Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh

                           
 
 
Cuộc Đời Đức Phật Thích Ca
 
(Trọn Bộ)
 
Life of the Buddha
 

 
 
 
 
 
LỜI MỞ ĐẦU
 
MỤC LỤC
 
LỜI MỞ ĐẦU
 
CUỘC ĐỜI ĐỨC PHẬT THÍCH CA
 
        1)Đời là bể khổ
        2)Xuất gia tìm đạo
        3)Thành đạo
        4)Hóa độ chúng sinh
        5)Tạo lập tăng đoàn
            *Bát Chánh Đạo
            *Chân Lý Vô Ngã
        6)An Cư Kiết Hạ Và Những Tịnh Xá
        7)Pháp Nạn
        8)Phát Huy Tinh Thần Bình Đẳng
        9)Đức Phật Nhập Diệt
        10)Tam Tạng Kinh Điển
        11)Bốn Lần Kết Tập Kinh Điển
        12)Lời Tán Thán Đức Phật
 
LỜI MỞ ĐẦU
 
Cuộc Đời Đức Phật Thích Ca là cuốn sách diễn tả những tiến trình từ khi Đức Phật vừa sinh ra, lớn lên, rồi từ bỏ cung vàng điện ngọc để đi tìm chân lý. Cuộc hành trình dài, đầy gian khổ và sau cùng Ngài đắc đạo trở thành đấng giác ngộ và nhân loại đã gọi Ngài là Phật. Sau khi thành đạo, Ngài thu nhận đệ tử và bắt đầu hoằng dương Phật pháp trong suốt chiều dài 45 năm. Hễ nơi nào có bước chân Ngài đến là ánh đạo vàng bừng tỏa huy hoàng. Hạt giống từ bi được Ngài tinh tấn gieo khắp các nơi ở Ấn Độ. Ngài đã được mọi người từ nghèo đến giàu, từ vua chúa đến thứ dân, từ thiện nam đến tín nữ, từ già đến trẻ đều vui vẻ được tắm gội trong ánh sáng trí tuệ và nước từ bi do Ngài tưới xuống. Bất cứ ở đâu có ánh đạo vàng đến thì tà giáo và ngoại đạo phải tránh xa, tan biến như những làn mây, như những bóng tối trước ánh bình minh đang lên. Khi giác hạnh của Phật viên mãn thì Ngài đã 80 tuổi. Cũng giống như mọi người trên thế gian nầy, sắc thân tứ đại của Ngài cũng theo luật vô thường mà biến đổi. Mặc dầu biết trước ba tháng trước ngày nhập diệt, Ngài vẫn không nghỉngơi mà vẫn tiếp tục đi truyền đạo và cuối cùng Đức Phật dừng chân tại Kushinagar và nhập Niết bàn.
 
Đức Phật đã khám phá ra con đường giải thoát giác ngộ dựa theo thiền định và thiền quán, từng giai đoạn, từ thấp đến cao. Con đường này chẳng những Đức Phật thực hành viên mãn mà có biết bao người khác cũng áp dụng phương pháp này để trở thành Thánh giả. Vì thế đạo Phật mới gọi là đạo của khoa học.
 
Tuy Đức Phật khám phá ra con đường giải thoát giác ngộ, nhưng giáo lý Phật đà tuyệt đối không có gì là bí mật cả.Đức Phật không giấu chúng sinh bất cứ những gì Ngài chứng đắc vì thế khi giảng pháp hai bàn tay Đức Phật lúc nào cũng buông xả cho nên vào thời Đức Phật còn tại thế, không những chỉ Đức Phật chứng Thánh quả mà còn có trên 1250 vị A la hán và biết bao Thánh giả khác trong ba tầng Thánh còn lại.
 
Bài thuyết pháp đầu tiên, Đức Phật nói về chân lý Tứ Diệu Đế mà đầu đề bài kinh là Dhamacakkappavattana, có nghĩa là “Chuyển bánh xe Pháp”. Trong bài kinh nầy, Đức Phật mở đầu bằng lời khuyên các tu sĩ không nên theo hai cực đoan: cực đoan thứ nhất là  đam mê thú vui nhục dục thế gian, thực ra đó chỉ là những cái vui tầm thường, nhất thời và ngăn cản mọi tiến bộ tâm linh. Còn cực đoan thứ hai là khổ hạnh, ép xác chỉ làm mệt mỏi tinh thần và mê mờ trí tuệ. Vì thế cả hai đều có hại và vô ích. Con đường mà Đức Phật muốn nói ở đây chính là con đường trung đạo dẫn tới cuộc sống thanh tịnh, trí tuệ sáng suốt và sau cùng sẽ được giải thoát. Con đường giải thoát nầy chính là Bát Chánh Đạo.Trung đạo không phải là con đường nằm giữa hai thái cực mà con đường vượt lên hai thái cực. Trung đạo có nghĩa là bất nhị, là tuyệt hết đối đãi, là đạo trung hòa không thiên lệch bên này bên kia. Đức Phật đã giải thích con đường Trung đạo như sau:
 
-Từ bỏ hai cực đoan đó, Như Lai đã chứng ngộ “Trung đạo” (Majjhima Patipada), là con đường đem lại nhãn quan (cakkhu), tri kiến (nana) và đưa đến an tịnh (vupasamaya), trí tuệ cao siêu (abhinnaya), giác ngộ (sambhodhaya) và Niết bàn.
 
Trong Kinh Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikaya), Đức Phật dạy rằng:
"Dầu chư Phật có thị hiện trên thế gian hay không, nầy các Tỳ Khưu, có một sự kiện, một nguyên tắc nhất định, một định luật thiên nhiên, là tất cả các vật cấu tạo đều Vô thường (Anicca), Khổ (Dukkha) và tất cả đều không có gì trường cửutức là Vô ngã (Anatta). Như Lai đã chứng ngộ và thấu triệt điều ấy. Như Lai quảng bá, truyền dạy, tuyên bố, xác định, phân tách và chỉ dẫn rành mạch rằng tất cả các vật cấu tạo (hữu lậu) đều vô thường, khổ và vô ngã".
 
Và sau cùng Đức Phật đã khẳng định trong Trung Bộ kinh (Majjhima Nikaya) rằng: "Như Lai chỉ dạy một điều: đau khổ và sự chấm dứt mọi đau khổ".
 
Thế thì Đức Phật khẳng định thế gian này có khổ, con người hằng ngày đang lặn hụp trong bể khổ, sông mê và sau cùng là con đường hóa giải hết những nỗi khổ niềm đau đó để có thể tận hưởng một hạnh phúc tối thượng nhất của cuộc đời là an tịnh Niết bàn.
 
Cuốn sách này sẽ đưa hành giả thấu hiểu con đường chứng đắc của Ngài từng giai đoạn, từng cấp thiền, rất chi tiết để quý vị có thể hình dung và áp dụng nó vào trong cuộc sống của chính mình.
 
Cuối cùng trong phần Tam Tạng Kinh Điển, chúng tôi có phân tích sự biến chuyển của Phật giáo sau khi Đức Phật nhập Niết bàn với những luồng triết học của các Tổ, các luận sư nổi tiếng của Phật giáo Đại thừa đã đưa vào trong Phật giáo để quý vị có một nhận thức rõ ràng giáo lý nào là của Đức Phật và triết lý nào là do người đời sau thêm vào. Thí dụ Đức Phật khẳng định rằng thế gian này có khổ cho nên mới có khổ, tập, diệt, đạo (Tứ diệu đế). Đến khi luận sư Long Thọ xuất hiện với triết lý Bát Nhã khoảng 600 năm sau ngày Đức Phật nhập diệt thì Ngài Long Thọ phủ nhận giáo lý Tứ diệu đế của Đức Phật và cho rằng thế gian không có gì gọi là khổ cho nên trong Bát nhã tâm kinh có câu không có khổ, tập, diệt, đạo nghĩa là không có Tứ diệu đế và từ đó không có trí tuệ và cũng không có chứng đắc. Đức Phật đã ngồi dưới cội Bồ đề và tham thiền nhập định suốt 49 ngày đêm. Ngài đắc Tứ thiền, chứng Tam minh mới trở thành Phật. Ngược lai, Long Thọ cho rằng không có chứng đắc, không có trí tuệ chỉ cần lìa xa điên đảo, mộng tưởng là có Niết bàn.
 
Vậy hai luồng tư tưởng này ảnh hưởng như thế nào?
 
-Thứ nhất, Đức Phật bắt đầu bằng thân phận bình thường của một con người như tất cả mọi người trong thế gian, Ngài chia sẻ tất cả mọi hệ lụy của kiếp người. Ngài cũng phải đương đầu với sanh, lão, bệnh, tử như tất cả mọi chúng sinh khác. Sau cùng, Ngài tìm kiếm một con đường giải thoát và đạt đến hạnh phúc Niết bàn, chứng đắc trí tuệ viên mãn và thoát ly sinh tử luân hồi. Ngài chỉ rõ cứu cánh này cho mọi người biết và những ai đi theo con đường này cũng sẽ đạt đến cứu cánh tối thượng giống như Ngài. Vì thế Đức Phật là vị A la hán đầu tiên của tất cả các vị A la hán. Ngược lại, Long Thọ phát họa cho Đức Phật một chân dung mà vào thời Đức Phật còn sinh tiền chính Ngài cũng không hề hay biết. Long Thọ lý luận rằng Đức Phật lịch sử chỉ là ứng thân của Phật vào trong thế giới Ta Bà để cứu độ chúng sinh. Vì vậy dựa theo Long Thọ, Đức Phật không phải là một nhân vật lịch sử, mà Đức Phật chân chính là một thực thể siêu việt, vượt hiện thế, vĩnh hằng và vô hạn tức là “Pháp thân”.  Cho nên Đức Phật lịch sử chỉ là nhân vật được “Đức Phật chân chính” gởi đến với thế gian để tạo thành một nhân vật có hình thể là một con người, có một đời sống sinh hoạt giống hệt như một con người thường tục để thuyết giảng Chánh Pháp cho nhân thế. Do đó Đức Phật đã thành Phật từ vô lượng kiếp trước chớ không phải mới thành Phật tại thế giới này nhờ công phu tu thiền định. Từ quan điểm này mới phát sinh ra tín ngưỡng trong Phật giáo Đại thừa.
 
Dựa theo Phật giáo gốc (Nguyên thủy)thì không thể có 2 Đức Phật cùng xuất hiện nên chủ trương thuyết “Nhất Phật”, đó là chỉ có duy nhất Phật Thích Ca trong thế giới này mà không hề có Phật A Di Đà, Phật Dược Sư hay bất cứ vị Phật nào khác. Nhưng Phật giáo Đại thừa thì cho rằng có nhiều vị Phật xuất hiện cùng lúc, phía Tây có Phật A Di Đà, phía Đông có Phật A Súc và vô số Phật tồn tại mà kinh điển gọi là “Thập phương hằng sa chư Phật”. Từ đó Phật giáo Đại thừa giới thiệu thuyết “Tam thân” là Pháp thân, Báo thân và Ứng thân cho mỗi vị Phật.Đó là:
 
1)Pháp thân(Dharmakaya) là pháp giới thanh tịnh của các Đức Như Lai lan tỏa trong khắp không gian làm sở y bình đẳng cho Báo thân và Ứng thân. Pháp thân thì luôn thường trụ, bất sinh bất diệt cũng được gọi là Pháp giới tánh, Như Lai Tạng…Phật lấy Pháp Tánh Chân Như làm thân nên gọi là Pháp thân. Pháp thân là chỗ sở y chứa tất cả công đức trong Pháp giới. Vì Pháp thân là thường trụ nên Pháp thân ở khắp mọi nơi. Cho dù Phật nhập thế cứu độ chúng sinh thì Pháp thân cũng không tăng hay Phật có xuất thế thì nó cũng không giảm, lúc nào cũng vậy mà thôi. Cái Pháp thân nầy Phật và chúng sinh đều có như nhau, nhưng ở Phật thì nó sáng suốt chiếu soi rực rỡ còn ở chúng sinh thì nó bị vô minh che mờ nên không hiển lộ. Pháp thân chính là cái mà con người sẽ trở về sau khi diệt hết vô minh phiền não để phát huy trí tuệ sẳn có của mình. Vậy Pháp thân chính là cội nguồn, là Bản Thể của tất cả muôn sinh vạn vật. Đây chính là Bản Lai Diện Mục, là Phật tánh, là Như Lai Tạng có sẵn trong mỗi chúng sinh.
 
Thật ra khi Long Thọ lý luận rằng Pháp thân chính là cái mà con người sẽ trở về sau khi có giải thoát thì tư tưởng này có thể tìm thấy ngay trong giáo lý Bà la môn. Vào thời Đức Phật còn tại thế, Bà la môn giáo tin rằng linh hồn được gọi là Atman (tiểu ngã) là do đấng toàn năng tạo ra và tất cả mọi sự sống trên quả địa cầu này đều có linh hồn. Linh hồn chuyển từ thân xác này qua thân xác khác, cứ thế cho đến khi có giải thoát thì tiểu ngã sẽ hòa đồng với đại ngã Braman tức là Thượng đế hay là linh hồn của vũ trụ.Long Thọnói rằng Pháp thân thì luôn thường trụ, bất sinh bất diệttrong khi đó, Đức Phật khẳng định rằng không có cái gì vĩnh viễn trường cửu cả vì tất cả đều là vô ngã bao gồm từ tư tưởng, tinh thần đến vật chất.
 
2) Báo thân(Sambhogakaya) là thân tốt đẹp do công phu tu hành trãi qua bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp mà có. Vì thế mà Đức Phật có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp rực rỡ là vậy. Báo thân còn được gọi là tự thọ dụng thân.
 
Nếu chúng sinh đoạn trừ mọi vô minh phiền não thì tâm được hoàn toàn thanh tịnh. Cái thanh tịnh an lạc tự tại nầy chỉ có người đó biết và hưởng được còn người khác không hề cảm nhận hay san sẻ được thì cái quả thanh tịnh an nhàn nầy là tự thọ dụng thân. Cũng như uống một tách trà thơm ngon thì chỉ người uống trà mới biết được hương vị thơm ngon như thế nào mà thôi. Do đó nếu chúng ta bớt được một phần vô minh phiền não thì có được một phần thanh tịnh tức là có được một phần tự thọ dụng thân.
 
Còn Báo thân của chúng sinh thì gọi là Karmakaya tức là thân nầy là do quả nghiệp của tiền kiếp tạo thành. Muốn có thân thể khỏe mạnh sống lâu thì đừng bao giờ sát sinh. Muốn có giọng nói thanh tao trong trẻo thì đừng nên vọng ngữ. Muốn thân hình được đoan trang, đẹp đẻ thì đừng nghĩ tới tà dâm. Muốn gia đình được ấm no hạnh phúc thì đừng trộm cướp gian tham.
 
3) Ứng thân hay biến hóa thân(Nirmanakaya) Chư Phật do trí thành sở tác mà biến hóa ra thành vô lượng thân, ứng theo căn cơ của chúng sinh mà hóa độ. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là ứng thân của Phật trong cõi Ta bà nầy. Vì Ứng thân là thân thị hiện nên phải ảnh hưởng bởi luật vô thường là sinh lão bệnh tử. Ứng thân cũng được gọi là tha thọ dụng thân.
 
Đối với Phật giáo Đại thừa thì báo thân hay tự thọ dụng thân có giá trị tuyệt đối vì chỉ có người được thức tỉnh giác ngộ mới hưởng được cái hương vị thanh tịnh an vui tự tại của giải thoát giác ngộ mà không một người nào khác có thể biết được. Khi chư Phật hay Bồ-tát thị hiện để hoằng dương đạo pháp thì chúng sinh có cơ hội học hỏi, tu sửa và sống theo Chân lý để tự mình giải thoát giác ngộ thì ứng thân để cứu độ chúng sinh ra khỏi bể khổ sông mê gọi là tha thọ dụng thân.
 
-Thứ hai, Đức Phật khẳng định rằng con người vì sống trong vô minh, bất giác, lấy khổ làm vui cho nên phải lặn hụp trong sinh tử triền miên. Bây giờ biết hồi đầu thị ngạn, tu tâm dưỡng tánh, tham thiền nhập định theo tiến trình Giới-Định-Tuệ thì sẽ chứng đắc Thánh quả, có giải thoát Niết bàn. Ngược lại, Long Thọ lý luận rằng trong mỗi chúng sinh đã có Phật tính nghĩa là trong ta đã có sẳn chất Phật vì thế trong kinh Pháp Hoa nói rằng tất cả chúng sinh đều là Phật.Lý do con người không là Phật bởi vì còn vô minh che lấp. Bây giờ nếu dọn sạch vô minh thì Phật tính sẽ lộ ra, trở thành Phật chớ không phải tu hành đắc đạo mới gọi là Phật.
 
Long Thọ lý luận rằng trí tuệ của chúng sinh là thật tánh để có khả năng trực nhận chân lý mà Tự tánh thanh tịnh hay Phật Tánh là có sẵn trong tất cả mọi người. Tự tánh luôn vắng lặng thanh tịnh thì cần gì phải chứng đắc Niết bàn. Bồ-đề, Phật Tánh là có sẳn chớ đâu phải tu hành đắc đạo mới có. Khi mê vọng điên đảo thì không biết mình có Phật Tánh thanh tịnh. Lúc thức tỉnh thì nó hiện ra cũng như trong túi luôn có viên ngọc quý Ma ni mà không biết, chỉ cần thò tay vô lấy thì sẽ hết nghèo đói, điên đảo khổ đau ngay. Trong tánh Không tức là Tự Tánh thanh tịnh bản nhiên thì không có trí tuệ hay chứng đắc gì cả. Vì thế Tâm Kinh mới có câu : ”Vô trí diệc vô đắc” và “Dĩ vô sở đắc cố” là vậy. Trong Chân Không Diệu Tánh, Phật Tánh thì luôn sẳn có cho nên chứng đắc chỉ là cách nói, là giả danh để tìm thấy được con người thật tức là Bản Lai Diện Mục tức là Chơn Tánh của mình mà thôi.
 
Sự khác nhau ở đây là Đức Phật khẳng địnhcó chứng đắc cho nên phải có con đường dẫn đến giải thoát và hành giả không thể lý luận mà phải tự mình thực hành từng bước một để tự mình nghiệm chứng sự giải thoát đó. Nói cách khác, con đường Đức Phật đưa ra là từ phàm đến thánh rất thực tế. Ngược lại, Long Thọ giới thiệu Phật tánh nghĩa là trong ta đã là Phật, đã là Thánh nhân rồi, cho nên hành giả có tu đắc đạo thì cũng trở về với cái mình đã có chớ không phải cái mình chưa bao giờ có.
 
-Thứ ba, khi Đức Phật còn tại thế, chứng đắc Thánh quả A la hán là cứu cánh sau cùng của người đi trên con đường giải thoát giác ngộ vì thế trong kinh Tương Ưng, Đức Phật dạy rằng:”
-Này các Tỳ kheo! Như Lai là vị A la hán, bậc chứng ngộ hoàn toàn.
-Ta đã hoàn thành xong Bát Chánh Đạo, Các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, đạt chánh trí giải thoát, đắc đạo quả Niết Bàn, Ta không còn tái sinh nữa. (Mission Accomplished).
 
Ngược lai, Phật giáo Đại thừa cho rằng A la hán chỉ là nửa chừng chớ không phải chứng đắc viên mãn vì thế mới có phẩm Hóa Thành Dụ của Kinh Pháp Hoa. Phẩm này xác định rằng A la hán chỉ mới là nửa đường, là nơi tạm nghỉ và sau đó hành giả phải tiếp tục nửa đường còn lại thì mới đắc Phật quả tức là bảo sở, là nơi trân quý nhất.
 
-Thứ tư, Đức Phật đến với thế gian này như một con người bình thường, nhưng nhờ tham thiền nhập định mà Ngài đắc Thánh quả, trở thành Phật. Nói thế nghĩa là Ngài thành Phật ngay trong cái thế giới Ngài đang sống. Ngược lại, trong phẩm Như Lai Thọ Lượng, Kinh Pháp Hoa nói rằng rằng Đức Phật đã thành Phật từ vô lượng kiếp chớ không phải bây giờ mới thành Phật.Phật giáo Đại thừa lý luận thêm rằng nếu dựa trên sự tướng thì Thái tử Tất Đạt Đa nhờ công phu thiền địnhmà thành đạo dưới cội Bồ Đề, nhưng dựa trên bản thể chân như thì Đức Phật cũng như tất cả mọi chúng sinh đều đã thành Phật. Thông thường khi nghe nói chúng sinh “sẽ thành Phật” thì mọi người chấp nhận và cố gắng tu hành để thành Phật, nhưng nếu nói chúng sinh “đã thành Phật” thì chẳng ai dám tin. Lý do rất đơn giản và thực tế là vì ai cũng nghĩ rằng mình là bạc địa phàm phu, tham sân si dẫy đầy mà nói đã thành Phật thì làm sao tin được. Để tránh sự ngộ nhận đó, Long Thọ giải thích thêm rằng Căn bản trí hay Tri Kiến Phật hay Phật tánh thì lúc nào cũng có sẵn trong mỗi chúng sinh ví cũng như ánh sáng mặt trời lúc nào cũng chiếu sáng. Nhưng con người không thấy ánh sáng mặt trời là vì bị màn mây đen che lấp chớ ánh sáng mặt trời đâu có mất. Vì thế khi vào Trung Hoa, Tổ Bồ Đề Đạt Ma tuyên bố đanh thép rằng, không cần tu hành chi cả, chỉ cần thấy Tánh (Phật tánh) tức thì thành Phật.
 
Đạo Phật là đạo như thật nghĩa là đã đến lúc chúng ta trả sự thật về cho nó.Trong suốt 45 năm hành đạo cho đến khi Đức Phật nhập Niết bàn, Ngài không hề viết một chữ nào. Mãi đến gần 500 năm sau đó thì kinh điển mới được viết lần đầu tiên vì thế rất dễ ngộ nhận rằng kinh nào là do Phật thuyết hoặc kinh nào là do các Tổ viết thêm về sau. Trải qua gần mấy ngàn năm, con người đã gán cho Đức Phật những gì Ngài không hề thuyết. Nói cách khác, trong suốt cuộc đời hành đạo của Đức Phật, Ngài không  bao giờ nói về Bát nhã,thần chú hay bất cứ giáo lý huyền bí nào cả mà giáo lý duy nhất của đạo Phật mà Ngài đã xiễn dương là Bát Chánh Đạo. Ở đây, chúng tôi  giới thiệu hai luồng tư tưởng khác nhau, một là chính Đức Phật khám phá ra và luồng tư tưởng của Phật giáo Đại thừa của các chư Tổ. Có sự khác biệt rất rõ ràng là triết lý Đại thừa nghiêng về luận giảinghĩa là mình nghĩ mình là (Phật) nhưng trên thực tế mình không thực là (Phật)(pie in the sky), trong khi đó giáo lý nguyên thủy của Đức Phật chuyên về thực hành bởi vì có thực hành mới có thực chứng. Cũng như trong khi đi học, tất cả các em học sinh đều nghĩ rằng mình học giỏi khả năng hội nhập rất cao. Nhưng sau khi trải nghiệm qua các cuộc thi thì lúc đó vàng thau mới hiển lộ.
 
Ngày xưa lúc còn là vị Thái tử giàu sang quyền quý, sống trên nhung gấm lụa là mà Tất Đạt Đa đâu có hạnh phúc. Miệng ăn sơn hào hải vị mà vị đắng như ngậm bồ hòn. Ngủ nơi lầu son gác tía mà lòng cứ lo sợ nay bị kẻ này giết, mai người kia ám sát nên đi đâu mặc dầu lúc nào cũng có tiền hô hậu ủng mà lòng không an. Đến khi xuất gia thành đạo, ngày ăn một bữa đêm ngủ gốc cây mà lòng an vui tự tại. Vì thế đối với Đức Phật bỏ tất cả thì sẽ được tất cả. Được tất cả nghĩa là không được gì hết tức là không còn dính mắc. Do đó tôn chỉ của đạo Phật là diệt khổ chớ không trốn đời bởi vì khi quán chiếu để thấy biết cuộc đời là vô thường vô ngã, tịch tịnh thì ở đâu cũng thanh tịnh, làm việc gì cũng an vui tự tại cho nên ngày xưa Đức Phật đến đâu thì nơi ấy là cõi Phật thanh tịnh bởi vì tâm Ngài thanh tịnh thì thế giới sẽ thanh tịnh theo.
 
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
 
Lê Sỹ Minh Tùng
 
CUỘC ĐỜI  ĐỨC PHẬT THÍCH CA
(Toàn bộ 2021)
 
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới  và tiếp giáp với nước Tây tạng. Nguyên Ngài là Thái tử nước Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu). Phụ hoàng tên là Tịnh Phạn vương Đầu-đà-na (Sudhodana) và Mẫu Hoàng tên là Ma-da (Maya). Họ của Ngài là Kiều-Đáp-Ma  (Gautama), được dịch là Cù-đàm và tên Ngài là Tất-Đạt-Đa (Siddhartha).
 
Truyện kể rằng: Một hôm vào lễ vía Tinh Tú, vua Tịnh Phạn mở tiệc vui chơi trong thành Ca-tỳ-la-vệ. Sau khi dâng hương hoa cúng kiến trong cung điện xong, Hoàng Hậu Ma-da cùng gia đình ra ngoài thành để bố thí thức ăn và quần áo cho dân nghèo. Khi trở về cung an giấc, Hoàng Hậu nằm mộng thấy một con voi trắng sáu ngà từ trên không trung bay xuống và sau đó lấy ngà mà khai hông bên hữu của bà mà chui vào. Hoàng Hậu bèn đem điều chiêm bao này thuật lại cho vua Tịnh Phạn nghe. Vừa nghe xong, nhà vua lấy làm lạ bèn cho mời các nhà tiên tri lỗi lạc đến để đoán mộng. Các nhà tiên tri đoán rằng:”Hoàng Hậu sẽ sanh ra một quý tử có tài đức song toàn”.
 
Nhà vua rất vui mừng vì nghĩ rằng ngôi báu của Ngài từ đây có người truyền nối. Theo tục lệ của Ấn Độ thì Hoàng Hậu phải trở về nhà của cha mẹ là vua A Nậu Thích Ca (AnuShakya) ở nước Câu-ly (Koly) để cha mẹ chăm sóc trước khi sanh nở. Trên nửa đường đi về nhà cha mẹ, Hoàng Hậu cùng đoàn gia nhân tới vườn hoa Lâm tỳ ni (Lumbini) thì bình minh vừa ló dạng.
 
Tương truyền rằng vì thấy vườn hoa tươi đẹp nên Hoàng Hậu Ma-da rảo bước ngắm hoa. Trông thấy nhánh hoa “vô ưu” mới nở vừa thơm vừa đẹp và cành lá sum suê nênHoàng Hậu bèn lại gần và với taybên phải để hái hoa thì Thái Tử bỗng đâu từ trong hông phải của bà chuira. Khi đó bỗng nhiên từ dưới đất mọc lên một đóa hoa sen Thất Bảo lớn như bánh xe mà đỡ cho Ngài. Thái tử vừa giáng sinh thì bước đi bảy bước có bảy đóa sen đỡ chân. Một tay Ngài chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất mà nói rằng:”
 
Thiên thượng thiên hạ
Duy ngã độc tôn
Vô lượng sinh tử
Ư kim tận hỷ”
 
Có nghĩa là:
 
Trên trời, dưới trời
Ta là người duy nhất
Kiếp này là kiếp cuối cùng của Ta
Vì không còn sinh tử nữa.
 
“Ngã” ở đây là chấp ngã nghĩa là chấp thân, tâm này thật sự là  “ Ta” và  “Cái Của Ta”. Đức Phật không phủ nhận thân này là ta hay những vật sở hữu mà chúng ta dày công gầy dựng là của ta, nhưng Ngài chỉ nhắc nhở rằng cái Ta hay cái của Ta chỉ là dựa trên quy ước, trên danh nghĩa của cuộc đời thế thôi. Nếu con người chấp cứng vào nó thì đây là những sợi dây vô hình cột chặt con người vào cảnh khổ, không có lối thoát từ kiếp sống này và đến biết bao kiếp sau nữa. Tại sao? Bởi vì khi còn chấp là còn dính mắc, còn bị ràng buộc trong thế gian. Từ chấp ngã mà gốc rễ  tham, sân, si mới có cơ hội phát tác. Tùy theo cường độ tham sân si nhiều hay ít, nặng hay nhẹ mà thọ sanh nơi các cõi trời (thiên thượng) hay đọa ở các cõi địa ngục (thiên hạ). Từ đó, câu “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” có thể hiểu rằng: “Ta từ vô lượng kiếp đến nay, nhiều khi sanh lên các cõi trời, lắm lần đọa vào các địa ngục, đầu dây mối nhợ không do đâu khác hơn là tham, sân, si đẩy đưa đến ngã chấp mà không thấy rõ bản chất “vô ngã, duyên sanh” từ thân, tâm đến hoàn cảnh chung quanh”. Ðó là lời khai thị và cũng là lời cảnh cáo ngay từ buổi bình minh của đời Ngài.
 
Trong khi đó, Phật giáo Đại thừa giải thích câu: “Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn” là “Trên trời dưới trời, chỉ có ta là tôn quý nhất”. Nhưng tại sao lại là đấng tôn quý nhất? Bởi vì chữ “Ngã” trong câu này có nghĩa là “Chân Ngã” tức là “Phật tánh”. Vì là Phật tánh cho nên trên trời, dưới đất không có gì quý bằng.
 
Bây giờ, hãy lắng nghe Đức Phật diễn tả lại cuộc hành trình đó trong kinh Pháp Cú câu 154:
 “Ta đi lang thang trong vòng luân hồi qua bao kiếp sống, tìm mãi mà chưa  gặp kẻ làm nhà. Nay ta đã gặp ngươi rồi, ngươi đừng hòng cất nhà thêm được nữa, những đòn tay, những cột kèo, những rui mè... của ngươi đã bị mục rã cả rồi...” .
 
Kẻ làm nhà ở đây là tham lam ái dục, là độc đầu tiên trong tam độc tham, sân, si. Nhà là tấm thân do ngũ uẩn giả hợp. Cột kèo... là những phiền não nhiễm ô. Mục rã rồi nghĩa là Đức Phật đã chinh phục, đã vượt lên trên, đã đứng ngoài sự chi phối của chúng. Nói rõ hơn là Ngài đã thành tựu tuệ giác siêu việt nên không còn bị nghiệp lực đẩy đưa đây đó, lên xuống trong ba cõi sáu đường. Do vậy Ngài tuyên bố câu:

“Vô lượng sanh tử, ư kim tận hỷ” nghĩa là vì chưa tìm ra nguyên nhân, nên trải qua vô số kiếp ta phải chịu sanh tử luân hồi. Nay đã thấy rõ nguyên nhân và nhất là đã có phương pháp diệt trừ thì sanh tử luân hồi không còn chi phối ta được nữa. Vì vậy muốn liễu sanh thoát tử thì bắt buộc phải thực chứng chân lý “Vô Ngã”.
 
Tuy nhiên, kinh điển Nguyên thủy Pali không hề nói đến việc Thái tử sinh ra từ hông phải của Hoàng hậu Ma-da. Trong Trường Bộ Kinh Tập 1, Kinh Đại Bổn 14 có câu:”Này các Tỳ kheo! Pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ-tát Tất Đạt Đa từ bụng mẹ sanh ra, chư thiên đỡ lấy Ngài trước, sau mới đến loài người. Pháp nhĩ là như vậy”. Như thế theo kinh tạng Nguyên thủy, sự đản sanh của Đức Phật là một con người bình thường, Hoàng hậu Ma-da cũng hoài thai như muôn ngàn thiếu phụ khác. Đến ngày khai hoa nở nhụy, Thái Tử Tất Đạt Đa cũng chào đời qua lòng mẹ như mọi đứa trẻ khác trên thế gian này.
 
Đây là ngày mồng tám tháng tư (624 năm trước Tây lịch). Thái Tử được đặt tên là Tất-Đạt-Đa (Siddhartha) và cũng theo tục lệ của Ấn Độ thì người con phải lấy họ mẹ là Thích Ca. Hoàng Hậu Ma-da tạ thế sau khi sanh Thái Tử được bảy ngày. Mặc dầu chết sớm, nhưng Hoàng Hậu rất vui mừng vì đã sanh ra được một quý nhơn và bà nghĩ rằng mình đã làm tròn nhiệm vụ cao quý đó cũng như đã rửa sạch những nghiệp báo trên đời này. Vua Tịnh Phạn giao Thái Tử cho em gái của Hoàng hậu là bà Ma-ha-Bà-xà-ba (Mahaprajapati) nuôi dưỡng cho đến khi khôn lớn.
 
Ngày đảnsanh Thái Tử, khắp nơi trong thành Ca-tỳ-la-vệ đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ, cây cỏ đều đơm hoa kết trái, trên không thì chim chóc múa ca và hào quang chiếu sáng cả mười phương. Đức vua cha vui mừng khôn xiết và Ngài cho mời các vị tiên tri đến xem tướng cho Thái Tử. Có vị đạo sĩ nổi tiếng tên là A Tư Đà (Asita) lúc đó đang tu trên núi Tuyết sơn, được chư Thiên mách bảo, bèn xuống núiđến cung vua để chào mừng và xem tướng cho Thái tử. Gặp Thái Tử, đạo sĩ A Tư Đà bỗng nhiên chấp tay vái chào với thái độ hết sức cung kính. Đạo sĩ tuy cười mà vẻ mặt thoáng buồn. Ông nói là rất vui mừng vì :“Thái Tử có 32 tướng tốt xuất hiện nên sau này sẽ thành một vị Thánh”, nhưng ông buồn vì ông tuổi đã quá cao, ắt phải qua đời nên không có cơ hội được trực tiếp giáo huấn bởi vị Thánh nầy để được giải thoát. Nghe xong nhà vua không được vui cho lắm vì Ngài chỉ muốn con mình làm một vị vua để nối dõi tông đường mà thôi. Vì thế mà nhà vua muốn đổi số mệnh cho con mình nên đặt tên cho Thái Tử là Tất-Đạt-Đa, theo tiếng Phạn có nghĩa là kẻ sẽ giữ chức vị mà mình phải giữ. Chức vị mà nhà vua muốn ám chỉ ở đây là ngôi vua, nhưng nhà vua đâu có ngờ rằng chức vị sau nầy của con Ngài chính là chức vị Phật.
 
Khi Thái Tử lên bảy tuổi, nhà vua cho mời tất cả những vị thầy giỏi nhất trong nước để chỉ dạy cho Ngài. Thái Tử làu thông các môn văn học và ngôn ngữ học. Ngài tiếp tục chuyển qua môn công kỹ nghệ học, rồi đến Y học. Sau đó Ngài còn hấp thụ cả về Luận lý học cũng như Đạo học. Riêng về Đạo học, Thái Tử được dạy về 4 sách của các Thánh Vệ Đà (Veda). Đây là những sách nói về các Thánh của Bà La Môn. Kinh Phật nói rằng chỉ trong khoảng thời gian từ 7 đến 12 tuổi, Thái Tử đã làu thông tất cả 5 môn học và 4 sách Vệ Đà trên. Đến năm 13 tuổi, Thái Tử bắt đầu học võ thuật. Nhờ có sức khỏe phi thường, Thái Tử học môn gì cũng giỏi. Đặc biệt là môn bắn cung, trong một cuộc hội thi, Thái Tử đã bắn một mũi tên xuyên qua 7 lớp trống đồng, trong khi những người giỏi nhất khác chỉ bắn xuyên được ba lớp trống đồng mà thôi. Chẳng bao lâu Thái Tử đã trở thành một vị văn võ song toàn khó một ai sánh kip. Song song với sự phát triển về tài năng, đức độ của Ngài cũng phát triển một cách vô cùng nhanh chóng và sâu rộng. Tình thương của Ngài đối với mọi người và mọi vật bao la cao cả. Nhưng có một điều lạ là từ khi sanh ra cho đến khôn lớn, Ngài chưa lần nào được dạo chơi ngoài thành cả.
 
1.ĐỜI LÀ BỂ KHỔ
 
Một ngày xuân nọ, Thái Tử theo vua cha ra đồng xem dân chúng cày cấy. Mặc dầu mới nhìn cảnh mát mẻ của mùa xuân với nào là hoa quả tươi thắm, muôn chim ca hót trên cành. Đây là một cảnh thái bình và an lạc, nhưng trong tâm hồn của Thái Tử cảm thấy bồn chồn và xao động vì Ngài nhìn sâu vào trong cảnh vật thì nhận thấy rằng cỏi đời không đẹp đẻ an vui như khi mới nhìn qua. Bởi vì dưới ánh nắng thiêu đốt kia, người nông phu và trâu bò phải làm việc hết sức cực nhọc để đổi lấy bát cơm và nắm cỏ. Khi Ngài nhìn qua khu rừng kế bên, thì thấy người thợ săn đang rình trong bụi rậm để nhắm bắn những con chim đang líu lo trên cành mà chính người thợ săn không biết là con cọp đang rình để chụp lấy ông ta. Đây là một cảnh tương tàn tương sát. Chỉ vì miếng ăn để sống mà người và vật dùng mọi thủ đoạn để giết hại lẫn nhau không biết gớm. Từ đó Ngài nhận thấy rõ ràng sự sanh sống là khổ. Một hôm khác, Thái Tử xin vua cha được đi dạo ngoài bốn cửa thành để được tiếp xúc với thần dân. Khi ra đến cửa đông, Ngài gặp một ông già tóc bạc, răng rụng, mắt lờ, tai điếc, lưng còng, chống gậy bước từng bước nặng nề như người muốn ngã. Đến cửa nam, Thái Tử thấy một người bịnh hoạn đang than khóc, rên siết đau đớn vô cùng. Qua đến cửa tây,  Ngài trông thấy một cái thây chết nằm ngay giữa đường, ruồi nhặng bu quanh và thi thể sình lên trông rất ghê tởm. Rồi một buổi nọ Ngài ra cửa bắc thì gặp một vị tu sĩ tướng mạo trang nghiêm, điềm tĩnh và thản nhiên như người vô sự đi qua đường. Ngài vội vã đến chào và hỏi về lợi ích của sự tu hành. Vị sa môn đáp lại rằng:”Tôi tu hành là quyết dứt bỏ mọi sự ràng buộc của cuộc đời, để cầu cho mình khỏi khổ và được chánh giác để phổ độ chúng sanh đều được giải thoát như mình”.
Khi về lại hoàng cung, Thái Tử nghĩ lại những cảnh: khổ, già, bệnh, chết cùng với cái ấn tượng tương tàn tương sát trong cuộc sống. Ngài ngẫm nghĩ lời giải đáp của vị tu sĩ nọ đã làm cho Ngài vui mừng khôn xiết. Lời người tu sĩ kia chính là ánh sáng mặt trời đã phá tan những đám mây âm u trong tâm khảm của Ngài bấy lâu nay.
 
Thấy con mình buồn bã, vua Tịnh Phạn truyền dựng lên một cung điện nguy nga tráng lệ và bày đủ trò đàn ca múa hát để cho Thái Tử được vui. Năm lên 18 tuổi, Thái tử kết hôn với công chúa Da Du Đà La (Yosodhara) của thị tộc Koli. Năm 29 tuổi, công chúa Da Du Đà La hạ sinh một bé trai. Thái Tử nhận thấy rằng việc có con khiến cho ước nguyện xuất gia của Ngài trở nên khó khăn hơn, nên đặt tên đứa bé  là La Hầu La (Rahula) nghĩa là chướng ngại, ràng buộc. Tuy sống trong lâu đài tráng lệ, cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh, quyền uy danh vọng, nhưng Thái Tử vẫn thấy lòng mình nặng trĩu bao nỗi băn khoăn. Ngài cho rằng đời Ngài đang sống đây không phải là hạnh phúc chân chật, mà là cảnh giả dối, mê muội, chỉ làm cho kiếp sống thêm nặng nề đau khổ. Ngài quyết chí phải tìm một lối thoát, một cuộc sống chân thật và cao đẹp hơn.
 
Sau cùng Ngài xin vua cha cho mình được xuất gia, nhưng vua Tịnh Phạn từ chối lời thỉnh cầu của Ngài. Không còn cách nào khác hơn,Thái Tử yêu cầu vua cha bốn điều, nếu nhà vua giải quyết được thì Ngài sẽ bỏ ý định đi tu để ở lại lo chăn dân trị nước. Bốn điều đó là làm sao cho:
 
    Con trẻ mãi không già,
    Con sống hoài không chết,
    Con mạnh khỏe mãi không đau,
    Và cho mọi người hết khổ.
 
Bốn điều này làm cho vua cha vô cùng bối rối và không thể nào giải quyết được. Từ khi biết con mình có ý định xuất gia, vua Tịnh Phạn lại càng lo sợ và cố tìm cách để cản ngăn. Nhưng một khi Thái Tử đã quyết thì không có sức mạnh nào có thể ngăn cản được ý định của Ngài.
                                                                                                             
2. XUẤT GIA TÌM ĐẠO
 
Một đêm khuya, thừa dịp quân lính canh gác và cung phi mỹ nữ đã ngủ say sau một cuộc yến tiệc linh đình, Thái Tử quyết chí ra đi. Ngài vội vàng đánh thức tên giữ ngựa Xa-nặc (Channa) dậy để thắng cương con ngựa Kiền Trắc (Kantaka) của Ngài.
 
Trước khi ra đi, Thái Tử đi dọc theo hành lang nội cung, đến trước phòng công chúa Da Du Đà La và người con trai đang ngủ say. Thái Tử hé cửa nhìn vào, lòng Ngài xót xa cho người vợ trẻ và đứa con trai còn nhỏ dại của mình. Nhưng đối với sự đau khổ của nhân loại thì lòng thương xót của Ngài còn da diết hơn. Sau đó, hai thầy trò cùng nhau trốn ra khỏi thành vào đêm mồng tám tháng hai. Lúc đó Ngài được 29 tuổi. Thái Tử ra đi là Ngài chấp nhận từ bỏ tất cả. Ngài đã để lại phụ vương, ngai vàng, vợ đẹp con xinh và cuộc sống hạnh phúc của một vị Thái Tử. Sự hy sinh của Ngài không phải là sự từ bỏ của một người già, đau ốm hay của một người nghèo khó, bệnh tật đã ngán ngẫm cuộc  đời, mà đây chính là sự hy sinh từ bỏ của một vị Thái Tử đang tuổi thanh xuân và đang sống trong giàu sang quyền quý. Quả thật đó là một sự từ bỏ, hy sinh vĩ đại vô tiền khoáng hậu trong lịch sử của nhân loại.
 
Khi vào đến rừng sâu, Ngài tìm đến bờ sông Anomà. Nơi đây Ngài  cắt tóc, trao y phục và đồ trang sức cho Xa nặc đem về. Liền sau đó, Thái Tử đổi y phục quý báu của Ngài cho người thợ săn để lấy một chiếc y màu vàng. Bây giờ Thái Tử một mình ra đi với bộ áo màu vàng đơn giản của người tu sĩ và bắt đầu cuộc sống không nhà của người xuất gia cầu đạo. Khi thì Ngài ngồi dưới bóng cây, khi thì Ngài nằm nghỉqua đêm trong một hang đá. Mặc dầu đi chân không và đầu để trần, Ngài vẫn đi bình thản giữa nắng nóng ban ngày cũng như trong những đêm sương lạnh mà tất cả mọi năng lực cũng như ý chí của Ngài đều dồn về với một lý tưởng cao cả là cố tìm cho được một chân lý tối thượng, lý lẽ của sự sống chết và con đường dẫn tới giải thoát để đạt đến cõi Niết bàn bất tử. Ban đầu, Thái Tử đã tìm tới thọ giáo với đạo sư danh tiếng ở Ấn Độ thời bấy giờ là Alara Kalama. Ngài Alara chứng được cấp thiền Vô sở hữu xứ tức là tầng thiền thứ ba của thiền vô sắc giới. Sau một thời gian ngắn tu tập, Thái Tử cũng đạt được cấp thiền Vô sở hữu xứ, nhưng rồi Thái Tử tự suy nghĩ rằng: “Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Vô sở hữu xứ". Như vậy, này Aggivessana, Ta không tôn kính pháp này, và từ bỏ pháp ấy, Ta bỏ đi”. Thái Tử rời khỏi đạo tràng của Alara Kalama rồi vượt sông Hằng tìm đến đạo tràng của Uddaka Ramaputta học đạo. Ở đây Thái Tử cũng được vị thầy này sẵn sàng chỉ dạy. Thái Tử tu tập chẳng bao lâu liền nhập được định Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Định Phi tưởng phi phi tưởng xứ là một loại định cao nhất của ngoại đạo lúc bấy giờ, nên các vị thầy ngoại đạo khó có ai tu đạt được thiền định này, nhưng chỉ có Thái Tử nỗ lực tu tập trong một thời gian ngắn mà Ngài đã nhập được một cách dễ dàng. Khi nhập xong định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Thái Tử được Ngài Uddaka Ramaputta tôn sùng với sự tôn kính tối thượng. Vì pháp định này không đưa Ngài hướng đến an tịnh, giác ngộ, Niết bàn cho nên Ngài cũng từ bỏ pháp ấy rồi ra đi. Ngài tuần tự du hành nước Magadha (Ma kiệt đà) và quyết định lưu lại Uruvela (Ưu lâu tần loa) vì nơi đây là một địa điểm khả ái, có nhóm rừng thoải mái, có con sông trong sáng chảy gần với một chỗ lội qua dễ dàng và chung quanh có làng mạc bao bọc. Ngài tư duy rằng bên cạnh thiền định xuất thần đó phải còn một cái gì khác cần thiết cho sự tìm con đường giải thoát cho Ngài. Vì băn khoăn như thế nên Ngài chọn phương pháp tu khổ hạnh cực đoan may ra Ngài có thể tìm thấy ánh sáng của chân đạo. Uruvela là một làng nhỏ, nhưng cảnh vật chung quanh đây thì đẹp đẽ và yên lặng rất thích hợp cho thiền định của Ngài. Cùng đến nơi đây với Thái Tử còn có năm nhà tu khác là các ông Kiều Trần Như (Kondana), Ác Bê, Thập Lực, Ma Ha Nam và Bạc Đề. Họ đi theo và tôn kính Ngài như là đấng Đạo sư của họ và họ hy vọng rằng khi Ngài chứng được chân lý bằng cách hành xác thì Ngài sẽ truyền lại chân lý đó cho họ. Lối tu nầy đòi hỏi người tu phải sống một cách kham khổ từ nhịn ăn uống đến dãi nắng dầm sương, hành thân hoại thể một cách ghê rợn. Ngài đã sống 5năm trong chỗhoang dã, ghê sợ, trong những bãi tha ma hay những nơi dơ bẩn. Ngài từ chối tắm giặt và không mặc áo quần, tệ hại hơn nữa Ngài còn dầm mình trong nắng hạ ban ngày, và chịu lạnh buốt trong những bụi cây của những đêm đông. Ngài không cần dùng nhiều thực phẩm, cố gắng nhịn đói,ngày chỉ ăn một hạt mè, dần dần cho đến khi cái thân đẹp đẽ, vốn là thân Đế vương, mà giờ đây teo rút lại chỉ còn da bọc xương. Bởi vì Ngài nghĩ rằng nếu muốn đạt đến chổ Giác ngộ tối thượng thì mình phải can đảm từ bỏ những gì bên ngoài đã làm cho mình vướng bận cũng như sự thỏa mãn của thân thể.
 
Vì quyết tâm tìm chân lý giải thoát mà Thái Tử thực hành khổ hạnh cho đến khi tấm thân nay chỉ còn da bọc xương mà vẫn không chứng được pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh. Thái Tử tâm trí bồi hồi bâng khuâng tự hỏi: “Hay là có đạo lộ nào khác đưa đến giác ngộchăng?".
 
3. THÀNH ĐẠO
 
Một hôm vì quá kiệt sức, Ngài ngã quỵbên dòng sông Ni Liên (Neranjara) và khi tỉnh dậy Ngài mới tỉnh ngộ mà nhận thấy rằng lối tu nầy chỉ hành hạ thân xác mà không giải thoát được gì. Ngài nghĩ rằng những rối rắm và những căn nguyên của sự đau khổ không phải là từ bên ngoài mà chính là khả năng để từ bỏ những dục vọng từ trong tâm. Vì nhận thức như vậy, Ngài quyết định chọn một con đường mới để đi tìm sự giải thoát và Ngài gọi nó là con đường trung đạo. Dựa theo con đường trung đạo nầy,Ngài đã dùng Giới, Định,Tuệ để tiêu diệt những ô nhiễm ở trong tâm thức và sau cùng trừ hết các căn bản bất thiện tức là ly dục, ly bất thiện pháp. Khi Ngài quyết định như thế, năm nhà tu khổ hạnh trước đây theo Ngài đã từ bỏ Ngài và gọi Ngài là người bỏ cuộc vì không tiếp tục tu hành theo như trước. Sau 5 năm tu khổ hạnh không đạt kết quả, Ngài nhận thấy rằng sức mạnh của cơ thể là một điều rất cần thiết cho thiền định nên Ngài liền xuống sông Ni Liên tắm rửa và bắt đầu trì khai khất thực. Mặc dù tấm thân tứ đại là vô thường, nhưng Ngài vẫn cần nó như là chiếc thuyền để đưa Ngài đến bên kia bến bờ Giác ngộ.
 
Sau khi thọ bát cháo sữa do một thôn nữ tên là Sujata cúng dường, sức khỏe của Ngài lần hồi khôi phục. Rồi Ngài đi đến dưới gốc cây Tát-bạt-la (Pippala: sau nầy được gọi là cây Bồ-đề, có nghĩa là cây Giác ngộ), ngồi tỉnh tọa dưới cây Bồ-đề trên một nắm cỏ khô, tham thiền và thề rằng:
“Nếu ta ngồi đây mà không chứng được đạo quả, thì dù thịt nát xương tan, ta quyết không bao giờ đứng dậy”. 
          
Rồi Thái Tử bắt đầu tư duy: "Ta biết, trong khi phụ thân Ta, thuộc dòng Sakka (Thích-ca) đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng mát cây diêm-phù-đề (jambu), Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ". Khi an trú như vậy, Ta nghĩ: "Ðạo lộ này có thể đưa đến giác ngộ chăng?" Và này Aggivessana, tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: "Ðây là đạo lộ đưa đến giác ngộ".
 
Trước khi vào định của sơ thiền,hành giả thực tập “Ly dục ly bất thiện pháp” nghĩa là phải sống đời đạo hạnh, lìa xa ái dục và những tham vọng của thế gian để tâm được an tịnh. Ly dục là thoát ly những đối tượng của ái dục, tức là thân viễn ly. Còn “ly bất thiện pháp” là từ bỏ những cấu uế (dục vọng) của tâm tức tâm viễn ly. Nói cách khác, ly dục là thanh tịnh thân nghiệp, ly bất thiện pháp là thanh tịnh ý nghiệp. Sau đó, hành giả thực hành pháp quán niệm hơi thở,theo dõi hơi thở vào, hơi thở ra dài ngắn như thế nào và biết rõ như vậy nghĩa là lúc ấy hành giả đang ý thức và nhận biết chính mình. Hơi thở đối với sự sống con người là tối quan trọng. Con người có thể nhịn ăn, nhịn uống trong một thời gian dài, nhưng mạng sống sẽ kết thúc nếu thiếu thở trong vài phút đồng hồ. Chúng ta thở suốt ngày suốt đêm, nhưng ít khi chúng ta nắm bắt được hơi thở của mình. Con người vì quá bận bịu lo cho cái ăn,cái mặc mà quên đi tính diệu dụng của hơi thở. Hơi thở vô hấp thụ theo dưỡng khí và từ đó tim sẽ chuyển dưỡng khí đi nuôi khắp thân thể, sau đó thán khí sẽ chuyển ngược về tim và phổi sẽ đẩy nó ra ngoài khi chúng ta thở ra. Vì vậy, hít vô, thở ra chính là sự sống của con người. Khi lo lắng, cáu giận làm cho tim đập nhanh, phổi khó hấp thu không khí, thì chính lúc này việc nắm bắt hơi thở là rất quan trọng giúp ta lấy lại trạng thái bình tĩnh của tâm và điều hòa của thân. Khi hơi thở và thân thể được điều hòa thì trạng thái an tịnh của thân sẽ sanh khởi.
 
Thật ra, việc hít vào,thở ra sâu cạn chưa phải là điều quan trọng. Điều quan trọng hơn cả là ta có ý thức được trong khi thở. Đức Phật dạy khi hít vào,thở ra chúng ta phải ý thức theo dõi hơi thở ấy. Hơi thở ra dài, ngắn thì phải biết là dài, ngắn thật sáng suốt và tỉnh táo. Ngày nay trong cuộc sống văn minh hiện đại, con người hoạt động như con thoi trong khung cửi. Tuy nhiên, chúng ta có thể thực tập pháp quán niệm hơi thở để đem lại sức khỏe cũng như năng suất công việc. Ở mức độ cao hơn, nó giúp hoàn thiện và phát triển trí lực.
 
