Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
Như kinh nghiệm tôi có trong thời gian tu tập với ngài U Pandita. Khi thiền tập của ta được thâm sâu một chút, thường tự nhiên ta sẽ quán xét lại những hành động sai lầm của mình trong quá khứ. Những việc này không cần ai mời gọi, chúng cũng cứ tự động khởi lên.
Có người nhớ lại là mình đã làm một người bạn thất vọng, vì đã không đến dự buổi tiệc sinh nhật 16 tuổi của cô, vào hai mươi sáu năm về trước; hoặc một câu trả lời cay cú đối với vợ hay chồng mình, mà người ấy không còn trong cuộc đời mình nữa. Có người đau khổ về một sự lường gạt thuế má mà không ai biết đến, hoặc một nỗi sợ vì một lời nói dối trong tình bạn…
Ðiều quan trọng là ta phải biết thừa nhận các việc đó, cho dù nhỏ bé hay lớn lao đến đâu, tiếp xúc với nỗi đau ấy một cách trọn vẹn, và rồi, như ngài U Pandita khuyên tôi, buông bỏ chúng đi - "Ðừng nghĩ về nó nữa." Bằng không, chúng ta chỉ vô tình củng cố thêm một hình ảnh rất sai lầm về con người thật của mình mà thôi.
Mặc cảm tội lỗi là một tâm bất thiện.
Trong tâm lý học Phật giáo có một sự phân biệt khá lý thú giữa mặc cảm tội lỗi (akusala) và hổ thẹn (hiri).
Mặc cảm tội lỗi, hay sự ghét bỏ, thường đem mũi dùi hướng về chính mình. Nó xâu xé thân tâm ta ra thành từng mảnh. Khi có một mặc cảm tội lỗi lớn, ta sẽ không còn đủ năng lượng để thay đổi nó nữa. Ta bị chính mặc cảm ấy chế ngự, nó làm tiêu hao hết năng lực của ta. Ta cảm thấy rất cô đơn và chỉ còn biết nghĩ đến sự bất thiện của mình mà thôi: "Tôi là người xấu nhất trên trái đất này. Chỉ có tôi mới có thể làm những chuyện như vậy!" Nhưng thật ra chính thái độ ấy lại rất là vị kỷ, vì ta chỉ biết nghĩ đến mình như là trung tâm của vũ trụ này vậy.
Hổ thẹn (hiri), ngược lại, là một thái độ chấp nhận. Chúng ta ý thức rằng mình đã làm hay nói một điều gì đó bất thiện, và nó gây nên khổ đau. Bây giờ ta cảm nhận được nỗi đau ấy. Nhưng điều quan trọng là hổ thẹn có công năng giải thoát ta ra khỏi ngục tù của quá khứ. Nó cho ta năng lượng, giúp ta có thể đứng dậy và bước đi, và tự hứa rằng từ nay mình sẽ sống sao cho tốt đẹp.
Ngược lại, mặc cảm tội lỗi đôi khi lại rất là gian xảo. Ta có thể tưởng nó là một sức mạnh chính đáng có thể thúc đẩy ta hành động tốt lành, phục vụ cho kẻ khác. Nhưng thật ra, mặc cảm tội lỗi không hoạt động như vậy. Khi chúng ta bị thúc đẩy vì tội lỗi thì chính mặc cảm ấy, nỗi đau ấy, đóng vai trò chánh, làm chủ hành động của mình.
Và khi những cảm xúc ấy đóng vai ông chủ, ta chỉ còn nghĩ đến chính mình. Nó ngăn trở, không cho phép ta suy xét và hành xử một cách sáng suốt được. Cảm xúc chế ngự lý trí ta. Cuối cùng, với mặc cảm tội lỗi, ta chỉ biết phục vụ cho chính mình mà thôi.
Tất cả đều đang biến đổi.
Ý niệm sai lầm về một cái Tôi cố định, không thay đổi, cũng có thể nuôi dưỡng phiền giận qua hình thức của sự tự ghét bỏ hoặc tự trách móc. Khi chúng ta cho rằng cái Tôi này là thật, không bao giờ đổi thay, ta sẽ dễ dàng chấp nhận những tập quán, thói quen của mình như đó là bản tánh tự nhiên.
Một cái thấy chân chánh sẽ giúp ta phá vở được ý niệm sai lầm này. Nó giúp ta thấy được tự tánh vô ngã của những năng lực khởi lên rồi diệt đi trong ta.
Ví dụ, ta có thể kinh nghiệm được sân hận, tội lỗi và phiền muộn như những năng lực tự động đến và đi trong tâm, mà ta không làm gì hết. Phiền giận như là một cơn dông tố, nó kéo đến rồi kéo đi. Nó không phải là tôi, là của tôi. Và nó cũng không phải là bạn, hay là của bạn.
Ý thức được sự rỗng không này, ta sẽ nhìn thấy được mình và kẻ khác chính xác hơn. Và từ đó mà tâm từ được phát sinh.
Sharon Salzberg
Minh Tánh Nguyễn Duy Nhiên dịch