam mới muôn muôn năm!” (Hết trích dẫn) 
 
Việt tộc chúng ta mất đất Lưỡng Quảng từ thời Triệu nhưng đất cũ vẫn âm ỉ trong lịch sử chúng ta,một nhân vật nổi tiếng võ biền như Nguyễn Huệ còn nhắc tới cuộc đất này 
 
Việt Nam là một tộc người có một cuộc tiến hoá không ngừng,người Việt đã học hỏi,tiếp thu,bôn ba xây đắp cho Quốc Gia mình ngày càng tiến bộ,văn minh 
 
Dân tộc Việt của mình có quyền lợi ngang hàng các dân tộc khác trên thế giới ,có một danh dự của quốc dân đối với các quốc dân khác
 
"Tôi đi giữa trời bồi hồi
Cờ bay phất phới tôi quên chuyện ngày xưa
Mong sao nước Việt đời đời
Anh dũng oai hùng chen chân thế giới"
 
Người Việt đã hiên ngang đấu tranh chánh trị ,tham dự chánh trị ,tự chi phối lấy vận mệnh mình, phục vụ cho quốc gia, bảo vệ đời sống hàng ngày của mình ở cơm áo ,thể diện và tương lai 
 
Xin giữ gìn những tinh hoa,tự hào,lịch sử ,lòng tự trọng của người Việt 
 
Xin sống xứng đáng cho mong mỏi của tổ tiên ,ông bà xưa 
 
"Muôn nghìn đời linh thiêng không sống chết
Những trung hồn xưa, nay, mai oanh liệt
Mở nguồn sống xưa, nay, mai nước nòi,
Muôn nghìn đời dạt dào chính khí Việt ".
 
Chúng ta là người Việt,là dân tộc Việt chứ không phải là dân tộc Kinh nhôn quý vị.
 

Nguyen Gia Viet


Hoang Nguyen gởi