Ngày xưa Đức Phật dùng phương pháp Quán Niệm Hơi Thở để có thể nhập  và xuất định. Nhờ phương pháp Quán Niệm Hơi Thở, Đức Phật chứng ngộ Niết Bàn và sau khi thành đạo, Ngài đã giảng dạy phương pháp này cho tất cả mọi người cho đến khi Ngài nhập diệt. Lý do thực hành Quán Niệm Hơi Thở là vì chúng ta muốn chứng nghiệm thực tại tối hậu. Khi chú tâm vào hơi thở, chúng ta khám phá những gì mà chúng ta chưa biết về mình nghĩa là tìm ra ý thức những gì hãy còn trong vô thức. Nói cách khác, pháp môn Quán Niệm Hơi Thở có thể như là cây cầu nối tâm ý thức và tâm vô thức bởi vì hoạt động của hơi thở vừa có tính cách ý thức và vừa có tính cách vô thức.Khi vào định, chúng ta có thể kiểm soát hơi thở hoặc điều khiển hơi thở theo ý muốn của mình. Cao hơn nữa, hành giả có thể ngừng thở một thời gian. Nhờ duy trì ý thức về hơi thở, tự nhiên chúng ta bắt đầu ý thức được các chức năng hoạt động của thân thể mà trước đây chúng ta không hề hay biết (vô thức). Nhờ đó, chúng ta thật sự thâm hiểu sự vận hành trong ta (danh, sắc) nhằm giải thoát khỏi tham,sân,si bằng cách ý thức chúng rất rõ ràng. Do đó, hơi thở phản ảnh rất rõ tâm trạng của con người. Khi tâm bình yên, thanh thoát, hơi thở đều và nhẹ. Ngược lại, khi tâm bị các trạng thái tiêu cực xâm chiếm, hơi thở nặng nề, thô tháo. Vì thế khi tâm bất an, lo lắng, buồn phiền chỉ cần ngồi yên lặng, hít thở thật mạnh vài lần rồi sau đó thở đều và nhẹ thì mọi buồn phiền sẽ lắng diệu ngay,giúp ta lấy lại trạng thái bình tĩnh của tâm và điều hòa của thân. Khi hơi thở và thân thể được điều hòa thì trạng thái an tịnh của thân sẽ sanh khởi.
          
Đề Mục Thiền Quán niệm hơi thở (Theo Kinh Satipaṭṭhāna-sutta):
          
Thân niệm xứ:
 
1. Thở vào một hơi dài, người ấy biết: Ta đang thở vào một hơi dài. Thở ra một hơi dài, người ấy biết: Ta đang thở ra một hơi dài.
2. Thở vào một hơi ngắn, người ấy biết: Ta đang thở vào một hơi ngắn. Thở ra một hơi ngắn, người ấy biết: Ta đang thở ra một hơi ngắn.
3. Ta đang thở vào và có ý thức về toàn thân ta. Ta đang thở ra và có ý thức về toàn thân ta. Người ấy thực tập như thế.
4. Ta đang thở vào và làm cho toàn thân an tịnh. Ta đang thở ra và làm cho toàn thân an tịnh. Người ấy thực tập như thế.
           
Thọ niệm xứ:
 
5. Ta đang thở vào và cảm thấy mừng vui. Ta đang thở ra và cảm thấy mừng vui. Người ấy thực tập như thế.
6. Ta đang thở vào và cảm thấy an lạc. Ta đang thở ra và cảm thấy an lạc. Người ấy thực tập như thế.
7. Ta đang thở vào và có ý thức về những hoạt động tâm ý trong ta. Ta đang thở ra và có ý thức về những hoạt động tâm ý trong ta. Người ấy thực tập như thế.
8. Ta đang thở vào và làm cho những hoạt động tâm ý trong ta được an tịnh. Ta đang thở ra và làm cho những hoạt động tâm ý trong ta được an tịnh. Người ấy thực tập như thế.
          
Tâm niệm xứ:
 
9. Ta đang thở vào và có ý thức về tâm ý ta. Ta đang thở ra và có ý thức về tâm ý ta. Người ấy thực tập như thế.
10. Ta đang thở vào và làm cho tâm ý ta hoan lạc. Ta đang thở ra và làm cho tâm ý ta hoan lạc. Người ấy thực tập như thế.
11. Ta đang thở vào và thu nhiếp tâm ý ta vào định. Ta đang thở ra và thu nhiếp tâm ý ta vào định. Người ấy thực tập như thế.
12. Ta đang thở vào và cởi mở cho tâm ý ta được giải thoát tự do. Ta đang thở ra và cởi mở cho tâm ý ta được giải thoát tự do. Người ấy thực tập như thế.
          
Pháp niệm xứ:
 
13. Ta đang thở vào và quán chiếu tính vô thường của vạn pháp. Ta đang thở ra và quán chiếu tính vô thường của vạn pháp. Người ấy thực tập như thế.
14. Ta đang thở vào và quán chiếu về tính không đáng tham cầu và vướng mắc của vạn pháp. Ta đang thở ra và quán chiếu về tính không đáng tham cầu và vướng mắc của vạn pháp. Người ấy thực tập như thế.
15. Ta đang thở vào và quán chiếu về bản chất không sinh diệt của vạn pháp. Ta đang thở ra và quán chiếu về bản chất không sinh diệt của vạn pháp. Người ấy thực tập như thế.
16. Ta đang thở vào và quán chiếu về sự buông bỏ. Ta đang thở ra và quán chiếu về sự buông bỏ. Người ấy thực tập như thế.

Sau khi hơi thở đã đều đặn, hành giả có thể chọn hai con đường: một là đi theo thiền định (Samadhi Meditation) hay là đi theo thiền quán (thiền trí tuệ)(Insight Meditation)(Vipassana Meditation).Ở đây Đức Phật chọn thiền định tức là đi vào Tứ thiền định. Sau khi đắc Tứ thiền, Đức Phật mới thực hành Thiền quán.Đức Phật là người đầu tiên của nhân loại đã khám phá ra thiền quán và từ đó thiền quán được xem như là cốt lõi về hành thiền mà Đức Phật đã dạy cho đệ tử trong suốt 45 năm hành đạo của Ngài.
 
Từ đó, Thái Tử thiền định suốt 49 ngày đêm, chứng tứ thiền như sau:
 
1) Sơ thiền (First Jhana): “Này Aggivessana, sau khi ăn thô thực và được sức lực trở lại, Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. ”
 
Tiến trình thực tập bài kinh “Quán niệm hơi thở”:Trước hết hành giả chuẩn bị tư thế ngồi, điều chỉnh thân thể, điều chỉnh hướng Tâm và sau cùng là thực tập và kiểm soát hơi thở. Hơi thở vô dài hay hơi thở ra dài, nhận biết chúng. Hơi thở vô ngắn hay hơi thở ra ngắn nhận biết chúng.
 
Khi tâm cột chặt vào hơi thở thì Đức Phật gọi giai đoạn này là “Định có Tầm có Tứ” “Savitakka savicara Samadhi”. Tầm là hướng tâm vào đối tượng và Tứ là bám chặt tâm trên đối tượng ấy. Đối tượng mà Đức Phật nói ở đây chính là bám chặt lấy hơi thở của chính mình cho đến khi không còn vọng tâm thì bây giờ hành giả có Tầm có Tứ.Vì còn bám vào hơi thở nên tâm vẫn còn biết nhưng chỉ biết có một niệm nên Đức Phật gọi là “Đơn niệm biết” nghĩa là chỉ biết “khi thở ra tôi biết tôi thở ra, khi hít vào tôi biết tôi hít vào” ngoài ra tâm không còn biết bất cứ niệm nào nữa nghĩa là tâm không còn vọng tưởng. Nói cách khác,cái biết này Đức Phật gọi là “Biết như thật” nghĩa là hít vào tôi biết tôi đang hít vào, thở ra tôi biết tôi đang thở ra.
 
Khi đang ở trong tầng định này thì tâm đang ở trình trạng khách quan nghĩa là tâm không còn thương ghét, không còn dính mắc quá khứ, tương lai ngay cả hiện tại cũng không còn dính mắc bởi vì lúc bấy giờ tâm chỉ biết mình đang hít thở ngoài ra không còn biết bất cứ chuyện gì xảy ra trong tâm hay ở ngoài thân.
 
Ở trong định này hành giả cảm nhận hỷ lạc dâng lên. Hỷ là niềm vui (joy) còn lạc là hạnh phúc (happiness). Hỷ lạc là niềm vui phát sinh tự trong tâm. Cái niềm vui này là do hành giả thực hành đứng đắn “Ly dục ly bất thiện pháp” nghĩa là hành giả phải có đời sống trong sạch và đạo hạnh, làm tất cả các việc lành và tránh xa các việc bất thiện.Nếu hành giả không sống đời “Ly dục ly bất thiện pháp” thì khó vào tầng thiền định này được. Vì vậy tiến tình này mới gọi là “Giới sanh Định” và cứu cánh sau cùng là “Định sanh Tuệ”.
 
Một khi hành giả làm chủ được các tầng thiền định thì người đó có thể đạt đến trạng thái hỷ lạc này bất cứ lúc nào họ muốn và có thể kéo dài cảm giác ấy theo ý thích. Trên con đường tu tập, Định đóng vai trò quan trọng là tạo sự an vui vì thế Thái tử đã nói rằng:”Đây là lạc (hạnh phúc) ta được hưởng”. Vì tâm của chúng ta chỉ có thể thực hiện một hành động ở một thời điểm hoặc là chúng ta mong cầu, theo đuổi việc gì hoặc là muốn tâm được an định. Vì thế, nếu chúng ta không quấy nhiễu tâm, để nó tự vận hành, thì nó sẽ tự đi vào định. Đây là một yếu tố tự nhiên của tâm. Hành giả có thể an trú trên tầng thiền định thứ nhất, nhưng cứu cánh là hành giả phải tiến đến tầng thiền định thứ nhì. Thái tử sau khi an trú ở sơ thiền khoảng một tuần thì Ngài bắt đầu chuyển sang nhị thiền.
 
2) Nhị thiền (Second Jhana): “Diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm.”.
 
Tuần lễ thứ nhì, Thái tửbắt đầu đi vào tầng thiền định thứ hai.
 
Qua đến tuần lễ thứ nhì, Thái tử không còn chú tâm vào hơi thở nữa, nhưng Ngài vẫn tiếp tục an trú trong Định. Cái khác nhau là Thái tử bây giờ vẫn an trú trong Định mà không còn hướng tâm và bám chặt tâm vào hơi thở nghĩa là Định mà Thái tử có bây giờ là Định không Tầm không Tứ. Tuy Thái tử không còn chú tâm đến hơi thở như trong Sơ thiền, nhưng Ngài vẫn còn biết một cách thầm lặng hơi thở ra vào đều đặn nghĩa là hít vào Ngài biết hít vào, thở ra Ngài biết mình đang thở ra. Khi tâm của Thái tử còn nhận biết hơi thở ra, vào là do tánh xúc chạm nơi mũi tức là cảm thọ. Đây là tầng định quan trọng nhất trong tất cả bốn tầng thiền định vì từ đây hành giả chỉ thêm bớt đề mục thì sẽ chuyển qua tầng thiền định kế tiếp.
 
Đến đây, Thái tử diễn tả là Ngài có nhiều hỷ lạc do Định sanh hơn tầng thiền thứ nhất. Khác với sơ thiền, có hỷ lạc là do Ly dục ly bất thiện pháp, còn hỷ lạc của nhị thiền là do Định phát sinh. Ngày nay khoa học có thể giải thích sự hỷ lạc này cũng giống như chất Dopamine làm cho con người có những giây phút lân lân, khoan khoái, sung sướng. Định của Phật giáo là do công phu tu tập mà có trong khi dùng hóa chất để kích thích sẽ làm cho hệ thống não bộ càng ngày càng suy yếu, thân tâm suy nhược. Khi con người dùng cocaine, methamphetamine…thì những hóa chất này sẽ kích thích hệ thống não bộ tiết ra chất Dopamine làm cho họ có những cảm giác lân lân (high),đê mê trong thời gian ngắn. Nếu muốn tiếp tục hưởng những cảm giác đó thì họ trở thành người nghiện ngập, biến cuộc sống trở thành điên đảo, vô định hướng. Ngược lại, hành giả vào các tầng thiền định cũng cảm nhận những niềm vui, cảm giác thanh thoát, nhẹ nhàng, hạnh phúc.
 
Lý do Thái tử thành công nhanh chóng vào sơ thiền và nhị thiền là do những kinh nghiệm mà Ngài đã thu thập thiền từ khi còn bé, khi Ngài còn tu khổ hạnh và sau cùng là Ngài có cuộc sống trong sạch, đạo đức, không dính mắc gì trong cuộc đời. Đó là những yếu tố giúp Ngài chuyển từ sơ thiền sang nhị thiền một cách nhẹ nhàng, không có gì khó khăn cả.

Tóm lại, sau khi chứng và an trú sơ thiền, bây giờ hành giả tiếp tục hành trì bằng cách diệt tầm diệt tứ. Hành giả lúc đó sẽ chìm vào trong trạng thái định và tâm rất an bình mà không cần bám víu vào bất cứ đề mục nào nữa. Lúc ấy hành giả chứng và an trú vào tầng thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh và dĩ nhiên không tầm, không tứ nghĩa là lúc đó hành giả sẽ không còn bất cứ điều gì suy nghĩ trong đầu cả tức là ý thức bị diệt, buông xả tất cả. Đến đây hành giả sẽ đạt được trạng thái nội tĩnh nhất tâm.

3) Tam thiền (Third Jhana): “Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba.”.

Ở tầng thiền thứ hai, Thái tử cảm nhận hỷ lạc do Định sanh mà hỷ lạc là do cảm thọ mà có được, nhưng từ Thọ sẽ chuyển qua Tưởng và sau đó Tưởng tức là tri giác sẽ trở thành Tầm tức là trở lại tầng thiền thứ nhất. Do đó, muốn tiến xa thì Thái tử bây giờ phải buông hỷ lạc, không để ý đến niềm vui nữa và từ đó Ngài mới bước qua tầng thiền định thứ ba. Khi mắt thấy, tai nghe, mũi ngữi…những đối tượng bên ngoài thì tâm phát sinh ý niệm. Bây giờ, nếu không thấy, không nghe, không ngữi thì chúng ta dặp tắt những ý niệm từ bên ngoài rất dễ dàng. Tuy nhiên,Tưởng là cảm thọ từ bên trong nội tâm nên rất khó buông xuống. Khi ngồi thiền, tâm lắng đọng thì hành giả sẽ biết được những cảm thọ từ bên trong khiến vọng tưởng dấy khởi tức là hành giả bị dính mắc nơi cảm thọ.
Vì tầm quan trọng đó, nên đến đây Thái tử phải chấm dứt mọi cảm thọ. Và đến tuần thứ ba, Thái tử bước sang tầng thiền định thứ ba.
Đến tầng thiền thứ ba này, Thái tử không còn Tầm không còn Tứ mà Ngài chú tâm để loại bỏ hết mọi cảm thọ. Thái tử thực hành “Ly hỷ Trú Xả” nghĩa là gạt bỏ niềm vui trong tâm, không có thích thú nữa, trú xả có nghĩa là không chấp bất cứ ý niệm nào, chỉ biết những biến hành trong thân của mình một cách trung thực chẳng hạn như trạng thái lạc thì biết rằng thân mình có lạc hoặc trạng thái khổ thì biết rằng thân mình có khổ, nhưng đến tầng thiền này thì trạng thái khổ sẽ không còn nữa mà chỉ có lạc. Vì vậy tầng thiền định này gọi là Chánh niệm Tỉnh giác. Ở đây chúng ta gọi Chánh Niệm, nhưng trên thực tế thì Kinh điển chỉ gọi là Niệm tức là cái biết rõ ràng đầy đủ. Nói cách khác, lúc bấy giờ mình nhận biết tất cả những biến hành bên ngoài và bên trong tâm của mình nhưng không dính mắc bất cứ cái gì cả. Tỉnh giác là luôn luôn thức tỉnh để quan sát và hiểu biết chuyện gì đang xảy ra trong cơ thể của mình. Tỉnh giác cần phải có chánh niệm bởi vì nếu niệm bây giờ nghiêng về tà niệm thì lúc đó chánh định sẽ biến mất mà trở thành tà định vì thế tỉnh giác cần đi đôi với chánh niệm. Thân của hành giả sẽ có sự lạc thọ phát sinh và ở tầng thiền thứ ba này và cơ thể của hành giả sẽ không còn đau đớn, không còn bực bội, không còn mỏi mệt mà cơ thể hoàn toàn ở trạng thái thoải mái, khinh an, thanh thoát. Kinh điển gọi trạng thái này là xả niệm tức là bỏ hết ý niệm, lạc trú tức là trú trong an lạc và hành giả lúc ấy chứng và an trú tầng thiền thứ ba.
Điều quan trọng nhất ở tầng thiền thứ ba là Thái tử phải làm chủ cảm thọ. Ở ba tầng thiền định, hỷ lạc càng lúc càng tăng, nhưng Thái tử không dính mắc vào cảm thọ hỷ, lạc nghĩa là biết có hỷ lạc nhưng không dính mắc. Ngoài ra, từ đầu Thái tử đã thực hành pháp quán hơi thở mà hơi thở là do xúc chạm ở thân cho nên đến đây Ngài không để ý đến hơi thở nữa. Nhắc lại ở tầng thiền định thứ nhất và thứ hai Ngài còn chủ động hơi thở nghĩa là hít vào Ngài biết Ngài đang hít vào, thở ra Ngài biết Ngài đang thở ra. Hoặc Ngài thở hơi dài hay hơi ngắn Ngài đều có thể chủ động hơi thở của mình được. Đến tầng thiền định thứ ba thì Ngài bắt đầu buông hơi thở nghĩa là Ngài không còn chủ động hơi thở của mình nữa. Đến đây hơi thở bắt đầu nhẹ nhàng, nhỏ lại. Dần dần nhỏ lại đến một thời điểm nào đó lá phổi cảm nhận thiếu dưỡng khí (O2) cho nên lá phổi gởi tín hiệu lên trên hệ thống thần kinh não bộ. Từ đó hệ thống thần kinh não bộ khiến các tế bào của phổi hoạt động (co giản) để đưa dưỡng khí vào phổi. Đến khi đủ dưỡng khí thì nó ngừng và cứ thế mà nó tiếp tục cung cấp dưỡng khí mỗi khi phổi gởi tín hiệu lên phần não bộ. Nên nhớ trong giai đoạn này, Thái tử không còn chủ động hơi thở của mình nữa cho nên Thái tử gọi thời gian này là Tịnh tứcnghĩa là hơi thở yên tịnh.
4) Tứ thiền (Fourth Jhana): “Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.”.
Đến đây Thái tử hoàn toàn bất động nghĩa là thân, tâm hoàn toàn bất động cho nên tứ thiền còn gọi là Định bất động. Định bất động nghĩa là ba hành không động.
-Ngôn hành: Bất cứ cái gì cấu tạo nên lời nói đều nằm ở trong đầu tức là Tầm và Tứ. Nhưng Thái tử đã diệt Tầm và Tứ trong tầng thiền định thứ hai rồi. Do đó kết quả của tầng thiền định thứ nhì là ngôn hành không động nghĩa là không còn nói.
-Ý hành: Cấu tạo của ý là Thọ và Tưởng, nhưng Thái tử đã làm chủ cảm thọ cho nên Thọ và Tưởng yên lặng ở tầng thiền định thứ ba vì vậy đến đây trong tâm của Ngài không có ý thức phát hiện.
-Thân hành: Ở tầng thiền thứ tư thì có thêm thân hành cũng không động. Thân hành không động ở đây có nghĩa là không còn hơi thở chớ từ tầng thiền định thứ nhất thì Thái tử đã ngồi thật yên lặng, không nhút nhích rồi. Đến đây hơi thở của Thái tử cũng yên lặng luôn nên gọi là Tịnh tức.
Trong tầng thiền định này hỷ lạc còn nhiều hơn nữa nhưng Ngài không dính mắc vào nó.

Tóm lại, ở tầng thiền thứ nhì hành giả có hỷ, lạc rồi đến tầng thiền thứ ba hành giả bỏ hỷ mà chỉ có lạc. Đến tầng thiền thứ tư hành giả phải bỏ luôn lạc, bỏ luôn khổ nghĩa là phải bỏ hết, đừng cảm thọ những lạc thọ của thân nữa và ngay cả những cảm giác khổ nào ở trong thân thì cũng bỏ đi, diệt hỷ, diệt ưu (tuy niềm vui, hay đau buồn đã được bỏ ở tầng thiền thứ nhì, nhưng nếu hành giả không chú ý thì nó sẽ trở lại cho nên ở tầng thiền thứ tư hành giả phải bỏ hết) do vậy hành giả sau khi xả lạc, xả khổ rồi còn phải diệt cả hỷ, diệt cả ưu để cho hết các cảm thọ của thân, tâm. Nói chung, hành giả phải bỏ hết, không bám víu vào hạnh phúc, không đau khổ bực tức vì nghịch cảnh, không còn cảm thọ của thân và cảm thọ của tâm. Đến đây hành giả không khổ, không lạc, không hỷ, không ưu, xả niệm thanh tịnh (buông bỏ hoàn toàn tất cả ý niệm nghĩa là nếu có lạc đến thì hành giả cứ bình thản, nếu có khổ, có hỷ hay có ưu đến thì hành giả vẫn bình thản lúc nào cũng ở trạng thái xả) thì hành giả chứng và an trú tầng thiền thứ tư. Đến đây thân, tâm của hành giả hoàn toàn trong sáng, không lạc, không khổ, không hỷ, không ưu, nhưng hành giả vẫn biết với tâm rất thanh tịnh, thanh thoát, nhẹ nhàng.

Thế thì dựa theo tiến trình trên, Thái tửtrước hết ly dục ly bất thiện pháp, buông xả tất cả,tâm của Ngài hoàn toàn trong sáng, không lạc, không khổ, không hỷ, không ưu và sau cùng Ngài đắc tứ thiền, tâm hoàn toàn thanh tịnh. Nhưng đối với Phật giáo, Định không phải là mục đích sau cùng bởi vì cứu cánh tối thượng của đạo Phật vẫn là Trí tuệ (wisdom). Tiến trình Giới (đạo đức) - Định (thanh tịnh)  - Tuệ (trí tuệ) thì trong đó Định đóng vai trò cũng quan trọng, nhưng việc đạt được Định không đưa lại sự giải thoát vì Định chỉ có thể thanh lọc tâm ở những trạng thái bình thường chớ không thể phá vỡ những tập khí, hành động hay phiền não núp sâu thẳm trong tâm. Vì thế, vào thời Đức Phật còn tại thế, ngoài Phật giáo ra còn nhiều tôn giáo khác có thể đưa hành giả vào định đắc Tứ thiền, xa hơn nữa có rất nhiều ngoại đạo cũng luyện được năm thần thông, nhưng họ đâu có giải thoát. Do đó, một hành giả chứng tứ thiền, có thần thông nhưng chưa chắc đã đắc một Thánh quả nào. Vì thế đối với thế gian khi thấy một người có thể đi trên nước, bay trên không, độn thổ, đi xuyên qua tường, qua núi…thì chúng ta nghĩ rằng họ là Thánh thần hay tiên giáng thế. Tuy nhiên, đối với Phật giáo thì những thần thông kia không có gì quan trọng vì họ cũng chỉ là phàm nhân mà con đường giải thoát giác ngộ mới thật sự là cứu cánh tối thượng đưa hành giả trở thành Thánh nhân.

Đến đây, Thái tửđã chứngTứ thiền, nhưng trong Phật giáo Tứ thiền không phải là Thánh giả hay người giải thoát mà hành giả phải tiếp tục loại bỏ 10 kiết sử và sau cùng mới đắc Thánh quả được.

Làm thế nào Thái tử Tất-Đạt-Đa đắc Tứ Thánh quả?

Đây là điểm đặc thù mà chỉ có Phật giáo mới có và Đức Phật là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã khám phá ra Thiền quán để hóa giải tất cả 10 kiết sử đã cột chặt con người vào trong thế giới khổ đau. Đọc 16 Đề Mục Thiền Quán ở phần sau.
Vậy thế nào thiền quán?

Thiền quán là con đường đơn giản và trực tiếp để nhận biết “thế giới hiện thực như nó đang là” tức là “thực tánh pháp” nghĩa là cái thấy biết trung thực, không bị bóp méo bởi những tư tưởng hay định kiến của con người. Nói cách khác, Thiền trong Phật giáo không phải quán chiếu để tìm những phát minh cho thế giới vật chất mà hành giả xoay ngược vào tâm để quán chiếu về mặt tâm linh và trí tuệ để thấy biết rốt ráo con người thật của mình.
 
Muốn trở thành Thánh giả trong Phật giáo, hành giả có thể đi qua hai con đường:

1)Nếu hành giả đắc Tứ thiền và đọan trừ 10 kiết sử bằng cách tu theo 16 Tuệ Minh Sát của Thiền quán thì trở thành bậc A la hán và có lụcđại (sáu) thần thông.
2)Nếu hành giả không qua Tứ thiền mà tu theo thiền Trí Tuệ với 16 tuệ Minh sát, đoạn trừ 10 kiết sử thì cũng trở thành bậc A la hán, nhưng vị này không có thần thông.
Nói chungtrong Phật giáo, có 10 kiết sử (chướng ngại) là:
_Thân kiến (sakkàya-ditthi): tin rằng ngũ uẩn là Ta và tin cái ngã thật sự hiện hữu.
– Hoài nghi (vicikicchà):không tin vào Chánh Pháp của Đức Phật.
– Giới cấm thủ (silabata-paràmàsa): tin tưởng và thực hành sai lầm vào giáo điều cực đoan.
– Tham đắm vào cõi dục (kàma-ràga): Ngũ dục lànăm thứ ham muốn của thế gian:
Tài dục: tham muốn cho có nhiều tiền bạc, của cải, vàng ngọc, tài sản vật chất.
Sắc dục: đắm say, đam mê sắc đẹp mỹ miều.
Danh dục: tham muốn địa vị, quyền cao chức trọng, danh thơm tiếng tốt.
Thực dục: tham muốn ăn uống cao lương mỹ vị.
Thùy dục: tham muốn ngủ nghỉ nhiều.
– Sân hận (vyàpàda): tức giận, thù hằn.
– Tham đắm vào cõi sắc (rùpa-ràga): đam mê vào cõi chúng sinh có thân và tâm.
– Tham đắm vào cõi vô sắc (arùpa-ràga): đam mê vào cõi chúng sinh không có thân, họ sống bằng Thức.
– Mạn (màna): tự phụ cho mình là cao quý, giỏi hơn người hoặc là mình thua kém người khác ở một phương diện nào đó  nhưng vẫn không chịu thua và còn cho mình là bằng người…
– Trạo cử vi tế (uddhacca): Thân tâm lăng xăng, xao động không yên. Đồng thời, nó là một trong năm triền cái, ngăn trở công phu thiền định. Nó cũng gọi là trạo hối. Vì hối hận nên thân tâm không yên. Hối hận vì đã làm điều gì không phải, bất thiện hoặc là hối hận vì đã không làm điều phải, điều thiện.
– Si vi tế (avijjà): những si mê sâu thẳm núp sâu tận trong tâm thức của conngười.

Thánh giả dựa theo Phật giáo là người có thể vượt qua những kiết sử ở trên và tùy theo khả năng đoạn trừ các lậu hoặc mà có bốn tầng Thánh như sau:
           
1)Thánh quả Tu đà hoàn (Sotāpanna)hay Quả Nhập Lưu: là tầng Thánh đầu tiên vì vị này đã “Mở con mắt của Pháp” hay gọi là “Pháp nhãn” bởi vì vị ấy đã có thanh tịnh về quan kiến và trực nhận rõ ràng Chánh Pháp của Đức Phật sau khi vị ấy đã diệt trừ ba kiết sử đầu tiên là thân kiến, hoài nghi, và giới cấm thủ. Lúc bây giờ, vị ấy sẽ không còn nghĩ mình là một bản thể riêng biệt và thường tồn về cả hai phương diện sắc thân và tâm thức. Vị ấy sẽ không còn hoài nghi về Chánh Pháp và về sự giác ngộ của Đức Phật cũng như con đường mà Đức Phật đã vạch ra để hướng về giải thoát giác ngộ. Đức Phật lúc nào cũng khuyến khích chúng sinh biết tư duy, luận giải và chứng nghiệm để thấy, biết rõ ràng sự lợi ích của Phật Pháp vì đạo Phật là đạo đến để thấy, biết chớ không phải đến để tin. Loại trừ Giới cấm thủ ở đây không có nghĩa là thái độ phóng túng, không giữ gìn giới hạnh mà chỉ xem giới luật như là một phương thức để luyện tâm, nhưng đừng quá mù quáng lệ thuộc vào các hình thức giáo điều. Vì thế người đã phá bỏ được giới cấm thủ là một người lúc nào cũng có giới đức trong sạch, luôn sống thảnh thơi trong giới đức trong sạch đó nhưng không xem giới đức là gánh nặng trên con đường hành trì của họ.

2)Thánh quả Nhất lai Tư đà hoàn(Sakadāgāmi):Sau đó, vị ấy tiếp tục trừ khử bớt (giảm nhẹ) tham dục (tham dục trong giai đoạn này là tham đắm vào dục giới tức là thế giới ham muốn mà chúng ta đang sống) và sân hận thì vị đó đắc quả Nhất lai nghĩa là vị ấy chỉ có thể tái sinh trong đời này một lần nữa.

3)Thánh quả Bất lai A na hàm (Anāgami): Đến đây nếu vị Thánh giả ấy loại bỏ hoàn toàn hai kiết sử tham dục và sân hận ở trên thì vị ấy chứng quả Bất lai nghĩa là vĩnh viễn không còn tái sinh nữa. Lý do con người còn tái sinh là vì chúng ta còn tạo nghiệp cho dù là thiện hay bất thiện. Còn tạo nghiệp là còn nguyên nhân để tái sinh mà thọ lãnh hạnh phúc hay khổ đau do chính họ đã gieo trong kiếp quá khứ. Vì thế nếu hành giả thật sự loại bỏ hết tham dục và sân hận trong cõi đời này thì cái nguyên nhân để tạo nghiệp chấm dứt. Không còn nghiệp thì vị ấy đã tự mình chặt đứt dây sinh tử luân hồi.

Tóm lại, một hành giả nếu loại trừ năm kiết sử đầu là “Thân kiến, Hoài nghi, Giới cấm thủ, Tham đắm vào cõi dục và Sân hận” thì vị ấy trở thành Thánh giả A na hàm. Năm kiến sử đầu tiên này còn có tên là “hạ phần kiết sử” (orambhàgiya-samyojana) trói buộc con người trong cõi dục này(thế giới đầy hấp lực mà chúng ta đang sống).

4)Thánh giả A la hán (Arahant): Bây giờ nếu vị ấy tiếp tụchành trì thanh lọc tâm ý và tinh tấn loại trừ năm kiết sử còn lại là “Tham đắm vào cõi sắc, Tham đắm vào cõi vô sắc, Mạn, Trạo cử vi tế, Si vi tế”thì vị ấy trở thành Thánh giả A la hán. Năm kiết sử này gọi là “thượng phần kiết sử”(uddhambhàgiya-samyojana) cột trói con người vào cõi sắc và cõi vô sắc.

Bốn tầng thiền cõi sắc (Jhana with form) là: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền. (Xem phần trên).
Bốn tầng thiền của cõi vô sắc (Jhana without form) là:
-Không vô biên xứ (The Sphereof Infinite Space): Sự tương quan giữa tầng thiền đầu tiên trong thế giới vô sắc và sơ thiền trong thế giới dục lạc là những chứng nghiệm về những dục lạc phát khởi từ thân. Vì thế trong thiền định vấn đề tương quan về sự hiện hữu giữa thân và tâm sẽ được nhận biết. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta luôn giữ gìn cho thân, lo lắng cưng chìu cho thân và cố gắng thỏa mãn những đòi hỏi, nhu cầu của nó. Nhưng ở đây, khi hành giả đi sâu vào thiền định thì họ sẽ đánh mất những cảm nhận về thân như là một cá thể riêng biệt. Đó là sự nhận thức về một cảm giác của không gian vô tận mà trong đó không có thân của một cá nhân nào hay thân của của ai khác được cảm nhận rõ ràng. Nói cách khác, trong không gian vô tận, vô cùng thì hành giả nhận biết rằng lòng tin vào cái thân cá biệt này hay vào thân các cá nhân khác chỉ là ảo tưởng. Cũng như bong bóng nổi lên từ mặt biển. Ban đầu chúng ta có cảm giác rằng trong đại dương rộng lớn kia có vô cùng vô tận những bong bóng nổi lên. Khi đang nổi lên trên mặt biển, bong bóng sẽ nghĩ rằng mình là một cá thể riêng biệt, nhưng chúng quên đi rằng chúng nổi lên từ đại dương vô tận và sẽ chìm trở về lòng đại dương đó với sự hiện hữu ngắn ngủi giới hạn. Vì thế, trong không gian vô tận này, không có gì ngoài không gian cho nên nếu tin vào thân cá biệt này hay thân của các cá nhân khác chỉ là ảo tưởng, không bao giờ có thật.

-Thức vô biên xứ  (The Sphere of Infinite Consciousness) nghĩa là thức vô tận. Ở tầng thiền trên hành giả cảm nhận được không gian vô tận thì đến tầng thiền này hành giả sẽ cảm nhận thức cũng là vô tận. Thức vô biên khiến hành giả cảm nhận rằng không có một tâm thức cá biệt nào hiện hữu. Không có một cá nhân nào với tâm và thân riêng biệt. Thức vô biên cho ta một chứng nghiệm khi ta không còn bị chi phối bởi ý niệm về “Ngã”. Sự chứng nghiệm của Thức vô biên khiến cho ta không còn chi phối ý niệm về “Ngã” cho nên chúng ta sẽ không phải là gì, sẽ không hoàn thành điều gì, sẽ không phải biết, sẽ không hành động và dĩ nhiên sẽ không phải trở thành gì cả. Nói cách khác, những áp lực về “Ta” (bản ngã) lúc đó sẽ không còn nữa và sự phát triển của tâm thức sẽ không còn những ý niệm riêng tư nào cho riêng “Ta”. Ý thức duy nhất bây giờ là sự nhận biết, biết tất cả nhưng nó không phải là của “Tôi”.

-Vô sở hữu xứ(The Sphere of No-thingness): Ở tầng thiền định này đưa hành giả vào cõi “Không” nghĩa làhành giả nhận thấy rằng không những không có người nào, mà cũng không có “vật” gì. Tính “Không” ở đây là nó không hiện hữu vào thời điểm nào đó khi hành giả quán sát, chớ không phải nó không bao giờ có, đồng nghĩa với không rỗng toét. Thí dụ trước khi đi làm thì trong phòng khách chưng bày đầy đủ nào là ghế này tủ kia đủ màu đủ sắc, nhưng trong khi chúng ta đi làm có người ăn trộm chở hết tất cả đồ đạt đem đi. Khi chiều về đến nhà thì cũng căn phòng đó, chúng ta thấy đồ đạc biến mất, không còn cái gì cả. Vì thế không là nó không có vào thời điểm đó, nhưng trước đó nó vẫn có. Trong Không vô biên xứ cũng như trong Thức vô biên xứ, không có gì mà ta có thể nắm bắt hay níu giữ; không có một thể khối rắn chắc nào trong vũ trụ. Hành giả sẽ nhận ra rằng cái Không mà hành giả đang chứng nghiệm là hoàn toàn vắng lặng mọi cảnh, không có gì ở đó để cho ta bám víu cái này là của Tôi để giữ chặt bên mình.

-Phi tưởng phi phi tưởng xứ (The Sphere of Neither Perception nor Non-perception): nghĩa là không phải tưởng cũng không phải không tưởng. Dù hành giả tưởng thân tâm là rỗng tếch, nhưng đây vẫn là tưởng. Sau cùng tiến lên đến chỗ không có tưởng mà không phải không tưởng. Đến tầng thiền định này thì cái tưởng về an tịnh của tứ thiền cũng không còn mà thay thế bằng sự vắng lặng như là một trạng thái tâm đang ngưng đọng và lúc đó hành giả sẽ cảm thấy tâm tràn đầy năng lượng. Đến đây hành giả sẳn sàng buông bỏ cái ngã của mình, buông bỏ mọi chấp kiến về “Ngã” đó là bây giờ Ta là ai, sẽ là ai và có thể sẽ là ai? Khả năng buông bỏ dù chỉ là trong khoảng khắc vẫn là sự tập luyện tối cần thiết trên con đường dẫn tới giải thoát, an tịnh hoàn toàn.

-Tầng thiền thứ chín làDiệt Tận Định:Đến đây không còn tưởng thô, tưởng không, tưởng thức mà chỉ có tưởng vi tế, tức là tưởng rỗng tếch. Còn cái tưởng đó cũng phải bỏ mới qua Diệt Tận Định. Diệt Tận Định là ở trong định mà hành giả không có cảm thọ và không có tri giác tức là không có sự hiện diện của thọ và tưởng.Đây là tầng thiền định duy chỉ có Phật giáo mới có. Đó là vô tướng tâm định nghĩa là ở đó tâm nó không có tướng. Nếu hành giả an trú và chứng được tầng thiền định này thì gọi là vô tướng tâm định mà Phật giáo gọi là diệt Thọ Tưởng định. Nói cách khác,ở trong tầng thiền này hành giả diệt mọi cảm thọ, diệt Tưởng. Bấy giờ hành giả chỉ có Sắc, Hành và Thức mà thôi. Diệt tận địnhđôi khi cũng được gọi là tầng thiền định thứ 9.

Tóm lại, có tất cả 9 tầng thiền định, 4 tầng cho cõi sắc, 4 tầng cho cõi vô sắc và sau cùng là thiền định sau khi đã diệt sạch những cảm thọ và tư tưởng trong tâm.

16 Đề Mục Thiền Quán

Tuệ quán hay còn gọi là Thiền quán, Thiền Minh Sát là một tiến trình tu tập rất phức tạp cho nên Tôn giả Xá Lợi Phất diễn tả trong Tiểu Bộ Kinh rất chi tiết về 73 loại trí vì thế sự giác ngộ vào thời Đức Phật còn tại thế là sự tu tập viên mãn các loại trí đó. Trí có thể được hiểu như là khi tuệ đã hoàn mãn. Dựa theo pháp tu Thiền Quán (Thiền Minh Sát)(Thiền Trí Tuệ) (Vipassana) muốn phát triển trí, có 16 Tuệ Minh Sát cần phải tu tập để đạt đến tứ quả Thánh bởi vì Trí tuệ là yếu tố trực tiếp đưa đến giải thoát giác ngộ sau cùng trong khi đó Giới và Định chỉ đóng vai trò gián tiếp. 16 tuệ đó là:
1)Tuệ phân tích Danh Sắc: quán chiếu thân và tâm đềuvô ngã,không có cái Ta.
2)Tuệ phân tích nhân quả: quán rằng mình muốn đi. Tâm muốn đi là nhân, chân bước đi là quả nghĩa là Tâm muốn là Danh, chân đi là sắc cho nên Danh là nhân và Sắc là quả.
3)Tuệ suy xét thấy danh sắc vô thường, khổ, vô ngã: Ở tầng tuệ này là do sự suy xét mà thấy chớ không phải thấy bằng trí tuệ. Suy xét thấy thân ngày nào tráng kiện mà giờ đây lưng mỏi gối mòn da nhăn má hóp. Khi còn trẻ thấy đâu nhớ đó, bây giờ nhớ trước quên sau thế thì thân và tâm đều vô thường, hoại diệt. Bất cứ ai sống trền đời cũng đều phải đối diện với biết bao nỗi khổ của sinh, già, bệnh, chết. Vào thời Đức Phật còn tại thế, có những vị Tỳ kheo đến những bải tha ma hoang vắng hoặc những chỗ thiêu xác người để chính họ tự quán sát sự hoại diệt vô thường của thân xác. Khi thấy xác chết cháy từ từ, từng phần từng phần trở thành tro bụi thì họ sẽ tự ngộ, tự giác thế nào là vô thường, thế nào là vô ngã và sau cùng tại sao cuộc đời có quá nhiều khổ đau. Đây là thiền quán thực tiển nhất đưa hành giả đến chỗ giải thoát giác ngộ. Ngày nay, muốn giảm bớt tánh tham, tật đố thì chúng ta nên đến nghĩa địa để quán sự sống chết của một đời người. Cho dù trong cuộc sống, chúng ta có tranh giành, hơn thua để đem lợi về cho mình thì đến khi xuôi tay nhắm mắt, của thế gian cũng phải trả lại hết cho thế gian. Chúng ta đến thế gian này với tấm thân trần trụi và khi ra đi cũng với hai bàn tay trắng.Khi ta sinh ra, mọi người cười còn ta thì khóc, bây giờ hãy sống sao cho khi ta chết đi rồi, mọi người khóc còn ta thì cười nghĩa là ta phải sống sao cho đáng sống, sống sao cho khi ta chết đi, ta có thể thanh thản, mỉm cười nơi chín suối.

Cuộc đời thì mơ ước mong đợi từ tất cả mọi lãnh vực. Có khi mơ ước thành sự thật thì hạnh phúc quá mong manh, chợt đến chợt đi rốt cuộc rồi lo lắng, buồn phiền. Còn ước mơ mà không được thì dĩ nhiên quá khổ. Đó là chưa kể cái khổ này chưa hết nỗi khổ khác lại đến…Thế gian, nhân sinh vũ trụ đều là sự cấu hợp của biết bao nhân duyên cho nên vạn vật không có tự thể tức là vô ngã. Nếu tuệ này mạnh thì có mười vi tế phiền não phát sinh làm cho Thiền Minh Sát ô nhiễm hay lu mờ khiến cho hành giả không biết đó là phiền não mà ôm lấy nó cho là vật cao quý, dính ở đó, không tiến tới được. Do tâm ái dục, ngã mạn, tà kiến, cho mình đã đắc đạo quả nên không tiến tới và bị kẹt ở tẩng tuệ thứ 3 này thì gọi là phiền não vi tế. Có 10 vi tế phiền não: Ánh sáng, Phỉ lạc, Sự an vui, Tịnh, Đức tin, Tinh tấn, Trí nhớ, Tuệ, Xả, Vọng.
-Ánh sáng: Khi ngồi tham thiền hay đi kinh hành, ánh sáng phát sinh, có khi yếu ớt như đom đóm, có khi sáng lòa như đèn pha, xẹt qua xẹt lại khiến cho hành giả lầm tưởng rằng mình đắc quả.
-Phỉ lạc: hành giả có thể thấy màu đỏ, ánh sáng bình minh, ngứa ngáy, thân mình lúc lắc, nghiêng qua, nghiêng lại, hất tay, hất chân…Phải niệm “ngứa ngáy…” cho mất phỉ lạc nếu không thì hành giả sẽ dính mắc ở đó.
-Sự an vui: Đây là sự an vui của chư Thiên. Vì chưa từng thấy, hành giả lầm tưởng cho đây là Niết bàn rồi dính kẹt ở đó.
-Tịnh: Lúc niệm thiền quán, hành giả thấy từ từ nhẹ nhẹ, rồi mất, như mê vậy. Hành giả lầm tưởng mê là tịnh, là chứng Niết bàn. Tịnh là thiện pháp, nhưng bởi do hành giả còn tham dục, ngã mạn, tà kiến…cho nên gọi là vi tế phiền não.
-Đức tin: Lúc hành giả đang hành tầng tuệ thứ 3, đức tin phát sinh khiến tâm lo lắng quá nhiều cho tương lai hay quan tâm cho quá khứ mà quên đi giây phút hiện tại cho nên hành tuệ không đến nơi đến chốn. Vì thế đức tin biến thành vi tế phiền não.
-Tinh tấn: Quá sức tinh tấn, không biết mệt mỏi, không nghỉ ngơi, quá sức lại ít ngủ khiến cho hành giả kém trí nhớ, có hại cho sức khỏe thì cũng là vi tế phiền não.
-Trí nhớ: Hành tầng tuệ thứ 3 làm chotrí nhớ phát sinh khiến hành giả thấy mình sáng suốt, hiểu biết nhiều. Rồi từ đó nhớ những chuyện viễn vông ở quá khứ, lơ là không tiếp tục thiền quán cho đến nơi đến chốn thì cũng là vi tế phiền não.
-Tuệ: Trong lúc thiền quán thì trí tuệ phát sinh để biết rằng Danh Sắc đều trống không, không phải là Ta hay là của Ta. Hành giả nghĩ rằng sau này mình sẽ thông thái, biện tài vô ngại mà quên đi hành thiền. Đó cũng là vi tế phiền não.
-Xả: Khi thực hành xả, hành giả thấy mình có tâm  bình thản, không buồn, không vui. Thấy thế sự dửng dưng, không thỏa thích cũng không giận hờn khiến hành giả nghĩ mình đã đắc đạo vì không còn phiền não khuấy động. Nghĩ như vậy là không đúng vì hành giả chưa đắc gì cả.
-Vọng: Trong khi thực hành thiền quán, hành giả muốn thấy lại những hình ảnh. Thí dụ người có tâm tham, thường thấy cảnh đẹp đẽ. Người có tánh si thường thấy những cảnh lu mờ, không sáng tỏ. Hoặc những người có tánh sân thường thấy thú dữ, hay những cảnh đáng ghê sợ. Những hình ảnhđó đều là vi tế phiền não chớ không phải đắc đạo.
Nói chung, trong 10 loại vi tế phiền não trên, hành giả có khi chỉ có 1 hay vài, ít khi có đủ 10 loại.
4)Tuệ thấy về sinh và diệt của Danh, Sắc: Thân thì càng ngày càng cỗi rồi sau cùng hoại diệt. Còn tâm thì không thật cho nên tâm luôn sinh diệt trong ta. Ý niệm, cảm thọ, hành tác luôn biến đổi sinh diệt. Vì sự vô thường hoại diệt của Danh Sắc cho nên Đức Phật dạy rằng: "Người thấy Pháp Sanh-Diệt của Danh Sắc, dù là có sanh mạng chỉ trong một ngày, cũng quí báu hơn kẻ không thấy pháp Sanh Diệt của Danh Sắc, sống đến trăm tuổi". (Kinh Pháp Cú).
5)Tuệ quán sự hoại diệt: quán về sự hoại diệt của thế gian, vạn vật.
6)Tuệ sợ hãi: quán thâm sâu những nỗi lo sợ, tận gốc rễ.
7)Tuệ bất toại nguyện: Thế gian này không có gì thật sự là của Ta cho nên càng có nhiều thì càng lo nhiều, giữ dùm cho thế gian cho nên đến khi nhắm mắt của cải thế gian phải trả lại hết cho thế gian. Ngũ uẩn thì sinh diệt cho nên có thân thì phải chịu các bệnh tật, khổ não, không bao giờ hài lòng, thỏa nguyện.
8)Tuệ chán ghét: quán Danh Sắc vô thường vô ngã cho nên cuộc đời luôn bất toại ý.
9)Tuệ ham muốn giải thoát: quán thế gian là vô thường vô ngã cho nên khổ nhiều hơn vui, hạnh phúc có đó rồi mất đó cho nên hành giả muốn hướng về giải thoát, không còn phiền não khổ đau.
10)Tuệ suy tư: tuệ này ôn lại các tuệ trước cho đến khi thấy biết rõ ràng rốt ráo.
11)Tuệ hành xả: quán chiếu sự buông xả để không buồn, không vui, không đam mê ngũ uẩn mà cũng không còn sợ ngũ uẩn. Nếu thiếu tuệ này, không thể đi đến Niết bàn.
12)Tuệ thuận thứ: tuệ này còn có tên là tuệ “Hướng về Niết bàn”. Tuệ hành xả và tuệ thuận thứ quan hệ và giúp đở cho nhau. Đến đây hành giả phải cân bằng ngũ căn là Tín căn, Tấn căn, Niệm căn, Định căn và Tuệ căn.
Tín căn phải đi đôi với tuệ căn bởi vì nếu Đức tin phát sinh nhiều hơn Trí tuệ thì sinh ra tà kiến. Còn Tuệ căn nhiều mà Tín căn ít thì sinh ra hoài nghi.
Tấn căn phải đi đôi với Định căn bởi vì nếu Tinh tấn nhiều hơn Định thì sinh ra phóng tâm. Còn Định nhiều mà Tinh tấn kém thì sinh ra ngủ gục. Tuệ này còn được gọi là tuệ “Ôn lại” từ tuệ thứ 4 đến tuệ thứ 11. Đến đây tâm hành giả phát sinh 37 Pháp chứng quả Bồ đề (Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Bát chánh đạo). Tam tướng phát sinh: đến đây hành giả thấy tam pháp ấn “Vô thường, khổ, Vô ngã” cùng phát sinh một lúc. Đức Phật dạy rằng khi hành giả thấy vô thường thì cũng thấy khổ não, vô ngã. Khi thấy khổ não thì cũng thấy vô thường và vô ngã. Khi thấy vô ngã thì cũng thấy vô thường và khổ não. Nhưng tùy duyên, tùy nghiệp khiến cho hành giả chú ý cái nào nhiều hơn thì thấy cái đó rõ rệt hơn hai cái kia.
13)Tuệ cắt đứt dòng phàm còn gọi là tuệ chuyển tộc: Sau khi quán chiếu từ tuệ thứ 1 đến đây thì hành giả chỉ biết Niết bàn một chút thôi mà nhà Phật gọi là chuyển tánh. Cũng như người đu dây muốn nhảy từ bờ bên này sang bờ bên kia. Khi chân vừa chạm đất của bờ bên kia là cảm biết Niết bàn, nhưng chưa hoàn toàn đạt được cảnh giới đó bởi vì tay vẫn còn nắm dây đu nghĩa là tâm chưa hoàn toàn lìa phàm giới.
Từ tuệ thứ 1 đến tuệ thứ 12 là phàm tuệ.
Từ tuệ thứ 13 đến tuệ thứ 16 là Thánh tuệ.
14)Tuệ đạo: Đến đây mọi phiền não bị cắt đứt. Trong 8 cái tham diệt được 4 còn 4. Trong 2 cái Si diệt 1 còn 1. Trong 2 cái Sân còn nguyên chưa diệt được cái nào. Đến tầng tuệ thứ 14 này thì mọi hoài nghi mới thật sự chấm dứt cho nên hành giả sẽ không còn hoài nghi về tội phước, về thiên đường, địa ngục hay về luân hồi nhân quả.
15)Tuệ quả: Đến đây hành giả đắc quả Tu Đà hoàn hay Nhập lưu. Khi chết sẽ không còn sợ phải đi vào 4 đường ác đạo.
16)Tuệ phản khánghay xem xét lạicòn được gọi là Tuệ “quay nhìn lại” hay “ôn lại” tức là Tuệ kiểm soát phiền não và Tuệ Niết bàn. Đến đây hành giả xem xét lại trong tất cả 12 loại phiền não gồm có 8 tham, 2 sân và 2 si thì cái nào diệt cái nào còn.
Đây là tiến trình liên tục và thứ tự bắt đầu từ tuệ Danh Sắc cho đến khi hành giả trực nhận tuệ Thuận thứ (tuệ thứ 12) và tuệ chuyển tộc (tuệ thứ 13) thì hành giả nhận biết Niết bàn và trở thành bậc thánh thứ nhất Nhập lưu.
Bây giờ hành giả lập lại từ tuệ thứ 1 cho đến tuệ thứ 15 trừ tuệ thứ 12 là Tuệ chuyển tánhđể loại thêm phiền nãothì lúc đó hành giả đắc quả Tư đà hàm.
Sau đó hành giả quán trở lại từ tuệ thứ 1 cho đến tuệ thứ 15để tiếp tục loại bỏ thêm phiền não,hành giả sẽ đắc quả A na hàm.
Sau cùng,hành giả thực hành trở lại một lần nữa từ tuệ thứ 1 chođến tuệ thứ 15, loại hết hoàn toàn phiền nãothì chứng quả A la hán. Đến đây chấm dứt 16 Tuệ Minh Sát đưa hành giả đến giải thoát giác ngộ.

Tóm lại, khi phá luôn năm kiết sử cuối cùng, một vị A na hàm sẽ chứng quả A la hán nghĩa là đạo đức đã trở thành tuyệt đối hoàn hảo. Vị ấy đã thực hành trọn vẹn Giới, Định, Tuệ và hành trì toàn phần đoạn tận 10 kiết sử. Vị A la hán là bậc trí tuệ viên mãn, giải thoát hoàn toàn khổ đau sinh tử luân hồi nghĩa là vị ấy vĩnh viễn sẽ không còn tái sinh nữa cho nên:“Sanh đã tận, phạm hạnh dĩ thành, bất thọ hậu hữu: “Destroyed is birth, the holy life has been lived, what had to be done has been done, there is no more for this state of being”.

