Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh

 
 
‘Chim Việt ngựa Hồ’: Nỗi niềm ly hương khắc khoải tâm can miền nhân thế
 

 
 

Để diễn tả những tình cảnh, nỗi niềm ly hương mà tấm lòng còn luôn đau đáu nhớ về quê hương, cố quốc… trong thi ca và thành ngữ dân gian truyền thống vẫn thường hay sử dụng điển cố: “Chim Việt ngựa Hồ”. Vậy câu chuyện này bắt nguồn từ đâu và từ khi nào?…
 
Điển tích kể lại rằng vua Hồ ở phương bắc khi xưa có đem dâng tặng Hán Vũ Ðế một con ngựa hay, nhưng từ khi sang đất Trung Nguyên được nuôi ở vườn Thượng Lâm thì ngựa Hồ liền bỏ ăn, điệu bộ vô cùng buồn thảm và mỗi độ đông về, gió Bắc thổi lạnh thì chú ngựa tha phương lại hí lên thê thiết.
 
Lại có tích truyện kể rằng vua nước Việt ở phía nam Trung Nguyên khi xưa có tặng cho Châu Thành Vương một con chim trĩ trắng, mặc dù đã được triều cống sang phương Bắc, sống trong khu vườn thượng uyển nhưng con chim này chỉ chọn cành nào hướng về phương Nam mà đậu.
 
Kể từ đó hình ảnh “Chim Việt ngựa Hồ” thường được dân gian quen dùng như một thành ngữ để diễn tả những tình cảnh, nỗi niềm ly hương mà tấm lòng còn luôn đau đáu nhớ về quê hương, cố quốc. Trong Ðường thi có câu:

‘Hồ mã tê Bắc phong
Việt điểu sào Nam chi’
 
Tạm dịch:

‘Ngựa Hồ hí gió Bắc
Chim Việt đậu cành Nam’.
 
Tuy nhiên trước Đường thi, hình ảnh ‘Chim Việt ngựa Hồ’ đã đi vào thơ ca từ rất sớm. Theo cổ thư còn ghi chép lại thì thi tứ: “Chim Việt ngựa Hồ” được xuất hiện sớm nhất trong hai câu thơ trích từ tập ‘Cổ thi thập cửu thủ’ – tức: ‘Mười chín bài thơ cổ’. Đây là tập thơ không ghi tên tác giả (vô danh thị), sau được Chiêu Minh Thái Tử – Tiêu Thống, con trai trưởng của Lương Vũ Đế biên tập lại trong ‘Chiêu Minh văn tuyển’, nguyên văn bài thơ như sau:

“Hành hành trùng hành hành
Dữ quân sinh biệt ly
Tương khứ vạn dư lý
Các tại thiên nhất nhai
 
Đạo lộ trở thả trường,
Hội diện an khả tri?
Hồ mã y Bắc phong
Việt điểu sào Nam chi
 
Tương khứ nhật dĩ viễn
Y đới nhật dĩ hoãn
Phù vân tế bạch nhật
Du tử bất cố phản?
 
Tư quân linh nhân lão
Tuế nguyệt hốt dĩ vãn
Khí quyên vật phục đạo
Nỗ lực gia xan phạn”.
 
Tạm dịch:
“Chàng cứ đi, đi mãi
Thiếp với chàng sinh ly
Xa nhau muôn ngàn dặm
Mỗi người một phương trời
 
Đường gian truân xa thẳm
Tái ngộ biết khi nao?
Ngựa Hồ trông gió Bắc
Chim Việt đậu cành Nam
 
Xa nhau ngày càng dài
Áo mặc ngày một rộng
Mây trôi che khuất nắng
Chàng nhớ chăng ngày về?
 
Tiều tụy vì nhớ chàng
Năm tháng càng trôi nhanh
Tâm tư không nói hết
Chỉ mong chàng yên thân”.
 
Được biết, bài thơ trên ra đời vào khoảng từ năm 140 đến 190 – sau Công Nguyên, tức khoảng cuối đời Thuận Đế đến trước đời Hiến Đế nhà Đông Hán, diễn tả một cách sinh động tâm tư của người thiếu phụ xa chồng trong hoàn cảnh xã hội loạn ly, khiến cho người đọc không khỏi xúc động và xót xa trước tâm tư của người trong cuộc. Bài thơ cũng được Trần Dịch ngợi ca trong ‘Thi phả’ là: “tình chân, cảnh chân, sự chân, ý chân” – Tình thật, cảnh thật, chuyện thật, ý thật.
 
Sau này, để diễn tả nỗi niềm của biết bao sinh mệnh ly hương và những tấm chân nguyện thiết tha mong mỏi được hồi thăng trở về miền Cố quốc trong thơ của tác giả Đường Phong cũng có đoạn viết:

‘Hoa cỏ ngóng gió Đông
Ngựa Hồ gầm đất Bắc
Chim cành Nam vẫn hát
Nguyện khúc mong ngày về’…
 

Đường Tân

Tài liệu tham khảo: “Điển xưa tích cũ”; và một số nguồn tư liệu khác.
 
 
______________

 
Đỗ Hứng gởi