Đến đây, kinh Saccaka tiếp tục diễn tả lại cuộc hành trình đưa Thái Tử đắc tam minh như sau:

1)Trước nhất Ngài đắc Túc Mạng Minh:
“Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh. Ta nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Ta nhớ rằng: "Tại chỗ kia, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, Ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này". Như vậy, Ta nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Này Aggivessana, đó là minh thứ nhất Ta đã chứng được trong đêm canh một, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta”.

Túc là đời trước, mạng là sinh mạng còn minh là sáng suốt. Do đó túc mạng minh là sáng suốt để thấu biết rõ ràng những đời trước của mình. Đây là lời giải đáp câu hỏi con người chúng ta từ đâu mà đến? Đức Phật đã thấy rõ vô số tiền kiếp của mình như việc mới xảy ra hôm qua. Đời trước Ngài là ai? Tên gì? Và sống ở đâu? Từ đó vô số kiếp hiện ra trước mắt Ngài, một kiếp qua đi thì kiếp khác lại đến.

2)Rồi tiếp theo Ngài đắc Thiên Nhãn Minh:
“Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Như vậy Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Này Aggivessana, đó là minh thứ hai Ta đã chứng được trong đêm canh giữa, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta”.

Thiên nhãn minh là con mắt sáng suốt thấy rõ ràng những gì rất xa một cách tường tận. Ngài đã thấy sự sanh tử của chúng sinh dựa trên căn nghiệp mà chính họ đã tạo ra. Sự thấy biết của Ngài như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường thấy kẻ qua người lại một cách rõ ràng. Đức Phật thấy rằng con người chết rồi không phải là hết mà phải theo nghiệp đi tái sinh và thọ báo những nghiệp quả mà chính họ đã gieo từ kiếp trước. Đây là câu trả lời cho nghi vấn rằng sau khi chết chúng ta sẽ đi về đâu.

Trong kinh Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Đức Phật dạy rằng:"Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra; nghiệp là quyến thuộc, là nơi nương tựa”. Như thế, sự hiện hữu của mỗi con người trên thế gian này là sự hiện hữu của nghiệp thiện và bất thiện của họ từ (vô lượng) kiếp quá khứ. Thật vậy, nghiệp chủ động tạo điều kiện để tái sinh trong kiếp hiện tại và cho những kiếp tương lai. Vì thế tất cả mọi khổ vui, thành công, thất bại, tướng diện đẹp xấu, khỏe mạnh hay đau yếu, thông minh hay khờ dại…của con người trong kiếp sống này là sự thọ lãnh những quả nghiệp do chính họ tự tạo tác từ những đời quá khứ, chớ không do bất cứ sự thưởng, phạt của Thượng đế hay Diêm Vương nào cả. Chỉ khi nào thật sự thấu hiểu tường tận về giáo lý Nghiệp thì lúc đó nghiệp sẽ không còn chi phối cuộc sống của chúng ta. Đó là khi gặp nghịch cảnh đau thương thì chúng ta không than Trời, oán Phật và khi thuận duyên hạnh phúc đến thì chúng ta cũng chẳng hân hoan reo mừng bởi vì đó đều là những vận hành của Nghiệp, do chính chúng ta tác tạo. Bây giờ, nếu chỉ nhìn nghiệp bằng một góc độ nhỏ của nhân quả thì luật nghiệp quả của đạo Phật có vẻ như là một số mệnh sắp đặt sẵn bắt buộc con người phải nhắm mắt, xuôi tay chấp nhận.
Nghiệp có thể chuyển được chăng?

Sự huyền diệu của luật Nghiệp quả là nghiệp có thể chuyển cho nên con người mới có thể chuyển từ phàm sang Thánh hoặc từ phàm biến thành ra ác quỷ. Nếu nghiệp không chuyển được thì không ai tu để làm gì? Nếu nghiệp không chuyển được thì Thái Tử Tất Đạt Đa làm sao tu thành Phật? Vì ta là chủ nhân của Nghiệp thì ta có thể sai khiến Nghiệp của mình chớ không phải là nô lệ để Nghiệp sai khiến.
 
Luật nhân quả đã xác định rõ ràng rằng: ”nhân + duyên =quả” (Cause + Conditions = Effect) cho nên nhân tác tạo trong đời quá khứ nếu không kết với những duyên bất thiện hiện tại thì sẽ không tạo thành quả dữ để đưa con người vào cảnh khổ. Cũng như gạo (nhân) mà không nấu (nước và lửa là duyên) thì không thể thành cơm (quả). Do vậy, con người hằng ngày trong cuộc sống, chính mình có thể làm chủ số mệnh của mình bằng cách tạo nhiều thiện duyên và tránh xa duyên ác thì những quả phước thiện đó sẽ đè nén tất cả quả bất thiện khác hoặc nếu quả xấu có hiện hành đi chăng nữa thì nó cũng trở thành nhỏ, không đáng kể, không nguy hại. Cho dù hiện tại chúng ta cảm nhận nhiều nghịch cảnh đau thương vì nó là kết quả của những nhân bất thiện từ đời quá khứ nay đã trổ thành quả. Nếu sống tiêu cực chúng ta chỉ than Trời, trách đất rồi những quả đau thương khác vẫn cứ tiếp tục đến khiến cho cuộc sống thêm khổ đau, chẳng có lợi ích gì. Bây giờ nếu thấu hiểu giáo lý Nghiệp thì bắt đầu chuyển cuộc sống từ tiêu cực sang tích cực nghĩa là chính ta phải tác động chống lại chớ không chịu chấp nhận an phận thủ thường. Nói thế có nghĩa là từ nay con người phải nhận thức sự tai hại và tốt đẹp của nghiệp và nghiệp quả để vun bồi, tác tạo thêm nhiều thiện duyên thì chắc chắn cuộc sống của mình sẽ thăng hoa, hạnh phúc. Nghiệp bất thiện ví cũng như viên thuốc độc, nếu uống vào thì chắc chắn chúng ta sẽ chết. Nhưng nếu bây giờ chúng ta gầy dựng thật nhiều thiện nghiệp ví cũng như tự mình đào một hồ nước rộng, cho dù có bỏ viên thuốc độc đó vào hồ nước rồi múc nước kia uống thì vẫn không hề hấn gì.

Con người từ trong đời quá khứ đã tạo biết bao căn Nghiệp, mà cứ mỗi nghiệp chính là một nét vẽ, một vết mực điểm tô dần dần để hoàn thành bức tranh cho cuộc đời của họ ở đời sau. Một lời nói thiện vừa thốt ra thì lập tức một niềm vui đã hình thành và ngược lại một hành vi ác vừa thực hiện xong thì Luật Nghiệp Quả vô hình cũng lập tức kiến tạo một nỗi khổ để sắp đặt cho họ phải thọ lãnh ở đời sau. Do đó bao nhiêu hạnh phúc, khổ đau, cay đắng hay vinh quang đều đã được hình thành xong từ kiếp trước. Thật vậy,khi con người vừa mới kết tinh vào noãn bào của người mẹ thì hài nhi đã cưu mang một định mệnh do chính nó tạo ra từ kiếp trước. Cái định mệnh vô hình nầy sẽ quyết định mọi thưởng phạt cho cuộc đời của nó khi nó lớn lên. Nhưng đây là một định mệnh không do thần linh áp đặt mà do chính nó tự tạo lấy cho mình. Vậy con người có thể thay đổi được cái định mệnh nầy không?  Hay là với những nghiệp đã hình thành, con người bị sức mạnh của nghiệp cuốn trôi khó mà chống lại?

Để trả lời nghi vấn nầy, trong kinh A Hàm, Đức Phật có dạy rằng:
“Người gây nhân bất thiện, dù đời trước hay sau, nếu họ biết tu tâm, tu thân và tu giới thì quả sẽ đổi thay. Còn nếu người gây nhân bất thiện mà không biết tu tâm, tu thân và tu giới thì gây nhân nào sẽ thọ quả nấy. Đó là nhân nào quả nấy và nếu gây nhân mà biết chuyển nghiệp thì quả cũng đổi thay”.

Chính Đức Phật đã cho chúng ta một nhận định rõ ràng về cuộc sống để chúng ta không còn bận tâm về sự may rủi thành bại trong đời. Nhưng làm thế nào để chuyển nghiệp?

Tâm hồn của chúng ta đã tích lũy biết bao khuynh hướng vị kỷ, tham lam, thù hận, đố kỵ, hơn thua…từ bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp. Vì chúng nó là Ý nghiệp của đời quá khứ nên đời hiện tại tất cả những khuynh hướng bất thiện nầy thúc đẩy chúng ta tiếp tục tạo tác những hành vi bất thiện để đưa chúng ta mãi mãi vào con đường tối tăm tội lỗi. Vậy muốn chuyển nghiệp chúng ta phải cố gắng chuyển hóa nội tâm của mình trước đã, rồi hành động và hoàn cảnh sẽ dần dần thay đổi theo sau.

-Tu Tâm: Trong xã hội có nhiều người nhận thấy cuộc đời của họ không được may mắn, khổ nhiều hơn vui và thường gặp cảnh trái ý nghịch lòng. Vì tin sâu vào luật Nghiệp Quả nên họ công nhận rằng trong đời quá khứ họ ít làm việc phước mà tạo nhiều nghiệp bất thiện.Vì khao khát muốn chuyển nghiệp, họ đi chùa cầu nguyện sự gia bị của thần thánh. Họ cúng dường một mà muốn hưởng phước đức tới mười. Họ cũng chịu khó làm những việc thiện khác, nhưng nội tâm tham lam, ích kỷ vẫn còn nguyên vẹn. Đối với họ thì làm việc thiện vì muốn quả báo tốt cho chính họ chứ không phải tình thương chân thật đối với con người. Chính họ đã xây lâu đài phước thiện trên bãi cát vì nó không xuất phát từ nội tâm thuần thiện nào cả. Theo luật Nghiệp Quả thì đời sau họ sẽ gặp nhiều may mắn, nhưng trong họ bản chất tham lam, ích kỷ vẫn còn và chính bản chất tham lam ích kỷ nầy sẽ thúc đẩy họ làm các việc bất thiện khác.

Vậy tu tâm hay chuyển hóa nội tâm là cố gắng kiềm chế cho được lòng tham lam, tính sân hận,tật si mê và chấp trước…Tham thì có nội tham như tham ăn, tham uống, tham mặc, tham sống lâu…và ngoại tham như tham tiền, tham sắc, tham danh, tham lợi…Ăn thì lúc nào cũng muốn ăn ngon, ăn no đủ, còn ngủ thì phải ngủ cho đủ giấc, hay nệm ấm gường êm… Ai đụng đến chút tự ái là nổi điên và hễ thấy vật đẹp, cao quý thì muốn chiếm lấy. Chấp trước có nghĩa là những gì đi ngược lại với những sở thích của bản ngã. Trên thế gian này, dựa theo tinh thần Phật giáo, không có gì thật sự là hạnh phúc hay khổ đau cả bởi vì nếu chúng ta thỏa mãn cho bản ngã thì chúng ta gọi đó là hạnh phúc, ngược lại nếu làm việc gì không thỏa mãn những đòi hỏi của bản ngã thì chúng ta gọi nó là khổ đau chớ hạnh phúc hay khổ đau tự nó không bao giờ có.Đây là tâm trạng chung của con người vì tham, sân, si đã ăn sâu vào trong tiềm thức của chúng ta từ bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp. Do đó, chuyển hóa nội tâm là phải can đảm từ bỏ dần dần tham, sân, si và chấp trướcđể tâm được sáng suốt. Một khi tâm được sáng suốt thì thân,khẩu,ý trở thành thanh tịnh và từ đó con người sẽ không còn tạo nghiệp nữa.
-Tu Thân:Đức Phật dạy tu thân là thân nầy không làm điều ác dù lớn hay nhỏ đều phải tránh xa. Còn làm điều thiện thì phải cố gắng hoàn thành.
-Tu Giới:Còn tu giới là người Phật tử phải giữ tròn năm giới, đó là không được sát sanh, không được trộm cướp, không được vọng ngữ, không được uống rượu và không được tà dâm. Tuy nói tu tâm, tu thân và tu giới nhưng chủ yếu vẫn là tu tâm. Nếu chúng sinh tu tâm được viên mãn thì mọi nghiệp chướng không còn do đó nghiệp khổ sẽ chấm dứt và cuộc đời sẽ được an vui tự tai.

Đức Phật dạy nguyên nhân của mọi đau khổ là vô minh và ái dục, hay nói một cách khác chính lòng tham lam, sân hận, si mê là nguồn gốc của mọi tranh chấp, oan trái để rồi đem đến những sự lo âu sầu muộn và bất mãn. Con đường chuyển hóa nội tâm thiết thực là chúng ta phải biết giữ mình theo Giới, Định, Tuệ để có thể giảm bớt hoặc loại trừ tham, sân, si thì đời sống sẽ được tự tại bởi vì tu Giới là thực hành sống đời đạo đức thì lòng tham sẽ giảm. Tu Định thì tâm sẽ thanh thoát, nhẹ nhàng, an tịnh từ đó tánh sân hận, tâm đố kỵ sẽ giảm dần. Sau cùng nếu có chánh kiến, phát triển trí tuệ thì những si mê, lầm lạc sẽ biến mất.

Một số người nói rằng điều kiện của một đời sống hạnh phúc là có sức khỏe, có tiền tài và có địa vị trong xã hội, nhưng một đời sống hạnh phúc chân thật chưa chắc đã hoàn toàn dựa vào những điều kiện vật chất như thế. Chẳng hạn như một người mạnh khỏe lại dùng sức mạnh của mình làm những điều tội lỗi thì chẳng được ích lợi gì. Còn người giàu sang mà sống bỏn xẻn, ích kỷ, tham lam vô độ thì chính họ chẳng tìm được hạnh phúc cho chính mình mà còn làm hại đến kẻ khác. Người có địa vị lại lạm dụng quyền hành thì chỉ rước thêm oan trái oán thù mà thôi. Như thế thì tiền tài,danh vọng chưa phải là yếu tố chính cho một đời sống hạnh phúc mà điều kiện tiên quyết để đem lại an vui là phải có tinh thần sáng suốt và lành mạnh. Được tinh thần sáng suốt lành mạnh nầy thì sẽ không còn bị dục lạc, oán thù hay mê loạn chi phối. Vì thế Đức Phật lại dạy rằng:

“Người tùy theo thế tình thức là chạy theo tham cầu danh vọng. Khi được công danh hiển đạt, thì thân thể đã già yếu. Kẻ tham danh lợi ở đời mà không lo học đạo thì chỉ uổng công nhọc xác mà thôi. Ví như cây hương đốt, khi được người ta ngửi thấy mùi thơm thì thân hương đã hóa thành tro bụi, vì lửa nung đốt cháy liền thân hương vậy”.

Muốn chuyển hóa nội tâm được chu toàn thì trước hết chúng ta phải xoay lại quán chiếu “cái bản ngã”của mình tức là Phản quang tự kỷ,cho nên khi làm việc lợi ích cho người thì làm với một tâm niệm vô tư, không dính mắc. Có nghĩa là khi làm việc thiện thì đừng nghĩ đến lợi lạc cho mình mà hướng tâm về sự lợi lạc cho chúng sanh do đó việc thiện đó sẽ mang nhiều thiện quả về sau. Vì thế dựa theo tinh thần Phật giáo,chúng ta nên làm việc phước đức với lòng vô ngã vị tha, tức là làm việc thiện mà không cần quả báo cho mình hay hướng lòng từ bi vềngười khác, thì Luật Nhân Quả chẳng những sẽ đền bù cho ta nhiều phước đức ở đời sau mà còn tạo cho ta một nhân cách cao thượng và một tâm hồn trong sáng để tiếp tục hưởng phước thiện và làm việc thiện.Phước là làm lợi ích cho người mà có,còn Đức là cái tốt của tâm hồn mình (tự tâm). Do đó, người gieo Phước Đức là người làm việc lợi ích cho thế gian với tâm hồn cao thượng nghĩa là làm lợi ích cho người mà không mong cầu có sự đền đáp tức là “Thi ân bất cầu báo” vậy.

Thông thường, do lòng đố kỵ và ích kỷ, chúng ta ít chịu chấp nhận cái hay của người khác vì người khác nổi bật sẽ làm chúng ta bị lu mờ. Chúng ta thờ ơ trước những ưu điểm của kẻ khác và vui mừng khi tìm thấy khuyết điểm của người vì người lu mờ thì ta sẽ nổi bật. Do tâm vị kỷ chúng ta dễ dàng rơi vào cạm bẩy “tán kỷ, hủy tha”, tức là chê người, khen mình. Đây là cội nguồn phát sinh ra phiền não và tạo nghiệp cũng tại vì cái ngã mạn mà thôi. Phải đổi tính vị kỷ nầy bằng tinh thần vị tha (vì người) thì cuộc sống sẽ an vui tự tại. Thấy người giỏi thì khen, thấy người giàu thì mừng, thấy người  khổ giúp đỡ thì tâm không còn phiền não và lòng từ bi xuất hiện để giúp chúng ta tạo thêm thiện nghiệp.

Có người khoe rằng vì nhờ tu thiền hay niệm Phật nên có thể xuất hồn đi ngao du khắp thế giới hay gặp được Phật và Bồ Tát…Ngày xưa trong số đại đệ tử của Phật không ai giỏi thần thông bằng tôn giả Mục Kiền Liên, nhưng thần thông đâu có thắng nghiệp lực cho nên chính tôn giả cũng phải bị bọn ngoại đạo đâm cho đến chết. Do đó chúng ta không quan tâm đến chuyện xuất hồn đi ngao du sơn thủy bởi vì nếu phiền não chưa dứt thì dù có ngao du ở đâu rồi cũng phải trở về trần gian để thọ lãnh quả báo đau khổ như thường.

Do đó người tu Phật không cần phép mầu cao siêu huyền bí, mà điều căn bản là phải tự xét mình để thấy rằng thân làm, khẩu nói và ý tưởng suy nghĩ của mình có hợp với Phật pháp hay không? Nói cách khác khi đối diện với nghịch cảnh thì chúng ta luôn luôn tự hỏi nếu việc đó có hợp với chánh pháp thì chúng ta làm, còn nếu không đúng với chánh pháp thì chúng ta đừng nghĩ tới. Không làm điều ác tức là không gây nghiệp, mà không tạo nghiệp thì khỏi lo đau khổ và chặt đứt dây luân hồi.

Chuyển nghiệp có nghĩa là chuyên làm việc thiện và tránh xa điều ácvàcố gắng giải thoát cái bản ngã vị kỷ thấp hèn để có một đời sống đạo đức xả kỷ, quên mình để sống trọn vẹn vì mọi người chung quanh.

Ở Trung Hoa đời nhà Đường có nhà thơ rất nổi tiếng là Lý Bạch. Vì nghe danh Thiền Sư Ô Sào là một cao tăng đắc đạo nên tìm tới tham vấn. Ô Sào có nghĩa là con quạ đen vì thiền sư thích ngồi trên cháng ba của một cây cổ thụ trên một nắm cỏ giống như một ổ quạ nên từ đó người đời gọi Ngài là Thiền Sư Ô Sào.

Nhà thơ Lý Bạch đứng dưới đất nhìn lên hỏi:
-Bạch Hòa thượng, xin Hòa Thượng dạy cho tôi một phương pháp tu ngắn và gọn để tôi có thể tu được.
Thiền Sư Ô Sào ở trên nói xuống:
Chư ác mạc tác
Chứng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo
Có nghĩa là:
Tất cả các nghiệp ác chớ có làm
Nên làm tất cả các việc lành
Cố gắng làm cho tâm ý được thanh tịnh
Đó là lời dạy của chư Phật.                           
Lý Bạch nghe qua, cười và nói:
-Hòa Thượng nói bài kệ đó con nít tám tuổi cũng thuộc lòng, vậy Hòa Thượng đem dạy tôi để làm gì?
Thiền Sư Ô Sào nói:
-Ông nói đúng, con nít tám tuổi cũng thuộc nhưng ông già tám mươi tuổi làm cũng chưa xong.

Tuy đạo Phật là đạo ban vui cứu khổ, nhưng con người phải sáng suốt để chọn con đường sống cho mình. Con đường thiện mang đến sự an lạc, hạnh phúc và ngược lại con đường ác dẫn đến sự phiền não, khổ đau. Khi xưa chúng ta làm việc thiện với hy vọng quả báo tốt ngày sau cho mình thì dĩ nhiên kiếp sau chúng ta sẽ được hưởng phước báu nhưng tâm vẫn còn nặng tính tham lam, ích kỷ để dẫn dắt chúng trở lại làm việc ác. Ngày nay chúng ta cũng làm nhiều việc thiện nhưng với tâm hồn trong sáng, vị tha. Chúng ta thi ân mà không cần quả báo, làm việc thiện chỉ cầu lợi ích cho chúng sanh chớ không cầu phước riêng cho mình thì tinh thần vô ngã, vị tha của nhà Phật đã nẩy nở rộng lớn để che lấp chỗ tham lam, ích kỷ trong tâm chúng ta.

Sự hạnh phúc và khổ đau của chúng ta trong đời nầy chẳng qua chỉ là Nghiệp Quả mà chúng ta đã tạo ra trong đời quá khứ. Cái định mệnh vô hình nầy không phải là do thần linh sắp đặt, hay là ông trời áp xuống mà chính là do tự tay chúng ta tạo ra. Mỗi nghiệp chúng ta đã tạo ra từ đời trước chính là niềm vui hay nỗi khổ mà chúng ta nhận lãnh ở đời nầy. Thế thì nếu mình tạo nghiệp được thì chính mình có thể sửa nghiệp được, nhưng muốn chuyển nghiệp thì trước hết phải chuyển tâm. Tâm có trong sáng thì hành động mới thanh cao, ngược lại tâm ngã mạn thì hành động đen tối.Người tu Phật là người sáng suốt để lìa xa mọi hành vi bất thiện và không làm việc ác bởi vì sống trong thế gian nếu gặp thuận cảnh thì con người sẽ nổi tánh tham còn gặpnghịch cảnh thì lòng sân nổi dậy. Do đó cho dù chúng ta có gặp thuận duyên hay nghịch duyên thì đó cũng chỉ là cách tăng thượng duyên cho chúng ta. Nếu gặp cảnh khó khăn thì cứ nghĩ đây là sự thử thách của Phật thì tâm của chúng ta sẽ thanh tịnh. Do đó chúng ta luôn luôn làm việc lành, việc tốt, tránh xa việc ác, việc xấu và cố giữ tâm ý của mình cho được thanh tịnh là chúng ta đã tự giải thoát ra khỏi mọi hệ lụy đau khổ của thế gian để tìm về cảnh giới an vui, tự tại và hạnh phúc viên mãn.

Đối với Phật giáo, sám hối là để tự răn và tự hứa với chính mình sẽ không tái phạm điều ác nữa. Nói thế có nghĩa là từ đây mình không tái phạm việc bất thiện đó, nhưng cái nhân bất thiện đã thành tựu rồi chớ đâu có mất. Do vậy sám hối không bao giờ làm biến mất được những nghiệp bất thiện mà chuyển nghiệp là độc lộ để thăng hoa cuộc đời. Thí dụ lỡ tạo một nghiệp xấu, cho dù có sám hối bao nhiêu thì nghiệp xấu kia vẫn tồn tại trong tâm của mình. Bây giờ nếu tạo nhiều thiện nghiệp, cứu giúp nhiều chúng sinh thì những thiện nghiệp đó sẽ bù đắp lại cho nghiệp xấu kia. Nói thế không có nghĩa là nghiệp xấu bị xóa mà những thiện nghiệp sẽ xoa diệu tâm hồn khiến cho cuộc sống hết ray rứt khổ đau. Kết quả, người có nhiều phước báo cho dù gặp tai nạn lớn lao như rớt máy bay, hay bị xe đụng vẫn sống sót, gọi là số may mắn. Người có phước báo ít hơn phải chịu thương tích nhẹ. Còn người không có phước thì lãnh đủ quả báo.

Có người cả đời làm những điều bất thiện, gây tang tóc đau thương cho người khác. Đến cuối cuộc đời, ăn năn, sám hối, đúc chuông, xây chùa, đúc tượng Phật, làm từ thiện thì có xóa hết những tội lỗi cũ được không? Dựa theo tinh thần nghiệp báo của Phật giáo, dĩ nhiên là không được. Nếu gieo nghiệp bất thiện thì chính bạn phải thọ lãnh hậu quả của những ác nghiệp đó một khi duyên đến. Tuy nhiên nếu bạn gieo nhiều thiện nghiệp thì một ngày nào đó chính bạn sẽ gặt hái những kết quả lành do bạn gieo. Nếu nghiệp có thể xóa được thì cả đời người chúng ta cứ sống thỏa thích theo ái dục, ăn chơi trác táng, giết hại chúng sinh. Đợi đến gần cuối cuộc đời mới sám hối để xóa hết những tội nghiệp đã gây ra. Nhưng tại sao con người cần thức tỉnh, sống đời đạo hạnh, tu nhân tích đức, tu tâm dưỡng tánh, dừng các nghiệp bất thiện ngay từ bây giờ chớ đâu phải đợi đến gần chết mới tu?  Vì thế giáo lý nghiệp báo nhân quả rất công bằng, không thiên vị. Vì thế, “Con người là chủ nhân duy nhất có đầy đủ quyền năng quyết định cuộc đời theo ý muốn của mình cho nên thiên đàng hay địa ngục, đau khổ trầm luân hay giải thoát an lạc tùy thuộc vào sự chọn lựa nghiệp nhân của mỗi người. Mình tạo nhân gì thì chính mình sẽ thọ lãnh quả báo đó chớ không phải trời hành hay Phật đọa gì cả và dĩ nhiên trong càn khôn vũ trụ này (tuyệt đối) không ai có đủ quyền năng để xóa nghiệp, ban thưởng hay trừng phạt cho kẻ khác được”.

Do vậy, nếu một ngày nào đó nhân xấu kia trổ thành quả mang lại sự đau đớn, bất hạnh thì mình cứ an nhiên chấp nhận rồi nó sẽ qua đi. Nên nhớ bất cứ chuyện gì xảy ra trong cuộc đời này đều là kết quả (hay hậu quả) do chính mình đã tạo nghiệp nhân từ trước cho nên bây giờ phải thọ nhận nghiệp quả (nghiệp báo).Nếu việc may mắn đến thì đây là phước báo do việc thiện lành chính mình đã gieo. Ngược lại, việc không may (bất hạnh) xảy đến thì đó là quả báo cũng do việc bất thiện chính mình đã gieo trong quá khứ.
Kinh Pháp Cú câu 127 (The Dhammapada, TheBuddha's Path of Wisdom) Đức Phật dạy rằng:
“Không trên trời, giữa biển
Không lánh vào động núi
Không chỗ nào trên đời
Trốn được quả ác nghiệp”.
Do đó đối với Phật giáo, một khi nhân đã thành quả cho dù có trốn trong núi cao, có bay lên mây xanh, có lặn tận đáy biển thì vẫn phải trả nghiệp như thường.
Chuyện kể rằng, một hôm Đức Phật cùng các đệ tử đi đến một vùng quê nhỏ. Sáng sớm hôm ấy, ánh nắng chan hòa, chim muông hót vang, hương thơm dìu dịu. Đức Phật và các đệ tử ngồi lại trên thảm cỏ bên bờ sông, cùng ngắm vạn vật đua chen sức sống. Bỗng có một đệ tử cất tiếng hỏi Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, Ngài có nhiều thần thông và từ bi, cớ sao trên đời vẫn còn quá nhiều chúng sinh chịu khổ vậy?
Đức Phật thoáng nhìn người đệ tử, mỉm cười đầy từ bi rồi ôn tồn giảng:
“Ta dẫu có thần thông lớn ngần nào nhưng cũng có bốn điều takhông thể làm được”.
Các đệ tử vô cùng băn khoăn: “Thưa Đức Thế Tôn, đó là những việc gì ạ?”
Đức Phật trầmngâm một hồi, đoạn nói: “Bốn điều ấy chính là:
Thứ 1: Nhân quả không thể đổi thay, tự gieo nhân thì tự nhận quả, người khác không thể nhận thay. Nhân quả là định luật thiên nhiên của vũ trụ do Đức Phật khám phá ra chớ không phải của Đức Phật vì thế ngay cả Đức Phật cũng bị chi phối bởi định luật này.
Thứ hai: Trí tuệ không thể cho, bất kỳ ai muốn có trí tuệ thì phải tự mình tu học. Nghĩa là ai tu người ấy chứng, một người ăn thì một người khác không thể no được.
Thứ ba: Diệu pháp không thể diễn tả được, chỉ có thể dựa vào sự thực chứng mà thôi. Nghĩa là “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri”  tức là chỉ có người uống nước mới biết nước nóng, lạnh thế nào!
Thứ tư: Không có duyên thì không thể độ, người không có duyên thì họ không bao giờ nghe những lời nói mà ta chia sẻ. Mưa trời tuy lớn, cây không rễ khó mà thấm nước; Phật môn tuy rộng mở, khó độ người vô duyên. Tuy Đức Phật là bậc giác ngộ, nhưng nếu có người không thích nghe thì giáo pháp giải thoát huyền diệu đó cũng không ích gì.
Các đệ tử nghe xong ai nấy đều bừng ngộ.
            Vì thế dựa theo tinh thần Phật giáo, không một ai có thể thay đổi Nhân-Quả của người khác cho dù đó là Đức Phật. Toàn bộ giáo lý Phật Đà giúp chúng sinh chuyển nghiệp nghĩa là tự mình chuyển cuộc sống hiện tại trở thành thanh cao, đạo đức chớ cầu nguyện, van xin không bao giờ có kết quả trong Phật giáo.
Vào thời Đức Phật còn tại thế, Bà la môn giáo tin rằng linh hồn được gọi là Atman (tiểu ngã) là do đấng toàn năng tạo ra và tất cả mọi sự sống trên quả địa cầu này đều có linh hồn. Linh hồn chuyển từ thân xác này qua thân xác khác, cứ thế cho đến khi có giải thoát thì tiểu ngã sẽ hòa đồng với đại ngã Braman tức là Thượng đế hay là linh hồn của vũ trụ.Đến khi đạo Phật ra đời, Đức Phật phủ nhận con người là do Thượng đế sinh ra cho nên đạo Phật tuyệt đối phủ nhận linh hồn (Soul) mà chỉ có Thức (Mind) (hay Consciousness). Thức còn gọi là tâm, là cái biết biến đổi liên tục dựa theo sự biến dạng tâm lý và sinh lý của con người.
Đức Phật với tuệ minh sát, với trí tuệ của bậc Chánh đẳng Chánh giác khi quán chiếu lại thân, tâm của mình và của nhân loại thì Ngài thấy rằng chúng sinh không hề có tâm mà chỉ có những sát na tư tưởng kết nối và kết nối lại với nhau khiến chúng ta cảm giác như có tâm.Thí dụ ở sát na trước mắt thấy sắc (vật thể của thế giới chung quanh chúng ta, như áo quần, xe cộ, nhà cửa, núi sông…) cho ta cái biết của mắt (nhãn thức)(tâm của mắt), đến sát na sau tai nghe âm thanh cho ta cái biết về âm thanh (nhĩ thức)…Cái biết sau nối tiếp (thay thế) cái biết trước và cứ thế cái biết liên tục sinh diệt tạo thành chuổi thức chớ thật sự không có một thức nào (hay một cái tâm nào) cố định cả. Cái tâm sau thay thế cái tâm trước và cứ thế tâm luôn sinh diệt tuôn chảy trong tâm hồn của chúng ta vì thế Thức dựa theo Phật giáo là dòng chảy liên tục của các ý niệm (sát na tư tưởng). Vì sự ngộ nhận lầm lẫn cho rằng mình có tâm cho nên họ mới nghĩ rằng trong ta phải có cái Ta. Bây giờ không có tâm thì làm gì có Ta hay cái của Ta tức là hoàn toàn vô ngã.
Dựa theo Phật giáo, con người sinh ra trong thế gian này từ cái khuôn đúc (kết quả) của các hành động của chúng ta, cha mẹ chỉ cho chúng ta cái thân xác vật chất này nghĩa là trước phải có cha mẹ rồi sau mới có chúng ta. Trong lúc thọ thai, nghiệp tạo ra thức tái sinh tức là thức đầu tiên trong cuộc đời của thai nhi để dưỡng sinh cho thai bào. Nghiệp lực là năng lực vô hình của nghiệp do chính chúng ta tạo ra trong kiếp quá khứ phát sinh ra một hiện tượng tinh thần (thức tái sinh)kết hợp với tinh cha huyết mẹ và tinh trùng của người cha (sinh khí) để tạo thành sự sống cho một thai nhi. Phật giáo quan niệm rằng cái chết là sự đình chỉ đời sống vật lý (thân xác) của một cá nhân. Nếu có một chúng sinh sắp thọ sanh nơi đây thì phải có một chúng sinh sắp chết ở một nơi nào khác cũng giống như sự xuất hiện của mặt trời vậy. Nếu mặt trời mọc ở phương Đông thì ngay lúc đó mặt trời cũng đang lặn ở phương Tây. Có thể nói đời sống của nhân sinh như lượn sóng. Sanh và diệt là những tiến trình của hai giai đoạn sống chết, chết sống và sự liên tục nối tiếp mãi của chu kỳ sống chết, chết sống được gọi là Luân hồi. Mặc dầu cuộc sống cuối cùng đã chấm dứt, nhưng cái chết không phải là sự tiêu diệt hoàn toàn của một chúng sinh bởi vì năng lực thúc đẩy cho sự sống tức là nghiệp lực vẫn còn nguyên vẹn. Bạn hãy quan sát ánh sáng phát ra từ bóng đèn chỉ là sự biểu hiện bề ngoài của nguồn điện lực vô hình liên tục tiềm ẩn bên trong dây điện. Bóng đèn có thể bể, ánh sáng có thể tắt (chết), nhưng luồng điện vẫn còn (nghiệp lực) và ánh sáng sẽ xuất hiện lại khi thay thế bằng một bóng đèn khác (thân xác mới). Năng lực của nghiệp thì cũng vậy, nó không hề bị lay chuyển bởi sự tan rã của thân xác. Đến lúc chết, tâm thức diệt (tử tâm) để cho một tâm thức mới sinh lên (thức tái sinh). Ở đây, tâm thức mới (thức tái sinh) sẽ thọ hưởng cả một gia tài kinh nghiệm của quá khứ. Tuy nhiên, những kỷ niệm, ký ức ghi nhận sâu xa trong tâm thức thay đổi liên tục và những tiềm lực liên tục chuyển sang từ cuộc sống này qua cuộc sống khác, không liên hệ đến sự tan rã nhất thời của phần vật chất (thân xác). Nhờ đó mà trong cuộc sống mới, con người có thể sực nhớ lại những tiền kiếp hoặc các kinh nghiệm, ký ức đã xảy ra trong quá khứ.
Một nét đặc thù rất quan trọng trong thuyết tái sinh của Phật giáo là tuy tấm thân vật lý chấm dứt ở một thân xác, nhưng dòng chảy của tâm thức không hề bị ngưng trệ. Khi Đức Phật còn sinh tiền, Ngài đã khẳng định rằng sự tái sinh xảy ra tức khắc (ngay lập tức) chớ không phải trải qua một giai đoạn trung gian nào khác.Chỉ sau này Phật giáo Tây tạng và Phật giáo đại thừa dựa theo luận thuyết của luận sư Long Thọ, Vô Trước và Thế Thân gọi là Thân trung ấm mà nó cần 49 ngày để thọ sanh. Cũng nên nói thêm, sự phát triển của Phật giáo Tây Tạng có những nét đặc thù mà có lẽ không quốc gia nào khác trên thế giới có được. Vào năm 641 AD, vua Đường Thái Tông của Trung Hoa gã công chúa Văn Thành cho vua Tây Tạng.Nữa thế kỷ sau đó, năm 710 AD, vua Đường Duệ Tông lại gả công chúa Kim Thành cho vua Tây Tạng đời thứ 35 là Khí-lệ-xúc-tán. Vị công chúa này lại mang đến Tây Tạng rất nhiều kinh thư và sách vở của Trung Hoa. Công chúa Văn Thành và Kim Thành là những người thông minh, có học thức và thấu đáo chẳng những về Phật giáo mà còn làu luyện triết lý về Đạo giáo. Do đó họ đem tư tưởng “thần của cái chết” tức là Diêm vương của Trung quốc vào trong Phật giáo Tây tạng. Trong cuốn Bardo Thodol “Tòa án của thần chết”thì Yuma tức là Diêm vương ngự trên ghế của quan tòa xữ án những linh hồn chết. Do đó Phật giáo Tây tạng là sự tổng hợp, pha trộn của nhiều luồng tư tưởng, nhiều hệ phái và những huyền thuật phép màu do ảnh hưởng lâu đời của đạo Bon Pa để lại.
Tóm lại, khi chết thì nghiệp lực lan tỏa cũng giống như một làn sóng điện được phát ra trong không gian, tức thì được thâu vào một máy radio hay TV. Thế thì tiến trình hình thành cho cuộc sống hiện tại là kết quả của một ước muốn đã hình thành trong kiếp quá khứ và ước muốn hình thành hiện tại sẽ tạo điều kiện cho một đời sống cho kiếp tương laivà dòng sống này sinh sinh diệt diệt vô cùng vô tận.
Nếu cho rằng những con người vừa mới sinh ra là do sự sáng tạo của Thượng đế và không có liên quan gì đến kiếp sống trước thì Phật giáo gọi đây là đoạn kiến(quan niệm rằng chết là hết), là không đúng. Ngược lại, có quan niệm cho rằng linh hồn từ kiếp trước đầu thai vào kiếp sống mới thì đạo Phật gọi đây là thường kiến(linh hồn bất tử), cũng không đúng luôn. Dựa theo tinh thần Phật giáo, sự hình thành của Danh (thân xác) và Sắc (tâm thức)trong một kiếp sống mới là kết quả của vô minh, tham ái và nghiệp từ kiếp trước. Nói thế nghĩa là kiếp sống mới không phải là sự đầu thai của kiếp sống cũ, nhưng nó không phải không từ kiếp sống cũ mà có. Ví cũng như khi một cây đèn cầy được mồi từ ngọn lửa của cây đèn thứ nhất, ngọn lửa mới bây giờ không phải là ngọn lửa của cây đèn cầy thứ nhất, nhưng nó không thể hiện hữu nếu không có ngọn lửa của cây đèn thứ nhất. Thế thì hai cây đèn cầy hoàn toàn khác, kích thước khác nhau, màu sắc khác nhau, ngọn lửa cũng khác nhau. Do đó, từ tướng diện, nhân cách, tài năng…cho đến mọi sự khổ, vui trong đời này là phản ảnh trực tiếp từ những nghiệp mà con người đã kiến tạo từ kiếp trước cho nên hai ngọn lửa khác nhau là thể hiện hai cuộc sống khác nhau. Thí dụ tiền kiếp có người sống trong giàu sang quyền quý, nhưng tham lam bỏn xẻn, ưa hãm hại người (ngọn lửa cây đèn thứ nhất) nay sang đến kiếp này thì cuộc sống trở thành nghèo đói và luôn bị người hãm hại lại (ngọn lửa của cây đèn thứ hai).
Đức Phật dạy rằng “ngũ uẩn là vô ngã” tức là “ngũ uẩn giai không” nghĩa là khi duyên kết thì có đủ sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Đó là trạng thái hoạt động của con người khi còn sống. Đến khi duyên hoại tức là chết thì các uẩn từ từ tan rã trở về với trạng thái nguyên thủy của nó. Do đó,khi chết thì sắc thân (sắc uẩn) hoại diệt chỉ còn là nắm tro, cát bụi trở về với cát bụi. Sắc diệt thì cảm thọ (thọ uẩn) cũng mất. Không còn Thọ (uẩn) thì Tưởng (uẩn) cũng không còn. Thọ, Tưởng mất thì Hành (uẩn) cũng bị diệt theo. Đối với một con người bình thường (không phải là Thánh giả),khi nhắm mắt thì nghiệp lực sẽ quyết định số phận tương lai (tái sinh) của bạn chớ không phải do bạn quyết định được. Nghiệp lực (sức mạnh của nghiệp) sẽ chuyển Thức (tái sinh) vào kết (duyên) trong noãn bào của người mẹ (trong lúc tinh trùng của người cha vừa mới lọt vào tử cung của người mẹ) để tạo thành một thai nhi, có đủ Danh (Thức tái sinh) và Sắc (tinh cha huyết mẹ). Tinh trùng là sự sống tiếp cho thai nhi (Sinh khí) cho nên ngày nay cho dù con người có thụ thai nhân tạo hay là gì đi chăng nữa thì bắt buộc phải có tinh trùng.
Đối với Phật giáo, nghèo khó là do không biết gieo nhân thiện lành để giúp người, cứu vật khi cần thiết, lại không tin sâu nhân quả, nên thường xuyên làm các việc xấu ác cho nên chẳng những không thọ hưởng quả giàu sang mà còn đối diện biết bao phiền não, khổ đau. Bây giờ cố gắng gieo trồng phước đức bằng cách làm lành tránh dữ, tích công bồi đức thì hậu vận sẽ không bị rơi vào hoàn cảnh cơ hàn, túng thiếu.
Toàn bộ giáo lý Phật Đà không ngoài mục đích giúp con người thanh tịnh hóa “thân, khẩu, ý” của mình để cải thiện cuộc sống trở thành thanh cao, nhẹ nhàng, hạnh phúc và an lạc. Bộ ba “thân, khẩu, ý” là ba yếu tố chính giúp con người có cuộc sống bình yên, hạnh phúc và an lành. Ngược lại, cũng “thân, khẩu, ý” lại là nguyên nhân đưa con người đọa lạc vào trong cảnh khổ biến cuộc sống nhiều sóng gió đau thương và dĩ nhiên tạo tác tội nghiệp để chịu quả khổ về sau. Vì thế Đức Phật luôn nhắn nhủ chúng sinh nên tu nhân tích đức, tu tâm dưỡng tánh, dừng các nghiệp bất thiện ngay từ bây giờ bằng cách kiểm soát thân, khẩu, ý của mình thì chính mình đang xây dựng một cuộc sống hiện tại và tương lai tươi sáng.
3)Và sau cùng Ngài đắc Lậu Tận Minh:
“Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyển, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí. Ta biết như thật: "Ðây là Khổ", biết như thật: "Ðây là Nguyên nhân của khổ", biết như thật: "Ðây là sự Diệt khổ", biết như thật: "Ðây là Con đường đưa đến diệt khổ", biết như thật: "Ðây là những lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là nguyên nhân của lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là sự diệt trừ các lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc". Nhờ biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy, Ta khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát." Ta đã biết: "Sanh đã diệt, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa". Này Aggivessana, đó là minh thứ ba mà Ta đã chứng được trong canh cuối, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta”.
Lậu là rơi rớt, tận là chấm dứt, là hết. Do đó lậu tận minh là biết tường tận để không còn tái sinh mà thọ lãnh cảnh khổ của cuộc đời. Đức Phật đã thấy nguyên nhân nào chúng sinh có sanh tử và phương cách nào chấm dứt sự sinh tử  để không còn rơi rớt, trầm luân trong cảnh khổ của thế gian. Đây chính là chân lý Tứ Diệu Đế. Con người không còn sinh tử tức là vĩnh viễn không còn khổ đau và đây là câu trả lời cho nghi vấn rằngcuộc đời nầy đầy dẫy khổ đau do đó nếu muốn thoát khổ và ra khỏi vòng sanh tử thì phải làm sao?
Kinh Pháp Cú câu 351, Đức Phật dạy rằng:
“Ai tới đích, không sợ
Ly ái, không nhiễm ô
Nhổ mũi tên sinh tử
Thân này thân cuối cùng”.
Đức Phật khẳng định rằng sau khi đắc quả A la hán Chánh đẳng Chánh giác thì Ngài đã đạt đến mục đích tối hậu cho nên trong Ngài không còn nhiễm ái và Ngài sẽ không còn tái sinh cho nên tấm thân tứ đại của Ngài bây giờ là tấm thân cuối cùng, vĩnh viễn sẽ không còn tái sinh nữa.
            Sau khi chứng thiền định (Tứ thiền), hành giả phải tiếp tụcthực hành Thiền Quán (Thiền Minh Sát)(Thiền Trí Tuệ) (Vipassana) để phá tan 10 kiết sử và sau cùng  trí tuệ bừng sáng. Đức Phật là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã khám phá ra 16 Tuệ Minh Sát cần phải tu tập để đạt đến tứ quả Thánhbởi vì Trí tuệ là yếu tố trực tiếp đưa đến giải thoát giác ngộ sau cùng trong khi đó Giới và Định chỉ đóng vai trò gián tiếp. Chỉ có Thiền Quán đưa hành giả đi sâu vào tâm thức, tìm đến cội nguồn của phiền não, ô uế bất tịnh ngay cả những phiền não vi tế núp sâu thẳm trong tâm để quán sát sự thật, hóa giải chúng và sau cùng đưa đến trí tuệ viên mãn và giải thoát. Đây là điểm đặc thù chỉ riêng Phật giáo mới có. Chính tuệ giải thoát đã tạo ra sự giác ngộ chớ tuyệt đối không phải do sự nương tựa từ tha lực của bất cứ một vị Phật nào và dĩ nhiên không phải là do ngẫu nhiên mà hốt nhiên đại ngộ. Do đó, một khi tâm đã hoàn toàn thanh tịnh,Thái Tử bắt đầu thiền quán(Minh Sát Tuệ) cho đến khitrí tuệ bừng sáng, chứng tam minh. Từ đó, Ngài đã khám phá ra chân lý tối thượng Tứ Diệu Đế mà trong đó Bát chánh đạo là độc lộ để có giải thoát giúp Ngài thấy biết như thật vềvô thường, vô ngã, về Niết bàn và về khổ, nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ và con đường thoát khổ.
Đức Phật đắc lục đại thần thông và chứng ngộ Niết Bàn mà không cần sự giúp đỡ bên ngoài nào khác ngoại trừ trí tuệ toàn giác của Ngài. Lục đại thần thông hay thường gọi là Lục thông gồm có:
-Thiên nhãn thông: Thấy tất cả các cõi giới và hàng chúng sinh khắp mọi nơi, mọi cõi.
-Thiên nhĩ thông: Tai có thể nghe âm thanh ở các nơi, các cảnh giới.
-Túc mạng thông: Biết sinh mạng đời trước của mình và của chúng sinh.
-Tha tâm thông: Biết người khác đang suy tư chuyện gì.
-Thần túc thông: Bay nhảy khắp nơi trong nháy mắt, biến hóa nhiều phép thuật phi thường.
-Lậu tận thông: Dứt tất cả phiền não và hoàn toàn giải thoát.
Hành giả chưa đắc quả A lan hán có thể đắc năm thần thông đầu còn gọi là hữu lậu thông tức là phép thần thông chưa rốt ráo, chưa có giải thoát. Đến khi đoạn sạch phiền não, dứt luân hồi và có giải thoát thì đắc Lậu tận thông. Đây là phép thần thông dành riêng cho bậc giải thoát giác ngộ, A la hán, Phật.
Thần thông là năng lực siêu việt do công phu tu tập mà người thường không thể đạt được. Trong kinh Sa-môn quả (Sāmaññaphalasutta) có diễn tả lại tiến trình thực hiện những phép lạ thần thông như sau:”Có một vị Tỳ-khưu đã nhập thiền định vững vàng do đó đã được thanh tịnh và trở nên sinh động, lột bỏ khỏi những ảnh hưởng phiền não đang rình rập, trở thành kiên định, linh hoạt (nghĩa là nhuần nhuyễn và hoàn toàn tuân thủ theo ý muốn) và không bị lung lạc, hướng tới thực hiện được nhiều sức mạnh thần thông. Chư vị đó có thể đạt đến được những công việc lạ lùng như: Đi xuyên qua bức tường, hàng rào và cả những ngọn núi, chui xuống được lòng đất, đi trên mặt nước, bay trong không trung… có thể đụng tới hay sờ mó được mặt trời và mặt trăng. Bằng thân xác phàm trần của mình lại đột nhập được vào cõi Phạm Thiên”.
Các phép lạ siêu nhiên có sức mạnh thu hút người đời khiến cho họ ngưỡng mộ và tin tưởng sai lầm rằng người có thần thông là người tu hành đắc đạo, có thể trị bá bệnh, cứu sống người chết, cứu rỗi linh hồn…Vì ảnh hưởng sâu rộng của thần thông cho nên vào thời Đức Phật, một số đệ tử theo Phật không phải để cầu giải thoát mà chỉ cần trau luyện để có thần thông nhằm phục vụ cho những ý đồ bất chánh như Đề Bà Đạt Đa…
Tuy Đức Phật và đệ tử A la hán của Ngài đều chứng lục thông, nhưng chính Đức Phật đã nhiều lần nhắc nhở chúng Tỳ kheo không được dùng thần thông để mị đời hay để giáo hóa chúng sinh. Trong giáo đoàn của Đức Phật, Tôn giả Mục Kiền Liên là đệ nhất thần thông thế mà khi nghiệp đã trổ thành quả thì thần thông không còn nữa khiến Ngài bị bọn ngoại đạo đâm chết rồi bầm nát tay chân. Thế thì thần thông đâu có thắng nghiệp lực.
Câu chuyện như thế này:
“Ai cũng nghĩ rằng Thánh tăng Mục Kiền Liên, đệ nhất thần thông trong tăng đoàn của Đức Phật sẽ nhập diệt một cách kỳ diệu. Nhưng cái chết của Ngài thật đáng thương nếu không muốn nói là ghê rợn.
Câu chuyện bắt đầu từ vị Giáo chủ Nathaputta (Ni-kiền -tử) của đạo Lõa thể. Sau các cuộc tranh luận, kết quả Ni-kiền giáo đã bị mất một số khá đông tín đồ và cảm tình viên khiến cho các đạo sĩ cầm đầu vô cùng tức giận.
Nhiều sư trưởng đạo Lõa thể còn nghe đồn rằng: Đại đức Mục Kiền Liên, sau những chuyến Thiên du (lên trời thuyết pháp rồi trở về) đã tiết lộ rằng: Hầu hết tín đồ Phật giáo đều được sanh lên cõi trên, nhưng rất hiếm những kẻ tu theo đạo khác được hưởng hạnh phúc ấy. Trái lại, họ còn bị đọa vào cảnh khổ và tái sanh thành nhiều sinh vật thấp hơn loài người. Đây có lẽ là tin đồn thất thiệt, nhưng là một trong những lý do khiến cho các đạo khác, kể cả đạo Lõa thể (Ni-kiền giáo) bị sút giảm hậu thuẫn. Đặc biệt, một chi giáo cuồng tín của đạo Lõa thể ở vương quốc Ma-kiệt-đà (Magadha) đã trở nên giận dữ trước sự mất danh tiếng càng lúc càng trầm trọng ấy, nên họ chủ tâm tiêu diệt Tôn giả Mục Kiền Liên.
Những đạo sĩ cuồng tín Ni-kiền giáo ấy không chịu điều tra rõ nguyên nhân suy đồi của môn phái mình. Họ chỉ biết âm mưu phỉ báng và trút hết lên đầu Đại đức Mục Kiền Liên. Nhiều lần họ mưu tâm ám sát vị Thánh Tăng ấy nữa nhưng đều thất bại. Về sau, họ phải mướn bọn cướp làm việc đó.
Thuở bấy giờ cũng có bọn chuyên đâm thuê chém mướn, sẵn sàng sát nhân, nếu được trả nhiều tiền như ngày nay. Họ là những kẻ vô cùng tham lam và hung bạo. Đối với họ chỉ có tiền là “cao quý” nhất, nên họ bất chấp việc giết người nào, dù cho nạn nhân là một vị Thánh Tăng! Do đó, một số đạo sĩ cuồng tín Ni-kiền giáo (đạo Lõa thể) liền tìm mướn họ đi giết Ngài Mục Kiền Liên.
Khi ấy, Tôn giả Mục Kiền Liên đang ẩn tu một mình trong tịnh cốc vắng, ven rừng Kalasika, thuộc vương quốc Ma-kiệt-đà. Đại đức Mục Kiền Liên biết rằng “đoạn chót của đời mình” sắp đến. Một vị Thánh Tăng khi đã được hưởng “hương vị” giải thoát hằng thấy rằng “xác thân phàm tục này chỉ là một chướng ngại hay một gánh nặng mà thôi!”.
Do đó, Đại đức Mục Kiền Liên đã không một chút mảy may nghĩ đến việc dùng thần thông để được sống trường thọ. Ngược lại, khi thấy bọn cướp giết mướn lại gần, ngài chỉ nghĩ “Ta không nỡ để cho các kẻ ấy phạm trọng tội!”. Thế là toàn thân Ngài tự nhiên biến mất. Ngài biến mất là vì do thần thông của một Tôn túc A-la-hán đầy lòng từ bi phát tác, chứ không phải do sự sợ sệt hay lòng tham sống mà ra.
Bọn sát nhân (có sách gọi là bọn cướp) xông vào tịnh cốc, không tìm thấy một ai, chúng lục lạo khắp nơi, nhưng vẫn vô hiệu, bèn thất vọng ra về. Ngày hôm sau, chúng trở lại, và cũng rơi vào tình trạng như cũ. Nghĩa là từ xa chúng thấy Đại đức Mục Kiền Liên thấp thoáng, nhưng khi đến gần, chẳng tìm ra Ngài đâu cả, mặc dù càng lúc chúng càng kéo đồng bọn đông hơn và lục soát kỹ hơn. Chúng cũng khôn ngoan cho bộ hạ mai phục, rình rập xung quanh tịnh cốc để phát giác sự xuất hiện của Đại đức Mục Kiền Liên, rồi vẫn không có kết quả. Sáu ngày liên tiếp như thế, sáu lần bọn cướp xông vào hãm hại Đại đức Mục Kiền Liên và sáu lần Đại đức Mục Kiền Liên vì lòng từ bi, chỉ một niệm “không muốn kẻ ngu muội phạm trọng tội” thân thể ngài đã biến mất một cách như nhau.
Động lực của thần thông vốn không phải là để bảo vệ xác thân ô trược này, mà để cứu độ những tâm hồn hung bạo. Nhưng tiếc thay thần thông ấy của một vị đại Tôn túc A-la-hán đã không cảnh tỉnh được bọn người tội lỗi, nên qua ngày thứ bảy, Đại đức Mục Kiền Liên đã quán xét bằng Tha tâm thông, thấy rằng “bọn cướp vì tham tiền quá độ sẽ không bao giờ từ bỏ hành động sát nhân ấy”.
Trong khi Tôn giả Mục Kiền Liên sử dụng Tha tâm thông như thế, thì “Di thần” thần công của ngài tự nhiên biến mất, xác thịt ngài bất thần hiện lại như cũ, ngồi yên trong tịnh cốc.
Thì ra ác quả một hành động tội lỗi xa xưa, đó là trong một tiền kiếp nọ, Đại đức Mục Kiền Liên vì sợ vợ, đã nhu nhược đem cha mẹ bỏ vào rừng hoang, đói khát cho đến chết và nay ác quả đang đuổi kịp. Đại đức Mục Kiền Liên phải trả xong ác quả ấy thì công hạnh mới hoàn toàn! Giống như Đức Phật và Đại đức Xá Lợi Phất, trước khi nhập Niết-bàn đã trải qua một cơn bệnh vậy!
Bọn sát nhân tiến vào tịnh cốc thấy vị Thánh Tăng hiền hòa ngồi đó, liền đâm chết rồi muốn chắc ăn chúng bầm nát tay chân, biến người thành một khối thịt vụn bất động.
Khi biết chắc nạn nhân chỉ còn là một thây ma, không cách nào sống lại, và phe mình sắp được lãnh tiền trả công, bọn sát nhân ung dung bỏ đi không thèm quay lại.
Nhưng Đại đức Mục Kiền Liên là một Thánh Tăng đại Tôn túc thần thông, người không thể nhập Niết-bàn trong tình trạng như thế. Đại đức Mục Kiền Liên trong khi bị đâm chém đã hoàn toàn nhập định, nên mọi đau đớn không chi phối được ngài. Bây giờ, ngài chỉ vận dụng thiền lực tập trung sức mạnh tinh thần điều hợp với thể chất, rồi tái hiện thành một Sa-môn như cũ. Đại đức Mục Kiền Liên cố gắng đem tấm thân xương thịt đầy thương tích đến yết kiến Đức Phật lần chót. Khi hiện diện trước mặt Đức Phật, ngài từ từ quỳ xuống, đảnh lễ đức Thiên Nhơn Sư, rồi ngồi yên, nhắm mắt lìa đời, biến địa điểm gặp gỡ lần cuối của ngài và Đức Phật thành một khung cảnh vô cùng ảm đạm và Thánh thiện.
Tư cách từ bi đối với những kẻ ác tìm kiếm hạ sát mình, và phẩm hạnh giải thoát mà vị Thánh Tăng này đã đạt được từ khi ngài chứng bậc A-la-hán quả thật đã không rời ngài cho đến phút chót. Phẩm hạnh ấy đã gói trọn bảy ngày sống sau cùng của Tôn giả Mục Kiền Liên. Bảy ngày quá khắc nghiệt của định luật nhân quả và tràn trề lòng Từ bi của một bậc Thánh. Một khoảng thời gian tàn khốc của kiếp sống đầy đe dọa, chỉ có những bậc đã dứt trừ phiền não và không còn dục vọng mới có thể trải qua một cách dễ dàng! Nghiệp tạo tác trong quá khứ phải trổ quả trong hiện tại là một điều tự nhiên. Người phàm hay Thánh nhơn chỉ khác nhau ở cách đón nhận cái quả ấy. Nếu phàm tục đón nhận hậu quả một cách si mê thì Thánh nhơn nhìn thấy hậu quả một cách sáng suốt thanh tịnh”.
Do vậy, thần thông duy nhất Đức Phật sữ dụng trong suốt 45 năm hành đạo của Ngài là giáo hóa thần thông nghĩa là năng lực cải hóa người khác bằng phương thức giáo dục để đưa chúng sinh từ đau khổ đến hạnh phúc an lạc, từ bờ mê đến bến giác và sau cùng là từ sinh tử đến Niết bàn giải thoát. Vì thế, dựa theo Đức Phật:“thần thông phép lạ cao siêu nhất và huyền diệu nhất phải là làm sao biến một người ngu si thành một người khôn ngoan, trí tuệ”.
Sau khi thành đạo dưới cội Bồ Đề, Đức Phật đã dùng bảy ngày để tận hưởng hạnh phúc của sự giải thoát giác ngộ. Trong đêm cuối cùng của ngày thứ bảy, Đức Phật quán xét giáo lý Thập Nhị Nhân Duyên (Twelve Conditional Factors).
Thập Nhị Nhân Duyên là giáo lý Duyên Khởi nghĩa là khi cái nầy (Nhân) có thì cái kia (Quả) có, cái này (Nhân) diệt thì cái kia (Quả) sẽ diệt. Nói cách khác “Nhân Duyên” trong “Mười hai nhân duyên” có nghĩa là “Nhân Duyên khởi” tức là sự nương tựa vào nhau mà sinh khởi. Đó là “do cái này có mặt, cái kia có mặt; do cái này không có mặt, cái kia không có mặt; do cái này sinh, cái kia sinh; do cái này diệt, cái kia diệt". Đức Phật đã khám phá rằng trong thế gian vũ trụ này, mọi hiện tượng từ vật chất đến tinh thần đều có quan hệ mật thiết với nhau, không có vật thể nào tự nó sinh tồn mà không cần đến những nhân duyên khác. Thí dụ, cái nhà chúng ta ở, chiếc xe chúng ta lái, thực phẩm chúng ta ăn uống hằng ngày, áo quần chúng ta mặc…đều là những đóng góp công sức của biết bao chúng sinh khác khắp mọi nơi trên thế giới. Chúng ta sống còn là nhờ họ và ngược lại. Đó là cốt lõi của giáo lý Duyên khởi.
Kinh điển đại thừa nói rằng sau khi đắc quả A lán hán, vị ấy tiếp tục tiến tu để trở thành Duyên giác, Bích Chi Phật hay trở thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác? Hay A la hán chỉ là Hóa Thành (nửa chừng) còn phải tu để đến Bảo Sở mới thực sự thành Phật như Kinh Pháp Hoa đã nói? Cả hai đều không đúng. Tại sao?
-Thứ nhất,Thập Nhị Nhân Duyên(Twelve Conditional Factors) không phải dành cho những ai muốn tu để thành Duyên Giác, Bích Chi Phật mà là giáo lý cốt lõi của đạo Phật để giải thích con người từ đâu mà có và sự liên hệ về sự sanh diệt của các hiện tượng, vật thể trong thế gian.
Thập Nhị Nhân Duyên là thuyết Duyên Khởi bắt đầu từ vô minh mà duyên  sinh ra 11 duyên khởi khác. Từ Vô Minh phát sinh ra Hành, rồi từ Hành phát sinh ra Thức nghĩa là tùy thuộc nơi Nghiệp thiện hay bất thiện quá khứ, Thức được tạo điều kiện để phát sinh trong kiếp hiện tại. Nói cách khác Vô Minh và Hành trong kiếp quá khứ cùng hợp lại tạo điều kiện cho Thức trong kiếp hiện tại phát sinh. Sau đó do nghiệp lực, Thức kết hợp với tinh cha huyết mẹ tạo thành một hình hài nhỏ như đầu mũi kim trong bụng người mẹ nên gọi là Danh Sắc. Sau đó hài nhi phát triển thành một con người có đủ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý để cảm nhận mọi cảm xúc của cuộc đời nên gọi làLục Căn. Do sự cảm Xúc từ ngoại duyên (cuộc đời: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) nó cảm Thọ được khổ, vui của cuộc đời. Từ đó lòng tham Ái nổi dậy. Một khi trạng thái luyến ái, bám vào thì nó phải nắm chặt lấy đối tượng nên gọi là Thủ. Cũng do nơi Thủ mà con người phải làm nô lệ cho khát vọng của mình mà nhắm mắt chạy theo dục lạc. Tùy thuộc cường độ chấp Thủ mà nghiệp phát sinh, đó là Hữu để đưa con người đi tái Sanh. Nhưng dựa theo luật vô thường của tạo hóa, hễ có Sanh là có Lão (già, bệnh) và sau cùng là Tử (chết). Cứ thế mà con người quay cuồng trong sinh tử triền miên, không có lối thoát.
Tóm lại, do Vô Minh tạo duyên, Hành mới phát sinh. Do Hành tạo duyên, Thức mới phát sinh…Vì thế nếu diệt được vô minh là có giải thoát, không còn sinh tử khổ đau. Muốn diệt vô minh thì Đức Phật dạy tu theo thiền tuệ, thiền minh sát Vipassanà với 16 tuệ minh sát mà tuệ thứ nhất là tuệ phân tích Danh Sắc (ngũ uẩn).
-Thứ nhì, ngày xưa khi Đức Phật còn tại thế thì đạo lộ “giải thoát” để trở thành Thánh giả A la hán tức là Phật, chớ tuyệt đối không có Duyên Giác, Bồ Tát, không vào Kim Cang Định hay Bạch Tịnh Thức gì hết. Tại sao? Khi Đức Phật còn tại thế, chưa hề có Mật tông nên không có Kinh Kim Cương và Đại Nhật hay Phật Kim Cang Tát Đỏa (Phật tổ Mật tông Tây tạng). Triết gia Long Thọ chỉ xuất hiện khoảng 600 năm sau khi Đức Phật nhập Niết bàn với tư tưởng Bát Nhã…
Thế thì Phật hay là đấng Chánh đẳng Chánh giác cũng là vị A la hán nhưng họ tự mình chứng đắc và họ là đạo sư hướng dẫn cho những người hữu duyên chứng A la hán và những vị A la hán này được gọi là Thanh văn giác (Sàvakabuddha) bởi vì sự giác ngộ của họ là nhờ nghe và thực hành theo lời Phật dạy. Độc Giác Phật cũng là quả vị A la hán, nhưng là những vị tự mình chứng ngộ La hán và không thể  hướng dẫn người khác chứng ngộ La hán. Phật giáo Đại thừa gọi Độc giác Phật là Duyên Giác Phật? Sự thật là giáo lý Duyên Khởi và Chân lý Tứ Diệu Đế vốn dĩ là một cho nên trong Trung Bộ kinh, Đức Phật đã xác định rằng: “Ai thấy Thập Nhị Nhân Duyên là thấy Pháp. Ai thấy Pháp là thấy Phật”. Do đó, không hề có chuyện một bậc A la hán là người giác ngộ chân lý Tứ Diệu Đế mà lại không thấu biết về giáo lý Duyên Khởi? hay ngược lại, một vị Độc giác Phật lại mù mờ về chân lý Tứ Diệu Đế?
Thêm nữa, một khi đã đắc Thánh quả A la hán, vị ấy đã chấm dứt vòng sanh tử, tử sanh và sẽ nhập Niết Bàn. Thánh giả A la hán đã hoàn toàn trong sạch, không còn mảy may ô nhiễm nào để thanh lọc, tất cả mọi lậu hoặc đã được diệt trừ tận cội rễ. Vì thế, các Ngài không còn Giới, Định hay Tuệ nào nữa cần phải trau dồi cho được hoàn hảo. Do vậykhi đắc quả A-la-hán rồi thì tất cả phiền não, các lậu hoặc đều bị loại trừ và vị A-la-hán hoàn toàn thoát khỏi mọi khổ đau. Khi đạt được trạng thái hoàn toàn giải thoát, vị A-la-hán sẽ nhìn lại tâm mình và thấy rằng:
“Ta không còn phải tái sinh nữa, ta đã hoàn thành xong Bát Chánh Đạo, những gì cần làm ta đã làm rồi, và không có gì ta cần làm để giải thoát nữa”.
Chân lý Đức Phật khám phá không phải là những lời thần khải, mà đây là sự khám phá tối thượng của đấng giác ngộ về “Bốn Sự Thật” của nhân sinh vũ trụ. Trong  đó, Bát chánh đạo mới thật sự là con đường đưa đến thoát khổ.Chính Đức Phật đã tóm gọn toàn bộ giáo pháp của Ngài như sau: "Như biển lớn chỉ có một vị duy nhất, này các Tỳ-kheo, vị mặn của muối, cũng như thế, giáo pháp và giới luật của ta cũng chỉ có một vị duy nhất, đó là vị của giải thoát."
Mặc dẩu Giới và Định chỉ đóng vai trò gián tiếp trong tiến trình đưa đến giải thoát, nhưng Giới và Định lại là điều kiện tối cần thiết bởi vì người thực hành Giới đứng đắn khiến tâm được an tĩnh, nhờ tâm an tĩnh mới có thể thực hành Định thành công. Ngược lại, nếu không thực hành Giới đứng đắn thì toàn bộ tiến trình giải thoát hoàn toàn sụp đổ cũng như xây nhà trên cát. Sau cùng nhờ có Định mà thực hành tuệ quán kết quả đưa đến giải thoát. Đây là đạo lộ duy nhất do chính Đức Phật đã vạch ra tức là tam vô lậu học Giới – Định – Tuệ, dẫn đến sự giải thoát bằng tứ Thánh quả.
Vì vậy, nếu đạo lộ tu tập nào dẫn đến bốn quả Thánh (Nhập lưu, Nhất lai, Bất lai, A la hán) thì đạo lộ đó đúng là giáo pháp của đạo Phật vào thời Đức Phật còn tại thế (thực sự Nguyên thủy, truly original). Đức Phật đã vạch ra một con đường tu tập rất chính xác và rõ ràng như là một khoa học về tâm linh. Mỗi bậc thiền chứng đắc đều có tiêu chuẩn xác định và mỗi tầng thiền tuệ đều có diễn tả và hướng dẫn rõ ràng để giúp hành giả thấu rõ từng bước trên con đường giải thoát. Đây chính là phương pháp các khoa học gia đã và đang thực hiện và họ cũng dựa theo nguyên tắc, khuôn khổ và tiến trình mà Đức Phật đã vạch ra.
Ngày xưa, Einstein sau khi nghiên cứu suốt 7 năm ròng mới tìm ra được  “thuyết tương đối” mà trong đó ông chứng minh rằng vật chất và năng lượng sẽ làm cho không gian và thời gian bị uốn cong và sự uốn cong của không gian và thời gian đó sẽ làm cho vật chất di động theo chiều hướng nhất định nào đó. Nói thì dễ, nhưng Einstein đã phải dùng đến 10 phương trình toán học để giải thích cho thuyết này. Muốn chứng minh cho thuyết tương đối, Einstein đã giải thích sự uốn cong của tia sáng như sau: Nếu bạn bị cô lập ở trong một phi thuyền không gian với gia tốc bình thường khoảng 1G, ngang với hấp lực của trái đất. Bây giờ, nếu có tia sáng rọi vào cửa sổ phia trái của phi thuyền cho đến khi tia sáng xuyên qua phi thuyền rồi ra ngoài thì tia sáng đó sẽ đi về đâu? Nếu bạn quan sát từ bên ngoài phi thuyền thì tia sáng di chuyển trên con đường thẳng, thẳng góc 90 độ với hướng đi của phi thuyền. Nhưng đối với người ở bên trong phi thuyền, hiện tượng bây giờ có vẽ lạ lùng hơn. Đó là khi tia sáng xuyên qua phía cửa sổ gần bộ máy để đi ra ngoài thì luồng ánh sáng bây giờ bị uốn cong. Thuyết này rất khó chứng minh trong phòng thí nghiệm bởi vìnó đòi hỏimột khối lượng vật chất lớn thì ảnh hưởng về trọng lực mới nhận biết được. Lý do là vì một khi trọng lực (gravity) ngang bằng với gia tốc (acceleration) ánh sáng sẽ bị uốn cong dọc theo những vật thể có kích thước to lớn như mặt trời. Mãi đến năm 1919 nhà thiên văn vật lý tại Cambridge, Anh quốc, Sir Arthur Eddington nổi tiếng nhờ quan sát nhật thực để có thể thấy rõ ràng sự uốn cong của ánh sáng mà tìm ra sự chênh lệch về vị trí của những ngôi sao gần mặt trời. Eddington đã quan sát rất kỷ và chụp hìnhtừng giây về những vị trí của mặt trời trong lúc nhật thực đang xảy ra thì ông thấy rằng khi tia sáng đang di chuyển trong không gian theo đường thẳng trước khi đụng vào phần trên của mặt trời. Đến khi tiếp xúc với bề mặt của mặt trời thì tia sáng bắt đầu uốntheo đường cong của mặt trời. Rồi khi không còn tiếp xúc với bề mặt của mặt trời nữa thì tia sáng đi ra theo đường thẳng như lúc ban đầu. Nói cách khác, tia sáng đi thẳng, nhưng khi tiếp xúc với bề mặt cong của mặt trời thì nó uốn cong theo và sau đó nó lại đi theo đường thẳng tiến về vị trí ngôi sao. Eddington sau khi quan sát hiện tượng này đã xác định vị trí quan sát đượcvà vị trí thậtcủa một ngôi sao trong không gian hoàn toàn sai lệch, cách nhau khá xa.
  
Tuy Einstein là người khám phá ra thuyết tương đối năm 1915, nhưng mãi đến năm 1919 thì Eddington là người chứng minh rằng thuyết tương đối là đúng.
Chúng tôi hơi dài dòng một chút ở đây là vì dựa theo khoa học, bất cứ một khám phá nào cũng cần chứng minh thì khám phá đó mới hữu dụng cho nhân loại. Ở đây,Đức Phật sau khi khám phá ra con đường giải thoát giác ngộ dựa theo thiền định và thiền quán, từng giai đoạn, từ thấp đến cao. Con đường này chẳng những Đức Phật thực hành viên mãn mà có biết bao người khác cũng thực hành phương pháp này để trở thành Thánh giả. Vì thế đạo Phật mới gọi là đạo của khoa học.
Đạo Phật tuyệt đối không có gì là bí mật cả, Đức Phật không dấu chúng sinh bất cứ những gì Ngài chứng đắc vì thế khi giảng pháp hai bàn tay Đức Phật lúc nào cũng buông xả vì thế vào thời Đức Phật còn tại thế, không những chỉ Đức Phật chứng Thánh quả mà còn có trên 1250 vị A la hán và biết bao Thánh giả khác trong ba tầng Thánh còn lại.
Tóm lại, Đức Phật là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã chứng đắc giải thoát giác ngộ và Ngài là một mẫu mực, một gương mẫu tối thượng của cuộc đời. Chính Ngài đã chứng minh khả năng đạt được giải thoát hoàn toàn tất cả mọi trói buộc của tâm, hoàn toàn thoát khỏi khổ đau và dĩ nhiên thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. Vai trò của Ngài đối với nhân loại như là một người chỉ đường, là đấng đạo sư giúp họ nỗ lực tinh tấn tu tập để dập tắt những ngọn lửa tham-sân-si đang bùng cháy trong tâm của họ mà đạt đến cứu cánh tối thượng là giải thoát Niết bàn và trở thành các bậc Thánh giả A la hán. Như thế trong thời kỳ Nguyên thủy gốc, Đức Phật chính là một con người lịch sử, là một bậc thầy vĩ đại, là đấng tôn kính cho cả Trời và người, là đấng Chánh Biến Tri.
Đối với Phật giáo, chứng đắc là khả năng buông bỏ chớ không phải được (đắc) cho nên càng chứng đắc các tầng Thánh cao thì khả năng buông bỏ càng cao cho đến khi buông bỏ tận cùng thì trở thành Phật.
Hãy lắng nghe câu chuyện của Ngài Kotthika hỏi Ngài Xá lợi Phất (Sàriputta) trong kinh Sìlavanta Sutra:
-Một vị đã đắc quả A La Hán còn hành thiền để làm gì? Có phải để tiến đến Bích Chi Phật (Độc Giác Phật) không? Hay vị ấy sẽ trở thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác?
Ngài Xá lợi Phất trả lời:
-Không. Cũng không phải vậy. Là A La Hán, vị ấy đã chấm dứt vòng sanh tử, tử sanh, và sẽ nhập Niết Bàn. Một vị A La Hán đã hoàn toàn trong sạch, không còn mảy may ô nhiễm nào để thanh lọc hoặc làm giảm suy. Tất cả mọi hoặc lậu đã được diệt trừ tận cội rễ. Do đó, vị ấy không còn pháp tu tập nào nữa để phát triển nhằm loại trừ, hoặc làm giảm suy ô nhiễm ngủ ngầm. Ngài cũng không còn Giới, Định hay Tuệ nào nữa cần phải trau dồi cho được toàn hảo. Như vậy Ngài không cần phải gia công làm cho điều gì trở nên toàn hảo cũng không cần phải tăng trưởng để làm cho những gì đã toàn hảo, trở nên càng toàn hảo hơn. Một vị A La Hán hành Thiền Minh Sát chắc chắn không phải để tìm những lợi ích tương tợ.
Phật giáo Nguyên thủy nhìn Đức Phật bằng một góc độ rất thực tế, dựa trên con người lịch sử. Vì thế Đức Phật đối với họ là vị A la hán đầu tiên của tất cả các vị A la hán. Trong ngũ bộ kinh Nikayas, Đức Phật đã nhiều lần xác nhận rằng hằng trăm nếu không muốn nói hằng ngàn đệ tử thuộc hàng Thánh giả của Ngài cũng chứng đắc các cấp độ tâm linh ngang bằng với Đức Phật. Trong kinh Bộ Tương Ưng, Đức Phật tuyên bố chính Tôn giả Xá Lợi Phất (Sariputa) đã chứng ngộ và thâm hiểu giáo lý Duyên Khởi (Pratiyasamutpada) rất sâu thẳm như chính Thế Tôn vậy. Ngoài ra, còn có những bậc Thánh giả khác như các Tôn giả Đại Ca Diếp (Mahkassapa), Mục Kiền Liên(Maggallana), Phú Lâu Na…cũng chứng đắc một số khả năng về những lãnh vực như giảng giải thuyết pháp, xuất nhập các cấp độ thiền, thi thố thần thông ngang bằng Đức Phật. Đức Phật trong ngũ bộ kinh Nikayas không hề phát biểu lời tuyên bố nào để phân biệt sự khác nhau giữa Ngài và các vị A la hán ngoại trừ lời nói sau đây trong kinh Tương Ưng:
-Này các Tỳ kheo! Như Lai là vị A la hán, bậc chứng ngộ hoàn toàn. Như Lai là người đã khiến cho con đường trước kia chưa sinh khởi nay sinh khởi, đưa ra con đường trước kia chưa được đưa ra, làm hiển lộ con đường trước kia chưa từng hiển lộ, là vị nhận biết con đường, hiểu rõ con đường và là vị thiện xảo trong con đường. Và giờ đây, này các Tỳ kheo, hàng đệ tử là người đi theo con đường của Như Lai. Này các Tỳ kheo! Đó là nét đặc biệt, sự đặc thù để phân biệt Như Lai, bậc A la hán, vị chứng ngộ hoàn toàn với các Tỳ kheo đã giải thoát.
Vì vậy, Đức Phật không chỉ là vị A la hán với vài điểm đặc biệt, mà chính những nét đặc biệt đó đã nâng Ngài lên tầm mức phi thường, trở thành đấng vô thượng đạo sư của cả thế giới và dĩ nhiên đứng trên tất cả các vị A la hán khác.
Thế thìĐức Phật cũng là bậc A la hán, nhưng vì Ngài là bậc thầy của tất cả các vị A la hán sau này và là bậc đã khai sáng ra đạo Phật cho nên danh vị Phật chỉ dành riêng cho Ngài vì thế Đức Phật chính là bậc A la hán Chánh đẳng, Chánh giác.
Cũng nên nói thêm, Thái tử Tất Đạt Đa chứng tứ thiền, đắc tam minh trở thành Phật chớ không hề có Bát nhã. Mãi 600 năm sau ngày Đức Phật nhập Niết bàn, luận sư Long Thọ mới giới thiệu tư tưởng Bát Nhã và 400 năm sau đó, luận sư Vô Trước và em  là sư Thế Thân mới giới thiệu Duy thức mà về sau ngài Huyền Trang thỉnh về Trung Quốc và dịch sang Hán tự như Bát Nhã Tâm Kinh, Thành Duy thức luận, Du Già Sư Địa luận…
Sau khi chứng Tứ thiền, đắc Tam minh,  Đức Phật dạy rằng:’Tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, ngoài phạm vi lý luận (beyond logic) (bất khả tư nghì)(bất khả thuyết)(chân lý tối hậu), dễ sử dụng, bình tĩnh, như vậy”.
Đến đây, Đức Phật thốt lên rằng Ngài hoàn toàn an định, thanh tịnh và trong sáng, không còn bất cứ cấu nhiễm nào của trần thế. Ngài đã đạt đến sự chứng đắc tối thượng của tâm linh mà chính Ngài cũng không thể giải thích được vì nó ra ngoài tất cả những lý luận, suy tư của thế giới con người. Đây là chân lý tối hậu mà chỉ những người chứng đắc mới tự mình thấu biết chớ không thể diễn giải bằng bắt cứ ngôn tự nào của con người. Vì thế đối với đạo Phật, kinh điển chỉ là phương tiện, là ngón tay, chớ không phải là mặt trăng hay chân lý. Đối với đạo Phật, bất cứ cái gì mà có thể diễn tả bằng ngôn từ thì cái đó không phải là chân lý do đó mới có câu: “tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri” nghĩa là người biết ở đây là người đã chứng nhập chân lý thì họ không nói được vì chân lý không thể diễn bày. Còn người nói nhiều là người chưa chứng nhập. Do đó, không cần lý luận cao siêu hay trừu tượng vì càng lý luận thì càng đi xa chân lý cho nên cốt lõi của đạo Phật vẫn là tự tu, tự giác, tự tri nghĩa là phải tự mình tu chứng, tự mình cảm nhận và tự mình biết. Đó là “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri” nghĩa là người nào uống nước thì kẻ đó tự mình biết nước nóng, lạnh thế nào.
Khi Đức Phật còn tại thế, một hôm Tỳ kheo Man Đồng Tử  đặt ra những câu hỏi siêu hình để hỏi Thế Tôn rằng:
1. Như Lai có tồn tại sau khi chết?
2. Như Lai không tồn tại sau khi chết?
3. Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết?
4. Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết?
Nếu Thế Tôn thấy và biết thì nói thấy và biết. Nếu không, trả lời là không. Nếu các vấn đề này không được giải thích thỏa mãn, ông ta cảnh báo sẽ từ bỏ phạm hạnh này, sẽ không theo Phật nữa.
Nhữngcâu hỏi trên là sản phẩm của tư duy nhị nguyên đầy ngã tính. Trả lời nhữngcâu hỏi trên là chấp nhận thế giới là thường hoặc là vô thường, v.v... như vậy là rơi vào chấp thủ: chấp thường hoặc là chấp đoạn, hoặc chấp Năm thủ uẩn. Nhưng Đức Phậtlại chủ trương trung đạo, đoạn tận ái, thủ. Do đó, Như Lai không trả lời.
Rồi một chiều khác, Tôn giả Xá-lợi-phất đặt lại bốn câu hỏi trên với Tôn giả Kiều-thi-ca (Mahà Kotthika) đã được Tôn giả Kiều-thi-ca (Mahà Kotthika) trả lời rằng lý do Thế Tôn không trả lời là:
-Chỉ với ai chưa đoạn trừ tham dục, tham ái đối với sắc, thọ, tưởng, hành và thức mới có quan điểm Như Lai có tồn tại sau khi chết, hoặc Như Lai không tồn tại sau khi chết, v.v...
-Chỉ với ai còn ái lạc Hữu, ái lạc Thủ, ái lạc Ái thì mới có những quan điểm "Như Lai còn tồn tại sau khi chết”.
Tuy Đức Phật không giải thích, nhưng một hôm Tỳ kheo ni Khemà giải thích cho vua Ba tư nặc như sau:
-Bởi vì Thế Tôn đã đoạn tận gốc rễ sắc, thọ, tưởng, hành và thức, làm cho như cây ta-la bị chặt đứt không thể tái sanh trong tương lai. Như Lai là thâm sâu vô lượng, đã giải thoát ước lượng của sắc, của thọ, của tưởng, của hành và của thức, nên không thể định nghĩa Như Lai ngang nhiên chấp nhận sự kiện cho rằng: Như Lai có tồn tại sau khi chết. Tương tự, không thể chấp nhận sự kiện Như Lai không tồn tại sau khi chết v.v..
Khác vớitriết gia Long Thọ, Vô TrướcvàThế Thân cố tìm ra những triết lý, luận thuyết để giải thích những hiện tượng về thế giới siêu hình, ở đây Đức Phật vẫn điềm nhiên im lặng không trả lời cho Tỳ kheo Man Đồng Tử. Không phải là Ngài không biết, không thể trả lời, nhưng đó không phải là cứu cánh của đạo Phậtbởi vì chân lý không thể diễn bày được. Do đó,thay vì trả lời những câu hỏi siêu hình của tôn giả Man Đồng Tử, Đức Phật kể cho ông ta nghe câu chuyện một người bị mũi tên độc. Đối với Phật giáo khi thấy một người bị nhiễm tên độc thì vấn đề cấp thiết là giải phẩu để giải độc ngay mà cứu sống họ. Còn vấn đề tìm cho ra ngọn ngành mũi tên và người bắn mũi tên thì không quan trọng. Bởi vì nếu không lo cứu chữa, thì người trúng tên độc sẽ chết trước khi biết được tông tích của hung thủ. Do đó vấn đề cấp thiết của con người và cũng là trọng tâm của đạo Phật là nhỗ mũi tên “khổ đau” chớ không phải đi tìm những câu trả lời cho các vấn đề siêu hình không thiết thực.
Thế rồi lúc bình minh vừa ló dạng, bầu trời thật đẹp và trong sáng, chim muôn líu lo trên cành, thật là một bồng lai tại thế. Bởi vì từ đây nhân loại có được một đấng giác ngộ, người mà đã dám hy sinh, từ bỏ tiền tài danh vọng để đổi lấy cuộc sống tu hành khắc khổ, cố tâm tìm đạo để cứu giúp chúng sinh còn đang lặn hụp trong vòng sinh tử trầm luân.
 
Ngài thành đạo vào ngày mùng tám tháng chạp âm lịch năm 589 TCN vào lúc sao mai mọc. Lúc đó Ngài vừa 35 tuổi.
Bắt đầu từ thời điểm đó, Thái tử biết mình là Phật, là một đấng Giác ngộ nên Ngài thốt lên rằng:“Ta đã hoàn thành xong Bát Chánh Đạo, Các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, đạt chánh trí giải thoát, đắc đạo quả Niết Bàn, Ta không còn tái sinh nữa”.
Cuối cùng, Thái tử đã đạt tới giác ngộ, trở thành Phật toàn giác, là bậc anuttara samma sambodhi nghĩa là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, là Đức Phật Thích-ca Mâu-ni (Shakyamuni) với Thập hiệu:
 
    Như lai (tathāgata), là "Người đã đến như thế" và tuệ giác của Đức Phật như Mặt Trời soi sáng khắp thế gian, xóa tan đêm tối vô minh.
    Ứng cúng(arahant), dịch nghĩa là A La Hán, là "Người đáng được cúng dường", đáng được tôn kính.
    Chánh Biến Tri:(samyaksaṃbuddha) là "Người hiểu biết đúng tất cả các pháp".
    Minh Hạnh Túc (vidyācaraṇasaṃpanna), nghĩa là "Người có đủ trí tuệ và đức hạnh ", tức là có đầy đủ tam minh (Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh) và ngũ hạnh (Thánh Hạnh, Phạm Hạnh, Thiên Hạnh, Anh Nhi Hạnh, Bệnh Hạnh).
    Thiên Thệ: (sugata), là "Người đã đi một cách tốt đẹp"
    Thế Gian Giải: (lokavid), là "Người đã thấu hiểu thế gian "
    Vô Thượng Sĩ: (anuttarapuruṣa), là "bậc tu hành tối cao, không ai vượt qua"
    Điều Ngự Trượng Phu:  (puruṣadamyasārathi), nghĩa là "Người đã chế ngự được bản ngã và nhân loại ", có khả năng điều phục những người hiền và ngự phục những kẻ ác theo về chính đạo.
    Thiên Nhân Sư: (devamanuṣyānāṃ śāstṛ), là "Bậc thầy của cõi người và cõi trời"
    Thế Tôn: (buddhalokanātha, buddhalokajyeṣṭha, bhagavān), là "bậc giác ngộ được thế gian tôn kính".
 
 
4. HÓA ĐỘ CHÚNG SANH
Đức Phật từ bỏ cung vàng điện ngọc cốt là để đi tìm chân lý cứu khổ, một con đường giải thoát trước tiên là cho chính Ngài và cho tất cả mọi chúng sinh. Ngài đã ra đi, bỏ lại tất cả, viễn ly mọi ràng buộc thế tình, trở thành một nhà tu khổ hạnh và phải tranh đấu với những hoàn cảnh khắc nghiệt để mong tìm thấy được ánh sáng chân lý. Sau 49 ngày đêm thiền định dưới cội Bồ-đề, Ngài đã tìm ra con đường giải thoát, có được thanh tịnh Niết bàn và giác ngộ viên mãn. Ban đầu Ngài có khuynh hướng giữ im lặng, không muốn đem giáo pháp Ngài vừa thực chứng dưới cội Bồ-đề giảng giải lại cho thế gian: “Nếu Ta đem con đường Đạo Pháp ra để thuyết giảng mà chẳng có ai hiểu được thì [việc ấy] chỉ mang lại thất vọng và nhọc nhằn cho Ta..." (Trung A Hàm). Thật vậy, "những ai chỉ biết tìm lạc thú trong dục vọng, nấp mình sau tấm màn của u mê thì sẽ không thể nào quán thấy được Sự thực" (Trung A Hàm).
Có lẽ lúc đó Ngài muốn theo đuổi con đường của một vị Độc giác Phật. Sau khi vị Phạm thiên Sahampati năn nỉ rằng: “Xin Vị Thầy Tối thượng chớ nên phiền muộn, hãy nhìn vào chúng sinh đang phải gánh chịu đau buồn và khổ ải [vì vướng mắc] trong sự hình thành và già nua. Hỡi Vị Tối thắng trong cuộc chiến, hãy đứng lên! Hỡi Vị Thầy Tối thượng, hãy hy sinh tất cả để bước vào cái thế giới này. Cứ đem Giáo lý ra thuyết giảng, rồi đây cũng sẽ có người hiểu được" (Trung A Hàm), thì Đức Phật mới nhận lời sẽ truyền dạy lại những gì Ngài thật chứng cho chúng sinh để cùng có giải thoát Niết bàn và đạt đến cứu cánh tột đỉnh là giải thoát ra khỏi biển sinh tử trầm luân. Vì thế đạo Phật mới gọi là đạo giải thoát. Giải là cởi mở nghĩa là cởi mở những trói buộc để thoát ra khỏi mọi hình thức đau khổ của cuộc đời.
Nhưng làm thế nào để ”Chuyển mê khai ngộ cho tất cả mọi người”?
 
5. TẠO LẬP TĂNG ĐOÀN
Sứ mạng cao cảĐức Phật muốn thực hiện là phải hóa độ và kết nạp đệ tử. Những người đệ tử đầu tiên này phải có kiến thức để thấu hiểu giáo lý của Ngài rồi sau đó mới nới rộng đến tất cả mọi người. Ngài thiết lập Tỳ kheo (nam phái) trước rồi Tỳ kheo ni (nữ phái) sau.
Trước hết,Ngài muốn đem giáo lý ấy truyền cho hai vị thiền sư Alara Kalama và Uddaka Ramaputta đã dạy cho Ngài thiền vô sắclúc banđầu.
Theo kinh Thánh Cầu trang 379, Đức Phật đã nói cùng các Tỳ kheo rằng:
“Này các Tỳ kheo! Rồi Ta tự suy nghĩ:
“Ta sẽ thuyết pháp cho ai đầu tiên, ai sẽ mau hiểu Chánh Pháp này?” Này các Tỳ kheo! Rồi Ta tự suy nghĩ: “Nay có Alara Kalama là bậc trí thức, đa văn, sáng suốt, đã từ lâu sống ít nhiễm bụi đời. Ta hãy thuyết Pháp đầu tiên cho Alara Kalama, vị này sẽ mau hiểu Chánh Pháp này”. Này các Tỳ kheo! Rồi Chư Thiên đến và nói với Ta như sau:”Bạch Thế Tôn! Alara Kalama đã mệnh chung bảy ngày rồi”. Này các Tỳ kheo! Ta nghĩ: “Thật là một thiệt hại lớn cho Alara Kalama: Nếu nghe pháp này, Alara Kalama sẽ mau thâm hiểu”.
Rồi này các Tỳ kheo! Ta lại nghĩ: “Ta sẽ thuyết pháp cho ai đầu tiên? Ai sẽ mau hiểu Chánh Pháp này?” Rồi này các Tỳ kheo, Ta lại nghĩ: “Nay có Uddaka Ramaputta là bậc tri thức, đa văn, sáng suốt, đã từ lâu sống ít nhiễm bụi đời. Ta hãy thuyết pháp đầu tiên cho Uddaka Ramaputta, vị này sẽ mau hiểu Chánh Pháp này”. Rồi Chư Thiên đến nói với Ta như sau: “Bạch Thế Tôn! Uddaka Ramaputta đã mệnh chung hôm qua”. Này các Tỳ kheo! Ta nghĩ: “Thật là một thiệt hại lớn cho Uddaka Ramaputta. Nếu nghe Pháp này, Uddaka Ramaputta sẽ mau thâm hiểu”.
Này các Tỳ kheo! Rồi Ta suy nghĩ: “Ta sẽ thuyết pháp cho ai đầu tiên? Ai sẽ mau hiểu Chánh Pháp này?” Rồi này các Tỳ kheo! Ta lại nghĩ: “Nhóm năm Tỳ kheo này đã hầu hạ Ta khi Ta còn nỗ lực tinh cần, nhóm ấy thật giúp ích nhiều. Vậy, Ta hãy thuyết pháp đầu tiên cho nhóm năm Tỳ kheo”. Rồi này các Tỳ kheo! Ta lại nghĩ: “Nay nhóm năm Tỳ kheo ở tại đâu?” Này các Tỳ kheo! Với Thiên Nhãn thanh tịnh siêu nhân, Ta thấy nhóm năm Tỳ kheo hiện ở Barasina, tại Isipatana, vườn Lộc Uyển. Rồi này các Tỳ kheo! Sau khi ở tại Uruvela lâu cho đến khi mãn ý, Ta lên đường đi đến Baranasi”.
Như lời nguyện xưa là “Ai thành đạo trước thì tìm độ cho nhau” cho nên Đức Phật  liền tìm đến vườn Lộc uyển (Deer Park) để thuyết pháp cho năm người bạn đồng tu khổ hạnh với Ngài trước kia. Đó là các ông: Kiều Trần Như, Ác Bê, Thập Lực, Ma Ha Nam, và Bạc Đề. Đức Phật trên đường đến vườn Nai bằng bước chân thanh thoát xuất trần với dáng vẻ ngời ngời Trí Tuệ và bằng ánh nhìn trong sáng Từ Bi qua chiếc áo rách nhiều năm tháng phất phơ trong gió sớm, mưa chiều. Ngài thong dong bước với bình bát trong đôi tay vàng óng ả, với mái đầu tóc xoắn điểm phong sương.
 
 
Bài thuyết pháp đầu tiên, Đức Phật nói về chân lý Tứ Diệu Đế mà đầu đề bài kinh là Dhamacakkappavattana, có nghĩa là “Chuyển bánh xe Pháp”. Trong bài kinh nầy, Đức Phật mở đầu bằng lời khuyên các tu sĩ không nên theo hai cực đoan: cực đoan thứ nhất là  đam mê thú vui nhục dục thế gian, thực ra đó chỉ là những cái vui tầm thường, nhất thời và ngăn cản mọi tiến bộ tâm linh. Còn cực đoan thứ hai là khổ hạnh, ép xác chỉ làm mệt mỏi tinh thần và mê mờ trí tuệ. Vì thế cả hai đều có hại và vô ích. Con đường mà Đức Phật muốn nói ở đây chính là con đường trung đạo dẫn tới cuộc sống thanh tịnh, trí tuệ sáng suốt và sau cùng sẽ được giải thoát. Con đường giải thoát nầy chính là Bát Chánh Đạo.
 
Bát Chánh Đạo(Eightfold Path)
Khi Đức Phật còn tại thế, giáo lý giải thoát của Ngài là con đường Trung đạo hay Bát Chánh đạo. Trung đạo không phải là con đường nằm giữa hai thái cực mà con đường vượt lên hai thái cực. Trung đạo có nghĩa là bất nhị, là tuyệt hết đối đãi, là đạo trung hòa không thiên lệch bên này bên kia. Đức Phật đã giải thích con đường Trung đạo như sau:
-Từ bỏ hai cực đoan đó, Như Lai đã chứng ngộ “Trung đạo” (Majjhima Patipada), là con đường đem lại nhãn quan (cakkhu), tri kiến (nana) và đưa đến an tịnh (vupasamaya), trí tuệ cao siêu (abhinnaya), giác ngộ (sambhodhaya) và Niết bàn.
Trong kinh Chuyển Pháp Luân, Đức Phật xác định rằng con đường Trung đạo cũng chính là Bát Chánh đạo. Đức Phật lại dạy rằng:
-Hỡi này các Tỳ kheo! Con đường Trung đạo mà Như Lai đã chứng ngộ, con đường đem lại nhãn quan, tri kiến, trí tuệ cao siêu, giác ngộ, Niết bàn là gì?
-Đó chính là Bát Chánh đạo: là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định. Hỡi này các Tỳ kheo! Đó là “trung đạo” mà Như Lai đã chứng ngộ.
Đức Phật thuyết giảng bài kinh Chuyển Pháp Luân lần đầu tiên vào ngày rằm tháng sáu. Ngài Đại đức Kiều Trần Như (Koṇḍanna) chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật. Đức Phật cho phép Ngài xuất gia thọ Tỳ-khưu đầu tiên. Ngay khi ấy, Tam Bảo: Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo trọn vẹn đầu tiên xuất hiện trên thế gian.
Trong tám nhánh của Bát chánh đạo, tất cả đều liên hệ với nhau, bồi đắp cho nhau rất mật thiết. Nhánh nào cũng làm nhân và đồng thời làm quả cho bảy nhánh kia vì thế tuy có tám nhánh nhưng tựu trung cũng quyện tròn thành một, đó là độc lộ giải thoát.
1)Chánh kiến(Complete or Perfect Vision or Right View): Kiến là cái nhìn, cái thấy và chánh là ngay thẳng. Chánh kiến dựa theo định nghĩa thông thường của cuộc đời là cái thấy biết đúng đắn về thực tại, về vạn pháp, về những gì đang xảy ra bên trong và bên ngoài thân, tâm của mình. Sự thấy biết chính xác hay sai lệch ảnh hưởng rất lớn đến cách sống vì thấy biết sai lầm sẽ làm cho suy nghĩ và hành động sai lệch theo.
Tuy nhiên, muốn thấy biết thật đúng đắn về mình và những gì chung quanh mình thì cái thấy biết đó bây giờ phải thâm sâu hơn rất nhiều, cái thấy biết mà người bình thường không bao giờ biết đến, nghĩ đến. Cái thấy biết chẳng những thay đổi cuộc sống con người trở thành hạnh phúc và an lạc nhiều hơn trong khuôn khổ của nền tảng đạo đức nhân bản mà có thể đưa họ đến giải thoát, tự tại viên mãn. Chánh kiến mà Đức Phật muốn nói ở đây là cái thấy biết đúng, chân thật về đạo đức của cuộc sống, về vô thường, vô ngã, về nhân duyên, về Niết bàn và về khổ, nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ và con đường thoát khổ.
Nhân duyên là mối tương quan mật thiết cho sự hình thành và sự sống còn của nhân sinh vạn vật bởi vì cái này có vì cái kia có, cái này sinh vì cái kia sinh, cái này diệt vì cái kia diệt. Tất cả mọi vật thể trong thế gian này là do sự kết tập bởi biết bao nhân duyên cho nên chúng không có tự thể (tự tánh) vì thế tất cả đều là vô ngã. Muốn hiểu vô ngã hay không có tự tánh thì trước hết phải hiểu thế nào là ngã hay tự tánh. Ngã là bản chất để tự nó có thể phát triển và sinh tồn mà không cần đến sự giúp đỡ bởi những nhân duyên khác. Nếu hạt lúa có ngã thì tự nó lớn lên rồi trở thành cây lúa, nhưng hạt lúa không thể tự nó phát triển được nếu không có những trợ duyên như đất, nước, phân bón, ánh sáng…vì thế tự tánh của hạt lúa là vô ngã hay nói một cách khác là hạt lúa không có tự tánh. Bất cứ vạn pháp nào trên thế gian nầy mà muốn sinh tồn hay phát triển được đều cần phải có trợ duyên. Cái xe là sự tổng hợp của biết bao sắt, kim loại, plastic và công phu của bao nhiêu người thợ…Cái nhà chúng ta đang ở là do cây, gỗ, gạch, ngói và công thợ tạo thành mà chính cây, gỗ, gạch, ngói không thể tồn tại bởi chính nó cho nên toàn bộ cái nhà không thể nào tồn tại được vì thế cái nhà cũng là vô ngã  nghĩa là cái nhà nầy một ngày nào đó sẽ trở về với cát bụi vì phải chịu ảnh hưởng bởi luật vô thường sinh, trụ, dị, diệt. Ở đây, giáo lý vô ngã cho chúng ta một cái nhìn rộng lớn về sự sinh tồn của nhân sinh vũ trụ. Không có một vật thể nào, từ nhỏ như hạt bụi hay to lớn như trăng, sao hoặc vĩ đại như những dãy thiên hà trong vũ trụ thì không có vật thể nào tự nó có thể sinh tồn được mà chúng cần có trợ duyên. Con người thì cũng thế, sự sống còn của chúng ta là do sự đóng góp của biết bao công sức của những con người khác ngoài chúng ta. Vì thế con người cần phải tương quan, tương trợ, tương kết để phục vụ và cùng nhau sống trong an bình, an vui và trật tự.
Bây giờ thân, tâm của chúng ta có được là do sự kết tập và vận hành của ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Vậy thử xem thân, tâm có vô ngã không?
-Sắc uẩn là sự tập hợp của đất, nước, gió, lửa mà trong đó có hàng triệu, hàng tỷ tỷ nguyên tố biến đổi từng sát na. Muốn những nguyên tố đó tồn tại hay muốn bảo tồn sự sống thì thân cần ngoại duyên cho nên thân là vô ngã.Trong Tương Ưng Bộ kinh (Samyutta Nikàya), Đức Phật dạy rằng: “Nầy chư Tỳ Khưu, sắc là vô thường. Cái gì vô thường là khổ. Cái gì khổ không phải là tự ngã. Cái gì không phải tự ngã ắt không phải là của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta. Khi sắc thật sự sanh khởi, ta phải phân biện nó với Chánh Kiến như vậy”.
-Thọ uẩn là nhóm những cảm thọ do sáu căn tiếp xúc với sáu trần. Gặp thuận duyên thì cảm thấy lòng hân hoan vui sướng, gặp nghịch cảnh thì lo lắng, buồn phiền, đau khổ. Nhưng có vui, có buồn cũng do sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà phát sinh ra cảm thọ, chớ cảm thọ không tự nó có được vì thế thọ uẩn là vô ngã.
-Tưởng uẩn là nhóm nhớ về quá khứ, mơ ước những chuyện tương lai, nhưng muốn có những ký ức, kinh nghiệm để nhớ đó thì cần có ngoại duyên đã xảy ra hoặc đang xảy ra trong tiềm thức cho nên tưởng uẩn cũng là vô ngã.
-Hành uẩn là nhóm tác ý khiến cho thân, khẩu, ý thực hành mà tạo ra thân, khẩu, ý nghiệp. Khi con người có những tư tưởng xấu ác, lời nói hung dữ hay hành động tàn ác thì trong tâm phải có tác ý bất thiện đó. Ngược lại nếu chúng ta có những tư tưởng tốt, lời nói hài hòa, hành động nhân ái thì đây là những tác ý thiện. Nói chung tập hợp của tất cả “tác ý”thiện hay bất thiện được thể hiện bằng tư tưởng, lời nói hay hành động thì gọi chung là hành uẩn.Nhưng sự tác ý là do tâm duyên với đối tượng bên ngoài cho nên hành uẩn là vô ngã.
-Thức uẩn là nhóm nhận thức từ những đối tượng bên ngoài do sáu căn tiếp xúc với sáu trần tạo thành sáu cái tâm tức là sáu thức. Vì là do duyên từ bên ngoài nên thức uẫn cũng là vô ngã.
Thân, tâm là do sắc, thọ, tưởng, hành, thức cấu tạo mà thành, nhưng mỗi uẩn là vô ngã cho nên toàn khối ngũ uẩn là vô ngã nghĩa là thân, tâm của chúng ta là vô ngã mà Bát Nhã Tâm Kinh gọi là Ngũ uẩn giai không.
Do đó, nếu chấp Thân là Ta, chấp Thọ là Ta, chấp Tưởng là Ta, chấp Hành là Ta, chấp Thức là Ta thì một người mà bây giờ có tới năm cái Ta hay sao? Ngay cả sắc uẩn là vô ngã thì làm gì có cái Ta trong đó vì thế Đức Phật dạy rằng “Ai cho rằng sắc uẩn là Ta, là Của Ta, là tự ngã Của Ta thì chắc chắn gặt hái đau khổ, thất vọng, sầu muộn, vấp ngã và tai nạn”.Các uẩn còn lại cũng thế. Thế thì thân, và tâm là vô ngã cho nên không có gì gọi là Ta hay là cái của Ta. Nhưng vì còn sống trong vô minh bất giác nên chúng ta thường ngộ nhận cho rằng đây là thân của tôi và tư tưởng, ý nghĩ hay lời nói cũng là của Tôi. Khi vui thì cho rằng Tôi vui và khi đau khổ thì nói là Tôi đau khổ. Thật ra tôi đâu có vui hay tôi làm gì biết đau khổ mà chỉ có cái vui hay cái đau khổ, nhưng tuyệt đối không có người vui hay người đau khổ trong đó. Vì ngũ uẩn luôn vận chuyển không ngừng từ trong ra ngoài rồi từ ngoài vào trong, từ sinh lý đến tâm lý cho nên sắc, thọ, tưởng, hành, thức hoạt động liên tục. Cái này sinh vì cái kia sinh, cái này diệt vì cái kia diệt cho nên toàn bộ sắc, thọ, tưởng, hành, thức sinh khởi liên tục tạo ra những cảm giác vui buồn, những biến đổi trong thân và tâm…mà chúng ta lầm lẫn ngộ nhận những cảm thọ đó là Tôi hay là của Tôi… Thí dụ có người đánh vào mặt thì chúng ta kêu “Tôi đau quá” hay có người khen thì chúng ta hãnh diện là “Tôi sung sướng quá”. Thật ra nếu bị đánh thì thân đau, thân bị chảy máu chớ đâu có dính dáng gì đến Tôi. Bởi vì sau đó thân hết đau thì nói “Tôi không còn đau”. Nếu thật sự có cái Tôi thì chỉ một cái Tôi duy nhất hoặc là “Tôi đau quá” hoặc là “Tôi sung sướng quá” nhưng cái Tôi cứ tuần tự thay hình biến dạng theo cuộc sống thì làm sao gọi đó là cái Tôi được. Sự biến đổi liên tục theo thời gian đó chỉ là vận hành của ngũ uẩn chớ không phải là Tôi hay là cái của Tôi. Thế thường khi chúng ta làm chủ được một cái gì thì cố nắm giữ rồi vội cho đó là của Tôi. Chưa có thì cố sức tìm cầu để có và có một thì muốn có mười và cứ thế cái của Tôi cứ tăng trưởng cho nên bản ngã cũng phải tăng trưởng theo. Con người là một hợp thể cấu thành bởi sắc, thọ, tưởng, hành, thức tồn tại trong thế gian này chỉ khi nào các hợp thể khác ở chung quanh cùng tồn tại bởi vì tất cả các pháp đều nương tựa vào nhau mà tồn tại. Vì thế cái Tôi chỉ là ảo giác trong tâm của con người chớ không có thật vì các pháp luôn luôn biến đổi, không bao giờ cố định. Cái tôi đã không có thì làm gì có cái của Tôi, tài sản của Tôi, công danh của Tôi, những người thương yêu của Tôi…mà đã khổ công gầy dựng và giữ gìn. Con người thì không chấp nhận như thế, họ cho thế gian là thật, thân này thật, những gì họ tác tạo là vĩnh viễn thuộc về họ cho nên Đức Phật gọi họ là những người chạy theo ảo ảnh, nắm bắt ảo ảnh để chuốc khổ vào thân. Cũng do si mê chấp ngã cho nên không có cái Tôi mà vẫn tìm cho Tôi, giữ cho Tôi. Không có cái của Tôi mà con người vẫn nắm giữ, bám níu, chấp chặt, ôm khư khư vào lòng của cải thế gian thì làm sao tránh khỏi lo lắng, buồn rầu và đau khổ.
Sau cùng thực hành Chánh kiến rốt ráo là thấu hiểu rõ ràng “Bốn Sự Thật” tức là chân lý Tứ Diệu Đế. Trọng tâm của giáo lý Phật Đà nằm trong Tứ Diệu Đế (Cattàri Ariyasaccani)(Four Noble Truths) mà Đức Phật tuyên dương ngay trong bài thuyết pháp đầu tiên (Chuyển Pháp luân) cho năm người bạn tu khổ hạnh cũ ở vườn Lộc uyển, gần thành Ba-la-nại (Benarès). Giáo Pháp (Dhamma) là thực tướng, là phương tiện để giải thoát ra khỏi mọi hình thức khổ đau. Trong Kinh Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikaya), Đức Phật dạy rằng:
"Dầu chư Phật có thị hiện trên thế gian hay không, nầy các Tỳ Khưu, có một sự kiện, một nguyên tắc nhất định, một định luật thiên nhiên, là tất cả các vật cấu tạo đều Vô thường (Anicca), Khổ (Dukkha) và tất cả đều không có gì trường cửu (Vô ngã, Anatta). Như Lai đã chứng ngộ và thấu triệt điều ấy. Như Lai quảng bá, truyền dạy, tuyên bố, xác định, phân tách và chỉ dẫn rành mạch rằng tất cả các vật cấu tạo (hữu lậu) đều vô thường, khổ và vô ngã".
Và sau cùng Đức Phật đã khẳng định trong Trung Bộ kinh (Majjhima Nikaya) rằng: "Như Lai chỉ dạy một điều: đau khổ và sự chấm dứt mọi đau khổ".
 
TỨ DIỆU ĐẾ (FOUR NOBLE TRUTHS)
           1)Sự thật thứ nhất là khổ(Khổ Đế)(The Noble Truth of the reality of Dukkha) Đạo Phật là đạo như thật, không bi quan, không lạc quan, không siêu hình ảo tưởng mà hiện thực. Đức Phật không phủ nhận có hạnh phúc trong cuộc sống từ vật chất đến tinh thần cho mọi tầng lớp trong xã hội,nhưng rất tiếc không có niềm vui hay hạnh phúc nào vĩnh viễn ở mãi với chúng ta, nó đến rồi ra đi  bởi vì có duyên sinh thì có duyên diệt nhanh chóng cho nên cuộc sống con người luôn mãi khổ công nhọc kế đi tìm từ hạnh phúc này đến hạnh phúc khác. Thế thì cái mà chúng ta gọi là hạnh phúc phải chăng đó là khổ đau cũng ví như viên thuốc bọc đường, khi chất ngọt tan mất thì vị đắng sẽ hiện ra. Ông hoàng bà chúa có nỗi khổ theo lối vua chúa, ngược lại người nghèo khó cũng phải cưu mang những nỗi khổ trong cuộc đời chẳng kém gì. Trong cuộc sống, không nhất thiết phải khóc lóc mới là đau đớn tột cùng, nhưng sẽ có lúc, sự câm lặng thầm kín mới gọi là đau. Đau đến nỗi, chạm nơi nào cũng thấy nhói.
Vậy Đức Phật nói những khổ gì?
Ngôn ngữ Đức Phật dùng để thuyết pháp không phải là tiếng Pali mà là tiếng Magadhi (Ma-kiệt-đà). Thật ra ngôn ngữ Ấn Độ rất phức tạp ngay cả bây giờ cũng đã có gần trên 15 loại được chính phủ Ấn công nhận. Đó là Sanskrit, Urdu, Bengali, Hindi…trong khi đó Pali không phải là ngôn ngữ thuộc nhóm Indic mà thuộc về thổ ngữ của vùng Trung Ấn. Giới thượng lưu và thành phần vua chúa Ấn Độ nói tiếng Sanskrit trong khi đó các thành phần dân chúng nói tiếng Magadhi, là ngôn ngữ gốc của Đức Phật, và phần lớn thành phần hạ tiện nói tiếng Paishachi. Vào thời Đức Phật còn tại thế, Ngài thuyết giảng rất nhiều trong những cuộc hành trình dài bằng cách đi bộ trong vùng Bắc Ấn gần nửa thế kỷ, nhưng chưa có ai nghĩ đến việc kết tập cho nên sau khi Ngài nhập diệt các đệ tử cảm thấy bàng hoàng vì sự thiếu vắng của bậc Đạo Sư. Cuối cùng họ quyết định kết tập những lời giảng dạy của Đức Phật và cô đọng lại thành kinh điển. Vì thế kinh điển Phật giáo được truyền miệng gần 500 năm sau khi Đức Phật nhập diệt hoàn toàn dựa vào trí nhớ của người đọc kinh.
Thế thì ngày xưa Đức Phật không nói tiếng Việt, tiếng Trung Hoa, tiếng Anh hay tiếng Pháp mà chỉ nói tiếng Ấn Độ cho nên trong kinh điển bằng tiếng Pali hay tiếng Sanskrit, Đức Phật chỉ nói “Dukkha”. Khi dịch sang Việt ngữ thì “Dukkha” biến thành “khổ” khiến mới nghe đạo Phật có vẻ quá tiêu cực, thụ động. Thật ra ý nghĩa chữ “Dukkha” rất rộng lớn bao gồm rất nhiều ý nghĩa với nội hàm nói lên sự thay đổi từ tâm lý đến sinh lý của con người gây ra sự xáo trộn, lo lắng, buồn phiền. “Dukkha” bao gồm cả những hạnh phúc, những mong muốn thành đạt trong cuộc sống nữa chứ. Nói chung tất cả những biến hành của tâm như vui, giận, yêu, ghét, thương, thích, muốn (hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục)(thất tình) đều là “Dukkha” cả. Thật ra bất cứ hạnh phúc nào trong thế gian thì cuối cùng cũng nhàm chán, thất vọng, không hài lòng, không thỏa mãn. Hạnh phúc chẳng khác nào như chiếc bóng, không bao giờ ôm giữ được bằng đôi tay. Cuộc tìm cầu hạnh phúc lúc nào cũng khó khăn đến khi có thì hạnh phúc chợt đến, chợt đi và cứ thế con người cứ đi tìm và đi tìm mãi không ngừng nghỉ và hành trình tìm cầu đó đâu có ai gọi là hạnh phúc bao giờ? Nói chung tất cả những biến dạng của tâm để cho chúng ta những cảm giác hạnh phúc hay đau khổ tất cả đều phát xuất từ ngoại duyên chớ thật ra trên thế gian này không có gì là khổ đau hay hạnh phúc. Một khi có khổ hay hạnh phúc thì ngay vào thời điểm đó có sự hiện diện của bản ngã nghĩa là tôi khổ hay tôi sung sướng. Do đó nếu không có sự hiện diện của “Tôi” thì ai đang khổ hay là ai đang sung sướng? Tất cả chỉ là sự cảm thọ của ngũ uẩn chớ không người nào thọ lãnh khổ hay sung sướng cả. Khổ tuy có muôn hình vạn trạng, biến đổi từ sinh lý đến tâm lý, nhưng cho dù khổ có thay đổi kiểu gì, con người có sống ở bất cứ xã hội nào hay làm bất cứ nghề nghiệp gì thì chung quy cũng nằm gọn trong tam khổ, bát khổ:
1.-Tam khổ: là ba loại khổ đau mà ai ai cũng phải gánh chịu hằng ngày:
-Khổ khổ: là những sự khổ đau luôn chất chồng lên nhau, khổ này chưa dứt,  nỗi khổ khác đã hiện lên. Tuy nhiên, nếu mình không muốn rước phiền não vào mình thì người khác cũng không cách nào gây phiền não cho mình được bởi vì tâm mình không buông xuống nổi. Nên nhớ rằng khi bạn vui, phải nghĩ rằng niềm vui này không phải là vĩnh hằng. Ngược lại, khi bạn đau khổ, bạn hãy nghĩ rằng nỗi đau này cũng không trường tồn.
-Hành khổ:Hành có nghĩa là tác ý, là ý muốn làm phát xuất từ bộ óc rồi sau đó mới chuyển thành tư tưởng, lời nói hay hành động. Vì thân, khẩu, ý luôn tác tạo cho nên con người phải gánh chịu bao nhiêu hậu quả. Nếu chạy theo dục vọng mù quáng thì thân, khẩu, ý sẽ đọa con người vào trong những cảnh khổ trầm luân không lối thoát. Vì thế Đức Phật dạy rằng con đường giải thoát là biết thanh tịnh hóa thân, khẩu, ý của mình.
-Hoại khổ: Thế gian vũ trụ là do sự kếp tập và vận hành của ngũ uẩn trong đó có thân, tâm của con người. Vì thân, tâm là vô ngã cho nên nó phải chịu sự biến hóa hoại diệt của luật vô thường sinh, trụ, dị, diệt nghĩa là có sinh tất có ngày hoại diệt. Nếu không thấu hiểu chân lý sinh, già, bệnh, chết cho nên khi mình có bệnh thì đau khổ, thấy sắc diện không còn trẻ trung đẹp đẻ thì đau khổ, thấy người sắp chết hay mình sắp chết thì phát sinh luyến tiếc, bám níu, đau khổ…
2.-Bát khổ: Ngoài ba thứ khổ não trên, con người hằng ngày thường xuyên phải đối diện trong cuộc sống tám nỗi khổ khác:
-Mới sinh ra mắt nhắm nghiền quang quác
Khóc quơ tay, chân đá đạp, oa oa
Cất tiếng vang cho một kiếp Ta bà
Sinh là khổ – khóc dài cho một kiếp.
-Nợ trần gian mải xoay vòng trùng điệp
Bụi vô thường tan tác máu thời gian
Thân giả tạm mới đó cũng phai tàn
Già là khổ – bóng thân dần tắt lịm.
-Từ sinh – lão cho ta dòng suy bệnh
Dẫu bạc vàng chồng chất mấy tầng mây
Nhưng thân kia vẫn phải chịu đọa đày
Bệnh là khổ – làm sao ta tránh nổi.
-Và phút cuối tấm thân tàn còm cỏi
Thở hơi ra nhưng chẳng thấy quay về
Thôi nhắm mắt giã từ một kiếp mê
Tử là khổ – cuối cùng cho mộng ảo.
-Sống hội ngộ ngỡ đâu đào hoa đảo
Nào ngờ đâu duyên phận lắm bẽ bàng
Mới gặp đó thoáng chốc bỗng ly tan
Ái biệt ly – ngậm ngùi phút ly biệt.
-Chuyện thế gian trách đời sao khắc nghiệt
Vì tham lam nên mãi chẳng thỏa lòng
Dù bạc kia vàng cao núi chất chồng
Cầu bất đắc – góp hồn cho đau khổ.
-Tình thế trần ước cầu càng thêm khó
Lánh mặt rồi sao vẫn phải gặp nhau
Chẳng vui lòng mà thêm khổ thêm đau
Oán tặng hội – chỉ toàn là bất toại.
-Đời giả tạm cuối cùng rồi cũng hoại
Nhưng vì mê nên chấp mãi cái ta
Rồi một ngày cũng bỏ kiếp Ta bà
Chấp ngũ uẩn – chỉ lòng vòng sanh tử.
Tám điều khổ theo ta trong hành lữ
Bậc trí hiền mau chóng để ngộ ra
Còn kẻ ngu cứ mải lặn hải hà
Làm nô lệ suốt đời cho ma chủ.
Danh từ “Khổ” không phải chỉ để mô tả sự đau đớn cho thân xác hay cảm giác khó chịu của tinh thần mà còn bao gồm tất cả những gì có thể tạo ra đau khổ hay gánh chịu khổ đau. Vì thế chân lý về Khổ dạy rằng:”Vì nguyên lý vô thường mà tất cả mọi hình thức khoái lạc dù là thiên đường cực lạc cũng đều bị biến đổi và hủy diệt và tất cả mọi hình thức hiện hữu đều mang mầm mống khổ đau”. Chính vì sợ đau khổ nên con người cố nỗ lực tìm kiếm khoái lạc mà không biết rằng chính họ sẽ bị khoái lạc lừa đảo phản bội để rồi càng tìm kiếm khoái lạc con người càng thất vọng và cứ thế họ chìm đắm trong bể khổ trầm luân.Nói cách kháckhổ là trạng thái không thỏa mãn, bất toại nguyện làm cho con người khó chịu. Ngay cả hạnh phúc mà con người đeo đuổi cũng không thể tồn tại vì những điều kiện tạo duyên cho nó phát sinh luôn biến đổi vì thế không có hạnh phúc nào thật sự vững bền cả. Hạnh phúcmà chúng tamong muốn chỉ tồn tại nhất thời và những đối tượng mà chúng takhao khát mong mỏi chẳng qua chỉ là phù du tạm bợ, có đó rồi rồi mất đó chẳng khác nào như ôm giữ một cái bóng, như nắm bắt một làn hương.Ngay cả những thiên tài là những người lúc nào cũng dằn vặt về nỗi khổ hiện sinh, về sự chán chường và sự cô đơn. Như Ernest Hemingway từng viết: “Hạnh phúc ở những người thông minh là điều hiếm gặp nhất mà tôi biết.”
2)Sự thật thứ nhì là nguyên nhân của khổ(Tập Đế)(The Noble Truth that Dukkha has a causal arising)(Samudaya) Khổ là sự khao khát của những hứng thú, dục lạc, đam mê, ái dục…và nó nảy sinh và phát triển nơi nào có sự yêu thích, hài lòng, hay hạnh phúc. Thông thường chúng ta đo lường đau khổ bằng cảm thọ, nhưng cảm thọ không phải là đau khổ mà nguyên nhân gây ra khổ là sự giữ lấy dục vọng. Nói thế nghĩa là chính dục vọng tự nó không có khổ đau, nhưng nguyên nhân gây ra khổ đau là sự giữ lấy, bám níu, chấp thủ dục vọng đó.
Hằng ngày mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, miệng nếm, thân xúc chạm phát sinh biết bao dục vọng mà nhà Phật gọi là vọng tưởng. Thấy xe đẹp, đắc tiền sinh ra đam mê, thích thú. Nghe người khen thì hạnh phúc. Uống ly rượu ngon hay hay ăn cao lương mỹ vị thấy lòng lâng lâng sung sướng…Nhưng tất cả những cảm thọ thích thú, hay hạnh phúc đó không phải tự nó làm cho chúng ta đau khổ mà đau khổ chỉ bắt đầu hình thành trong tâm một khi chúng ta muốn lưu giữ, kéo dài hay chạy theo những thích thú đam mê đó. Ngày xưa, Đức Phật và các bậc Thánh giả vẫn sống, vẫn sinh hoạt trong thế giới này. Ăn thì họ vẫn biết ngon dở, mũi ngửi biết mùi thơm hay thối, lưỡi nếm vẫn biết vị mặn, ngọt, chua, cay…nghĩa là năm giác quan và hệ thống thần kinh não bộ vẫn hoạt động như tất cả mọi người. Thế thì người giải thoát khác ta hay ta khác người giải thoát ở chỗ nào? Đối với người giải thoát ăn thì vẫn biết món ngon, món dở, món mặn, món lạt nghĩa là các giác quan không hề bị mất tính năng động, nhưng sự khác nhau giữa Thánh và phàm là Thánh nhân tuyệt đối  không chấp vào món ngon hay dở nghĩa là ăn thì ăn miễn sao no thôi; ngon cũng ăn, dở cũng ăn chứ không đòi hỏi phải như thế này hay thế kia. Còn chúng ta chỉ thích ăn món ngon, vật lạ vì nó cho ta những cảm thọ thích thú, êm đềm, hạnh phúc nên muốn tận hưởng và kéo dài những giây phút hạnh phúc êm đềm đó càng nhiều, càng lâu thì càng tốt. Một khi tâm muốn chạy theo ái dục thì đây là nguyên nhân gây ra những nỗi khổ niềm đau. Nói cách khác, mỗi khi mắt thấy, tai nghe, lưỡi nếm, mũi ngửi, thân xúc chạm thì ta biết rất rõ, nhưng đừng bám níu vào những cảm giác, vì hiện tại duyên sinh nên ta có món ngon thì cứ thưởng thức nó, đến giây phút sau duyên diệt thì hết, không lưu luyến, thèm khát thì nguyên nhân gây ra khổ không bao giờ có. Nên nhớ của cải vật chất trên thế gian vốn không thuộc về ta mà nó chỉ cung ứng cho ta, vì thế chúng ta không cần vứt bỏ nó, cái chúng ta cần vứt bỏ chính là những tánh cố chấp, những tư duy sai lầm về Ngã. Vì thế biết thì cứ biết, nhưng không lưu giữ (chấp thủ) nó vào tâm thì nguyên nhân gây ra đau khổ không còn. Dục vọng là những thứ do ngoại duyên đưa đến chớ thật sự trong ta không bao giờ có dục vọng. Nếu không thấy tiền thì lửa tham không bùng cháy, không thiêu đốt tâm can. Nếu mắt không thấy cô gái đẹp thì tâm của gã si tình không bao giờ xao xuyến…Nhưng làm thế nào để buông dục vọng xuống? Đức Phật dạy rằng “buông xả” không có nghĩa là hủy diệt hoặc vứt bỏ, ném nó đi mà chỉ cần bỏ mặc nó rồi dục vọng sẽ qua đi. Chúng ta chỉ cần  tỉnh thức Chánh niệm để biết thật rõ ràng nó là dục vọng, nó là tham, nó là sân, nó là si rồi buông nó xuống, không chấp thủ, không dính mắc, luu luyến thì nó sẽ biến mất. Vì mắt thấy tiền (cái này sinh) nên lửa tham nổi dậy (cái kia sinh); bây giờ không chấp, không tham luyến vào tiền nữa (cái này diệt) thì lửa tham dập tắt (cái kia diệt). Có thực hành buông xả thì nguyên nhân gây ra đau khổ không còn. Thông thường những nỗi khổ niềm đau bắt nguồn từ sự ràng buộc của lý tưởng và những phức tạp do chính chúng ta tạo ra. Đôi khi chúng ta quá khắt khe, chỉ trích mọi thứ và cả chính chúng ta. Thật ra, đời sống và thế giới chúng ta đang sống dường như không bao giờ theo ý muốn của chúng ta cho nên nếu thực hành đứng đắn sự buông xả thì nguyên nhân gây ra đau khổ sẽ vĩnh viễn xa lìa.
Tóm lại, nguyên nhân gần gây ra biết bao nỗi khổ niềm đau chính là sự vô thường của vạn vật. Từ sự vô thường đó mới có sinh ly tử biệt, sinh già bệnh chết…Nhưng nguyên nhân xa sâu thẳm chính là “Ái dục”. Ái biến đổi khôn lường từ ái sắc, ái thanh, ái hương, ái vị, ái xúc cho đến ái pháp. Nó biến đổi dị thường từ hình thức này sang hình thức khác, quyến rũ khiến tâm con người rơi vào vòng kiềm tỏa của nó.
"Ái luyến sinh sầu ưu,
Ái luyến sinh sợ hãi.
Ai giải thoát ái luyến
Không sầu, đâu sợ hãi?"  (Pháp Cú 213)
 3)Sự thật thứ ba là sự diệt khổ(Diệt Đế)(The truth of the end of Dukkha)(Nirhodha) Khi hành giả thực sự diệt hết khổ đau nghĩa là mọi mầm mống của tham, sân, si, ái dục hoàn toàn bị dập tắt thì người có thanh tịnh, tự tại Niết bàn. Niết bàn không phải là cảnh giới siêu hình hay thế giới cực lạc nào đó trong càn khôn vũ trụ mà chỉ là trạng thái thanh tịnh, tự tại phản ảnh bản tâm của người có cuộc sống toàn thiện, chân thiện và thánh thiện, không còn phiền não khổ đau chi phối. Nói cách khác, Diệt Đế là một trạng thái tâm đã đoạn diệt lòng ham muốn và các ác pháp, người sống trong trạng thái này được xem là đã giải thoát hoàn toàn tức là người đã làm chủ sự sống chết của mình. Và người làm chủ sự sống chết của mình là người hạnh phúc nhất trên thế gian này.
Vào thời Đức Phật còn tại thế có một ẩn sĩ Bà-la-môn khi gặp ngài Xá Lợi Phất liền hỏi :
- Niết bàn, Niết bàn, này ông bạn Xá Lợi Phất xin cho biết đó là cái gì vậy?
Tôn giả Xá Lợi Phất bèn trả lời :
- Sự tiêu diệt lòng tham muốn, sự tiêu diệt lòng nóng giận hận thù, sự tiêu diệt lòng si mê sai lạc là cái mà con người gọi là Niết bàn.
Khi nói về Niết bàn, chính Đức Phật cũng dạy thêm rằng :
- Nếu chúng sinh nào đã từ bỏ thú vui và tham muốn, đã đầy đủ trí tuệ thì họ đã đạt đến sự giải thoát sinh tử, sự tịch tĩnh, đã đạt đến Niết bàn tức là nơi an dưỡng thường tồn, vĩnh cửu ngay ở trong cõi đời nầy.
Như vậy, Niết bàn không phải là một cõi, một cảnh và dĩ nhiên Niết bàn cũng không phải là cái hư vô. Rõ ràng Niết bàn không thể dùng văn tự ngôn ngữ của con người để diễn tả, vậy Niết bàn thật sự có hay không có?
Trong kinh Na Tiên Tỳ Kheo, Ngài Na Tiên đã trả lời câu hỏi tương tự như thế của vua Milinda rằng :
- Tâu Hoàng thượng, thật sự có Niết bàn và Niết bàn chỉ có thể lấy trí mà nhận biết. Nếu chúng sinh giữ được tâm thanh tịnh và chánh trực, thoát khỏi các nghiệp chướng và thoát khỏi được các tham muốn thấp hèn thì chính họ sẽ thấy được Niết bàn.
Nhà vua xin cho một thí dụ.
Ngài Na Tiên lại tiếp :
- Hoàng thượng biết một cái gọi là gió, nhưng Hoàng thượng có biết gió màu sắc gì, hình dáng ra sao, nó dày hay mỏng, dài hay ngắn?
Nhà vua đáp :
- Gió thì vô hình vô sắc làm sao chỉ được. Tuy không chỉ được, nhưng nó vẫn có.
Bây giờ Tỳ Kheo Na Tiên mới kết luận :
- Cũng thế, tâu Hoàng thượng, Niết bàn là cái thật sự có mà không thể dùng văn tự ngôn ngữ để diễn tả cho con người thấy được hình sắc của nó.
Thế thì làm sao biết được Niết bàn, nhà vua lại hỏi.
- Nhờ sự thoát khỏi phiền não, nghiệp chướng, nhờ sự an ổn, an lạc thanh tịnh thì có được Niết bàn.
Rồi ngài Na Tiên lại tiếp :
- Như người té vào đống lửa ngùn ngụt, nếu họ cố gắng vượt ra khỏi và lên đựoc chỗ mát thì người ấy sẽ cảm thấy sung suớng vô cùng. Cũng thế, người thoát khỏi lửa của tham, sân, si sẽ huởng cái sung sướng an tịch của Niết bàn. Cũng như người thoát ra khỏi những tâm niệm bất thiện, người ấy sẽ hưởng cái sung sướng Niết bàn. Và sau cùng những ai thoát khỏi cái lo sợ của sanh, lão, bệnh, tử người ấy sẽ hưởng cái sung sướng Niết bàn.
Trong cuộc sống hằng ngày, có những giây phút chúng ta không còn quan tâm đến sắc, tài, danh, lợi cũng không còn để cho tham sân si lấn áp, tinh thần sáng suốt nhẹ nhàng thì ngay lúc đó chúng ta đang sống trong Niết bàn. Nhưng rất tiếc Niết bàn đến với chúng ta quá ngắn ngủi bởi vì khi tâm quay về với đời sống thực tại thì Niết bàn biến mất và lo lắng, phiền não xen vào. Vì thế thanh tịnh tự tại Niết bàn nằm trong tay ta và dĩ nhiên lo lắng, buồn phiền cũng do ta.
4)Sự thật thứ tư là con đường thoát khổ. (Đạo Đế)(The Noble Truth of the Path that leads to Awakening)(Magga) Đạo đế là con đường đưa hành giả trở về với đời sống đạo đức nhân bản, không làm khổ mình, không làm khổ người, không làm khổ muôn loài. Trong đó, Bát chánh đạo được xem là độc lộ để thăng hoa cuộc đời và đạt đến cứu cánh tối thượng là giải thoát giác ngộ.
Như thế Chánh kiến là nền móng vững chắc để xây căn nhà Bát chánh đạo. Không có căn nhà Bát chánh đạo nào bền vững nếu con người không dụng tâm thực hành thâm sâu Chánh kiến hằng ngày để giúp cho chúng ta thấy biết đúng.
Chánh kiến cho chúng ta thấy biết rõ ràng thế gian vũ trụ này là do nhân duyên kết tập trải qua trùng trùng duyên khởi từ vô thỉ đến vô chung chớ không phải do Thượng đế sáng tạo.
Khoa học ngày nay khám phá vũ trụ có được là do một vụ nổ lớn từ một vi tử (The Big Bang Theory) khoảng 13.7 tỷ năm về trước và từ đó những dãy Thiên Hà được tạo dựng. Trước năm 1913 vũ trụ đối với khoa học chỉ vỏn vẹn có dãy Ngân Hà (The Milky Way). Mãi sau khi Edwin Hubble đo được khoảng cách của dãy Thiên Hà Andromeda khoảng 900,000 năm ánh sáng thì vũ trụ mới được hiểu là do sự tạo thành của rất nhiều dãy Thiên Hà khác chớ không nhất thiết chỉ có dãy Ngân Hà mà thôi. Nhưng mãi đến năm 1965 tại phòng thí nghiệm của hảng điện thoại Bell, hai nhà khoa học Arno Penzias và Robert Dicke thuộc đại học Princeton vô tình khám phá những năng lượng rơi rớt lại trong không gian sau vụ nổ lớn 13.7 tỷ năm về trước và từ đó họ đưa ra thuyết “The Big Bang”.
Hiện nay vũ trụ vẫn còn nằm trong thời kỳ nới rộng cho đến khi tất cả những hành tinh nóng như mặt trời…đốt cháy hoàn toàn những nhiên liệu như Hydrogen, Helium…và lúc đó vũ trụ sẽ chìm vào bóng tối, băng giá. Sau đó vũ trụ sẽ thu trở lại thành vi tử như lúc ban đầu. Hiện tượng này gọi là The Big Crunch.
Thế thì thế gian vũ trụ sinh rồi diệt và diệt để rồi sinh trở lại, nhân này quả nọ vô cùng vô tậntừ vô thỉ đến vô chung, vậy đâu là điểm khởi đầu và đến bao giờ là ngày cùng tận?
Ngày xưa, khi khoa học còn nằm trong thời kỳ phôi thai, tín ngưỡng phát triển rất mạnh. Thế nhưng,ngày nay khoa học tiến rất xa và con người có tầm nhìn khá chính xác về nhân sinh vũ trụ cho nên tín ngưỡng, ngay cả tín ngưỡng dân gian,càng ngày càng bị thu hẹp. Vì thế Đức Phật luôn nhắc nhở chúng sinh đừng tin vội, tin vàng (Believe nothing, no matter where you read it, or who said it, no matter if I have said it, unless it agrees with your own reason and your own common sense. Buddha.) mà hãy dùng trí tuệ để nhận xét một cách công minh thì chúng ta đang thực hành Chánh kiến. Phật giáo ngày nay pha trộn quá nhiều với tín ngưỡng dân gian làm cho Phật giáo mất đi định hướng. Tin tưởng sai lầm còn tác hại hơn là không tin tưởng gì hết. Hiện nay, người Tây phương thuộc về tín ngưỡng thần quyền (religious) ở Hoa kỳ, Âu châu hay ngay cả Úc châu đi nhà thờ càng ngày càng sa sút đặc biệt là giới trẻ. Họ muốn đi tìm một định hướng mới cho cuộc sống, ngay cả những người không tin vào Thượng đế (atheism and agnosticism)bắt đầu quay về tìm hiểu, học hỏi và thực tập giáo lý Phật Đà càng ngày càng nhiều. Họ cảm thấy thoải mái và hạnh phúc hơn khi thực tập Bát chánh đạo và các phương pháp thiền. Họ tự tin nhiều hơn về lối sống mới vì chính họ tự lèo lái con thuyền định mệnh của họ chớ không do ai khác. Ngược lại, thế hệ trẻ Việt Nam ở Hoa Kỳ và khắp nơi trên thế giới không biết tý gì về giáo pháp ngoài việc tụng kinh ê a và cơm chay. Vì thế nếu không thông hiểu và thực hành Chánh pháp, khi thế hệ đi trước mất đi thì có lẽ Phật giáo Việt Nam ở hải ngoại sẽ biến mất giống như những thế hệ của người Trung Hoa ở Hoa Kỳ cách nay trên 50 nămcho dù có bao nhiêu chùa to, Phật lớn. Nếu các em biết thực hành Bát chánh đạo vào trong cuộc sống thì chính các em sẽ có biết bao lợi lạc, gia đình sẽ trên thuận dưới hòa, mọi người sẽ sống trong đạo đức nhân bản và kết quả gia đình sẽ có nhiều hạnh phúc và an lạc. Ngược lại, nếu không thông hiểu Bát chánh đạo, các em dễ dàng bị cải đạo vì nghĩ rằng đạo nào cũng tốt.
Phật giáo là tôn giáo không có tín ngưỡng bởi vì Phật giáo không phải là một hệ thống tín ngưỡng và lễ bái và Phật giáo không chấp nhận sự hiện hữu của một hay nhiều Thần Linh có năng lực chi phối định mệnh con người và con người có phận sự vâng lệnh, phục vụ và tôn sùng. Do đó, trong Bát Chánh Đạo, không bao giờ có Chánh tín do đó niềm tin trong Phật giáo hoàn toàn khác hẳn với niềm tin của những tôn giáo hữu thần (nhất thần giáo hoặc đa thần giáo). Vì thế nhánh đầu tiên của Bát Chánh Đạo là Chánh kiến nghĩa là con người phải có cái thấy biết một cách sát thật, rõ ràng, vô tư. Khi đã thấy biết sát thật thì niềm tin bây giờ không còn cần thiết nữa. Ngược lại, không thấy biết sát thật, nghiêng hướng này hay hướng kia thì gọi là tà kiến. Do vậy, đạo Phật là đạo “đến để thấy biết, chớ không phải đến để tin” cho nên đức tin không phải là một điều quan trọng trong Phật giáo và người đệ tử Phật không cần đến đức tin mà chỉ cần tinh tấn.Phật Giáo không đòi hỏi nơi tín đồ một đức tin mù quáng. Do đó một niềm tin tưởng suông không thể có chỗ đứng. Thay vào đó là lòng tín nhiệm căn cứ trên sựhiểu biết.Chính Đức Phật đã khẳng định rằng :“Ta không là Thượng đế, cũng không phải là thần linh, mà chỉ là một con người, nhưng con người đã chiến thắng thế gian”.Đức Phật đã chiến thắng thế gian, nhưng Ngài không cần ngai vàng để ngự trị và cũng không cần thần dân để được tôn vinh. Ngài sống rất thảnh thơi với ba mảnh y và một bình bát, nhưng chiến thắng được tâm mình mới là chiến thắng vĩ đại nhất. Đức Phật chỉ là một đạo sưvàgiáo pháp của Ngài là ngọn đuốc tuệ giúp chúng sinh nương theo đó tìm ra con đường sáng, con đường giải thoát giác ngộ cho chính mình.
Để giải thích mối quan hệ giữa lòng tin và trí tuệ, Đức Phật dạy rằng: “Người có lòng tin mà không có trí tuệ thì thường làm tăng trưởng vô minh. Người có trí tuệ mà không có lòng tin thì thường làm tăng trưởng tà kiến”.Trí tuệ ở đây cần được hiểu là năng lực suy xét và phán đoán mọi sự việc cho nên nếu trí tuệ không có lòng tin vào Chánh pháp thì người tu tập dễ rơi vào tà kiến, tăng trưởng tự cao, tự đại, luôn cố chấp không thấy được chỗ sai lầm của mình. Ngược lại, người có lòng tin vào Chánh pháp mà thiếu đi trí tuệ để nhận hiểu và phân biệt đứng đắn thì dễ dàng lún sâu vào chỗ si mê, tăm tối, mê tín dị đoan.
Từ xưa đến nay, lý trí và đức tin luôn chống đối với nhau. Lý trí dùng lý luận và suy tư phát xuất từ kinh nghiệm và nhận xét, trong khi đức tin nằm trong phạm vi tình cảm, không thể suy luận, suy xét hay giảng giải được. Do đó những tôn giáo thần khải thì đức tin là Thượng đế cảm nhận bằng trái tim, không phải bằng lý trí. Tình thương phát xuất bằng trái tim thì dựa vào tình cảm nên rất thăng trầm vì thế nó có lúc đúng, có lúc sai, có lúc thương,có lúc ghét. Ngược lại lòng từ bi phát xuất từ trí tuệ sáng suốt thì dựa theo tinh thần khách quan bình đẳng, không thiên vị. Thêm nữa, đối với những tôn giáo thần khải thì thần thông, phép lạ là quan trọng. Ngược lại Đức Phật, đã chứng lục đại thần thông,coi đó là không đáng kể và không thích đáng bởi vì điều quan trọng nhất vẫn là bồi dưỡng trí tuệ để có giải thoát. Đối với đạo Phật, những người có phép lạ không nhất thiết là bậc giác ngộ hay các bậc Thánh cho nên theo Đức Phật, thần thông phép lạ cao siêu nhất và huyền diệu nhất phải là làm sao biến một người ngu si thành một người khôn ngoan, trí tuệ.Do đó hạnh phúc hay khổ đau là do nơi con người chớ không tùy thuộc vào một đấng quyền năng tuyệt đối nào.
Từ khi con người xuất hiện trên quả địa cầu trải qua biết bao nền văn minh cổ đại bắt đầu từ Ai Cập rồi đến Hy Lạp, La Mã cho đến ngày nay, ý nghĩa về Thượng đế rất thăng trầm, thay đổi từ nhất thần cho đến đa thần tùy theo mỗi thời đại.Nếu Thượng đế là đấng toàn năng thì tại sao Thượng đế lại để con người uốn nắn Ngài tùy theo ý muốn của con người? Từ đó, chúng ta dễ dàngkết luận rằng dọc theo dòng tiến hóa của nhân loại, con người đã sáng tạo ra Thượng đế chớ không phải Thượng đế đã sáng tạo ra con người. Bằng chứng là ông trời của Trung Hoa đâu có giống ông trời của ngườiDo thái hay ông trời của người Ấn Độ cho nên ngày nay, mỗi tôn giáo tự tạo một Thượng đế riêng cho tôn giáo của mình, Thiên chúa giáo có God, Hồi giáo có Allah, Ấn Độ có Brahman, Trung Hoa thì có Ngọc Hoàng…từ đó mới có chiến tranh, hiềm khích và giết hại lẫn nhau để dành độc quyền ông Thượng đế không có thật đó. Vào thời Đức Phật còn tại thế, Bà la môn giáo tin rằng linh hồn được gọi là Atman(tiểu ngã)  là do đấng toàn năng tạo ra và tất cả mọi sự sống trên quả địa cầu này đều có linh hồn. Linh hồn chuyển từ thân xác này qua thân xác khác, cứ thế cho đến khi có giải thoát thì tiểu ngã sẽ hòa đồng với đại ngã Brahman tức là Thượng đế hay là linh hồn của vũ trụ.
Đến khi đạo Phật ra đời, Đức Phậtphủ nhận con người là do Thượng đế sinh ravàphủ nhận luôn cả ý nghĩa linh hồn (Soul)là do Thượng đế ban cho ta.Do đó, vào thời Đức Phật còn sinh tiền có sự ngăn cách rất rõ ràng giữa Phật giáo và đạo Bà la môn. Phật giáo chủ trương vô thần, diệt trừ bản ngã, tự giải thoát, bình đẳng và không có cúng tế nghi lễ rườm rà phức tạp. Đức Phậtkhông chấp nhận khái niệm về một linh hồn bất tử hay ngay cả một bản ngã thường tại.Ngược lại đạo Bà la môn tin rằng có tự ngã và khi chết thì tự ngã hòa nhập vào đại ngã để có giải thoát. Vì thế con người mới cầu xin vào đấng phạm thiên, tin tưởng vào thần linh nên cúng kiến cầu xin ban phước, tha tội.
Trong kinh Pháp Cú (145), Ðức Phật khẳng định rằng:
"Chỉ có ta làm điều tội lỗi, chỉ có ta làm cho ta ô nhiễm.
Chỉ có ta tránh điều tội lỗi, chỉ có ta gội rửa cho ta.
Trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta.
Không ai có thể làm cho người khác trở nên trong sạch”.
Sau khi đắc tứ thiền, Đức Phật với Tuệ Minh Sát và trí tuệ của bậc Chánh đẳng Chánh giác thấy biết như thật rằng từ con người cho đến nhân sinh vũ trụ tất cả đều là do nhân duyên, cái này có vì cái kia có, cái này sinh vì cái kia sinh, cái này diệt vì cái kia diệt, nhân này quả nọ mà tạo thành chớ tuyệt đối không có ai là tác giả cả. Do đó Đức Phật phủ nhận sự hiện hữucủa Thượng đế trong cuộc sống và dĩ nhiên không có Thượng đế thì làm gì có ai cho ai linh hồn. Dựa theo các tôn giáo thần quyền, linh hồn là một thực thể vĩnh hằng do Thượng đế ban cho loài người cho nên linh hồn có thể chuyển từ thân xác này sang thân xác khác hay từ cõi này sang cõi khác. Ngược lại, đối với đạo Phật cái tâm còn không có thì làm gì có linh hồn. Tâm nhà Phật gọi là Thức.Thức là cái biết biến đổi liên tục dựa theo sự biến dạng tâm lý và sinh lý của con ngườimỗi khi lục căn tiếp xúc với lục trần. Thí dụ mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi hương, lưỡi nếm mùi vị hay thân cảm xúc hoặc ý duyên với pháp trần thì có biết bao tư tưởng đưa vào tâm để cho ta cái biết.Phật giáo dùngchữsát na để chỉ cho đơn vị thời gian nhỏ nhất và một sát na xảy rarất nhanh bởi vì mỗi một cái nháy mắt có thể có hàng trăm sát na cũng như đơn vị nhỏ nhất để đo thời gian của nhân loại ngày nay là giây.
 Khi thành đạo, Đức Phật với tuệ minh sát, với trí tuệ của bậc Chánh đẳng Chánh giác khi quán chiếu lại thân, tâm của mình và của nhân loại thì Ngài thấy rằng chúng sinh không hề có tâm mà chỉ có những sát na tư tưởng kết nối và kết nối lại với nhau khiến chúng ta cảm giác như có tâm.Thí dụ ở sát na trước mắt thấy sắc cho ta cái biết của sắc (nhãn thức), đến sát na sau tai nghe âm thanh cho ta cái biết về âm thanh (nhĩ thức)…Cái biết sau nối tiếp (thay thế) cái biết trước và cứ thế cái biết liên tục sinh diệt tạo thành chuổi thức chớ thật sự không có một thức nào (hay một cái tâm nào) cố định cả. Cái tâm sau thay thế cái tâm trước và cứ thế tâm luôn sinh diệt tuôn chảy trong tâm hồn của chúng tavì thế Thức dựa theo Phật giáo là dòng chảy liên tục của các ý niệm(sát na tư tưởng). Vì sự ngộ nhận lầm lẫn cho rằng mình có tâm cho nên họ mới nghĩ rằng trong ta phải có cái Ta. Bây giờ không có tâm thì làm gì có Ta hay cái của Ta tức là hoàn toàn vô ngã. Thí dụ, ban đêm nhìn ra xa lộ ở Hoa Kỳ, chúng ta thấy ánh sáng đèn chạy dài như dòng sông uốn khúc. Nếu bây giờ lấy hết những chiếc xe kia đi thì dòng sông ánh sáng đó sẽ không còn. Nói cách khác nếu không có những ánh sáng từ những chiếc xe kết nối lại thì không bao giờ có ánh đèn sáng dài đến thế. Cái tâm con người thì cũng thế, tuy mỗi sát na tư tưởng rất nhanh, nhưng vì kết nối liên tục những sát na tư tưởng đó thì chúng ta có một chuổi thức mà con người lầm lẫn cho là có tâm.
Hãy lắng nghe trong Vô Môn Quan có ghi lại cuộc đàm thoại đầu tiên giữa Bồ-đề-đạt-ma và Huệ Khả. Bồ-đề-đạt-ma ngồi nhìn vách tường. Huệ Khả dầm tuyết, rút dao tự chặt cánh tay, nói:
"Con không an được tâm, xin thầy an tâm cho con."
Đạt-ma bảo: "Đưa tâm cho ta, ta sẽ an cho."
Sư đáp: "Con không thấy tâm đâu cả."
Đạt-ma đáp: "Ta đã an tâm cho con."
Tâm quá khứ đã qua, tâm tương lai chưa có, tâm hiện tại đang quay cuồng sinh diệt thế thì Huệ Khả biết cái tâm nào để tìm? Vì sự ngộ nhận có tâm cho nên Đức Phật dạy rằng: “ Tâm là tên lừa đảo lớn nhất, người khác có thể dối bạn nhất thời, nhưng nó lại gạt bạn suốt đời”.
Nếu nói Thượng đế là đấng toàn năng,toàn thiện thì tại sao Ngài lại sáng tạo cái thế giới con người đầy dẫy tội lỗi đau thương? Tại sao Ngài tạo ra biết bao nhiêu cảnh tai trời ách nước, tàn phá, giết hại chúng sinh? Như thế thì lòng bác ái của Ngài ở đâu? Vậy sự cầu nguyện có làm bớt thiên tai, dịch họa, chiến tranh hay khổ đau của con người được không? Vì thế Phật giáo phủ nhận sự hiện hữu thần linh trong cuộc sống của con người. Theo tinh thần Phật giáo thì chính con người phải tự mình giải quyết những vấn đề như chiến tranh hay hòa bình, hạnh phúc hay khổ đau của chính mình. Chiến tranh hay hòa bình là do con người quyết định chớ không dính dấp gì tới Phật trời cả. Nếu con người biết sống khoan dung độ lượng, biết thương yêu nhau thì họ biến chiến tranh thành hòa bình, ngược lại nếu các nhà lãnh đạo chạy theo những tham vọng đen tối thì từ hòa bình thành chiến tranh giết chóc thế thôi. Thêm nữa, do sự chuyển động của trái đất, của núi lửa, của những cơn gió lốc…theo định luật vô thường:sinh, thành, hoại, diệtđã tác hại con người. Nói chung thì đó cũng là do lòng tham của con người phá hũy môi trường sống của chính mình qua chiến tranh, qua những cuộc thí nghiệm nguyên tử, qua tàn phá thiên nhiên, đốt rừng tiêu hủy cây cối…tạo nên những ảnh hưởng dây chuyền nguy hiểm cho nhân sinh. Con người cũng vì muốn thỏa mãn lòng tham mà đi ngược lại với thiên nhiên nên hàng ngày lấy lên từ lòng đất, từ lòng biển hàng triệu thứ từ kim cương đến vàng, bạc, nhôm, sắt, khí đốt, dầu hỏa rồi lại thải ra hàng triệu tấn chất độc tác hại gây ra lầm than qua thiên tai, động đất, sóng thần, bảo lụt, hạn hán…Vì thế con người không thể tin rằng có một Thần linh nào đó có thể nhẫn tâm trừng phạt, hủy diệt loài người và gây đau thương chết chóc tang tóc khắp mọi nơi.
Có trận động đất rất lớn xảy ra vào ngày 25 tháng 4 năm 2015 ở Nepal với cường độ 7.8 Richter scale cách thủ đô Kathmandu 80 cây số về phía tây bắc sát hại trên 8000 người và trên 18,000 người bị thương. Sau đó kéo theo hàng loạtnhững cơn động đất nhỏ gieo rắc biết bao kinh hoàng cho mọi người. Hơn hai tuần sau đó, vàongày 12 tháng 5 năm 2015 động đất trở lại với cường độ 7.3 về phía đông, cách thủ đô Kathmandu 83 cây số gây thêm nhiều thiệt hại nữa. Nepal tuy là nơi đản sinh của Đức Phật, nhưng Phật giáo chỉ chiếm khoảng 20% và 80%dân số còn lại thuộc về Hồi giáo. Theo tục lệ của đạo Hồi, cứ mỗi 5 năm, Nepal lại tổ chức lễ tế thần và 250 ngàn con vật bị giết hại trong lễ hội này, phần lớn là trâu, dê và chim chóc. Lễ tế thần năm 2014, họ đã sát hại hơn 6000 con trâu vô tội, đầu lìa cổ và máu nhuộm đỏ cả một cánh đồng.
Một thời, Thái tử Tất Đạt Đa đi về thành Vương Xá, giữa đường gặp một đàn cừu bị dắt đưa về thành đểvua Tần Bà Ta La làm lễ tế thần. Ngài đi thẳng đến bàn thờ, vừa gặp vua đang làm lễ và các vị giáo sĩ Bà La Môn (Ấn Độ giáo ngày nay) đang sắp sửa giết một con cừu để cúng các vị hung thần. Thái tử tự thân đến cởi trói cho con vật khỏi nạn, và giảng giải cho mọi người nghe rằng:
- Ai cũng tham sống, thế mà ai cũng thích giết hại. Ai cũng muốn tạo ra sự sống.
Ngài nói với một giọng rất đầy thương cảm:
- Dẫu muôn loài có khác nhau, nhưng sự sống chỉ là một. Không thể lấy máu của thú vật rửa tội cho mình. Xin các vị thiên thần tha tội là một việc vô ích. Nếu các Ngài đều thiện thì các Ngài sẽ không tha thứ cho một việc làm ác như thế. Nếu các người làm ác, thì dầu có giết bao nhiêu thú vật đi nữa để cúng, các người cũng không hết ác được. Nhưng dầu thiện dầu ác, các Ngài cũng không tha tội cho ai. Tội của người nào thì người ấy phải chịu. Ðấy là luật nhân quả, không ai có thể vượt qua. Càng giết hại nhiều lại càng mang lắm họa.
Các thầy Bà La Môn nghe xong đều giật hết lễ phục mang trên mình, với hai bàn tay chùi chưa sạch máu. Mấy trăm con cừu được thả ra, vui vẻ chạy rong trên đường phố như vừa thoát khỏi địa ngục mà sự u mê của con người mới tạo ra. Sau đó, vua sai khắc trong đá và chạm vào gỗ đạo dụ này: "Từ xưa đến nay, chúng ta đã phạm một tội lớn là giết súc vật để tế thần. Nhưng bắt đầu từ ngày nay, trong dân gian không ai được làm đổ máu một con vật nào, vì chúng sinh cùng chung một sự sống. Và nên nhớ rằng: những điều lành sẽ dành riêng cho những kẻ hiền lương". (Trích Giáo Án Đức Hiếu Sinh).
Khi liễu ngộ như thế con người không phải sợ hãi thần linh, tôn thờ thần linh, van vái và cầu xin ở thần linh nữa. Phật Giáo không phải là một con đường siêu hình, cũng không phải là một con đường nghi thức. Đối với Phật giáo, Đức Phật Thích Ca là đấng đạo sư, là người đã tìm ra con đường giải thoát vì thế những ai muốn giải thoát ra khỏi đau khổ trầm luân hãy đi theo con đường mà Ngài đã đi qua. Đức Phật chỉ là người dẫn đường, còn đi hay không là do chúng sinh và muốn có kết quả thì chúng sinh phải tự mình làm chủ, tự mình tu tập để đi đến giải thoát chớ không nương nhờ ở Đức Phật hay bất cứ đấng thần quyền nào.
Tóm lại, đạo Phật không phải là đạo đổi chác, không phải là đạo ban bố phép mầu và cũng không phải là đạo hứa hẹn. Sự giải thoát giác ngộ hay sự an lạc thanh tịnh Niết bàn thật ra tự chúng sinh đem lại cho mình chớ Phật không ban bố cho ai cả. Vì thế, tuy đạo Phật là đạo của từ bi, trí tuệ và lòng dũng cảm, nhưng nếu con người không tin vào lòng từ bi để thương yêu, ban vui cứu khổ để cứu giúp chúng sinh; vào khả năng phát triển trí tuệ để chứng đạt chân lý ngỏ hầu thấu biết được thật tướng nhân sinh vũ trụ và lòng dũng cảm để vượt qua sóng gió chập chùng mà chiến thắng được vô minh phiền não của mình mà chỉ muốn cầu xin, van vái thần linh để có hạnh phúc thì con đường họ đi chắc chắn “không phải” là đạo Phật.
Vì thế, nếu khôngcó Chánh kiến, sống trong vô minh bất giác lấy khổ làm vui, lấy giả làm thật thì chúng ta thường đối diện với năm tà kiến. Đó là:
-Thân kiếnlà si mê lầm tưởng cho là thân, tâm là Ta, là Của Ta. Thân, tâm của con người chẳng qua là sự vận hành của ngũ uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Thân tức là sắc là sự kết hợp của đất, nước, gió, lửa. Vì thế sự sống con người là sự vận hành của ngũ uẩn chớ không có chi là Ta hay là của Ta cả.
-Biện kiến: Do nhận thức (thấy biết) sai lạc về ngã mà sinh ra hai cực đoan: thứ nhất theo chủ nghĩa thân ta chết là hết , là đoạn diệt, là đoạn kiến hoặc theo chủ nghĩa thân ta chết mà vẫn còn, không mất, không thay đổi, có nghĩa thân ta là thường trụ, là thường kiến. Đối với con đường trung đạo của đạo Phật, vượt lên trên thường và đoạn kiến nghĩa là sinh để rồi diệt, nhưng chết không phải là mất hẳn mà diệt để rồi sinh trở lại, sinh sinh diệt diệt trong thế giới sinh tử luân hồi.
-Tà kiếnlà tin rằng đời người không có nhân quả và cũng không có thiện ác báo ứng. Tin rằng con người là sản phẩm của Thượng đế, hay mọi việc ở đời đều đã do trời định, đã được Thượng đế an bài sẵn cả rồi. Hoặc là đau bệnh, tai nạn là do ông thần này hành hay bà thánh kia phạt…Tất cả những định kiến đó nhà Phật gọi là tà kiến nghĩa là sống trong tư tưởng sai lầm, mê muội khiến cuộc sống không có định hướng sáng suốt.
-Kiến thủ kiến: Người có thực hành quán chiếu thì dễ dàng thấy rõ Thân kiến, Biện kiến, Tà kiến ở trên là những sai lầm trầm trọng chẳng những đưa con người thấy biết đời bằng ảo giác, nương tựa vào những kiến giải sai lầm biến cuộc đời thêm điên đảo. Tuy nhiên, cũng có người cố chấp, tin tưởng vào những định kiến sai lầm đó, không thể nào phân biệt đúng và sai thì họ đang thực hành kiến thủ kiến.
-Giới thủ kiến: Chữ “thủ” trong kiến thủ kiến và chữ “thủ” ở đây có nghĩa là ôm giữ lấy, bảo vệ lấy, hay bị mắc kẹt vào một cái gì. Dựa theo tinh thần Phật giáo, Giới là kim chỉ nam để con người nương theo đó mà vun bồi đời sống thêm đạo đức nhân bản, làm nền tảng cho giải thoát và phát triển trí tuệ. Tiến trình Tam vô lậu học xác định rõ ràng là nếu không thực hành Giới (chớ không phải giữ giới) đứng đắn thì không bao giờ tâm có thể vào định được. Tâm có an định thì trí tuệ mới phát sinh. Vì thế người tu Phật nếu phá Giới, phạm Giới thì không bao giờ xây được căn nhà giải thoát vì nhà không có nền móng. Ngoài Phật giáo ra, có những tôn giáo đề xướng những giới luật rất hoang đường, vô lý, cực đoan. Thí dụ ở Ấn Độ, người theo Ấn Độ giáo thì tôn thờ bò nên không bao giờ ăn thịt chúng. Ngược lại, người theo Hồi giáo hay Do Thái giáo thì không ăn thịt heo, nhưng có quyền thưởng thức bò bít tết. Vì tin tưởng kỳ dị nên nhà Phật gọi những đức tin đó là giới thủ kiến. Một người giữ giới trường chay, nhưng lòng tham, sân, si không giảm thì không có lợi ích gì, cuộc sống vẫn còn nhiều sóng gió. Ngược lại, một người thực hành giới đứng đắn nghĩa là họ lúc nào cũng tỉnh thức chánh niệm nghĩa là bất cứ lúc nào cũng ý thức và kiểm soát thân, khẩu, ý của mình cho nên cuộc sống nhiều hạnh phúc, an vui, tự tại.
Chính năm tà kiến nầy làm cho tâm tính con người tối tăm mù quáng và đắm chìm trong vẫn đục.
Tóm lại, Chánh kiến là thấy biết mọi sự đúng như thật mà duy chỉ có Tứ Diệu Đế mới giải thích mọi sự đúng như thật cho nên trong Bát chánh đạo có Tứ Diệu Đế và ngược lại.
Chánh kiến là một lối sống rất thực tế cho nên người học Phật nên thực hành và phát triển trong mọi hành tác của cuộc sống để gạt bỏ những thấy biết sai lầm và gặt hái những lợi ích cho nên Chánh kiến là con đường dẫn đến hạnh phúc và an lạc. Chánh kiến còn là con đường giúp hoàn thiện về đạo đức, tâm linh và tri thức qua sự thức tỉnh từ trong nội tâm của mỗi người. Sau cùng, vai trò quan trọng nhất của Chánh kiến giúp mở mang và phát triển trí tuệ, khai tâm mở tánh, thấy biết tất cả mọi hiện tượng nhân sinh vũ trụ như thật đưa đến giải thoát Niết bàn.
Thêm nữa, trong Kinh Chánh Kiến, Đức Phật dạy rằng:
-Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm. Vì vướng vào tri giác sai lầm đó cho nên mới kẹt vào hoặc “ý niệm có”, hoặc “ý niệm không.” Này Tán-đà Ca-chiên-diên! Phần lớn người đời đều bị kẹt vào chấp mắc và bảo thủ. Người không bị kẹt vào chấp và thủ thì không còn nắm giữ và vọng tưởng về cái ngã nữa. Người ấy biết cái khổ, chẳng hạn, khi có điều kiện phát sinh thì nó phát sinh, khi hết điều kiện tồn tại thì nó tiêu diệt. Người ấy không còn nghi hoặc gì nữa cả. Cái thấy của người ấy không do ảnh hưởng của kẻ khác mà có, trái lại do chính người ấy tự đạt được. Cái thấy ấy gọi là chánh kiến. Đó là cách trình bày chánh kiến của Như Lai.
-Người có tri kiến chân chính khi quán sát về sự sinh khởi của thế gian không thấy thế gian là không. Người có tri kiến chân chính khi quan sát về sự hoại diệt của thế gian không thấy thế gian là có. Này Tán-đà Ca-chiên-diên! Chấp có là một biên kiến, chấp không là một biên kiến khác. Như Lai lìa hai biên kiến đó mà thuyết pháp một cách trung đạo. Nghĩa là: “Cái này có vì cái kia có, cái này sinh vì có cái kia sinh.” Từ vô minh mà có hành, từ hành mà có thức, từ thức mà có danh sắc, từ danh sắc mà có lục nhập, từ lục nhập mà có xúc, từ xúc mà có thọ, từ thọ mà có ái, từ ái mà có thủ, từ thủ mà có hữu, từ hữu mà có sinh, từ sinh mà có lão tử, và khổ đau chồng chất thành khối.
-Nếu vô minh không còn thì hành không còn, hành không còn thì thức không còn, thức không còn thì danh sắc không còn, danh sắc không còn thì lục nhập không còn, lục nhập không còn thì xúc không còn, xúc không còn thì thọ không còn, thọ, không còn thì ái không còn, ái không còn thì thủ không còn, thủ không còn thì hữu không còn, hữu không còn thì sinh không còn, sinh không còn thì lão tử không còn và nguyên khối khổ đau chồng chất kia bị tiêu diệt.
Trí tuệ và vô minh là hai kẻ tử thù không đội trời chung cho nên nếu con người sống trong vô minh bất giác chạy theo tham đắm dục tình thì suốt đời không bao giờ thấy được ánh sáng trí tuệ. Ngược lại, nếu phá được màn vô minh hắc ám thì trí tuệ sẽ hiển hiện ra ngay cũng như mây tan thì trời sáng, nước trong trăng hiện vậy thôi. Trí tuệ không phải ở trên trời rơi xuống, cũng không phải do Thượng đế hay thần linh nào ban cho, mà là do tự mình phát triển, theo con đường giải thoát do Đức Phật vạch ra. Vì thế khi một người trực nhận được chân lý thì kinh điển thường gọi là “Con mắt của sự thật”.
2)Chánh tư duy(Perfected Emotion or Aspiration or Right Thought): là tư duy đúng, phù hợp với đạo đức nhân bảnvàphù hợp với giáo lý duyên khởi. Chánh tư duy là tư duy chân chính chớ khôngphảilà tư duy chín chắn theo định nghĩa thông thường của cuộc đời. Tư duy chín chắn là tư duybiết đắn đo, nghĩ trước nghĩ sau, có trong có ngoài, thận trọng, không nông nổi, không bộp chộpvà chu đáo. Người có tư duy chín chắn thì tránh lỡ lầm, không có thái độ bồng bột, vội vã, hấp tấp và cẩn trọng trong mọi cư xử của cuộc sống đem lại nhiều kết quả ích lợi cho mình và cho đời. Tuy nhiên tư duy chín chắn chỉ là một phần nhỏ của Chánh tư duy bởi vì nó chỉ đáp ứng để thỏa mãnnhững hạnh phúc tạm bợ của  cuộc sống bình thường.Mặc dầu tư duy chín chắn giúp con người tránh những quyết định sai lầm, có kết quả tốt, nhưng cho dù kết quả có tốt cách mấy thì nó vẫn đưa con người đi lang thang lẩn thẩn không có lối thoát trong quỷ đạo của tham, sân, ai, ái dục mà kéo theo đó là những phiền não, khổ đau. Thông thường muốn làm giàu thì có khi phải gian dối, cạnh tranh bất chánh, lợi mình hại người cho nên người tư duy chín chắn đâu nhất thiết phải là người tư duy chân chính. Trên thế giới hiện nay có biết bao người hằng ngày thực hành tư duy chín chắn, nhưng họ vẫn còn tin vào tà kiến, mê tín dị đoan. Họ tin rằng thế gian vũ trụ này được tạo dựng bởi Thượng đế và số mệnh hay định mệnh của con người đã được an bài. Vìtin rằng con người là sản phẩm của Thượng đế cho nên có người Chúa đặt vào hoàn cảnh giàu sang, có cuộc sống sung sướng, còn người khác bị lâm vào những hoàn cảnh bần cùng, nghèo đói, cả đời tận tụy không thấy ánh sáng mặt trời. Dầu ở trong hoàn cảnh nào thì con người không được cải ý Chúa mà chỉ có thể cầu nguyện để cho Chúa thương xót mà thay đổi hoàn cảnh cho ta. Ngay cả những người có số phận nghiệt ngã cũng không nên than trời trách phận. Ngược lại, Chánh tư duycho chúng ta thấy biết rằng thế gian nhân sinh vũ trụ này là do trùng trùng duyên khởi tác tạo từ vô thỉ đến vô chung chớ không do bất cứ bàn tay mầu nhiệm nào. Từ khi đạo Phật ra đời, Đức Phậtphủ nhận con người là do Thượng đế sinh ra cho nên đạo Phật tuyệt đối phủ nhận linh hồn (Soul) mà chỉ có Thức (Mind) (hay Consciousness). Thức còn gọi là tâm, là cái biết biến đổi liên tục dựa theo sự biến dạng tâm lý và sinh lýcho nên con người có thể cải đổi cho tâm đượctrong sáng và từ đó cuộc sống sẽ thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp và hạnh phúc hơn. Cao hơn nữa là có giải thoát mà Bát chánh đạo là con đường hữu hiệu nhất đểđạt đến cứu cánh tối thượng đó.
Không có tôn giáo nào trên thế giới từ ngàn xưa cho đến ngày nay và mãi mãi về sau phát huy tinh thần bình đẳng như đạo Phật. Hãy lắng nghe Đức Phật nói với quốc vương Pasenadi (Ba-tư-nặc) của nước Kosala khi Ngài thu nhận Sunita, người làm nghề hốt phân vào tăng đoàn cách nay trên 2500 năm trong một xã hội có quá nhiều kỳ thị giai cấp:
“Đại vương! Trong đạo lý giải thoát, không có sự phân biệt giai cấp và chủng tính. Trước con mắt người giác ngộ, tất cả mọi chúng sinh đều bình đẳng. Máu ai cũng đỏ, nước mắt ai cũng mặn, tất cả chúng ta đều là con người. Ta phải tìm cách để mọi người có cơ hội đồng đều và vươn tới và thực hiện hoài bão của mình cũng như hoàn thành nhân phẩm của mình, vì vậy cho nên tôi đã đón nhận Sunita vào giáo đoàn khất sĩ”.
Đức Phật đã làm một cuộc cách mạng để san bằng mọi bất công và xóa tan mọi đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ. Chỉ có đạo Phật nâng cao nhân phẩm của con người và khuyến khích họ phát triển tiềm năng trí tuệ của mình đến chỗ tột cùng. Ngày nay, ở những quốc gia văn minh tiến bộ, có rất nhiều khoa học gia, bác sĩ, kỹ sư, học giả, triệu phú, tỷ phú…xuất thân từ những hoàn cảnh cơ hàn, thiếu thốn, nhưng với ý chí vươn lên cộng thêm sự nỗ lực tích cực phấn đấu và sau cùng với cánh cửa rộng mở rất bình đẳng của xã hội, họ đã thành công và đạt được những ước mơ to lớn trong cuộc đời của họ. Ngược lại, tôn giáo thần quyền, Thượng đế là tất cả, có quyền ban vui hay giáng họa cho con người. Con người phải khuất phục vâng lời chớ không được quyền cãi lại. Vì thế nếu nương vào Thượng đế hay các vị thần linh thì con người sẽ rơi vào chủ nghĩa định mệnh khiến họ trở thành thụ động, tiêu cựcthiếu sức phấn đấu vươn lên trong cuộc sốngvà đặc biệt nhất là trái với luật nhân quả của thế gian vũ trụ. Nếu không thấu hiểu rõ ràng luật nhân quả, con người luôn sống trong lo sợ, mê tín mù mờ và dĩ nhiên họ giải thích những hiện tượng thiên nhiên cũng như những biến đổi tâm linh qua sự mê tín dị đoan. Tin tưởng như thế Đức Phật gọi là tà kiếnvà tư duy như thế là tà tư duy. Thí dụ, một người có thể làm rất nhiều việc lành, nhưng họ luôn đón nhận những sự bất hạnh đắng cay cho cuộc sống hiện tại khiến họ đâm ra cay đắng với cuộc đời và không tin vào luật nhân quả. Thật ra luật nhân quả rất công bình, không thiên vị hay bỏ sót một ai. Những nỗi bất hạnh mà họ đang thọ nhận bây giờ chính là những hậu quả mà họ đã gieo trong quá khứ vì nhân nay đã trổ thành quả. Trong khi đó, những nhân thiện lành họ đang gieo cần thời gian để trở thành quả cho nên trong tương lai chính họ sẽ thọ lãnh những kết quả thiện lành đó bởi vì nhân cần thời gian để trổ thành quả mà nhà Phật gọi là dị thời, dị thục. Hãy quan sát khu vườn sau nhà: Những cây lê, cây xoài, cây mít bắt đầu đơm hoa kết trái vì nhân nay đã trổ thành quả trong khi đó những luống đất trồng ngò, trồng mướp, trồng bí, trồng bầu thì hạt giống vẫn chưa đâm chồi vì nhân chưa thành quả. Nhân quả áp dụng vào trong mọi lãnh vực của cuộc sống từ sinh lý đến tâm lý. Người thấu hiểu nhân quả là người biết thức tỉnh, biết phòng ngừa và cẩn trọng trong tất cả mọi tác động của thân, khẩu, ý. Nếu biết thay đổi cách sống cho thân, tâm được vui khỏe (nhân) thì chắc chắn sẽ ít bệnh tật (quả). Muốn giảm căng thẳng, lo lắng buồn phiền (quả) thì nên đơn giản cuộc sống và thực hành sống đời đạo đức, ăn ngay nói thẳng (nhân). Nói lời ái ngữ (nhân) thì người thương kẻ mến (quả). Khi tâm đang oán hận ai (nhân) thì làm sao có được nụ cười thân thiện (quả).
Khi thấu hiểu luật nhân quả thì vấn đề có định mệnh hay không là tùy nơi chúng ta. Nếucon người biết tu tập những phương pháp để mở rộng nhận thức tâm linh tức là có Chánh kiến để tự mình thay đổi cuộc đời của mình thì không có số mệnh hay định mệnhchi cả. Ngược lại, nếu con người thụ động đổ thừa cho số mạng hoặc ngồi chờ một phép lạ hay sự ban bố của Thượng đế thì lúc đó định mệnh có thật vì chúng ta không tận dụng khả năng thay đổi cuộc sống của chúng ta. Bây giờ, dựa theo tinh thần Phật giáo, con người tự mình làm chủ mạng sống của mình, chính mình ban vui hay giáng họa cho mình chớ Phật trời không can dự vào căn nghiệp của mình được. Vì thế, muốn có hạnh phúc, an vui, tự tại con người chỉ cần sống đời đạo đức nhân bản, luôn kiểm soát thân, khẩu, ý mà con đường thiện xảo nhất là thực hành đứng đắn Bát chánh đạo.
Ở phần trên, khi chúng tatiếp xúc với thế giới bên ngoài nghĩa là mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, miệng nếm và thân cảm xúc thì tất cả những cái thấy, nghe, hay, biết đó được đưa vào tâm. Thế giới bên ngoài rất phức tạp, có quá nhiều ảo ảnh của phù du nhân thế cho nên Đức Phật dạy chúng sinh trước hết phải thanh lọc bớt những tư tưởng, ý niệm mà tâm đang tiếp nhận. Vì thế thực hành Chánh kiến với mục đích kiểm soát để loại bỏ bớt những thấy, nghe, hay, biết sai lầm khiến tâm bất tịnh và chỉ tiếp nhận những thấy, nghe, hay, biết một cách ngay thẳng, công minh và đúng với sự thật khách quan. Giai đoạn thứ nhì là khi tư duy thì mọi tác ý của tâm không vướng mắc vào tư duy tham đắm, tư duy sát hại, tư duy sân hận và tư duy si mê bởi vì tất cả mọi phiền não khổ đau đều có gốc rễ trực tiếp từ bốn độc tố tham, sân, si và ái dục.Do đó,nếu nỗ lực để có thể giải phóng bốn tà tư duy đó thì gọi là Chánh tư duy. Vì thế Chánh tư duy không những giúp chúng ta có cuộc sống nhẹ nhàng, hạnh phúc thoát ly ra khỏi quỷ đạo đau khổ tham, sân, si mà nó là nền móng vững chắc nhất để có lời nói và hành động  phù hợp với đạo đức nhân bản và có giải thoát bởi vì lời nói và hành động đều phát xuất từ suy nghĩ trong tâm.
Cái tuyệt vời của Bát chánh đạo là có cái trước mới có cái sau, nhưng cái sau củng cố lại cho cái trước khiến cho hành giả càng thực hành thì càng thấu tỏ và thực hành càng thâm sâu. Ở đây Chánh kiến giúp hành giả thấy biết chân chính, đúng với đạo đức nhân bản, đúng với giáo lý Duyên khởi và phù hợp với con đường giải thoát. Sau đó Chánh tư duy suy nghĩ cũng đúng theo những cái thấy biết ở trên. Khi thực hành Chánh tư duy thuần thục nghĩa là tâm đã thực sự thấm thấu những điều thấy biết chân chính thì bây giờ cái nhìn sẽ sâu sắc và tinh tế hơn. Cứ thế mà tiếp tục tiến trình thanh lọc thân tâm cho đến khi đạt đến mục đích sau cùng là giải thoát, có trí tuệ. Các nhánh khác tác dụng cũng giống y như vậy.
Nếu muốn có một nhân cáchcao thượngthì ngay bây giờ chúng ta hãy bồi dưỡng những tư tưởng thiện lànhvà loại trừ những tư tưởng thấp hèn, luôn trau dồi đạo đức cho bản thân. Luôn tư duy trước khi nói và hành độngđể không làm khổ mình, khổ người và khổ muôn loài vạn vật khác:
-Đánh đổ tư tưởng về dục lạc: hằng ngày những tư tưởng về dục lạc như  sắc, tài, danh, lợi dính liền với sắc thanh, hương, vị, xúc, pháp làm cho tâm con ngườiđiên đảo. Đức Phật không phủ nhận sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, xúc êm dịu có vị ngọt làm say đắm lòng người. Nhưng dục lạc lúc nào cũng có hai mặt nghĩa là ngoài vị ngọt hấp dẫn đắm say đó, dục lạc còn có bộ mặt thật thứ hai. Đó là nếu muốn thỏa mãn những dục vọng, hạnh phúc đam mê thì con người phải khổ công tạo dựng, cố gắng làm lụng vất vả, trải qua biết bao nhọc nhằn, nhưng khi có được hạnh phúc trong tay thì hạnh phúc vỗ cánh bay xa vì sự tạm bợ vô thường của tạo hóa. Thế thì hạnh phúc chẳng khác nào như một chiếc bóng không bao giờ nắm giữ bằng đôi tay. Hạnh phúc không bao giờ dừng lại vì khi nắm được cái gọi là hạnh phúc thì nó không còn là hạnh phúc nữa, trở thành nhàm chán và cứ thế chúng ta đi tìm hạnh phúc mới. Hạnh phúc mới thay thế hạnh phúc cũ cho nên cuộc tìm cầu hạnh phúc xem ra không bao giờ tận. Vì thế càng chạy theo dục lạc thì càng tự chuốc khổ vào thân.
Nếu nói rằng Tham là một trong những gốc của bất thiện thì làm sao con người có thể sống được nếu không còn ham muốn gì cả?  Ngày nay chúng ta sống trong một thế giới văn minh tiến bộ đầy đủ mọi thứ về vật chất thì chúng ta cần phải phân biệt rõ ràng sự khác nhau giữa ham muốn và nhu cầu. Sống trên đời chúng ta cần có những nhu cầu cần yếu như cơm ăn, áo mặc, nhà ở, xe di chuyển, máy vi tính…để cho đời sống được tiện nghi. Ngược lại ham muốn chỉ xuất hiện khi nào chúng ta muốn thỏa mãn những đòi hỏi quá đáng của thị dục, có nghĩa là vượt ra khỏi hàng rào tri túc. Đây là động lực chính làm cho con người đau khổ khi những ước muốn của mình không được thỏa mãn, hay phải nhắm mắt đi tìm những hạnh phúc mới. Khi nhìn thấy rõ như thế thì người tu Phật không hề bị bắt buộc phải xóa bỏ tất cả mọi tiện nghi vật chất. Họ có thể có tất cả những gì họ cần nhưng luôn luôn phải biết đâu là nhu cầu cần thiết và đâu là lòng ham muốn, tham lam.
Bây giờ Chánh tư duy giúp chúng ta tư duyđến tính vô thường, tạm bợ, mau tan rã của tất cả các pháp thế gian. Chúng ta suy nghĩ lời Đức Phật ví sự tan hợp của pháp thế gian như là giấc mộng, như trò huyễn hóa, như bọt nước, như ảo ảnh, như sương mai, như ánh chớp trên không mà thôi. Khi tư duy như thế thì dần dần chúng ta tách ra khỏi sự trói buộc của dục lạc thế gian và cuộc sống sẽ trở thành an vui tự tại. Vì thế một triết gia Tây phương có câu:”Muốn có được những hạnh phúc cao thượng thì hãy lánh xa những lạc thú đê hèn”.
-Đánh đổ tư tưởng sân hận:Trong  Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy rằng:” Họ nhục mạ ta, đánh đập ta, chiến thắng ta và cướp đoạt của ta. Người nào hằng ôm ấp những tâm niệm như thế thì oán hận không bao giờ nguôi. Còn kẻ nào thoát ly được những tâm niệm ấy thì oán hận ắt phải tiêu tan”. Do đó muốn an vui thì đừng nuôi dưỡng trong tâm những tư tưởng sân hận. Phật lại dạy thêm: ”Phải dứt bỏ sân hận, phải tránh xa ngã mạn và đoạn lìa mọi ràng buộc thì phiền não không thể chi phối được”. Nói thế thì những người ôm ấp tư tưởng sân hận là tự họ đang đốt cháy lấy mình bằng chính những tư tưởng sân hận đó trước khi họ chuyển sang hành động để ám hại kẻ khác. Người sống trong hận thù luôn bị dày vò, đau khổ, lẻ loi và đơn độc. Đó là chưa kể hận thù, lòng sân giận, sự tranh giành, thắng thua, lòng ganh tỵ, ganh ghét, đố kỵ, tự ty, mặc cảm,...sẽ làm giảm nhân cách và biến cuộc sống nhiều sóng gió, đau thương. Muốn loại những tư tưởng sân hận thấp hèn nầy thì con người phải rèn luyện đức tính Từ, Bi, Hỷ, Xả. Vì chỉ có lòng từ bi mới xóa bỏ được hận thù. Có như thế thì tâm hồn của chúng ta sẽ cởi mở, trong lành và mát dịu.
"Lửa nào sánh lửa tham?
Ác nào bằng sân hận?
Khổ nào sánh khổ uẩn,
Lạc nào bằng tịnh lạc."  (Pháp Cú 202)
Thậm chí, nếu có người nói xấu Đức Phật, giáo Pháp của Ngài hay ngay cả giáo đoàn do Ngài sáng lập, Đức Phật hằng khuyên hàng môn đệ không nên giận dữ, bất mãn hay không vui lòng. Đức Phật dạy rằng: “Nếu các người giận dữ, bất mãn, hay không vui lòng, chẳng những các người tự đặt mình vào chỗ hiểm nguy có thể mất cả nền tảng đạo đức tinh thần mà các người còn không thể xét đoán đúng mức lời chỉ trích có giá trị hay không". Quả thật là sáng suốt. Tuy nhiên, để trả lời những lời chỉ trích bất công, vô căn cứ, Đức Phật lại dạy rằng: “Cũng như người kia ngửa mặt phun nước miếng lên trời. Nước miếng không hẳn làm dơ trời, mà chỉ rơi xuống người ấy".
-Đánh đổ tư tưởng hại người: Con người vì quá chấp ngã và ngã sở nên sẵn sàng tiêu diệt, hãm hại những kẻ nào đụng đến quyền lợi và danh dự của mình. Thế thì nếu mình biết tự ái, biết lo bảo vệ hạnh phúc và sự sống của mình thì tại sao không tôn trọng hạnh phúc và sự sinh tồn của kẻ khác? Do đó,nếu ta không muốn đau khổ thì đừng bao giờ tìm hạnh phúc trên sự đau khổ của người. Vì thế Đức Phật lại dạy rằng:”Ai ai cũng sợ gươm đao, ai ai cũng đều sợ chết. Do đó không nên giết hại và cũng không nên bảo ai giết hại mà nên thực hành tâm hỷ xả, bao dung để diệt trừ tâm niệm hãm hại kẻ khác”.
Ngày nay thế giới truyền thông hiện đại như radio, truyền hình và đặc biệt là internet đang cao trào xâm chiếm vào trong đời sống của tất cả mọi gia đình. Nếu chúng ta mở tung sáu cánh cửa (lục căn) để tiếp nhận biết bao luồng tư tưởng thì chắc chắn tâm không yên ổn. Muốn nổi tiếng, ăn khách và hái nhiều tiền, các nhà sản xuất đã không ngần ngại tung ra thị trường rất nhiều phim ảnh, âm nhạc, kịch nghệ, các game giải trí…với nội dung đầy bạo lực, đâm chém, sát hại, tình dục, lời lẽ thô tục thiếu văn hóa…khiến cho người xem nó đang sống trong tà tư duy. Khi các hạt giống bất thiện đó đã ăn sâu vào trong tiềm thức thì một ngày nào đó khi đối diện với hoàn cảnh tương tự ở ngoài đời, những hạt giống bất thiện đó sẽ tác động khiến chúng ta có những lời nói hay hành động tương xứng nguy hại đến cho người và cho mình. Tệ hại hơn nữa, chúng ta đồng tình với cách sống đó khiến cho tâm chọn một hướng đi không sáng suốt có thể biến cuộc đời vào một khúc quanh đen tối. Vì thế tiến trình giải phóng tà tư duy để đưa tâm trở về trạng thái bình yên thoát khỏi mọi vướng mắc của tham, sân, si và ái dục thì gọi là Chánh tư duy. Tất cả mọi hiện tượng trong thế gian này luôn có hai mặt cho nên người thực hành Chánh tư duy luôn cẩn trọng trong tư duy của mình để thấy rõ bộ mặt thật của hai khía cạnh cuộc đời trước khi đi vào kết luận chớ không vội vàng tin vào phía này hay phía kia cho nên cuộc sống sẽ tránh rất nhiều sai lầm mà nguyên nhân chính vẫn là dựa vào chủ quan định kiến.
Tư tưởng thì vô cùng vô tận nhưng chính Đức Phật đã gom lại 10 tư tưởng chính để giúp chúng sinh dễ dàng tư duy quán chiếu. Đó là:
-Vô thường tưởng: Thế gian, vạn hữu là vô thường. Khi chúng ta suy nghĩ sự sinh diệt của thân và tâm là để giải phóng tư tưởng ra khỏi các vọng chấp.
-Khổ tưởng: Có thân là có khổ. Sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, chết khổ và bao nhiêu phiền muộn, bất lợi, uất ức, phiền não…làm cho con người không được an vui tự tại.
-Vô ngã tưởng: Không có vật thể nào trên thế gian nầy mà tự nó có thể sanh tồn và phát triển mà không cần nhân duyên hòa hợp kể cả cái Ta của chúng ta. Vì thế vạn hữu là vô ngã. Nhờ suy tưởng như thế mà dần dần chúng ta thoát ra khỏi chấp ngã và ngã sở để đi đến chỗ tự tại vô ngại.
-Yếm ly thực tưởng: tư tưởng không vướng bận trong việc mưu sinh. Chính Đức Phật đã dạy các vị Tỳ kheo phải tiết độ trong việc ẩm thực, bởi vì “ăn để sống chớ không phải sống để ăn”. Suy nghĩ như thế là để chúng ta không còn lệ thuộc vào vật chất một cách quá đáng. Thật ra con người từ cổ chí kim, từ Đông qua Tây có chém giết lẫn nhau cũng vì miếng cơm manh áo, tức là tranh giành ảnh hưởng kinh tế. Như thế chúng ta phải xem ăn uống như là phương tiện chớ đừng đặt nó làm mục đích của cuộc sống bởi vì cứu cánh của đời sống phải là cái gì cao thượng hơn.
-Dục lạc tưởng: là Tham-Sân-Si mà đó là kết quả của vô minh và ái dục. Ngoài ra Đức Phật cũng dạy rằng:”chúng sinh bị chi phối bởi tám pháp thế gian là được lợi, mất lợi, được danh, mất danh, được khen, bị chê, được vui, bị khổ. Người nào có thể tự mình giải phóng tư tưởng ra khỏi những căn bản bất thiện trên thì chắc chắn sẽ được tự do, giải thoát.”
Lửa tham ghê lắm ai ơi!
Hận sân cũng vậy, đốt người, đốt ta!
Lưới nào bằng lưới si mê,
Sông nào sánh được ái hà sông sâu?
(Pháp Cú 251)
-Tử tưởng:Có sanh tất có ngày chết. Vì đã thông hiểu ngũ uẩn là Không nên con người không tham sống hay sợ chết. Sống thì an vui tự tại, còn chết thì bình thản, nhẹ nhàng nghĩa là sinh thuận, tử an vậy.
-Đa quá tội tưởng: đây là nói về thân kiến, có nghĩa là quá quý trọng thân xác và bảo vệ nó với bất cứ giá nào. Chính Đức Phật dạy phải giữ gìn cho thân thể khỏe mạnh để dễ dàng tu niệm mà phát sanh trí tuệ chớ Đức Phật không bao giờ dạy chúng sanh phải quý trọng thân xác của mình bao giờ. Một người khỏe mạnh có thể hy sinh thân mình cho nghĩa cử vị tha cao đẹp, ngược lại người quá quý trọng xác thân có thể hãm hại kẻ khác để mình được vinh thân phì gia.
Nhìn kia! thể xác mê hồn
Một đống thịt thối, một hòm đớn đau!
Bận tâm tính chuyện đâu đâu
Có chi bền vững mà cầu trường sanh?
Thân này sẽ bị suy già
Thường hay tật bệnh, lại hòa uế nhơ.
Mỏng manh mạng sống từng giờ
Tử thần bên cửa, đợi chờ mang đi.
(Pháp Cú 147-148).
-Ly tưởng: là xuất ly tam giới để được giải thoát giác ngộ.
Trăm năm sống có ích gì
Buông lung, phóng dật, ác tri, ác tà!
Một ngày trong cõi người ta
Giới định, thiền tuệ - thật là tốt hơn.
(Pháp Cú 110).
-Diệt tưởng:là nuôi hoài bảo tâm niệm tận diệt mọi phiền não khổ đau.
Khéo thay! tu tập giác chi!
Lành thay! chánh hạnh, nhiếp trì bền tâm.
Người không ô nhiễm dục trần
Sống đời sáng chói, Niết-bàn ở đây.  (Pháp Cú 89).
-Vô ái tưởng:Cuối cùng là giải phóng tư tưởng ra khỏi ái dục. Phật lại dạy rằng:”Ái dục sinh ra sầu muộn, ái dục sinh ra lo sợ. Người đã hoàn toàn dập tắt ái dục thì sẽ không còn sầu muộn và lo sợ”. Thật vậy, ngày nào tư tưởng của chúng ta còn bị ảnh hưởng ái dục thì ngày đó chúng ta chưa thể tự tại vô ngại được.
Người đắm say ái dục
Tự lao mình xuống dòng
Như nhện sa lưới dệt.
Người trí cắt trừ nó,
Bỏ mọi khổ, không màng. (Pháp Cú 347)
Bây giờ chúng ta hãy tự đặt cho mình một câu hỏi rằng: “Phải chăng thay đổi cách tư duy thì cuộc đời sẽ đổi thay?”
Không cần biết trong tâm của chúng ta xuất hiện tư tưởng hay suy nghĩ gì, mắt thấy gì, tai nghe gì. Người thực hành Chánh tư duy luôn phải tư duy chuyển hóa tất cả những ý nghĩ xấu ác thành tốt và thiện, tiêu cực thành tích cực, người xấu ác thành người tốt thiện, bi quan thành lạc quan, nghi ngờ thành tin tưởng, sân giận thành thương yêu và tha thứ, khinh bỉ thành tôn trọng, buồn khổ thành an vui, thất bại thành những bài học kinh nghiệm sống,... Biết tư duy chuyển hóa là biết thay đổi cách nhìn, cách sống thì cuộc đời sẽ có nhiều hạnh phúc và nhiều an vui, tự tại hơn.
Cuộc đời là do chính chúng ta tự tạo dựng, hạnh phúc hay khổ đau cũng chính do tự chúng ta gieo. Tại sao chúng ta không phản quang tự kỷ để tự nhìn lại những điều có liên quan đến hành vi, ứng xử của mình và làm thế nào để chấp nhận những điều mà chúng ta đang phải đối mặt trong cuộc sống hàng ngày? Vì thế gian này là vô thường, vô ngã thì tại sao mình phải ôm giữ bên mình những điều làm chúng ta đau khổ? Hãy buông bỏ những điều không cần thiết mà chúng ta vẫn luôn cố níu giữ và cố gắng thay đổi và từ bỏ tất cả những thứ đang trói buộc chúng ta cũng như người đang bơi trút bỏ hết những tảng đá đè nặng trên lưng:
-Hãy từ bỏ lối suy nghĩ rằng bạn luôn luôn đúng: Vì cố chấp, xem nặng bản ngã cho nêncó rất nhiều người không thể chấp nhận mình sai và luôn cho rằng mình đúng, ngay cả khi điều này có thể làm tan vỡ một mối quan hệ tuyệt vời, và gây ra nhiều căng thẳng cho bản thân và cho cả những người khác. Bất cứ khi nào bạn tranh luận về việc ai đúng, ai sai, bạn hãy tự hỏi: Mình muốn chứng minh là mình đúng hay mình muốn làm người tốt?  Mình được gì ở đây? Có phải là cái tôi của bạn quá lớn khi bạn không thể từ bỏ được?
-Hãy từ bỏ việc đổ lỗi cho người khác: Hãy từ bỏ việc đổ lỗi cho người khác về những gì bạn có hoặc không có, về những gì bạn cảm thấy hay không cảm thấy. Vì tâm luôn hướng ngoại nên con người chỉ nhìn thấy lỗi của người mà không bao giờ thấy lỗi của mình. Đừng lãng phí những phẩm chất của mình và hãy cố gắng chịu trách nhiệm đối với cuộc sống riêng của mình vì thế gian này không có ai toàn thiện hay toàn ác cả. Không thấy lỗi của người mà thấy lỗi của mình thì giá trị cuộc sống sẽ tăng lên, nâng cao nhân cách.
-Hãy từ bỏ những suy nghĩ tiêu cực: Làm thế nào khiến người khác không bị tổn thương vì những thái độ tiêu cực dai dẳng và lặp đi lặp lại? Đừng cho rằng tất cả mọi thứ đang nghĩ trong tâm là đen tối và tự hủy hoại mình. Bạn có thể làm tốt hơn nhiều chứ! Dầu cho một đêm có dài như thế nào thì sáng mai ánh bình minh sẽ đến! Bây giờ nếu thấu hiểu giáo lý Nghiệp thì bắt đầu chuyển cuộc sống từ tiêu cực sang tích cực nghĩa là chính ta phải tác động chống lại chớ không chịu chấp nhận an phận thủ thường. Nói thế có nghĩa là từ nay con người phải nhận thức sự tai hại và tốt đẹp của nghiệp và nghiệp quả để vun bồi, tác tạo thêm nhiều thiện duyên thì chắc chắn cuộc sống của mình sẽ thăng hoa, hạnh phúc. Nên nhớ, dựa theo thuyết nhân quả thì mỗi người chỉ nhận được từ cuộc đời những gì mà mình đã bỏ vào đó.
-Hãy từ bỏ sự tự ti: Hãy từ bỏ sự tự ti về những gì bạn có thể hoặc không thể làm được, về những gì có thể hoặc không thể. Bắt đầu từ bây giờ, đừng cho phép niềm tin của bạn giới hạn và cầm tù chính bạn. Hãy tự tin vào bản thân mình. Bất cứ sự thành công lớn nào cũng đều bắt đầu từ những bước khởi đầu nhỏ. Hãy làm những gì bạn muốn làm, mơ những gì bạn muốn mơ, tới đâu bạn muốn tới, trở thành những gì bạn muốn, bởi vì bạn chỉ có một cuộc sống và một cơ hội để làm tất cả những gì bạn muốn.
-Hãy từ bỏ những lời phàn nàn: Hãy từ bỏ việc liên tục phàn nàn về mọi thứ, về mọi người, về mọi hoàn cảnh hoặc về mọi sự kiện, những điều làm bạn không vui, buồn hay chán nản. Hãy nhớ rằng không ai có thể làm cho bạn không hạnh phúc, không có hoàn cảnh nào có thể làm cho bạn cảm thấy buồn trừ khi bạn muốn thế. Con người là chủ nhân duy nhất có đầy đủ quyền năng quyết định cuộc đời theo ý muốn của mình cho nên thiên đàng hay địa ngục, đau khổ trầm luân hay giải thoát an lạc tùy thuộc vào sự chọn lựa nghiệp nhân của mỗi người. Cuộc đời luôn là những thử thách vì thế hãy luôn nhìn về phía trước, để mỗi thất bại của bạn phải là một bước tiến dài trên con đường đi tới thành công.
-Hãy từ bỏ những lời chỉ trích: Hãy từ bỏ việc chỉ trích những thứ, nhữngviệc hay những người khác mình. Tất cả chúng ta đều khác nhau, nhưng tất cả cũng đều giống nhau. Tất cả chúng ta đều muốn được hạnh phúc, được cảm thông và được thấu hiểu. Đừng bận tâm về những điều người ta nói xấu sau lưng bạn, vì họ là những người chỉ bới móc sai lầm của người khác thay vì lo sửa sai lỗi lầm của chính mình!
-Hãy từ bỏ sự không muốn thay đổi: Thay đổi là tốt, nó giúp bạn đi từ A đến B. Thay đổi sẽ giúp bạn cải thiện cuộc sống của bạn và của những người xung quanh bạn. Hãy đi con đường của riêng bạn và chấp nhận thay đổi. Không biết đã bao lần người ta buông tay từ bỏ khi mà chỉ một chút nỗ lực, một chút kiên trì nữa thôi là chạm tới thành công. Tuy nhiên, thành công không phải chìa khóa mở cửa hạnh phúc mà hạnh phúc mới là chìa khóa dẫn tới thành công cho nên trong cuộc sống nếu bạn thích thú điều bạn đang làm, bạn sẽ thành công.
-Hãy từ bỏ nỗi sợ hãi của bạn: Sợ hãi chỉ là một ảo ảnh, nó không tồn tại, chính bạn đã tạo ra nó vì nó phát xuất từ vọng tâm. Tất cả là từ trong tâm trí của bạn. Hãy thay đổi cách tư duy trong nội tâm thì thế giới bên ngoài sẽ bình yên trở lại. Hãy quán cuộc đời tạm bợ vô thường thì chẳng có gì để sợ cả. Không tham lam thì không sợ mất, không tham sống thì không sợ chết. Nên nhớ bạn chỉ sống một lần thôi, nhưng nếu bạn sống đúng thì một lần là đủ rồi, có gì phải sợ.
-Hãy từ bỏ việc viện cớ: Đóng gói những cái cớ và ném chúng đi. Bạn không cần đến chúng. Thường thì chúng ta chỉ giới hạn bản thân mình trong những gì chúng ta làm vì nhiều lý do. Thay vì lớn lên, nâng cao cuộc sống và tinh thần, chúng ta lại kẹt lại, tự dối bản thân, viện tới tất cả các loại lý do, mà trong 99,9%  trường hợp, không phải là có thật. Cuộc đời tạm bợ ngắn ngủi tại sao mình lại phải dối mình?
-Hãy từ bỏ quá khứ: Chúng ta biết điều đó là rất khó khăn, đặc biệt là khi quá khứ dường như tốt hơn nhiều so với hiện tại và tương lai lại có vẻ đáng sợ. Thế nhưng, hãy suy nghĩ, hiện tại là tất cả những gì mà bạn đang có và nó chỉ tồn tại duy nhất một lần. Bạn mơ ước khao khát quá khứ trong khi bỏ qua hiện tại của chính mình thì hiện tại biến thành quá khứ, vụt mất khỏi tầm tay của bạn. Bạn hãy ý thức được mọi việc mình đang làm và hãy tận hưởng cuộc sống, bởi vì cuộc sống là một hành trình mà không phải là một điểm đến. Sẽ rất tốt nếu bạn có một tầm nhìn rõ ràng về tương lai và bạn chuẩn bị sẵn sàng cho điều đó, nhưng luôn luôn hãy là chính mình ở đây và ngay bây giờ.
-Hãy từ bỏ sự quyến luyến: Đây là một quan niệm mà hầu hết chúng ta rất khó hiểu, nhưng thế gian này là do duyên sinh duyên diệt cho nên không có gì sẽ ở mãi với chúng ta. Khi bạn tách mình khỏi tất cả mọi thứ, bạn trở nên yên bình hơn, khoan dung, thân thiện và thanh thản hơn, như vậy bạn có thể đến một nơi mà bạn có thể hiểu tất cả mọi thứ mà không cần phải chịu đau khổ. Nó là một trạng thái vượt ra ngoài ngôn từ.
-Hãy từ bỏ việc sống theo mong đợi của người khác: Nhiều người sống cuộc sống của mình theo những gì người khác nghĩ là tốt nhất cho họ, mà bỏ qua những mong muốn thật sự của bản thân. Họ cố gắng sống theo sự mong đợi của người khác chỉ để làm hài lòng những người này, họ tự đánh mất bản thân mình và cũng không kiểm soát được cuộc sống của mình. Bạn có một cuộc đời, bạn phải sống cuộc đời của mình, đừng để cho những ý kiến của người khác lôi kéo bạn khỏi đường đời của mình.
Hãy suy tư rằng tài sản lớn nhất của đời người chính là sức khỏe, sự giàu có lớn nhất chính là sự thỏa mãn, thắng lợi lớn nhất chính là không tức giận, thành tựu lớn nhất không gì hơn chính là dù ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào đều ung dung tự tại...
-Thuốc tốt trên đời này, mỗi một loại thuốc chỉ có thể chữa một loại bệnh; còn thuốc tốt của tâm linh, trí tuệ và từ bi thì có thể chữa trị tất cả mọi đau khổ.
-Con người vẫn hay than phiền không thể tìm thấy sự bình yên trong tâm hồn, nhưng kỳ thực, trước giờ nó vẫn ở sâu trong lòng, bạn không cần phải tìm kiếm. Chỉ cần bạn có thể giữ tâm bất động, không “vì dục vọng mà cực khổ, bận rộn suốt cả ngày” thì tự nhiên sẽ cảm nhận được sự tồn tại của nó.
-Khi trong lòng bạn ngập tràn sự yên vui, thì đi đến đâu cũng đều là hoan hỷ tự tại; khi trong tâm tràn đầy trí huệ thì một cành hoa, cọng cỏ cũng khiến bạn thấy được chân lý.
-Thế giới mà bạn đang nhìn thấy, chỉ là phản ứng của nội tâm. Trong lúc tâm trạng cởi mở, nhìn thấy ai cũng là bạn bè thân thiết; còn khi đang buồn bực, đi đâu cũng chỉ thấy những khuôn mặt đáng ghét.
-Mọi người đều cho rằng giàu có và nổi tiếng đồng nghĩa với vui vẻ. Nhưng thực ra, nếu trong lòng bạn ngập tràn niềm vui, bạn vốn dĩ không cần danh lợi. Còn nếu trong lòng bạn không có niềm vui, hiển nhiên là có sở hữu giàu có và nổi tiếng của cả thế giới cũng không có ý nghĩa gì. Nếu bạn chỉ biết suốt ngày bận rộn mong kiếm được nhiều tiền hơn và bảo vệ sự giàu có mà bạn sở hữu, thì thật ra đối với bạn mà nói, chúng đã không có lợi ích thực sự nào nữa rồi.
-Nếu bạn nhìn cuộc đời bằng đôi mắt phán xét, thế giới này sẽ chỉ toàn những người có khiếm khuyết; nhìn bằng đôi mắt kiêu ngạo, thế giới này sẽ chỉ toàn những người thấp hèn và ngu ngốc; nhìn bằng đôi mắt trí tuệ, bạn sẽ phát hiện ra rằng mỗi người bạn gặp phải, đều có những điểm đáng để bạn học hỏi và tôn trọng. Buông bỏ thêm một chút bám chấp, bạn sẽ có thể một chút tự tại.
-Người có trí tuệ, khi ở một mình sẽ quản thúc tốt tâm của mình và coi đó là cơ hội tốt để tự kiểm điểm bản thân. Còn khi tiếp xúc với người khác, họ sẽ quản tốt cái miệng của mình và coi đó là cơ hội để khiêm tốn học hỏi.
- Kẻ tự biết mình là ngốc thì không phải kẻ ngốc, còn kẻ tự cho mình là thông minh thực ra lại là kẻ ngốc trong số những kẻ ngốc.
-Mỗi một người bạn gặp hàng ngày đều là thầy của bạn: Người thông thái dạy đạo lý từ bi, người ngang ngược dạy bạn đạo lý nhẫn nhục.
-Tất cả mọi người, tất cả mọi sự vật trên thế gian này đều là có sự liên quan, tương hỗ với nhau. Trong lúc cho đi, thật ra là bạn đang làm lợi ích cho chính mình. Vũ trụ, vạn vật đều là nhất thể. Khi bạn làm hại mặt đất, dòng sông và các sinh linh sống trên đó, thật ra là bạn đang làm hại chính mình.
-Nếu như bạn muốn thường xuyên vui vẻ, đừng đem niềm vui đặt vào những thứ phù phiếm bề ngoài. Hãy xem sự giàu có của bạn, nhà và xe của bạn đều là mượn của người khác, lợi dụng chúng thật tốt, nhưng không được si mê chúng. Chỉ cần làm được như vậy bạn sẽ hưởng thụ được một cuộc đời đơn giản nhưng vui .
-Tài sản lớn nhất của đời người chính là sức khỏe, sự giàu có lớn nhất chính là sự thỏa mãn, thắng lợi lớn nhất chính là không tức giận, thành tựu lớn nhất không gì hơn chính là dù ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào đều ung dung tự tại.
-Nếu như vấn đề có thể giải quyết, bạn không cần phải lo nghĩ. Nếu vấn đề không cách nào giải quyết, bạn có lo nghĩ mấy cũng không giúp ích được gì.
-Mọi người đều thích có thể sống tự chủ, nhưng nếu như bạn nghe người khác nói câu gì đó khó chịu liền nổi nóng, thì bạn chính là đang giao quyền tự chủ cho người khác, rồi dần dần, ngoài bản thân bạn ra, mọi người đều trở thành chủ nhân của tâm bạn. Nếu bạn muốn có thể sống tự do tự tại, thì bạn nên đi học cách làm chủ tâm của mình trước.
-Tâm là nguồn gốc của sự an vui và cũng là nguồn gốc của sự đau khổ. Thân – khẩu – ý do một cái tâm chứa đầy hận thù và tham vọng gây ra thì chỉ mang đến đau khổ; ngược lại, những hành động, suy nghĩ, lời nói mà xuất phát từ một cái tâm thiện lành thì điều mang lại chính là phúc lạc.
Nói tóm lại, không có cuộc cách mạng nào khó khăn cho bằng cuộc cánh mạng để giải phóng tư tưởng ra khỏi mọi ràng buộc của ngoại cảnh cũng như những ô nhiễm từ trong nội tâm, vì tư tưởng đòi hỏi nhiều thử thách, cam go qua các giai đoạn phấn đấu để tìm tự do. Vì thế Chánh tư duy là tiến trình suy nghĩ về sự thoát ly các dục lạc, suy nghĩ không còn sân hận, suy nghĩ về không hại người. Từ sự suy nghĩ chân chính đó sẽ làm nền tảng vững chắc hướng tâm đi vào đạo lộ thánh thiện và thoát ly đau khổ.
Nhưng quan trọng nhất là suy nghĩ ra khỏi tam giới (dục giới, sắc giới và vô sắc giới) với quyết tâm đoạn diệt sinh tử luân hồi thì đây mới thật sự là Chánh tư duy.
3)Chánh ngữ(Perfected or Whole Speech or Right Speech):
Bây giờ, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạnglà bayếu tố để kiến tạo một đời sống đạo đức nhân bản mà nhà Phật gọi là Giới(đạo đức). Giới (morality) trong Phật giáo không có nghĩa là giáo điều bắt tín đồ phải răm tắp tuân theo bằng không thì phải chịu hình phạt này hay hình phạt khác như những tôn giáo khác mà ý nghĩa của Giới là cách sống đạo đức, trau dồi đức hạnh, sống đúng với lương tâm. Thực hành đứng đắn Giới thì chắc chắn có cuộc sống an lành, hạnh phúc. Ngược lại,cuộc sống sẽ nhiều điên đảo đau thương. Đức Phật đưa ra Giới nhằm mục đích khuyến khích chúng sinh sống đời trong sạch, đạo đức. Thực hành hay không là tùy ở chúng sinh chớ Đức Phật không có quyền năng trừng phạt hay ân thưởng cho ai hết. Tuy nhiên, dựa theo luật nhân quả nếu mình gieo nhân lành thì chính mình sẽ thọ lãnh kết quả tốt đẹp, có hạnh phúc. Ngược lại, gieo nhân bất thiện thì sẽ gánh chịu hậu quả đau thương.
Đức Phật giới thiệu căn nhà giác ngộ gồm có ba tầng:
-Tầng thứ nhất là nền móng: Muốn cho căn nhà giác ngộ được vững chắc thì hành giả phải xây nền móng cho thật kiên cố cho nên Giới chính là nền móng cho căn nhà giác ngộ. Vì thế nếu phá Giới thì căn nhà giác ngộ sẽ sụp đổ. Thực hành Giới viên mãn nghĩa là sống trong đạo đức nhân bản sẽ biến cuộc sống trở thành nhẹ nhàng, thanh thoát, không bao giờ còn lo lắng, buồn phiền.
-Tầng thứ nhì là Định: Sau khi có đời sống trong sạch thì tâm mới thanh tịnh, từ đó hành giả mới có thể vào định và thực hành các tầng thiền định.
-Tầng thứ ba là Trí tuệ: Đây là tầng tối cao và cũng là cứu cánh tối thượng của đạo Phật tức là trí tuệ. Một khi tâm đã an định, hành giả tiếp tục dùng thiền quán Tuệ Minh Sát, sau cùng trí tuệ sẽ phát sinh để trực nhận chân lý.
Bát chánh đạo là tiến trình liên tục, có mối quan hệ khắn khít, tác động và hỗ tương lẫn nhau. Đức Phật trước nhất giới thiệu Chánh kiến để con người có cái thấy biết chính xác, vô tư về mình và về thế giới chung quanh mình. Sau đó Đức Phật mới giới thiệu Chánh tư duy, bởi vì có thấy biết đúng thì từ đó trong tâm mới tư duynhững điều chân chính lợi ích cho mình và cho người. Ngược lại thấy biết sai lầm thì suy tư bất chánh nghiêng về thỏa mãn những dục vọng của bản ngã (tham, sân, si, ái dục). Sau Chánh tư duy thì bây giờ Chánh ngữ, Chánh nghiệp và Chánh mạng mới được Đức Phật đưa vào bởi vì tư tưởng sẽ biến thành lời nói và hành động. Bộ ba “thân, khẩu, ý” là ba yếu tố chính giúp con người có cuộc sống bình yên, hạnh phúc và an lạc. Ngược lại, cũng “thân, khẩu, ý” lại là nguyên nhân đưa con người đọa lạc vào trong cảnh khổ biến cuộc sống nhiều sóng gió đau thương và dĩ nhiên tạo tác tội nghiệp để chịu quả khổ về sau. Tóm lại, thân gồm có Chánh nghiệp, Chánh mạng và Chánh tinh tấn, khẩu có Chánh ngữ và ý gồm có Chánh kiến và Chánh tư duy. Do đó toàn bộ giáo lý Phật Đà không ngoài mục đích giúp con người thanh tịnh hóa “thân, khẩu, ý” của mình để cải thiện cuộc sống trở thành thanh cao, nhẹ nhàng, hạnh phúc và an lạc.
Lời nói đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc sống vì nó phản ảnh trực tiếp sự quan hệ cuộc sống giữa con người. Nó là cánh cửa giao thông để hiểu nhau, thông cảm với nhau và dĩ nhiên nó cũng là tác động đưa con người chống đối,  hiềm khích và đố kỵ với nhau. Trong mọi sinh hoạt hằng ngày, từ gia đình đến xã hội, lời nói là chiếc cầu nối làm cho mọi người gần gũi, thân thiện với nhau hơn khiến cho cuộc sống thêm ý nghĩa và hạnh phúc. Ngược lại,cũng lời nói khiến anh em bất hòa, vợ chồng ly tán, cha mẹ giận hờn con cái, hàng xóm bạn bè không nhìn mặt nhau. Trong những hoàn cảnh bình thường, lời nói phản ảnh tư cách, hay nhân cách của con người ngoại trừ những người giả nhân giả nghĩa. Ngày nay ở những quốc gia văn minh tiến bộ, họ còn phát minh ra loại ngôn ngữ ra dấu (sign language) để mọi người có thể trò chuyện, trao đổi tư tưởng với nhau. Vì thế lời nói đưa con người gần gũi với nhau hơn, dễ cảm thông và chia xẻ bất cứ nỗi niềm trong tâm tư. Một khi nói ra được thì những ấm ức trong tâm được giải tỏa chẳng khác nào tháo đê để nước chảy xuống nhẹ nhàng.
 Trong cuộc sống gia đình, đấng cha mẹ nào cũng muốn con cái mình được hạnh phúc, tự tìm ra con đường đi của chính bản thân mình. Một đứa trẻ thông minh chưa chắc đã hạnh phúc. Nhưng một đứa trẻ được cảm nhận tình yêu thương là được nuôi dưỡng để biết tự lập, biết sống có ước mơ, có mục đích sống rõ ràng vàsẽ luôn biết mình phải làm gì trong tương lai để được hạnh phúc. Và điều đó phụ thuộc vào cách cha mẹ yêu thương các em, cách cha mẹ nói chuyện, dạy dỗ với các emngay từ lúc đầu đời. Cha mẹ muốn dạy con mình học chữ, muốn con phát huy khả năng trí tuệ, muốn uốn nắn con tự lập nhưng lại không thành công vì gặp phải sự phản kháng từ các em. Nguyên nhân chính là bởi vì trẻ em đã thiếu khả năng tự đánh giá bản thân để làm động lực cho ham muốn học tập và nghe theo lời cha mẹ. Muốn các emphát huy sự tự tin và khả năng tự đánh giá bản thân thì bước đầu tiên là hãy cho các em cảm thấy rằng các em là người quan trọng đối với cha mẹ, từ đó các em sẽ hiểu được ý nghĩ của cuộc sống.  Muốn chocác em thấy điều đó thì không gì khác ngoài những cử chỉ hay tác động hằng ngày như “thân thiết”, “trò chuyện”, “kiên nhẫn” và “khen ngợi”. Đây là những nhịp cầu nối các đấng cha mẹ gần với con em của họ nhiều hơn. Tuy nhiên, sự cưng chiều quá đáng, thỏa mãn đòi hỏi của các em khiến các em phát triển tinh thần ỷ lại, sống trong tiêu cực, không có sức phấn đấu vươn lên và dễ bị sa ngã. Nhưng quan trọng nhất, trong bất cứ gia đình nào, cha mẹ lúc nào cũng là tấm gương ảnh hưởng trực tiếp đến con cái. Nếu cha mẹ sống đời trung thực, nhân ái, thân thiện thì con cái sẽ noi theo cách ứng xử đó.
Theo Đức Phật cha mẹ có bốn điều để hướng dẫn con cái của mình:
- Điều hướng dẫn thứ Nhất: Ngăn cản các con gây tội lỗi.
Nhà là trường học đầu tiên, cha mẹ là các thầy giáo đầu tiên. Trẻ con thường học những bài học vỡ lòng tốt và xấu nơi cha mẹ. Các bậc cha mẹ thiếu thận trọng trực tiếp hay gián tiếp tiêm nhiễm vào đầu các con cái những điều nói dối, gian lận, bất lương, vu oan, báo thù, không xấu hổ, không sợ hãi các tội lỗi, và các hành động vô luân trong thời thơ ấu của chúng. Hãy nhớ đến thói quen bắt chước. Cho nên cha mẹ phải làm gương, không nên tiêm nhiễm những tật xấu vào đầu óc ngây thơ của con cái. Nhưng quan trọng nhất là sự tiếp cận, học hỏi những thói hư tật xấu từ bạn bè vì thế cha mẹ nên theo dõi và khuyến khích con em của mình nên giao tiếp với những người hoặc gia đình có đạo đức bởi vì gần mực thì đen gần đèn thì sáng.
- Điều hướng dẫn thứ Hai: Thuyết phục các em làm điều lành.
Cha mẹ là những thầy giáo ở nhà, và thầy giáo là cha mẹ ở trường. Cả hai cha mẹ lẫn thầy giáo đều chịu trách nhiệm về tương lai và hạnh phúc của con cái. Chúng có trở nên người tốt hay xấu là đều do cha mẹ và thầy giáo hun đúc. Gần gũi hay tiếp xúc với môi trường sinh hoạt hằng ngày ảnh hưởng rất lớn cho các em trở thành tốt xấu mai sau. Các em noi theo, bắt chước làm y như người lớn trong tuổi thơ ngây của chúng.  Chúng hấp thụ điều truyền đạt. Chúng theo dấu chân người lớn. Chúng bị ảnh hưởng về tư tưởng, lời nói và hành động của người lớn. Do vậy, nhiệm vụ của cha mẹ là tạo bầu không khí thích hợp cả tại nhà lẫn trường học. Giản dị, vâng lời, hợp tác, đoàn kết, hy sinh, chân thật, thẳng thắn, giúp đỡ tự tin, bằng lòng, cử chỉ tốt, những đức hạnh khác phải được in sâu vào tâm trí thanh xuân của chúng. Tạo môi trường để chia sẻ những mẩu chuyện đạo đức. Những hạt giống như vậy được đem trồng sẽ lớn lên thành cây nhiều trái.
- Điều hướng dẫn thứ Ba: Cho con cái một nền giáo dục tốt.
Một nền giáo dục đứng đắn là một di sản tốt nhất mà các bậc cha mẹ để lại cho con cái. Dẫu cha mẹ có để lại một kho tàng quý báu cũng không bằng. Giáo dục là phước báu tốt nhất mà cha mẹ để cho con cái. Giáo dục phải được truyền dạy cho con cái ngay từ tuổi ấu thơ trong bầu không khí đạo đức nhân bản bằng cách huấn luyện chúng duy trì kỷ luật cao thượng, đạo đức nhân bản và tình thương đối với con người. Việc đó sẽ ảnh hưởng sâu xa đến đời sống của chúng. Những đứa trẻ thành công trong cuộc sống lúc nào cũng thừa hưởng một di sản văn hóa tốt đẹp và có định hướng cho tương lai.
- Điều hướng dẫn sau cùng Là nên giao lại tài sản cho con cái lúc thích hợp.
Cha mẹ không những chỉ thương yêu và săn sóc con cái trong sự nuôi dưỡng, che chở của mình mà còn phải lo liệu tương lai và hạnh phúc cho chúng. Cha mẹ đã phải khó nhọc tạo nên của cải nhưng không nuối tiếc khi cho các con cái thừa hưởng gia tài. Cha mẹ để lại của cải cho con cái nhưng không muốn chúng hoang phí mà chỉ muốn chúng dùng của cải này để nâng cao mức sống. Trong tất cả các việc này, điểm chủ yếu là tôn trọng lẫn nhau, và quan tâm đến hạnh phúc của cả cha mẹ lẫn con cái. Đức Phật nhấn mạnh rằng các bậc cha mẹ nên cẩn thận và tế nhị về vấn đề tài sản vì tác động của nó cũng như con dao hai lưỡi. Nếu con cái có định hướng, có tinh thần tự lập thì đối với chúng, tài sản của cha mẹ không quan trọng vì tự chúng có thể tự tạo lấy. Ngược lại, nếu con cái không có tương lai, không thành công bằng nghề nghiệp vững chắc thì chúng tùy thuộc rất nhiều vào tài sản của cha mẹ. Tuy nhiên, cho dù tài sản có to lớn bao nhiêu thì một ngày nào đó cũng sẽ tiêu cạn và từ đó tương lai của chúng sẽ ra sao? Bill Gates là người giàu thứ nhì thế giới (người giàu nhất thế giới hiện này là Jeft Bezos có tài sản trị giá trên 171 tỷ) tài sản lên đến 100 tỷ đô la thế mà ông chỉ để lại một số tiền nhỏ cho các con của ông, số tiền còn lại ông sẽ xung vào quỷ từ thiện. Lý do chính là ông muốn các con của ông phải có trách nhiệm, biết thử thách tài năng của mình vào trong cuộc sống, phát triển tiềm năng trí óc của mình để làm lợi ích cho đời, biết thương người nghèo khó, biết sống đời đạo hạnh, khiêm nhường. Các đấng cha mẹ ở Hoa Kỳ cũng nên cẩn thận trong việc giao lại tài sản cho con trước khi về hưu. Khác với văn hóa Đông phương, cha mẹ cả đời chắt chiu tạo dựng sự nghiệp để lưu lại cho con cháu, văn hóa Tây phương có cái nhìn khác. Con cái ở Hoa kỳ phần lớn phải tự lập cho nên chúng không ỷ lại vào cha mẹ vì thế cha mẹ người Hoa kỳ ít khi giao của hồi môn cho con cái trước khi họ qua đời cho nên họ dùng phần lớn tiền của họ đã gầy dựng cho việc dưỡng già của họ. Ngày nay, có nhiều mẫu chuyện thương tâm nói về sự lạnh lùng của con cái đối với cha mẹ trong các viện dưỡng lão của cộng đồng người Việt Nam. Trong thế gian này có biết bao đứa con hiếu thảo, nhưng cũng có trường hợp các em phải vật lộn với cuộc sống nên không thể chăm sóc cho cha mẹ lúc về già, nhiều bệnh tật. Vì vậy, các đấng cha mẹ nên nhớ rằng: “Tiền của cha mẹ là tiền của con, nhưng tiền của con thì luôn luôn là tiền của con” cho nên giao hết tài sản mà chính mình đã khổ công gầy dựng lại cho con thì nên cẩn thận để các bậc cha mẹ khỏi phải buồn khổ lúc về già ngồi trong viện dượng lão cô đơn nhìn ra mong con đến thăm (trong tuyệt vọng).
Đức Phật dạy rằng những người nói lời dịu dàng, tử tế sẽ được người tin cậy và tôn trọng bởi vì phát xuất từ trạng thái nội tâm bình lặng và thanh tịnh cho nên lời nói luôn mang tính chất thân thiện. Trái lại, Đức Phật luôn nhắc nhở con người nên thận trọng với loại tà ngữ (thâm độc). Đó là lời nói cộc cằn, thô lỗ, lời nói cay độc, nói lời kiêu căng, nói lời chửi rủa thậm tệ. Nói chung đây thuộc về  loại khiếm nhã vừa gây bực bội, đau thương, tang tóc cho mình và cho người. Chẳng những thế, nó làm giảm nhân cách của mình là dĩ nhiên ác tâm và những khổ thọ mà ta tạo ra cho người sẽ dội trở lại và chính ta một ngày nào đó sẽ hứng chịu hậu quả mà mình đã gieo cho kẻ khác. Khi chúng ta nói những lời nguyền rủa, cay độc chẳng khác nào như miệng tung ra biết bao gươm đao với mục đích làm cho người đau khổ thì đây là tà ngữ (ác độc). Vì thế Đức Phật dạy rằng: “ Hủy diệt người chỉ cần một câu, xây dựng người lại mất ngàn lời”.
Lời nói lúc nào cũng có tác động hai chiều thuận và nghịch cho nên người có Chánh niệm luôn suy nghĩ, cảnh tỉnh trước khi nói. Ngược lại, người thiếu ý thức thì phát ngôn bừa bãi, thiếu tế nhị, dễ chạm tự ái người. Đức Phật khuyên chúng sinh nên nói trong Chánh niệmnghĩa là mình biết mình sẽ nói gì và luôn nghĩ đến nhân quả của lời nói đó. Nói sau lưng thường đưa đến tranh cải và hiểu lầm, đôi khi làm cho tan vỡ nhiều mối quan hệ. Có những trường hợp nghiêm trọng, nó có thể đưa đến tố tụng trong tòa án vì đã mạ lỵ hay làm mất danh tiếng người khác. Thiền trong Phật giáo là để tư duy, nhìn lại chính mình. Nhưng tư duy cái gì? Hành giả nhìn lại mình đã nói gì, làm gì, nghĩ gì để có hạnh phúc, thanh tịnh hay an lạc hoặc  mình đã nói gì, làm gì hay nghĩ gì để khổ đau phát hiện.
Dựa theo tinh thần Phật giáo, Chánh ngữ là lời nói chân chánh, không tạo nghiệp bất thiện trong lời nói, nghĩa là không được nói dối, không nói lời cộc cằn thô lỗ, không nói lời thâm độc nguyền rủa kẻ khác, không nói chuyện người khác thường dẫn đến tranh cải, hiểu lầm, làm mất thời gian và khiến tâm bất tự tại.
Tóm lại, Chánh ngữ không những là lời nói chân chánh, không tạo nghiệp bất thiện bằng lời nói mà Chánh ngữ còn là dùng lời nói để tạo các nghiệp lành. Vì thế:
-Tránh dùng lời phao vu để chia rẽ, hay gây bất hòa giữa người nầy với người khác. Trái lại chúng ta phải tìm cách đem lại hòa hợp và thông cảm giữa mọi người. Nói năng đừng có tánh châm chọc, đừng gây thương tổn, đừng khoe tài cán của mình, đừng phô điều xấu của người, tự nhiên sẽ hóa thù thành bạn.
-Tránh dùng lời thô lỗ để hạ nhục kẻ khác mà trái lại phải nói lời thanh tao, lễ độ để an ủi, khuyến khích hay thuyết phục kẻ khác.Ác khẩu, mãi mãi đừng để nó thốt ra từ miệng chúng ta, cho dù người ta có xấu bao nhiêu, có ác bao nhiêu. Bạn càng nguyền rủa họ, tâm bạn càng bị nhiễm ô, bạn hãy nghĩ, họ chính là thiện tri thức của bạn.
-Tránh những câu chuyện phiếm vô bổmà nên nói đúng lúc, hợp lý và hữu ích. Cũng có trường hợp, khi chúng ta nói chân thật và lễ độ mà vẫn chạm đến tự ái của kẻ khác khiến họ phật lòng.
Nhưng chúng ta có nói tốt, nói xấu là bởi tại vìtâmmình nghĩ tốt, nghĩ xấu về người ấyhay việc đó. Do đó ý là nhân mà thân khẩu là quả của nó. Vì thấy tầm quan trọng nầy cho nên Chánh ngữ phải đi sau Chánh tư duy. Nếu khen một người nào bởi vì chúng ta đã có ấn tượng tốt về người ấy. Ngược lại nếu muốn chửi người đó thì trong tâm chúng ta phải ghét họ trước. Do đó lời nói là sản phẩm phản ảnh những gì trong tâm khảm của chúng ta.
Muốn thực hành Chánh ngữ được rốt ráo, Đức Phật mô tả lời nói của bậc thiện tri thức như sau:
-Phát biểu đúng lúc:  Nếu lời nói chân thật mà không phát biểu đúng lúc thì thành ra vô ích do đó người thiện trí phải tế nhị áp dụng lời nói của mình cho đúng chỗ, đúng lúc.
-Hợp với sự thật: Bậc thiện trí thức nói một lời phải dựa trên sự thật, không ngụy biện và không lừa dối. Đức Phật dạy rằng: “Đa số người cả đời chỉ làm được ba việc: Dối mình, dối người, và bị người dối”. Nên nhớ rằng lương tâm là tòa án công bằng nhất của mỗi người, bạn dối người khác được nhưng không bao giờ dối nổi lương tâm mình cho nên nói một lời dối gian thì phải bịa thêm mười câu không thật nữa để đắp vào, cần gì phải khổ như vậy?
-Đem lại lợi ích: Lời nói phải có mục đích và ý nghĩa của nó. Cho dù là lời nói thật nhưng không có mục đích đem lại lợi ích cho ai thì đó cũng chỉ là lời nói nhảm, vô ích mà thôi.
-Thích ứng với lý trí: là lời nói phải hợp với đạo lý thì dĩ nhiên sẽ hợp với lý trí.
-Hợp với đạo đức: Thông thường chúng ta thường hiểu chữ thiện là hữu ích, nhưng trên thực tế có lợi ích chưa hẳn đã là thiện. Vì vậy lời nói của bậc thiện trí phải có ích và hợp với đạo đức nữa.
Nhưng nói lời thế nào để thích ứng với lý trí và hợp với đạo đức?
-Nên nói về đức từ bi vì lòng từ bi giúp chúng ta có được tâm hồn vị tha, không tham lam, không ích kỷ và không bỏn xẻn.
-Nên nói về đức tính tri túc để giúp chúng ta bỏ những ước vọng thái quá và sống an vui trong bất cứ hoàn cảnh nào.
-Nên nói về đức thanh tịnh để giúp cho chúng ta có tâm hồn trầm tĩnh, trong sạch và tự tại.
-Nên nói về đức tính độc lập để giúp chúng ta không xu hướng phe đảng, không ỷ lại và phát triển đức tự tin.
-Nên nói về đức tinh tấn để giúp chúng ta từ bỏ tính biếng nhác, do dự và không nhất quyết.
-Nên nói về giới hạnh vì giới hạnh có khả năng loại bỏ những thói hư tật xấu mà đã kết tập từ vô lượng kiếp đến nay.
-Nên nói về thiền định vì thiền định có khả năng tiêu trừ dục vọng, oán thù và phát triển sức mạnh tinh thần.
-Nên nói về trí tuệ để giúp chúng ta rèn luyện một tâm hồn trong sáng và phát triển trí năng hầu thấu triệt chân lý.
-Nên nói về sự giải thoát giác ngộ vì đây là mục đích cuối cùng của người Phật tử trên đường tận diệt vô minh phiền não.
-Nên nói về giải thoát tri kiến có nghĩa là nói đến sự thật chứng của các chư Thánh hay Phật để giúp chúng ta trên đường tu tập vì tin rằng một ngày nào đó chúng ta cũng sẽ được giải thoát tri kiến như thế.
Bản chất của lời nói tùy thuộc vào sự biến dạng của tâm thức. Nếu tâm đang ở trạng thái giận hờn, bực tức, nóng nảy thì lời nói sẽ mang sắc thái nặng nề, hung dữ. Ngược lại, nếu tâm đang ở trạng thái nhẹ nhàng, an ổn, bình thản thì lời nói sẽ dễ nghe, dịu dàng, hài hòa. Vì Chánh kiến và Chánh tư duy là mầm móng của Chánh ngữ cho nên khi lời nói gây ra đau khổ thì phải tự biết rằng cái thấy biết của mình chưa rõ ràng và việc tư duy chưa đúng.
 Đức Phật khuyên con người nên ái ngữ, nói những lời văn hóa và có nhân cách để thăng hoa cuộc đời mình và cho người. Và Đức Phật khuyên con người luôn sống trong tỉnh thức Chánh niệm để kiểm soát lời nói của mình với quyết tâm không nói điều gì gây tổn hại cho mình và cho người mà chỉ nói những lời nhẹ nhàng có thể mang lại sự hòa hợp, ích lợi cho mọi người trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào. Lời nói có một ảnh hưởng vô cùng quan trọng không những đối với đời sống hạnh phúc của mỗi cá nhân mà còn có thể định đoạt được cả sự an nguy của xã hội.
Đối với người đắc đạo thì lời nói không quan trọng, nhưng quan trọng là lời nói kia phải đi đôi với sự thật và sau cùng Đức Phật dạy rằng: “Người có Chánhtư duy, Chánh ngữ sinh”.
4)Chánh nghiệp(Integral Action or Right Action)là hành động chân chính để sống đúng với chân lý, sống phù hợp với đạo đức, đó là những hành động thuộc về thân.Sau Chánh ngữ, Đức Phật mói nói Chánh nghiệp và Chánh mạng vì lời nói luôn đi đôi với hành động. Hành động chân chính là không sát hại, không trộm cắp dưới bất cứ hình thức nào và sau cùng là không tà hạnhtrong dục lạc. Muốn chấm dứt hoàn cảnh khổ đau trong cuộc sống, vượt thoát cảnh tù tội của thế gian, hoặc những tai nạn hiểm nghèo, những bệnh tật khó trị, những xung đột tỵ hiềm, nhỏ mọn, ích kỷ... Đức Phật khuyên chúng sinh phải biết thực hành Chánh nghiệp. Đức Phật khuyến khích con người tránh xa tà hạnh nhằm mở rộng cho các hành động đạo đức cao hơn và thúc đẩy con người luôn hành động với đầy lòng từ bi đối với tất cả mọi chúng sinh.
“Mọi người sợ hình phạt
Mọi người đều sợ chết
Lấy mình làm thí dụ
Không giết, không bảo giết”  (Pháp Cú 129).
Tuy không giết hay không bảo ai giết hại, nhưng bất cứ hành động nào gây tổn thương cho người khác dù hình thức này hay hình thức khác đều là những hành động thiếu đạo đức. Ngày xưa chính Đức Phật và hàng Tỳ kheo không phải là người ăn chay. Các Ngài cũng ăn thịt, cá khi được cúng dường, nhưng các Ngài chỉ ăn thịt chớ không bao giờ có ý sát hại. Kinh Jivata (Trung Bộ II, số 55) nói về Tam tịnh nhục hay Ngũ tịnh nhục nghĩa là ba thứ (hay năm thứ) thịt mà các Tỳ kheo được phép thọ dụng: “Này Jivaka, những ai nói như sau: Vì Sa môn Gotama, họ giết hại các sinh vật. Và Sa môn Gotama tuy biết thế vẫn dùng các loại thịt được giết vì mình, được làm cho mình, những người ấy không nói chính lời của Ta, họ xuyên tạc Ta, không như chân, không như thật. Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp, thịt không được thọ dụng: thấy, nghe và nghi (vì mình mà giết). Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp này, thịt không được thọ dụng. Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp, thịt được thọ dụng: không thấy, không nghe và không nghi (vì mình mà giết). Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp này, thịt được thọ dụng”. Ngoài ra, còn có thuyết Ngũ tịnh nhục, tức tam tịnh nhục vừa kể trên cùng với thịt của các con thú tự chết và thịt mà các loàithú khác ăn còn dư. Vì thế dựa theo lời dạy của Đức Phật thì không thấy, không nghe, không biết và dĩ nhiên không tự mình giết con vật đó cho mình ăn thì không phạm Giới nghĩa là hãy đi và tìm (mua) thịt đã được làm sẵn (bày bán ngoài thị trường).
Đức Phật dạy rằng:
-Người không tạo nghiệp sát hại chúng sanh, thì được thọ mạng lâu dài. Người tạo nghiệp sát, đoản mạng sống của chúng sanh, nên thọ mạng yễu. Do nghiệp ác làm cho người đau khổ, nên thọ thân hay bệnh tật đau yếu.
Vấn đề ăn chay, ăn mặn là một đề tài (tranh luận) rất tế nhị, tuy nhiên ở Việt Nam vào thời nhà Trần, Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung có em gái là Hoàng Thái Hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm mở tiệc trong cung điện. Trên bàn có cả thức ăn mặn và thức ăn chay. Thượng sĩ gắp thức ăn không phân biệt chay hay mặn. Hoàng Thái hậu hỏi :
“Anh tu Thiền mà ăn thịt cá thì làm sao thành Phật được ?”
Thượng sĩ cười đáp:
“Phật là Phật, Anh là Anh. Anh không cần thành Phật. Phật cũng không cần thành Anh. Em không nghe các bậc cổ đức nóí Văn Thù là Văn Thù, Giải thoát là giải thoát đó sao”.
Mạn đàm: Thượng sĩ nói: “Phật là Phật, Anh là Anh…” nghĩa là miệng là miệng còn tâm lúc nào vẫn là tâm. Vì thế miệng ăn thịt chớ tâm đâu có ăn thịt cho nên tâm không ăn thịt thì lấy gì làm ô nhiễm? Ở đây Thượng sĩ muốn phá cái chấp trong phương tiện tu hành và tầm quan trọng của tutâm. Do đó đối với người giải thoát, cho dù miệng có nhai thịt thì tâm vẫn bình thản như miệng nhai đậu hũvậy. Đây chính là biểu hiện câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” nghĩa là tuy mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý có tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà tâm vẫn thản nhiên, vô tư, không dính mắc thì tâm kỳ diệu mới hiện ra tức là đang sống trong tự tại, thanh tịnh Niết bàn. Đây là câu chuyện của người giải thoát, còn chúng ta là phàm nhân thì nên cẩn trọng vì tâm chúng ta còn nhiều dính mắc.
Khoảng 500 năm sau ngày Đức Phật nhập Niết bàn, Phật giáo Đại thừa ra đời và các vị luận sư Đại thừagiới thiệu 5 tư tưởng mới để có sự khác biệt so với Phật giáo Nguyên thủy. Đó là:
1)Chuyển lý tưởng Niết bàn của các vị A la hán thành ra lý tưởng Bồ-tát.
2)Giới thiệu Lục độ Ba-la-mật mà trong đó hạnh nguyện từ bi được xếp ngang hàng với trí tuệ.
3)Phật giáo vào thời Đức Phật còn tại thế chỉ xiển dương con đường tự giác, không tín ngưỡng. Vì thế trong kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy rằng: “Các người hãy tự thắp đuốc lên mà đi! Các người hãy lấy Pháp của ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của ta mà tu giải thoát! Đừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khác, đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác, ngoài các người”. Ngược lại, Đại thừa bị ảnh hưởng đạo Bà la môn là một tôn giáo đa thần cho nên các luận sư Đại thừa đưa ra một loạt các vị Thánh, các vị Bồ Tát, các chư Phật có khả năng cứu rỗi chúng sinh biến Phật giáo trở thành tín ngưỡng và dĩ nhiên đức tin bây giờ là tất yếu.
4)Phương tiện thiện xảo trở thành thiết yếu vì thế những cảnh giới bất tư nghì, thế giới chư Phật hay chư Phật hiện ra như Phật Đa Bảo hay Đức Phật vận dụng thần thông làm cho thế giới rung chuyển như trong kinh Pháp Hoa hay Duy Ma Cật. Những cảnh giới đó không bao giờ có vào thời Đức Phật còn tại thế.
5)Để thích hợp với giáo lý bản thể của thế giới vô vi, Đại thừa giới thiệu tư tưởng tánh không và định nghĩa lại tất cả những lý thuyết về chữ “không” cho phù hợp với giáo lý mới để có sự khác biệt với Nguyên thủy.
Vì muốn xiển dương lý tưởng Bồ Tát cho nên Phật giáo Đại thừa chủ trương bất sát nghĩa là Bồ Tát sao lại nở ăn thịt chúng sinh cho nên có những trường phái Đại thừa chủ trương ăn chay. Tư tưởng này có thể tìm thấy trong Kinh Lăng Già, Lăng Nghiêm, Đại Bát Niết Bàn…Tuy nhiên cũng có những trường phái Đại thừa hay Mật tông không ăn chay chẳng hạn như nhiều trường phái Đại thừa Nhật bản, Phật giáo Tây Tạng (áo đỏ). Hãy lắng nghe Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 nói về vấn đề ăn chay: “Chính tôi cũng đã từng ăn toàn chay từ năm 1965 và giữ được cách ăn uống này được khoảng hai mươi hai hay hai mươi ba năm. Sau đó thì tôi trở nên èo uột và bác sĩ khuyên tôi nên thay đổi cách ăn uống. Đối với những người có thể chịu đựng được thì tốt hơn hết nên ăn toàn chay”. Vì vậy, ăn chay là một đức hạnh tốt, nhưng quan trọng hơn hết là phải thanh tịnh thân, khẩu, ý của mình.
Bây giờ nếu đứng về phương diện phát triển tâm linh thì ăn chay hay ăn mặn không phải là yếu tố chính đưa hành giả đến chổ giải thoát mà hành giả phải thực hành ly dục, ly bất thiện pháp thì tâm dần dần sẽ có thanh tịnh. Ly dục nghĩa là hoàn toàn thoát ly những đối tượng của dục tức là thân viễn ly. Còn ly bất thiện pháp là từ bỏ những cấu uế (dục vọng) của tâm tức tâm viễn ly. Nói cách khác ly dục là thanh tịnh thân nghiệp, ly bất thiện pháp là thanh tịnh ý nghiệp. Vì thế Đức Phật dạy rằng sự giải thoát không do nơi ăn uống (chay, mặn) mà cốt yếu là do nơi thanh tịnh ba nghiệp thân, khẩu, ý.
Trong cuộc sống hiện nay, có rất nhiều thứ góp phần vào việc giết hại một cách gián tiếp mà đôi khi chúng ta không bao giờ để ý đến. Thí dụ khi làm vườn, cuốc đất chúng ta vô tình giết chết côn trùng. Khi bị bệnh nhiễm trùng, chúng ta  uống thuốc trụ sinh. Nhưng thuốc trụ sinh sẽ giết biết bao vi trùng (chúng sinh) trong người của chúng ta…Đối với những người ăn chay, ăn rau quả. Tuy chúng ta chỉ ăn toàn thực vật, nhưng trong tiến trình trồng trọt, vun xới phân bón, nhà nông (farmers) đã vô tình giết hại biết bao côn trùng nằm dưới lòng đất. Đó là chưa kể họ còn dùng thuốc xịt sâu bọ để bảo vệ mùa màng. Thế thì khi ăn những sản phẩm đó chúng ta cũng gián tiếp sát sinh rồi. Thậm chí khi nhổ một cộng rau thì chúng ta cũng đã giết đi một sự sống. Tuy nhiên, Đức Phật dạy rằng: ”Bất cứ hành động nào với chủ tâm thì hành động đó mới đáng kể, mới gọi là tạo nghiệp”.
Trộm cướp không nhất thiết là cướp của ngân hàng, hay đánh cắp hàng hiệu bỏ vào túi…mà trộm cướp là lấy (lấy của) những gì không thuộc về mình. Đây là biểu hiện của lòng tham cho nên một khi lòng tham nổi dậy, che lấp nhân tính khiến con người mạnh dạn cầm nhầm bất chấp hậu quả gì sẽ xảy ra. Ngày nay có những quốc gia chậm tiến, nhân viên chính phủ từ trung ương đến hạ cấp bất chấp liêm sĩ, dùng quyền lực xâm chiếm tài sản và tiền bạc của quốc gia nghĩa là “dĩ công vi tư” cho nên họ đều là những kẻ trộm cắp. Tuy ngày nay, họ sống trong những dinh thự đồ sộ nguy nga, nhưng đó là xương máu của nhân dân chớ đâu phải tài sản riêng của họ. Trái lại, trên thế giới có những quốc gia như Nhật Bản hay Singapore đã chứng tỏ tinh thần đạo đức của họ đến cao độ khiến cho thế giới khâm phục. Ở Nhật Bản năm 2011, có trận động đất Tohuku rất lớn (9.0 Richter scale) kéo theo nhiều đợt sóng thần cao đến gần 40 thước, tàn phá rất nhiều nhà cửa và giết hại biết bao chúng sinh. Thế mà không bao giờ có ai trộm cắp bất cứ tài sản gì của ai. Hay hơn nữa, tiền bạc hay vật dụng rơi rớt đều được người dân trả lại hết cho chủ hoặc gởi trả lại cho chính quyền.
Có một ông giám đốc người Nhật Bản sang làm việc tại Việt Nam. Vì sợ cảnh lái xe hỗn tạp ở Sài Gòn nên ông ta thuê một tài xế người Việt. Trước khi về nước ông giám đốc nói với vị tài xế rằng: “Chúng tôi biết anh đã từng ăn (bán) bớt xăng trong rất nhiều năm và cứ đòi tăng lương mỗi năm. Chúng tôi chấp thuận là vì sự an toàn tính mạng do anh lái. Nhưng thật ra nếu anh không làm như vậy thì chúng tôi vẫn thưởng cho anh còn nhiều hơn thế nữa mà”.
Ngoài sát sanh,trộm cướp thì tà dâm cũng đóng vai trò không kém quan trọng trong cuộc sống gia đình. Đức Phật luôn khuyến khích chúng sinh nên một lòng chung thủy, không nên nhìn trước ngó sau người khác phái. Khi khởi ý nhìn ngó một đối tượng khác phái mà sinh lòng yêu thích thì biết ngay đây là tâm trạng tà dâm. Người có tâm trạng tà dâm thì tâm bất chính nghĩa là vương vấn những tư tưởng lang chạ, không đứng đắn. Tâm niệm bất chính đó trước sau sẽ làm đau khổ gia đình mình và gia đình người khác. Nó có thể đem đến cảnh nhà tan, cửa nát thậm chí nó còn tạo nên cảnh tượng đau thương, giết chóc vào tù ra khám khi tâm ghen tuông không dừng được khiến cho những đứa trẻ thơ vô tội phải sống bơ vơ mất cha, mất mẹ. Ngày nay chúng ta đang sống trong những quốc gia văn minh cho nên vấn đề ăn mặc hở hang được cho là đẹp và thích hợp với thời trang. Tuy nhiên, người có văn hóa và đạo đức thì đẹp và thời trang không nhất thiết phải là hở hang, trống chỗ này, thiếu chỗ kia để khiêu gợi mà là nét đẹp tự nhiên,kín đáovà duyên dáng. Các nhà tâm lý học nói rằng những người thích khoe khoang bày da hở thịt, bày ngực, bày mông… là những người thiếu tự tin, nhiều mặc cảm và dĩ nhiên thiếu văn hóa và kém đạo đức chỉ cốt thỏa mãn dục tính nhất thời. Do vậy, tà dâm là con đường đau khổ của kiếp người, phá vở hạnh phúc gia đình và biến cuộc đời yên ổn trở thành bẽ bàng ngang trái.
Dục tình là sự thu hút, lôi cuốn và quyến rũ của người đối tượng làm cho con người thiếu sáng suốt, sống trong ảo giácmê mờ. Vì sự nguy hại của dục tình, Đức Phật dạy rằng:
“Này các Tỳ kheo, ta không thấy có một sắc (thanh, hương, vị, xúc ) nào khác do nó mà tâm người đàn bà trở nên rất nô lệ như là bị nô lệ bởi sắc (thanh, hương, vị, xúc) của người đàn ông. Này các Tỳ kheo, tâm người đàn bà bị ám ảnh bởi thứ đó”. Lịch sử nhân loại từ đông qua tây, từ cổ chí kim có biết bao chuyện anh hùng lụy với thuyền quyên tất cả cũng chỉ vì đắm say theo sắcdục.
Thực hành Chánh nghiệp không phải chỉ vì chúng ta muốn tránh phạm giới hoặc vì chúng ta sợ người trả thù hay luật pháp sẽ trừng phạt, nhưng quan trọng nhất chúng ta tránh những hành động tàn nhẫn, ác độc sẽ mang lại sự bất hạnh khôn lường chẳng những đến cho người mà còn cho chính mình ở hiện tại cũng như tương lai. Thấu hiểu luật Nghiệp quả giúp con người tăng thêm sức mạnh để từ bỏ những hành động bất thiện bởi vì ngày nay mình gây nhân thì ngày mai chính mình phải thọ lãnh quả nghiệp đó. Đức Phật khuyến khích chúng sinh luôn thực hành Chánh nghiệp trong cuộc sống bởi vì tà hạnh làm tâm bất tịnh, luôn sống trong phiền não, lo âu, sợ hải. Ngược lại, hành động chân chính có lợi ích cho mình và cho người khiến tâm nhẹ nhàng, thanh thoát và an lạc.
Tóm lại, thực hành Chánh nghiệp không nhất thiết chỉ là không làm các việc ác mà còn làm tất cả các việc lành nghĩa là “Chư ác mạc tác, Chúng thiện phụng hành”. Nếu không được rèn luyện đạo đức thì con người sẽ trở thành ác nhân và cuộc đời sẽ là nạn nhân của nó. Con người sống, không ai dám tự xưng mình là người toàn thiện, nhưng nếu chúng ta có hành động chân chính,không sát hại, không trộm cắp, không tà hạnhtrong dục lạc và thực hành sự yêu thương cứu giúp, tạo thiện nghiệp trong mọi hoàn cảnh thì con đường ta đi sẽ mát dịu, có muôn hoa đua nở.
Nhưng Chánh nghiệp cao nhất là tạo dựng phước đức cũng như công đức hướng về giải thoát giác ngộ. Đức Phật lại dạy rằng: “Người có Chánh ngữ, Chánh nghiệp sinh”.
5)Chánh mạng(Proper Livelihood or Right Livelihood) là phương tiện sinh sống chân chính bằng một nghề nghiệp lương thiện. Nhưng thế nào là một nghề nghiệp lương thiện? Trong bất cứ xã hội nào, có biết bao phương tiện sinh sống, phù hợp với khả năng và kiến thức phục vụ của mình. Tuy nhiên, có những nghề nghiệp gây tai họa hay khổ đau cho kẻ khác trong hiện tại cũng như trong tương lai. Ngược lại, có những nghề nghiệp sinh sống không lừa đảo, không gieo rắc đau thương, không bóc lột, không xâm phạm quyền tự do và bình đẳng kẻ khác, không phá hoại hay hủy diệt môi trường thiên nhiên. Một khi thấu hiểu luật nhân quả nghiệp báo, chúng ta nên sinh sống bằng những nghề nghiệp không bắt buộc phải sát hại các loài chúng sinh, tàn phá và nhiểm ô môi trường sinh sống của các loài ấy. Không làm và không đầu tư vào những doanh nghiệp làm hại đến sự sống của con người trong đó có chế tạo, buôn bán súng đạn, phát triển những vũ khí hóa học, tên lửa, buôn bán hay sản xuất những thuốc trừ sâu bọ…Buôn bán ma túy đem sa đọa và hủy hoại cuộc đời và gia đình của người tiêu thụ. Không sinh sống bằng nghềgieo rắc mê tín, xem tướng, bói quẻ, lên đồng, nhập cốt làm cho con người sống trong điên đảo, mất định hướng cuộc sốngvì không tin và thực hành luật nhân quả.Và còn biết bao nghề khác. Nói chung, nghề nghiệp nào trong thế gian không làm chúng ta phạm năm giới: không trộm cắp, không giết hại, không nói dối, không tà dâm và không uống rượu thì những nghề nghiệp đó được xem như là nghề nghiệp lương thiện. Nếu sinh sống thẳng thắn như thế là có Chánh mạng. Theo cái nhìn của Đức Phật thì tất cả suy nghĩ và hành động của con người đều khởi nguồn từ tâm. Nếu con người có tâm tốt và biết lo lắng tới việc phát triển xã hội loài người, bằng hành động thực tế, thì kết quả sẽ có ích cho nhân loại nghĩa là họ có lối sống trong lành, không sinh sống trên sự đau khổ của người khác. Thế thì nếu mình biết lo bảo vệ hạnh phúc và sự sống của mình thì tại sao không tôn trọng hạnh phúc và sự sinh tồn của kẻ khác? Do đó, nếu ta không muốn đau khổ thì đừng bao giờ tìm hạnh phúc trên sự đau khổ của người.
Nhưng nghề thường đi đôi với nghiệp cho nên bất cứ sinh sống bằng nghề gì thì bắt buộc phải tạo nghiệp. Trong Kinh Trung Bộ, Đức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra; nghiệp là quyền thuộc, là nơi nương tựa". Như vậy, điều này cho thấy sự có mặt của con người, cũng là sự hiện diện của Thiện và Ác, và mỗi người phải đối diện với  nghiệp do mình tạo ra. Tuy nhiên, chúng ta đang sống trong một thế giới tương đối nghĩa là một việc đúng đối với người này có thể sai đối với người khác. Vấn đề thiện, ác và tốt, xấu cũng thế. Tháng 8 năm 1945, Tổng thống Hoa Kỳ  Harry S. Truman ra lệnh thả hai trái bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki để chấm dứt đệ nhị thế chiến. Đối với Nhật bản thì đây là hành động cực kỳ tàn ác đã man, nhưng phía Hoa Kỳ thì cho đó là quyết định chánh đáng bởi vì nếu không thì chiến tranh còn tiếp diễn và sẽ có không biết bao nhiêu binh sĩ và thường dân hai bên sẽ thiệt mạng. Tuy nhiên, Phật giáoquan niệm rằng:“Thiện” thường được xem như là ánh sáng tượng trưng cho sự an lành, thánh thiện, hạnh phúc, trí tuệ…và “Ác” được coi như là bóng tối biểu trưng cho sự tội lỗi, bất hạnh, buồn rầu, đau khổ, vô minh...cho nên thiện hay ác nghiệp không dựa theo định kiến hay chủ kiến của con người.
Vì thế tuy cùng sinh sống, nhưng hằng ngày có người tạo rất nhiều phước báu và cũng có người gây ra biết bao tội nghiệp. Nhưng xét cho cùng, nghề nghiệp cũng là do phước đức của đời trước đưa đến. Kẻ có phước thì có việc làm dễ dàng, dư ăn dư để và có cơ hội để tạo thêm phước đức cho mai sau. Còn kẻ thiếu phước đức thì có việc làm khó khăn, không giàu có và dĩ nhiên nghề nghiệp không tạo thêm phước đức cho họ về sau. Nếu nhìn kỹ thì cơ hội để tạo thiện nghiệp trong Chánh nghiệp không nhiều, nhưng trong Chánh mạng con người có nhiều cơ hội để tăng trưởng phước đức của họ hàng ngày. Nhiều nghề càng làm thì phước đức càng lớn cho nênvềsau những phước đức nầy sẽ mang lại sự giàu có thịnh vượng cho họ. Vì thế nghề nghiệp tốt cũng là phương cách tu phước hữu hiệu nhất. Nên nhớ rằng phước đức mà chúng ta nhận ở đời nầy là quả mà do thiện nghiệp chúng ta tạo ra ở đời trước. Tất cả sự bố thí, cúng dường và cứu giúp người hoạn nạn sẽ đem lại sự giàu có, thông minh và trường thọ trong đời nầy cho chúng ta. Nói thế thì không ai có thể phủ nhận rằng đạo Phật là con đường chân chính luôn hướng dẫn con người thực hànhtheo chánh đạo để có cuộc sống an vui tự tại.
Hằng ngày chúng ta tu phước, làm thiện, nhưng phước đức thật sự có đem lại hạnh phúc cho chúng ta không?
Nên nhớ phước là do bố thí, cúng dường hay làm việc tốt cho chúng sinh mà có. Còn đức là cái tốt của tự tâmnghĩa là con người có tâm hồn trong sáng, vô ngã vị tha.Một người rất giàu có mà thiếu đạo đức, nhân cách có nghĩa là họ có rất nhiều phước mà thiếu đức thì sự giàu có nầy sẽ là những phương tiện để đưa họ đi mau vào con đường sa đọa, tội lỗi. Phước đức ví cũng như là một cái ly và nước ở trong đó. Cái ly là đức còn nước chính là phước. Nếu đức tròn và phước đủ thì cuộc sống sẽ rất an vui tự tại ví cũng như nước chỉ nằm trong cái ly và không tràn ra ngoài, có nghĩa là cho dù có nhiều tiền bạc nhưng họ vẫn sống cuộc đời thanh cao đạo hạnh, dùng phước cũ để tạo thêm phước mới là người trí, là người tu Phật. Người có đức độ thì nhìn sự giàu có chỉ là phương tiện của cuộc sống chớ không chạy theo dục vọng làm cho họ dễ bị sa ngã. Ngược lại nếu phước to mà đức kém thì cuộc sống sẽ điên đảo đau thương ví cũng như nước nhiều quá sẽ tràn ra ngoài cái ly, có nghĩa là phước có dư đủ mà đức không tăng làm cho cuộc sống thiếu thăng bằng. Thí dụ hiện nay ở Việt Nam có nhiều người vì thời thế trở thành rất giàu có. Tiền thì càng ngày càng giàu có, nhưngnhân cách và đạo đức không tăng trưởng khiến họ sa đọa vào những chỗ trụy lạclàm cho gia đình mất hạnh phúc, dễ tan vỡ. Như thế,phước không thật sự đem lại hạnh phúc, an vui cho con người nếu đạo đức của họ không tăng trưởng.
Sống trong thế gian này, không ai dám tự xưng mình là người toàn thiện, nhưng muốn hướng về con đường thiện, chúng ta nên rèn luyện bản thân sống trong khuôn khổ đạo đức nhân bản nghĩa là phải cố gắng tu tâm dưỡng tánh, tu nhân tích đức và dừng tạo nghiệp bất thiện. Ngược lại, nếu không sống trong tinh thần đạo đức, thì chúng ta sẽ trở thành ác nhân và cuộc đời sẽ là nạn nhân của chính chúng ta.
Tóm lại, người sống đúng Chánh mạng có một cuộc đời ngay thật, không gian tham, không làm giàu trên mồ hôi, nước mắt của người khác, không làm cho người và vật phải đau khổ vì nghề nghiệp của mình. Nghề nghiệp đem lại cuộc sống vừa lợi mình, lợi người và quan trọng nhất là tạo nhiều phước đức cho bây giờ và cho mai sau. Nhưng ý nghĩa thâm sâu của Chánh mạng là sự trong sạch để hướng tâm về giải thoát Niết bàn.
Đứng về phương diện thực hành, người nào sống đúng với Chánh mạng thì mới có cơ hội thành tựu những nhánh Chánh đạo còn lại. Trái lại, người không có Chánh mạng thì sẽ không có Chánh kiến (và ngược lại). Còn người sống trong tà hạnh thì chỉ có tà tư duy bởi vì tư duy đó dựa trên cơ sở của tham, sân, si, ái dục.
Thiền trong Phật giáo không nhất thiết phải là ngồi kiết già hay vào định để có giải thoát, nhưng thiền trong cuộc sống là phản quang tự kỷ nghĩa là hằng ngày chúng ta cần những giây phút yên lặng để tĩnh tâm và nhìn lại về mình. Nhìn lại thân, khẩu, ý đã làm những gì khiến cho chúng ta có hạnh phúc, an lạc và nhìn lại thân, khẩu, ý đã làm những gì biến cuộc sống nhiều phiền não, lo âu. Từ đó chúng ta có định hướng sáng suốt và thiết thực hơn cho cuộc sống chính mình. Vì thế chìa khóa để có hạnh phúc hay khổ đau nằm gọn trong bàn tay của chúng ta. Do đó học Phật là biết cách sống, biết cách mở cánh cửa thiên đàng hạnh phúc. Ngược lại, sống trong vô minh bất giác sẽ đưa con người đọa lạc vào chốn khổ não trầm luân.
Chánh ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh mạng được xem là nền tảng đạo đức nhân bản của con người mà nhà Phật gọi là Giới(morality). Thực hành Giới đứng đắn chắc chắn sẽ mang lại hạnh phúc ấm êm cho bạn và cho gia đình của bạn. Nên nhớ Giới của đạo Phật chỉ là lời kêu gọi (lời khuyên nhủ) của Đức Phật với mục đích khuyến khích con người làm lành lánh dữ, tu tâm dưỡng tánh để tự mình có kết quả tốt đẹp cho cuộc sống của mình chớ Đức Phật không có quyền năng để trừng phạt kẻ phạm giới hay ban thưởng cho ai cả. Nhưng dựa theo luật nhân quả, mình gieo nhân thì một ngày nào đó, chính mình sẽ thọ báo kết quả thiện, ác đó khiến cho cuộc sống có hạnh phúc hay khổ đau. Đối với tiến trình giải thoát tam vô lậu học Giới, Định, Tuệ thì Giới là nền tảng để kiến tạo căn nhà Bát chánh đạo. Bởi vì người thực hành đứng đắn Giới thì tâm mới có thể vào định. Tâm an trú trong định thì trí tuệ sẽ phát sinh mà trực nhận chân lý, có giải thoát. Ngược lại, kẻ phá Giới thìchỉ có tà định và dĩ nhiên cuộc sống sẽ có nhiều sóng gió, đau thương.
6)Chánh tinh tấn( Complete or Full Effort or Right Effort) là yếu tố quan trọng tạo ra mối liên hệ mật thiết về nhân quả hành trì với bảy yếu tố khác. Nếu bất cứ nhánh nào trong tám nhánh không có Chánh tinh tấn thì nhánh đó khó lòng đạt đến kết quả. Vì thế Chánh tinh tấn là động lực thôi thúc, động viên  giúp các nhánh khác hoàn thành mỹ mãn.
Đức Phật dạy rằng: “Và này các Tỳ-kheo, thế nào là chánh tinh tấn? Ở đây, này các Tỳ-kheo:
-Với mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp từ trước chưa sanh không cho sanh khởi, khởi lên ý muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, trì tâm.
-Với mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp đã sanh được trừ diệt, khởi lên ý muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, trì tâm.
-Với mục đích khiến cho các thiện pháp từ trước chưa sanh nay được sanh khởi, khởi lên ý muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, trì tâm.
-Với mục đích khiến cho các thiện pháp đã được sanh có thể duy trì, không có lu mờ, được tăng trưởng, được quảng đại, được tu tập, được viên mãn, khởi lên ý muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tấn, trì tâm. Này các Tỳ-kheo, đây gọi là chánh tinh tấn”.
Chánh tinh tấn nhắm thẳng vào ba mục đích bỏ ác, làm thiện và thanh tịnh tâm được Đức Phật mô tả qua bài kệ như sau:
“Không làm mọi điều ác
Thành tựu các hạnh lành
Tâm ý giữ trong sạch
Chính lời chư Phật dạy”.   (Pháp Cú 183).
Do đó, thực hành Chánh tinh tấn là để phát triển lòng từ bi, tâm Bồ-đề.
7)Chánh niệm(Complete or Thorough Awareness or Right Mindfulness) là ghi nhớ những đạo lý chân chính. Chánh niệm thanh tịnh hóa bản tâm bằng cách ngăn chận và diệt trừ tâm Tà và phát triển cũng như vun bồi tâm Chánh. Vì thế chánh niệm có nghĩa là sửa cái tâm cho nó đi theo con đường Chánh mà còn được gọi là thiền quán.
Nói chung,  Chánh niệm chính là chìa khóa của giây phút hiện tại. Nếu không có nó con người không thể nào nhìn thấy thế giới mình đang sống một cách đơn giản, rõ ràng mà chúng ta sẽ lạc bước vào thế giới quay cuồng của ý thức hay vô thức. Có thể nói Chánh niệm được xem như là một người canh cửa, một người bảo vệ luôn trông chừng cho chúng ta khỏi bị lôi cuốn vào tà niệm. Chúng ta không nên để tâm dong ruổi bất cứ nơi nào, không gởi tâm vào thế giới mộng tưởng, cũng không đưa tâm về quá khứ hay tương lai. Đức Phật đã ví thời gian như sau:
“Quá khứ như giấc mộng
Tương lai như ảo ảnh
Hiện tại như đám mây”.
Thế thì trong khi tâm chạy qua chạy lại giữa các giấc mộng, ảo ảnh và các đám mây, chúng ta có thể thựctập Chánh niệm để đem tâm trở về và làm cho tâm ra khỏi những rối ren trong đời sống hằng ngày. Ý thức luôn thôi thúc con người thỏa mãn những dục vọng lôi kéo từ bên ngoài. Thí dụ đang đọc sách, chợt một ý nghĩ  lóe lên rằng: “Bây giờ hãy đi kiếm món gì để ăn mặc dù mình không đói”. Thế là mình bỏ đọc sách, mở tủ lạnh, lục lọi để tìm kiếm từ món này đến món khác. Cái gì thúc đẩy chúng ta hành động như thế? Tất cả chỉ bắt đầu bằng một ý nghĩ. Trong cuộc sống, chúng ta đã bị các ý nghĩ  (ý thức) điều khiển gần như cho tất cả mọi hành động mà chúng ta không hề để ý đến. Vì thế thực hành Chánh niệm giúp hành giả nhận thức được bộ mặt thật của ý thức, không cho nó lôi cuốn, nhận chìm vào trong quỹđạo của thế giới vô minh, tham dục.Khi nhìn rõ những gì đang diễn ra ở giây phút hiện tại thì tuệ giác sẽ hướng dẫn chúng ta chọn lựa và hành động đúng với thiện pháp thay vì chạy theo thỏa mãn những dục tính của bản ngã. Chỉ khi nào chúng ta thấy được dục vọng thiêu đốt người đắm say nó như thế nào thì chúng ta mới thấy dục vọng là đáng từ bỏ. Chánh niệm cũng có trách nhiệm cảnh giác chúng ta trong lúc giận dữ để quay tâm sang những ý niệm chân chính khác. Chính chánh niệm báo trước cho chúng ta một tình trạng giận dữ sắp sinh khởi để có thể chuyển hóa khiếncho tâm được an lành. Do đó Phật giáo luôn luôn kêu gọi con người hãy đạt cho được sự thanh bình trong tâm của chính mình trước thì sau đó tự nhiên thanh bình của thế giới sẽ đến theo, nghĩa là “tâm an thì thế giới an và tâm bình thì thế giới bình”.Con người hằng ngày luôn chạy theo vọng tưởng vì chúng ta quên chánh niệm. Lục dục, thất tình lôi cuốn tâm của chúng ta chạy theo nó. Vì thế chánh niệm lúc nào cũng có thể đưa con người trở về với chánh đạo.
Với sự giảng dạy về sự tu tập Định học và Tuệ học, trong Kinh Đại Niệm Xứ, Đức Phật đã giảng về Bốn Niệm Xứ như sau:
-Này các Tỳ kheo, đây là con đường độc nhất, đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu bi, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn. Ðó là Bốn niệm xứ.
Thế nào là bốn? Này các Tỳ kheo, ở đây vị Tỳ kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời.
Như vậy, con đường độc nhất đi đến giải thoát, chứng ngộ Niết bàn là phải thực hành viên mãn cả Bốn Niệm Xứ bao gồm thân, thọ, tâm, pháp. Với tầm quan trọng của Tứ Niệm Xứ, Đức Phật đã khẳng định rằng hành giả chỉ chuyên cần thực hành viên mãn thì chỉ Tứ Niệm Xứ thôi cũng có thể đưa hành giả thoát khỏi sầu khổ, tham ưu ở đời và sau cùng chứng ngộ Niết bàn.
Ngày xưa Đức Phật dạy thiền dựa theo Tứ Niệm Xứ là thả lỏng mọi trạng thái thân tâm chớ không phải tập trung. Khi thân tâm nghẹ nhàng khinh an, mở rỗng thì lúc đó hành giả mới vào thiền và nhập định được cho nên nếu hành giả còn dính mắc thì người đó dầu có thực hành thiền, nhưng không bao giờ vào định được. Khi thân được mở rỗng thì thân và hư không sẽ không còn là hai đối tượng mà trở thành một. Lúc đó khí thở sẽ thông một cách rất kỳ lạ. Đến đây một luồng khí hít vào hay thở ra sẽ rất dài hơn và hành giả có cảm tưởng như là không còn chỗ để hơi thở ra vào và hơi thở bây giờ mong manh như một sở chỉ mành thì ngay thời điểm đó tâm thức bắt đầu ngừng giao động. Nhịp tim lúc đó sẽ rất chậm bởi vì khí thở chậm thì nhịp tim đập cũng chậm lại. Thời điểm này hành giả bắt đầu vào định và toàn thân mở rỗng hoàn toàn. Thế thì quán không phải là tập trung để soi chiếu lại thân này mà quán bây giờ phải được hiểu như là sự phản chiếu của một tấm gương. Đó là sự chiếu soi thuần khiết, thanh tịnh, nhẹ nhàng, khinh an mà không phải tập trung. Trong kinh Tứ Niệm Xứ, Đức Phật dạy rất rõ rằng khi chúng ta hít vào thì chúng ta tuệ tri hít vào. Hoặc khi thở ra thì chính mình cũng phải tuệ tri mình đang thở ra. Nói một cách chi tiết là khi mới hít vào thì chúng ta tuệ tri chúng ta mới hít vào. Khi hít vào một phần hơi thở chúng ta tuệ tri mình đang hít vào một phần hơi thở. Khi hít vào nữa hơi thở chúng ta tuệ tri chúng ta đang hít vào nữa hơi thở. Khi hít vào ba phần tư hơi thở chúng ta tuệ tri chúng ta hít vào ba phần tư hơi thở. Và khi hít vào tròn vẹn hơi thở chúng ta tuệ tri chúng ta đang hít vào toàn vẹn hơi thở đó. Đến khi hơi thở tạm dừng lại thì chúng ta cũng tuệ tri chúng ta tạm dừng hơi thở. Sau đó toàn thân chuẩn bị để chuyển hơi ra thì chúng ta tuệ tri chúng ta chuẩn bị để thở hơi ra. Nếu công phu của hành giả cao thì người đó sẽ thấy rất rõ có một khoảng cách giữa hơi thở vô và hơi thở ra. Nói cách khác là trước khi hít hơi vô và chuyển hơi ra toàn thân có sự chuẩn bị trước cho nên Đức Phật dạy chúng ta nên tuệ tri để biết sự chuyển vận đó. Khi thở ta hết thì chúng ta tuệ tri đã thở ra hết và sau đó thân chuẩn bị để hít hơi mới vào thì chúng ta cũng tuệ tri biết rằng thân chuẩn bị để hít hơi mới vào. Nói chung, thở ra hơi ngắn chúng ta tuệ tri thở ra hơi ngắn hay hít vào hơi ngắn chúng ta tuệ tri hít vào hơi ngắn. Hoặc thở ra hơi dài chúng ta tuệ tri thở ra hơi dài, hít vô hơi dài chúng ta tuệ tri hít vô hơi dài. Khi quán hơi thở như thế với chánh niệm tỉnh giác thì toàn thân sẽ sáng suốt và có thể xa lìa mọi tham đắm, chấp trước trong cuộc sống này và sau đó đạt đến cứu cánh tột đỉnh là giải thoát giác ngộ. Đấy chỉ là quán hơi thở mà đã có lợi ích như thế. Thế thì hơi thở thô chúng ta tuệ tri hơi thở thô, hơi thở tinh tế chúng ta tuệ tri hơi thở tinh tế. đến khi hơi thở tinh tế và chậm dần chúng ta tuệ tri hơi thở tinh tế và chậm dần cho đến lúc hơi thở tinh tế nhỏ nhiệm nhất, chúng ta tuệ tri hơi thở tinh tế nhỏ nhiệm. Đến khi chúng ta đi vào định bằng hơi thở này.
Vì thế hành giả nếu muốn vào định thì người đó phải khéo biết để điều động hơi thở cho nên nếu điều động hơi thở cho đúng thì có thể trở thành thánh giả. Do đó từ việc sống chết, tu hành và giải thoát đều gắn liền với hơi thở của chúng ta. Thí dụ nếu thở ra mà không hít vào là mất mạng. Tất cả những “loạn” và “động” trong tâm thức cũng đều do hơi thở và dĩ nhiên sự sinh tử luân hồi hay giải thoát giác ngộ của con người cũng từ hơi thở mà ra. Tâm sân, si, tham đắm cũng từ hơi thở bởi vì hơi thở là nguồn mạch sống chính của con người. Thí dụ khi tâm sân hay tham đắm phát khởi thì hơi thở mạnh hơn và tim đập nhanh hơn vì thế cứ mỗi một ý niệm biến đổi từ tâm thì đó là sự giao động của hơi thở. Và mỗi sự giao động của hơi thở làm tâm của chúng ta biến động cho nên bất cứ biến hành “tịnh” hay “động” của tâm cũng đều phát xuất từ hơi thở. Nói một cách tổng quát, con người có vào Niết bàn cũng do hơi thở hay chìm đọa vào phiền não khổ đau cũng do hơi thở. Khởi niệm tham đắm cũng bắt đầu từ hơi thở vì thế hơi thở là nguồn mạch sống chính của con người.
Toàn bộ giáo lý Phật Đà là giúp chúng sinh tu tập thân tâm cho trong sạch để chuẩn bị vào định bởi vì không vào định thì vĩnh viễn trí tuệ không phát sinh mà trực nhận được chân lý. Có trực nhận chân lý thì mới có giải thoát giác ngộ. Thế thì một người tu thiền Tứ Niệm Xứ nếu biết điều hòa hơi thở thì sẽ vào định dễ dàng. Ngược lại nếu không điều hòa được hơi thở thì khó lòng vào định được. Tại sao? Bởi vì thân và khí thở là không hai, bất khả phân ly. 
Kinh Tứ Niệm Xứ, Đức Phật dạy rằng:
Khi hơi thở bắt đầu vào lỗ mũi thì chúng ta “tuệ tri” tức là biết hơi thở bắt đầu vào và cứ như thế chúng ta tuệ tri từng biến hành của hơi thở theo từng giai đoạn một cho đến khi hơi thở được vào hoàn toàn. Sau đó chúng ta cũng tuệ tri để biết hơi thở đó loan ra khắp tế bào rồi đến toàn thân. Khi hơi thở chuyển từ dưỡng khí (O2) sang thán khí (CO2)  để bắt đầu thở ra thì chúng ta cũng tuệ tri nó. Khi thán khí chuyển ngược từ những tế bào trên khắp thân thể rồi sang đến buồng phổi chúng ta cũng tuệ tri. Đến khi phổi chuẩn bị để thở ra thì chúng ta cũng tuệ tri cho đến khi toàn hơi thở được thở ra thì chúng ta cũng tuệ tri luôn. Chúng ta tuệ tri để thấy như thật từng diễn biến xảy ra trong từng giai đoạn. Thấy như thật không phải là theo dỏi giống tùy sổ túc tức là hơi thở đến đâu thì mình theo dỏi đến đó. Thiền Tứ Niệm Xứ không thực hành như vậy. Ở đây Đức Phật dạy tuệ tri là cái biết rốt ráo rõ ràng và cái biết này không phải do Đức Phật trao tặng cho mình hay mình có là do thực hành thiền Tứ Niệm Xứ. Nó không lệ thuộc hay qua bất cứ cánh cửa nào của tâm thức. Đó là cái biết mà không thông qua “căn, trần” cho nên Đức Phật mới xác định là nếu thực hành đúng thì chỉ cần trong sát na là có giải thoát giác ngộ là ở chỗ này. Trên thế gian này ngoài Tứ Niệm Xứ, không có pháp môn nào mà thành tựu trong sát na được. Vì thế pháp tu này không phải là pháp tu từ từ mà là pháp thiền đốn ngộ. Đây mới chính là thiền đốn ngộ thứ thiệt do chính Đức Phật dạy ngay từ ban đầu. Thế nhưng nếu hành giả không có khả năng thì tu một ngày, một tuần, một tháng hay một năm vẫn đạt đến cứu cánh tối thượng giải thoát. Khi đã có tuệ tri rồi thì bất cứ sự động niệm nào trên thân cho dù là nhỏ nhặt nhất chúng ta cũng biết. Nên nhớ đây là “tuệ tri” hoàn toàn khác hẳn với “thức tri” là cái biết do ý thức phát hiện mà trong đó ý thức phân biệt giữa chủ thể và đối tượng xuất hiện rồi. Nói cách khác tuệ tri là dùng trí tuệ để biết chớ không dùng ý thức để biết. Thí dụ khi ta hít vào, thở ra hay đưa tay lên, để tay xuống thì chúng ta tuệ tri để biết, nhưng nếu bây giờ chúng ta nhầm lẫn tuệ tri là dùng công phu để quán chiếu và theo dỏi hơi thở hay hành động của cánh tay tức là chúng ta đã rơi xuống tầng của ý thức tức là thức tri chớ không còn tuệ tri nữa. Do đó nếu hành giả rơi vào thức tri thì con đường giải thoát vẫn còn xa mù mịt.  Vì thế ngay ban đầu nếu chúng ta có tuệ tri thì ngay trong sát na đó chúng ta đã có giải thoát rồi. Đó là trên lý thuyết, còn trên thực tế từ trước đến nay chưa có ai được tuệ tri trong sát na cả vì không có một ai có đủ khả năng tuệ tri ngay tức thì được mà phải cần thời gian thực tập và từ kinh nghiệm bản thân mà thay đổi dần. Tóm lại, Đức Phật dạy chúng sinh nên tuệ tri từng sát na để thấu biết bằng trí tuệ thật rõ ràng từng biến đổi của hơi thở nghĩa là chúng ta tuệ tri từng biến đổi rất nhỏ của hơi thở. Đó là hít vô phần nào thì biết phần đó, chưa hít thì chưa biết.
Vậy thế nào quán thân trên thân để thấy như thật thân?
Ở đây, Đức Phật không dạy tuệ tri để tập trung ngay hơi thở vì nếu chỉ tập trung ngay hơi thở thì đây không còn là tuệ tri hay tuệ giác nữa. Bởi vì Đức Phật dạy quán để thấy như thật của thân nghĩa là không nhất thiết chỉ thấy như thật của riêng hơi thở mà thôi mà phải thấy như thật của toàn thân. Quán thân trên thân để thấy như thật thân nghĩa là không phải chỉ thấy hơi thở vào lỗ mũi mà phải thấy tất cả khí thở đi vào rồi sau đó thấy sự thay đổi nơi toàn thân. Thí dụ như lúc khí thở vào mà thân đang ngứa ở lưng, đang đau ở bàn tay hay đang nóng ở ngực…nghĩa là ngay thời điểm đặc biệt đó chúng ta tuệ tri hết những biến đổi khắp trên toàn thân. Khi đã rõ biết những thay đổi của toàn thân thì trong đó bao gồm hơi thở của chính mình. Mặc dầu Đức Phật dạy quán hơi thở là chính, nhưng ở đây chúng ta tuệ tri cái thân của chúng ta, đang quán chiếu để thấy như thật thân cho nên bất cứ cái gì xảy ra trên thân thì chúng ta phải thấy như thật.
Vậy thế nào là thấy như thật?
Đức Phật dạy rằng thấy như thật là trước đó một sát na thì chúng ta không thấy và sau một sát na xảy ra rồi chúng ta cũng không thấy. Thế thì thấy như thật là ngay vào thời điểm đó sự hiện hữu xảy ra thì chúng ta cũng ngay thời điểm đó tiếp nhận sự hiện hữu đó chớ không phải một sát na trước hay một sát na sau. Vậy thì cứ mỗi sát na toàn thân của chúng ta có sự thay đổi, chuyển hóa nhỏ mà chúng ta thấy biết như thật. Nếu chúng ta thấy sự chuyển hóa ở sát na trước mà chúng ta vướng lại thì chúng ta sẽ không biết sự chuyển hóa của sát na sau cho nên cái thấy biết này không còn thấy như thật nữa mà là cái thấy biết củ. Thí dụ ngay lúc này chúng ta bắt đầu hít một hơi thở, nếu chúng ta không sống đúng như thật để quán thân trên thân thì cái thấy biết này không còn như thật vì nó đã chạy sang một chút của sát na sau rồi. Vì vậy nếu chúng ta trụ ở phần hơi thở đó thì phần kế tiếp hơi thở chúng ta không biết được. Do đó người tu theo Tứ Niệm Xứ phải khéo léo, thức tỉnh từng sát na thì mới thấy biết rõ ràng như thật được. Như vậy những tiếp nối từng khoảnh khắc của hơi thở thì chúng ta cũng phải thấy như thật từng khoảnh khắc tiếp nối, xảy ra liên tục của từng hơi thở cho đến hết hơi thở đó. Trong từng khoảnh khắc rất nhỏ đó, chúng ta phải tuệ tri từng khoảnh khắc rất nhỏ đó. Nói một cách tổng quát, mỗi hơi thở chúng ta có hàng trăm ngàn hay hàng tỷ khoảng cách rất nhỏ như thế thì chúng ta phải tuệ tri hàng trăm ngàn hay hàng tỷ cái biết như thật. Đây mới là tuệ tri như thật, không lầm lẫn. Mỗi một chuyển động nhỏ, mỗi một vận hành nhỏ hay mỗi sự giao động nhỏ ở nơi toàn thân chúng ta thì chúng ta phải rõ biết như thật.
Nên nhớ đây là phần tuệ tri thì nó biết tất cả, nhưng nếu rơi vào thức tri thì cái biết đó không đủ, không toàn vẹn. Có thể ví sự tuệ tri trong những biến hành như những độ tăng dt của toán học. Nhìn một hình vẽ toán học, nếu chúng ta chọn thời điểm bắt đầu là t1 và sau đó cứ cộng thêm một phần rất nhỏ là dt (increment) thì có t2 và sau đó cộng t2 với dt thì có t3 và cứ như vậy công hoài cho đến khi có toàn hình vẽ. Ở đây tuệ tri cũng thế, cứ mỗi thời điểm tức là từng sát na chúng ta cũng tuệ tri và sát na sau đó tuệ tri tiếp và cứ như thế tuệ tri cho đến khi quán việc đó hoàn tất. Vì thế nếu thực hành để hiểu thì chúng ta vô tình rơi vào thức tri chớ không còn tuệ tri nữa. Sự rõ biết một cách rõ ràng rốt ráo để biết toàn thân mà trong đó có hơi thở ra vào, chuyển động của tay, của chân hay của toàn thân thể từ đầu tới chân thì chúng ta tuệ tri một lượt từ đầu tới chân và hơi thở ra vô. Nếu hành giả chỉ biết hơi thở hay biết sự chuyển vận của tay hay chân thì đây là sự biết có sự phân chia tức là sự biết của thức chớ không phải biết của trí tuệ. Do đó nếu chúng ta quán thân trên thân mà chia sẽ từng phần thì chúng ta rớt vào tầng sâu của tâm thức thì việc thực hành dĩ nhiên không có kết quả. Vì thế tuệ tri là cái biết tất cả toàn thân và hơi thở ra vào chớ không cô lập ở bất cứ phần nào. Tóm lại khi tập trung là chúng ta rơi và tâm thức cho nên muốn thành công thì cứ thả lỏng, đừng cô đọng ở bất cứ thành phần nào, thì sẽ rõ biết tất cả.
Vì thế tu theo Tứ Niệm Xứ dựa trên quán hơi thở là một công phu tuyệt vời. Đối với loại thiền này, tâm hành giả không tập trung mà cũng chẳng tán tâm, loạn động. Tại sao? Bởi vì sự rõ biết bằng trí tuệ không phải tán tâm hay tập trung cho nên nếu hành giả chú tâm thì người đó tức thì rơi xuống tầng tâm thức rồi. Hoặc tán tâm thì người đó lúc bây giờ đã ra ngoài những hiện hữu mà họ đang quán. Do đó ở ngay hiện hữu này mà không phải tán tâm, không phải chú tâm thì là tuệ tri tức là trí tuệ đang rõ biết. Vì trí tuệ không phải là thức nên nó không tập trung. Đây là bước rất căn bản, tối cần thiết để đi vào căn nhà Phật pháp. Vì thế chỉ cần thực hành đúng bước đầu này, hành giả sẽ cảm thấy an lạc, giải thoát khỏi mọi ràng buộc của phiền não khổ đau ngay. Đó là lý do tại sao Đức Phật xác định rằng thiền Tứ Niệm Xứ giúp hành giả giải thoát giác ngộ trong một sát na là như vậy. Vì thế thực hành đúng thì chúng ta sẽ chuyển hóa thân tâm từng sát na và như thế không có phút giây nào mà chúng ta không đạt đến sự an lạc. Khi đã có tuệ tri thì từng sát na đó hành giả hưởng sự an lạc. Ngược lại nếu không thực hành đúng thì cả đời hành giả không bao giờ hưởng được hương vị an lạc như thế nào.
Nếu thực hành đứng đắn chánh niệm tỉnh thức tinh cần thì hành giả sẽ loại được tất cả mọi tham đắm chấp trước nơi trần gian. Tại sao? Thí dụ khi ta hít vào thì chúng ta tuệ tri chúng ta hít vào và khi thở ra chúng ta tuệ tri chúng ta thở ra cho nên chúng ta không dính vào cái hơi hít vào. Và khi thở ra xong thì chúng ta tuệ tri hơi thở sắp hít vào chớ không dính vào hơi thở ra. Nói thế thì sự vận hành luôn luôn mới nơi mình. Con người lầm lẫn cho rằng hơi thở hít vô thở ra là chuyện làm củ lập đi lập lại, nhưng trên thực tế mỗi hơi thở cho dù là hít vô hay thở ra là hoàn toàn mới vì mỗi lần hít vô chúng ta đem dưỡng khí (O2) vào nuôi thân và khi thở ra chúng ta đem thán khí (CO2) ra ngoài. Do đó nếu củ thì làm sao con người sống được. Do đó nếu ta quán sát rất tinh tế thì mỗi sát na chúng ta luôn có sự thay đổi mới hơn, từng luồng dưỡng khí (O2) hít vào tuy rất nhỏ nhưng cũng đem đến cho ta sự sống mới. Thở ra cũng vậy, khi thở ra thì từng hơi mới tiếp tục đi ra và khi hít vào thì cũng từng hơi mới từ từ đi vào. Nói cách khác cơ thể chúng ta thay đổi từng giây từng phút hay nói đúng ra nó thay đổi từng sát na và do đó sự sống cũng hiện hữu trong cái mới này. Vậy thì dựa theo Tứ Niệm Xứ đời sống con người không có sát na nào dừng lại cái củ cả bởi vì dừng lại là làm phá vở đời sống hiện thực của chính mình rồi. Như thế dựa theo quán niệm Tứ Niệm Xứ thì hiện thực đời sống của con người lúc nào cũng mới, không bao giờ dừng lại, và nó thể hiện sức sống mảnh liệt của vũ trụ cho nên nếu con người làm dừng lại bất cứ một hiện tượng nào thì người đó vô tình phá vở những hiện thực đang xảy ra. Tại sao? Bởi vì cái hiện thực đang tiếp tục xảy ra không hề có một phút giây củ vì nó chỉ biến chuyển theo một chiều đến của thời gian cho nên giây phút qua đi thì chúng ta không bao giờ có thể nắm bắt nó lại được. Nói theo toán học thì thời điểm t2 = t1 + dt thành thử cứ một sát na (dt) xảy ra thì sẽ không cách nào tìm thấy t1 trở lại vì nó đã qua rồi. Vì thế Đức Phật dạy rằng:” “Quá khứ đã qua đi không bao giờ nắm bắt lại được”. Con người thường hay có quan niệm lầm lẫn rằng hơi thở là chỉ lập đi lập lạ nên chẳng có gì mới lạ, nhưng dựa theo thiền Tứ Niệm Xứ thì tuy hơi thở lập đi lập lại nhưng nó không hề củ vì mỗi hơi thở hít vô là mang theo dưỡng khí mới và khi thở ra là đem than khí mới ra ngoài cho nên hơi thở lúc nào cũng mới. Hơi thở mới mang theo dưỡng khí nương theo dòng máu chạy khắp tế bào trong cơ thể cho nên toàn thân cũng vì thế mà chuyển mới theo. Từ nhận diện những biến hành của hơi thở chúng ta có thể trực nhận được bộ mặt thật của cuộc đời và nhận ra mọi quan hệ của đời sống rất rõ ràng. Đó là không những chỉ riêng con người mới sống với cái mới từng sát na mà thế gian vũ trụ cũng thế. Từ nhân sinh vũ trụ, chim bay cá lặn bất cứ vật gì thuộc thế giới hữu vi đều chuyển mình theo cái mới hết. Thế thì nếu chúng ta sống đúng với cái mới trong từng sát na thì chúng ta sẽ nhận biết rất rõ rang thế gian cũng đang biến chuyển theo cái mới giống như chúng ta vậy. Đây là một điều rất tế nhị mà lại rất quan trọng mà con người không bao giờ để ý đến. Thí dụ như hiện tại chúng ta đang nhìn một người bạn. Nếu sau một giờ mà bạn vẫn nhìn người bạn đó như vừa mới gặp nhau một tiếng đồng hồ trước là bạn không thực hành thiền Tứ Niệm Xứ. Tại sao? Bởi vì con người thay đổi mới hơn theo từng sát na cho nên mỗi sát na người bạn đó đã thay đổi mới rồi chớ đâu có giống như khi nảy. Thời gian không bao giờ ngừng lại, luôn hướng về phía trước nên mỗi hơi thở là đã thay đổi rồi. Tuy dáng điệu người bạn đó không thay đổi mấy, nhưng trong khoảng thời gian một tiếng đồng hồ đó thì người đó đã hít thở biết bao nhiêu lần làm cho thân thể, máu me, nhịp tim, thần kinh, tế bào ngay cả ý niệm thay đổi đến ngần ấy lần chớ đâu có y nguyên như chúng ta thường nghĩ. Cứ một giây hay một khoảng khắc là họ đã là một con người mới hoàn toàn. Nếu biết quán chiếu sâu rộng như thế thì ta và toàn thế giới trước mắt ta lúc nào cũng mới, cũng biến chuyển cho nên cuộc đời làm gì còn chán chường nữa. Một trong những thành phần đưa đến phiền não khổ đau là sự nhàm chán. Thí dụ lái chiếc xe này hoài lâu ngày sinh ra nhàm chán, mất hứng thú. Ở lâu một nơi nào cũng sinh ra nhàm chán. Vợ chồng  hằng ngày thấy nhau hoài sinh ra nhàm chán muốn gây gổ. Bây giờ hiểu thiền Tứ Niệm Xứ thì biết rằng đời sống luôn thay đổi không dừng lại. Cứ mỗi giây phút trôi qua, con người thay đổi theo giây phút mới đó. Vì thế chính hơi thở đem sự sống đến với con người cho nên mỗi hơi thở mới sẽ đem lại sự sống mới lại cho chúng ta. Biết được như thế thì làm gì còn nhàm chán, còn đâu là nguyên nhân của khổ đau, của bất bình bất mãn và dĩ nhiên thực hành đứng đắn Tứ Niệm Xứ sẽ đưa hành giả thẳng đến cứu cánh tối thượng là giải thoát giác ngộ.
Vậy thế nào quán thọ trên thọ để thấy như thật thọ?
Cũng giống như quán thân trên thân để thấy như thật thân nghĩa là hành giả quán từng hơi thở trôi qua để biết như thật con người thay đổi theo từng hơi thở ra vào. Ở đây cảm thọ cũng thế. Bất cứ sự cảm thọ nào cũng đều mới cả vì mỗi sát na mới thì cái cảm thọ củ mất đi. Thí dụ như trong khi đi, chúng ta cảm thấy đau chân thì cứ mỗi sát na chúng ta tuệ tri để cảm thọ cái đau thì cái đau củ mất đi và được thay thế bằng cái đau mới. Khi chúng ta tuệ tri thì chính sự tuệ tri đó giúp hành giả thoát ngoài sự cảm thọ khổ vui hay đớn đau. Thọ là cảm nhận nơi thân cho nên bất cứ sự xảy ra nào nơi thân thì chúng ta biết, nhưng cái xảy ra và cái biết không hề dính dáng gì với nhau. Thí dụ cái đau trước không phải là cái đau sau và cái đau sau cũng không hề dính gì với cái đau sau đó nữa. Tại sao? Bởi vì nếu mình giữ cái cảm nhận của cái đau trước thì mình sẽ không biết cái đau sau, nhưng những cái đau cứ xảy ra liên tục từng sát na chớ đâu có dừng lại khiến chúng ta rõ biết cái đau từng sát na vậy. Thậm chí cái đau cứ tăng lên đến khi chúng ta không đi được nữa. Tóm lại cái biết không liên quan đến cảm thọ đau nhức nào cả bởi vì cái thọ luôn luôn thay đổi vì cái biết ở ngoài cho nên chúng ta mới biết sự thay đổi từng sát na. Do đó nhờ tuệ tri mà chúng ta biết cảm nhận những cái khổ vui của thân thể chúng ta một cách tường tận không nhầm lẫn để thấy như thật thọ nghĩa là thấy những cảm giác khổ vui  hay không khổ  vui của thân xác mình. Vì thế trong cuộc sống khi chúng ta nghe ai nói những lời chua xót, tay bị chảy máu hay đầu đang bị đau…để chúng ta có cảm nhận những cái khổ vui đến thì chúng ta tuệ tri tất cả những chuyện đó. Khi tuệ tri cái khổ thì sự khác nhau là chính mình tuệ tri cái khổ chớ chính mình không phải là cái khổ. Con người thường hay lầm lẫn khi có chuyện đau buồn thì chúng ta trở thành sự đau buồn chớ không phải chúng ta đang tuệ tri sự đau buồn khiến họ có cảm giác buồn khổ. Bây giờ nếu thực hành Tứ Niệm Xứ thì chúng ta tuệ tri chuyện buồn đó nghĩa là giữ khoảng cách giữa tuệ tri và cái buồn. Thí dụ khi giúp đở một người nào đó mà không đạt những thành quả như ý muốn nên mình cảm thấy buồn, không hài lòng. Buồn là vì mình đồng hóa với cái buồn đó nghĩa là chính mình cho rằng cái buồn đó là một thành phần của ta chớ chúng ta không tách hẳn mà đứng ngoài cảnh giới của tuệ tri. Vì nếu chúng ta tuệ tri thì bất cứ chuyện gì xảy ra cho thân tâm không dính dáng gì đến tuệ tri cả.
Một thí dụ khác là áp dụng tuệ tri vào trong giấc ngủ. Khi ngủ nếu chúng ta tuệ tri có nghĩa là thả lỏng toàn thân thì chúng ta rõ biết thân đang thả lỏng mà đừng thêm hay bớt gì hết. Ngay lúc đó, chúng ta có thể quán sát thân của chúng ta nó ngủ như thế nào. Nói cách khác tuệ tri giống như một người khác đang quan sát từng biến hành của người đang nằm ngủ, nhưng ở đây người khác đó chính là ta đang quan sát chính ta. Vì chúng ta tuệ tri toàn thân nên biết rất rõ những biến hành của thân để chuyển dần dần theo giấc ngủ. Chúng ta biết rõ ràng bắt đầu từ chân đến tay rồi đến đầu bắt đầu ngủ từ từ. Đến đây chúng ta nhận diện được cánh cửa của ngủ và thức. Nếu chúng ta có thể công phu kiên trì thì sẽ nhận định rất rõ ràng giữa bắt đầu ngủ cho đến khi ngủ và từ ngủ tới thức có một ranh giới rõ ràng. Và nếu ít nhất trong cuộc đời chính mình kinh nghiệm giữa thức và ngủ thì chính mình mới thật sự thấy mình ngủ được cũng như một người khác đang nhìn mình ngủ vậy. Khi thân còn mê mờ trong giấc ngủ thì cái trí tuệ đó sẽ tương đồng với vấn đề thấy được sự sống chết nghĩa là giây phút chúng ta bỏ thân này chẳng khác nào đi từ thức tới ngủ, không sai biệt mấy. Vì thế nếu trong đời sống này chúng ta thực tập từ tỉnh tới mê, từ thức tới ngủ một cách rõ ràng thì chúng ta tuệ tri thân của chúng ta đang đi từ tỉnh tới mê, từ thức tới ngủ. Nói cách khác khi chúng ta tuệ tri chúng ta đang ngủ thì ngay thời điểm đó chúng ta không còn là người đang ngủ đó nữa. Đến lúc chết cũng vậy. Hành giả thực hành Tứ Niệm Xứ tuệ tri thân từ sống đến khi chết từ từ nghĩa là thân chết tới đâu chúng ta tuệ tri thân chết tới đó. Đến khi thân chết hẳn thì chúng ta tuệ tri thân chết hẳn và người tuệ tri lúc bây giờ không phải là người chết. Lúc đó chúng ta rời hẳn chuyện sống chết của thân xác này. Tuy nói dài dòng, nhưng người tuệ tri vẫn không quên tuệ tri từng hơi thở thì mới biết những sự biến hành của thân được. Vì thế đời người chỉ trong một hơi thở cho nên quán hơi thở là điều tối quan trọng. Thí dụ mình đang giận ai mà bây giờ điều hòa hơi thở trở lại thì cơn giận kia tức thì tan biến. Cũng như trong lòng đang khởi niệm tham làm hơi thở dồn dập. Bây giờ điều hòa hơi thở trở lại thì niện tham biến mất. Nói chung trong cuộc sống có rất nhiều lúc chúng ta phải đối diện với những việc bất toại ý, nhưng nếu biết điều hòa hơi thở thì có thể hóa giải hết những buồn phiền rất dễ dàng.
Thực hành chánh niệmtức là thực hành Tứ Niệm Xứđể biết thật rõ ràng những biến hành của thân, thọ, tâm, pháp đang xảy ra trong hiện tại một cách vô tư như một tấm gương soi chỉ phản chiếu những gì diễn ra trước mặt để hành giả thấy nó thật sự là (as is) và từ đó mới có thể làm chủ thân, khẩu, ý của mình để điều phục mọi tham ưu ở đời. Thí dụ khi tâm khởi tham, ta biết tâm đang khởi tham. Tâm không khởi tham thì ta cũng biết tâm không khởi tham. Sân và si cũng thế. Do đó, khi biết tâm có tham hay tâm không có tham thì chỉ biết mà không cần tác ý làm gì cả bởi vì khi duyên diệtthì tâm tham hay tâm không tham tự nó biến mất. Vì thế thấy biết “như thật” là thấy biết bản chất thật đang là của tất cả hiện tượng ngay vào thời điểm đó từ tâm lý đến sinh lý mà không phê phán, không phán xét hay cộng thêm ngã kiến vào. Thí dụ ngay bây giờ vì mắt thấy tiền nhiều nên tâm tham phát khởi. Bây giờ dựa theo giáo lý Duyên Khởi nghĩa là khi cái nầy có thì cái kia có, cái này diệt thì cái kia sẽ diệtnghĩa là vì mắt thấy tiền (có cái nầy) nên tâm tham phát khởi (cái kia có). Bây giờ Chánh niệm tỉnh thức để biết tâm đang ở trạng thái tham, rồi buông xả ý niệm tham (cái này diệt) thì tâm tham cũng biến mất (cái kia diệt). Sân và si cũng như vậy. Vì thế Chánh niệm là cẩm nang đời sống tâm linh, là phương pháp thực tập hữu dụng hằng ngày của tất cả hành giả muốn diệt khỏi tham, sân, si. Người có Chánh niệm thì ăn biết mình đang ăn, đi biết mình đang đi, nói biết mình đang nói, làm biết đang làm. Người có Chánh niệm dù làm bất cứ một việc gì cũng thong thả, chủ động, ý tứ, ngăn nắp và luôn dựa theo tinh thần chân chánh lợi tha. Do đó họ có một phong cách nhẹ nhàng, tế nhị, thanh thoát. Khi nói năng tiếp xử, họ nói một cách từ tốn thành thật, không làm thương tổn đến danh dự của người khác. Ngược lại, một nguời sống thiếu Chánh niệm mà đầy vọng tưởng Tà niệm thì việc làm của họ sơ suất, cẩu thả mà cầu cao. Lời nói của họ huênh hoang tự đắc, ngạo mạn mà thiếu trung thực hay thiên lệch làm cho người khác chán ghét lánh xa. Vì lời nói, hành động, suy nghĩ của họ được phát xuất bởi lòng tham dục, tính tự cao và thiếu ý thức chân chánh. Thế thì Chánh niệm giúp chúng ta chọn lựa một cách sáng suốt những gì nên vun trồng và phát triển và dĩ nhiên những gì cần từ bỏ. Chánh niệm cho ta thấy thật chất của mọi hiện tượng. Người thực hành Chánh niệm luôn hành động một cách sáng suốt thay vì phản ứng trong vô minh cho nên cuộc sống trở nên bớt căng thẳng và dĩ nhiên có nhiều an lạc. Chánh niệm thường đi đôi với tỉnh giác nghĩa là hành giả luôn thức tỉnh để quan sát và hiểu biết chuyện gì đang xảy ra ngay vào thời điểm hiện tại đó. Tỉnh thức Chánh niệm nhắc nhở con người luôn cẩn trọng, cẩn trọng và cẩn trọng trong mọi suy nghĩ, lời nói và hành động để khỏi gây phương hại đến  cho mình và cho người.
Ngày xưa có một vị Tỳ kheo sống trong một cái am bên một bờ ao. Vào một đêm nọ trời trong trăng tỏ, vị Tỳ kheo thấy một con rùa từ dưới ao bò lên. Bỗng đâu có một con chó rừng xuất hiện. Thấy mồi, chó vội vàng chạy lại cắn vào chân rùa, rùa liền thụt chân vào, chó cắn vào đầu, rùa vội thụt đầu vào. Cả đầu, bốn chân và đuôi là sáu phần đều thụt vào mai một cách an toàn. Con chó rừng cắn mãi vào thân rùa rồi lật qua lật lại mà con rùa vẫn không hề hấn gì cả. Cuối cùng chó mệt nhoài và đành bỏ đi. Thấy vậy, vị Tỳ kheo liền giác tỉnh bảo rằng việc tu hành của mình cũng như rùa thụt đầu vậy nghĩa là mình phải biết làm chủ, kiểm soát và cẩn trọng mỗi khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần. Nhờ an trú trong Chánh niệm và tinh tấn tu hành chẳng bao lâu vị Tỳ kheo đắc quả A la hán.
Dựa theo Kinh Trung Bộ (bài kinh số 10) thì Pháp Tứ Niệm Xứ thường được hiểu là “Con đường duy nhất “ để tiến đến giải thoát giác ngộ, nhưng thật ra “Con đường duy nhất” đã được Đức Phật nhắc đến không phải là Tứ Niệm Xứ mà chính là Bát Chánh Đạo. Trong kinh Pháp Cú (273-274), Đức Phật dạy rằng:
Trong tất cả các con đường
Con Đường Tám Chánh là thù thắng nhất
Đây là con đường duy nhất
Không có con đường nào khác
Để đi đến tri kiến thanh tịnh
Vì thế con đường duy nhất để đi đến giải thoát giác ngộ là Bát Chánh Đạo mà Tứ Niệm Xứ với bốn nền tảng của Chánh niệm chỉ là một phần của con đường đó.
Tóm lại, mặc dầu ngày nay các cuộc hành trình để đưa con người ra ngoài không gian và đến mặt trăng hay những hành tinh xa xôi khác được thực hiện một cách dễ dàng, nhưng con đường đi đến thanh tịnh Niết Bàn vẫn còn xa xôi và cần rất nhiều nỗlực. Nhưng nếu con đường chúng ta đi có khi buồn tẻ thì chánh niệm sẽ là ánh sáng êm dịu hướng dẫn tốt nhất để giúp con người sống an vui tự tại trong đời nầy vậy.
8)Chánh định ( Full, Integral or Holistic Samadhi or Right Concentration) là nhánh cuối cùng của con đường tám nhánh. Tại sao lại cuối cùng? Bởi vì trước khi thực hành chánh định, hành giả đã trải qua 7 nhánh đầu để thanh lọc thân, tâm sống đời đạo đức nhân bản tức là có Giới. Từ đó hành giả thực tập buông xả, luôn giữ tâm ở giây phút hiện tại và duy trì chánh niệm mà có an định. Hoặc là hành giả có thể thực tập trong tư thế ngồi thiền, tâm cột chặt vào một đối tượng trong một thời gian dài, không tán loạn thì sẽ có định. Bát Chánh đạo là tám sợi dây luôn quyện tròn lại với nhau, bổ túc cho nhau giúp hành giả đạt đến cứu cánh tối thượng là giải thoát. Chánh định là cái mầm của chánh kiến vì nếu không có định thì sẽ không có tuệ. Nhưng khi trí tuệ phát sinh thì định sẽ vững chắc hơn. Trong khi đó chánh định là hoa trái của chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn bởi vì nếu không có Giới, có đời sống trong sạch đạo đức nhân bản thì không bao giờ có định. Nhưng một khi tâm đã an định, hành giả sẽ dễ dàng buông xả và sống đời đạo đức hơn. Nói cách khác, tám nhánh luôn luân chuyển từ nhân thành quả rồi từ quả thành ra nhân, nhân này quả nọ,bổ túc cho nhau khiến cho hành giả có được năng lực sâu mạnh để phát sinh trí tuệ, và trực nhận chân lý. Thực hành Chánh định giúp hành giả nhận chân bản chất vô thường, khổ và vô ngã của tất cả nhân sinh vũ trụ trong thế gian này. Đây là cái biết trực nhận từ bản tâm chớ không còn qua sách vở nữa. Từ đó, hành giả sẽ nhận thức rất rõ ràng rằng niềm vui, nỗi khổ không phải là Tôi mà chỉ là sự vận hành của ngũ uẩn. Khi vui thì chỉ biết là vui chớ không phải là Tôi vui. Nỗi đau đớn có đến thì biết hiện giờ thân đang đau chớ không phải là Tôi đau. Sự biến hoại vô thường cũng không phải là Tôi hay là tự ngã của Tôi.Đối với người đời, vô thường dẫn đến khổ. Nhưng một khi tâm đã an định, trí tuệ phát sinh thì hành giả sẽ thấy biết rõ ràng rằng thế gian là vô thường, vô ngã chớ không có chi là chân thật cả. Vì thế nếu còn chấp vào ngã nghĩa là chấp thân, tâm này là Ta, là của Ta và tất cả những vật sở hữu là của Ta thì người đó không bao giờ có được Chánh định.
Trong Kinh Định, Đức Phật đã giảng làm thế nào để như thật rõ biết Bốn Thánh đế (Tứ Diệu Đế) như sau:
- Này các Tỳ-kheo, hãy tu tập định. Này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo có định, như thật rõ biết (pajānāti). Và như thật rõ biết gì?
Như thật rõ biết: “Ðây là Khổ”. Như thật rõ biết: “Ðây là Khổ tập”. Như thật rõ biết: “Ðây là Khổ diệt”. Như thật rõ biết: “Ðây là Con Ðường đưa đến Khổ diệt”.Ðường đưa đến Khổ diệt”.
Như vậy, nếu không có Chánh Định, chúng ta sẽ không thể viên mãn được Bát chánh đạo cũng như không thể như thật rõ biết Khổ Đế, Khổ Tập Đế và càng không thể chứng ngộ Niết-bàn. Vai trò quyết định của Chánh Định đối với sự giải thoát lại được Đức Phật chỉ dạy một lần nữa trong Kinh Đại-Bát-Niết-bàn, trướckhi Ngài nhập Vô Dư Niết-bàn như sau:
Này các Tỳ-kheo, chính vì không giác ngộ, không chứng đạt bốn Pháp mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử. Thế nào là bốn? Này các Tỳ-kheo, chính vì không giác ngộ, không chứng đạt Thánh Giới mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử. Này các Tỳ-kheo,chính vì không giác ngộ, không chứng đạt Thánh Ðịnh mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử. Này các Tỳ-kheo, chính vì không giác ngộ, không chứng đạt Thánh Tuệ mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử. Này các Tỳ-kheo, chính vì không giác ngộ, không chứng đạt Thánh giải thoát mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử.
Khi mở toang sáu cánh cửa thì gió bên ngoài thổi vào làm giao động ngọn đèn trên bàn và một khi ngọn đèn bị giao động thì ánh đèn không tỏ, lu mờ. Con người thì cũng thế, nếu chúng ta để cho lục căn tha hồ tiếp xúc với lục trần thì vọng tưởng tự do tràn vào xâm chiếm và quậy phá thanh tâm của chúng ta. Khi tâm chứa đầy vọng tưởng thì Tham-Sân-Si dấy lên và đây là nguyên nhân làm con người đau khổ. Đèn tâm bị lu mờ có nghĩa là tâm bị giao động thì chúng ta không thể thấy rõ được bản chất chân thật của đối tượng. Vì thế muốn đánh tan vọng tưởng để tâm được ổn định, tức làan tâm, thì chánh định sẽ giúp chúng ta rèn  luyện tâm định để thấy rõ được bản chất thực của đối tượng mà đào thải nó. Vì thế chánh định còn được gọi là thiền Chỉ, có nghĩa là dừng. Ngày xưa Đức Phật nhờ thiền định mà được giác ngộ. Vì thế thiền định là cốt nhìn lại, tức là phản quang tự kỷ để tìm cho ra con người thật của chính mình một khi đã lắng hết tâm tư để thấy con người thật ấy. Con người vì lăn lộn trong sinh hoạt hằng ngày làm cho hao tổn tinh thần. Nếu bây giờ ngồi lại cho tinh thần sáng suốt thì mới nhìn thấy mọi hiện tượng một cách chính xác. Có thiền định mới mong trí tuệ được phát sinh để tiến đến giải thoát.
Thiền định gồm có 9 tầng thiền:
1)Bốn tầng thiền của sắc giới: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền.
2)Bồn tầng thiền của vô sắc giới: Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu xứ, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.
3)Diệt Thọ Tưởng (Định).
Xem chi tiết ở phần trên.
Tóm lại, trong Bát chánh đạo, Đức Phật trước tiên giới thiệu Chánh kiến để con người có cái thấy biết đúng về mình và nhân sinh vũ trụ. Có thấy biết đúng, con người không nghiêng theonhững ảo ảnh về ngã. Sau đó Đức Phật giới thiệu Chánh tư duy để chúng sinh tránh xa những tư duy liên quan đến tham, sân si, ái dục. Hai phần đầu là thực hành để tâm tránh xa tham ái, dục vọng. Sau đó về phần thực hành, Đức Phật giới thiệu Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng để chúng sinh trở về sống đời trong sạch, đạo đức nhân bản. Có sống đời trong sạch, tâm nhẹ nhàng thanh thoát thì hành giả mới cóđịnh và từ đó có giải thoát, trực nhận chân lý.Ngược lại, nếu sống theo tà hạnh thì chỉ cò tà định và dĩ nhiên không bao giờ có giải thoát cũng như Đề Bà Đạt Đa ngày xưa vậy.
Thiền tông Trung Hoa có câu chuyện như sau: Hương Nghiêm thông hiểu thiên kinh vạn quyển nhưng vẫn là người chưa ngộ đạo. Một hôm Quy Sơn đến và nói: "Anh thật là thông minh tài trí nhưng hãy nói cho tôi biết, anh từ đâu mà có?". Hương Nghiêm về lục tung hết tất cả sách vở để tìm câu trả lời. Đi đến cùng câu hỏi ấy là vũ trụ này từ đâu mà có. Không tự trả lời được ông tìm đến Quy Sơn và cầu khẩn: "Xin hé mở cho tôi cái bí mật của lời nói này". Quy Sơn bảo: "Nếu ta giải thích cho ngươi rõ ràng sau này ngươi sẽ oán ta". Thế là Hương Nghiêm vứt bỏ tất cả để về quê cuốc đất. Một ngày kia sau mười năm, lúc đang dãy cỏ, ông cuốc đụng một miểng sành và nhặt lấy quăng vào một bụi trúc. Miểng sành chạm phải một cây trúc khô và ngân lên một tiếng ngân đặc biệt. Hương Nghiêm bừng ngộ. Ông hiểu được ông từ đâu mà có, vũ trụ này từ đâu mà có. Ông quỳ xuống, lạy về phía Quy Sơn và bảo: "Sư phụ, lòng tốt của thầy thật bao la. Nếu ngày ấy thầy giải thích thì hôm nay làm sao con có được kinh nghiệm kỳ diệu này". Thật ra bừng ngộ hay ngộ đạo thì vẫn là phàm nhân mà Phật giáo chỉ chú trọng vào chứng ngộ tức là trở thành Thánh giả.
Giáo lý Phật Đà không bao giờ bí mật cả, rất rõ ràng, từng bước một để giúp hành giả thực hành từng giai đoạn tùy theo khả năng và năng lực của mình. Tuy nhiên, nếu muốn đạt đến cứu cánh tối thượng giải thoát giác ngộ thì không dễ, đòi hỏi hành giả thật tâm viễn ly tất cả những dục vọng từ thân và tâm. Từ đó ứng dụng Bát Chánh Đạo thì đạo quả viên thành dựa theotiến trình giải thoát Giới, Định, Tuệ. Giới khiến chúng sinh sống đời trong sạch, đạo hạnh trong khuôn khổ đạo đức nhân bản thì có Chánh ngữ, Chánh nghiệp và Chánh mạng. Sau khi thực hành Giới viên mãn, hành giả tiếp tục hành trìĐịnh gồm có Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh Định. Sau cùng phát triển Tuệ Minh Sát bằng cách thực hành rốt ráo Chánh kiến và Chánh tư duy. Thực hành viên mãn Bát chánh đạo đưa hành giả chứng ngộ toàn vẹn Bốn Thánh Đế và thoát khỏi sinh tử luân hồi.
Kết quả của việc thực hành Bát chánh đạo tỷ lệ thuận với việc hành trìnghĩa là nếu hành giả thực hành được 20% thì có hạnh phúc, an lạc 20%. Thực hành đến 50% thì có hạnh phúc, an lạc 50% cho đến khi hành giả thực hành rốt ráo 100% thì bây giờ hành giả có giải thoát giác ngộ trở thành Thánh giả.
Chính Bát chánh đạo là con đường giải thoát duy nhất ra khỏi vòng sinh tử cho nên Đức Phật lại dạy rằng:
“Con đường cao thượng nhất là Bát chánh đạo. Chân lý cao thượng nhất là Tứ Diệu Đế…Đó là con đường duy nhất, không còn con đường nào khác dẫn đến kiến tịnh. Hãy đi theo con đường ấy để sớm thoát khỏi mọi điên đảo của phiền não khổ đau”.
Vì tầm quan trọng của Bát Chánh Đạo cho nên Đức Phật đã nói cho Tu-Bạt-Đà-La, người đệ tử cuối cùng, trước khi Ngài nhập diệt:
"Này Subhadda, trong pháp luật nào không có Bát Thánh đạo, thời ở đây không có đệ nhất Sa-môn, ở đây cũng không có đệ nhị Sa-môn, cũng không có đệ tam Sa-môn, cũng không có đệ tứ Sa-môn. Này Subhadda trong pháp luật nào có Bát Thánh đạo, thời ở đây có đệ nhất Sa-môn, cũng có đệ nhị Sa-môn, cũng có đệ tam Sa-môn, ở đấy cũng có đệ tứ Sa-môn. Này Subhadda, chính trong pháp luật này có Bát Thánh Ðạo, thời này Subhadda, ở đây có đệ nhất Sa-môn, ở đây cũng có đệ nhị Sa-môn, cũng có đệ tam Sa-môn, cũng có đệ tứ Sa-môn. Những hệ thống ngoại đạo khác đều không có những Sa-môn. Này Subhadda, nếu những vị Tỳ-kheo này sống chơn chánh, thời đời này không vắng những vị A-la-hán." (Trường Bộ, Kinh Đại Bát Niết Bàn).
Thực hành Bát chánh đạo là con đường hiệu quả nhất tăng thêm phước đức hữu lậu cho tất cả mọi người. Nhưng nếu thực hành rốt ráo, Bát chánh đạo có thể đưa hành giả đến giải thoát, trở thành bậc Thánh giả. Vì tầm quan trọng của nó, Đức Phật đã khẳng định Bát chánh đạo là độc lộ nghĩa là con đường duy nhất chớ không có con đường thứ hai hay thứ ba nào trên thế gian này để giúp chúng sinh thoát khổ và đạt đến cứu cánh tối thượng là giải thoát Niết bàn.
Đức Phật đã lấy cuộc đời của mình làm trung tâm điểm để tu tập và dựa vào kinh nghiệm bản thân qua sự nhìn thấy, hiểu biết một cách tường tận. Ngài đã thấy biết tính năng của Bát chánh đạo vượt lên trên hai cách sống:Một bên là hưởng thụ các khoái lạc của thế gian rồi đắm mê vào đó và một bên là khổ hạnh,ép chế cơ thể làm cho nó mất đi tính năng động của các giác quan mà ngộ nhận cho rằng đó là con đường của giải thoát. Vì Tứ Diệu Đế là bốn sự thật, là chân lý chớ không phải là một nền triết học cho nên Bát chánh đạo là một công trình tu tập để tự mình nghiệm biết và nếu thực hành rốt ráo chắc chắn sẽ mang lại biết bao lợi ích thiết thực cho con người và xã hội hiện đại. Trong Trung Bộ Kinh, Đức Phật đã giải thích rằng: "Giáo Pháp mà Như Lai đã chứng ngộ quả thật thâm diệu, khó nhận thức, khó lãnh hội, vắng lặng, cao siêu, không nằm trong phạm vi luận lý, tế nhị, chỉ có bậc thiện trí mới thấu hiểu.". Do đó, chân lý thì không thể diễn giải bằng ngôn ngữ hạn hẹp của con người, mà chỉ bằng sự thực nghiệm cho nên Đức Phật không truyền dạy tất cả những điều mà Ngài biết. Một ngày kia, trong cụm rừng nọ, Ðức Phật bốc lên một nắm lá và dạy: "Nầy các Tỳ Khưu, những điều mà Như Lai dạy các ông có thể sánh với nắm lá này, còn những điều mà Như Lai không dạy cũng như tất cả lá trong rừng." (Tương Ưng, tập 5)(Samyutta Nikaya). Đức Phật chỉ dạy những điều mà Ngài xét là cần thiết để chúng sinh có đủ phương tiện mà tự mình thể nghiệm chân lý thì lúc đó trí tuệ sẽ bừng sáng, thấu biết tất cả cũng như tất cả lá trong rừng. Vì thế giáo pháp của Như Lai chỉ là phương tiện, là ngón tay chỉ mặt trăng. Nhưng phương tiện không phải là cứu cánh. Phương tiện là nhân mà cứu cánh mới là quả. Phương tiện là giả mà cứu cánh là thật. Cái vô minh lớn nhất của con người là chấp phương tiện với cứu cánh. Vì thế người tu Phật chỉ nương theo phương tiện để đạt cứu cánh, nương theo ngón tay để thấy mặt trăng. Nhưng đừng lầm phương tiện là cứu cánh, đừng nhìn ngón tay mà quên đi mặt trăng và đừng chấp kinh điển là Chân lý. Đừng nhìn vào ngón tay chỉ mặt trăng mà quên đi luồng ánh sáng tuyệt vời phát xuất từ mặt trăng. Do đó khi đạt được cứu cánh thì phải bỏ phương tiện, hết bệnh thì bỏ thuốc, tới bờ thì phải bỏ chiếc bè để lên bờ giác ngộ chớ đừng vác bè lên vai mà thêm nặng nhọc khổ đau.
Một người thực hành Bát chánh đạo thì người đó có biết bao lợi lạc. Cả gia đình thực hành Bát chánh đạo thì toàn gia đình sống trong đạo đức nhân bản, trên thuận dưới hòa, hạnh phúc ấm êm. Xã hội thực hành Bát chánh đạo thì xã hội đó bình yên, không còn tội ác, người người tương thân tương kính, thanh bình và hạnh phúc. Ngày nay, Nhật Bản và Singapore là những quốc gia có tinh thần đạo đức rất cao. Người dân biết tự trọng, tôn tri trật tự, không dối trá, không trộm cắp, không gây tội ác. Họ thừa hưởng và tiếp tục thực hành một nền giáo dục rất thực tế từ lúc còn bé cho nên mọi người lớn lên trong khuôn khổ đạo đức và trách nhiệm.
Thế giới hiện nay đang trên đà phát triển về mọi phương diện. Nhiều học thuyết, đạo học, lý thuyết triết học đông tây có lẽ không còn mấy thích hợp vào trong xã hội của thời đại văn minh hiện đại. Tuy nhiên, Bát chánh đạo dù trải qua trên 2500 năm vẫn đứng vững và tiếp tục đóng vai trò chính yếu vào trong cuộc sống của con người trên khắp hoàn cầu. Trong Trung Bộ kinh (Majjhima Nikaya) Đức Phật dạy rằng: "Như Lai chỉ dạy một điều: đau khổ và sự chấm dứt mọi đau khổ" cho nên hễ con người còn khổ, Bát chánh đạo vẫn còn là kim chỉ nam hướng dẫn mọi người sống đúng, sống phù hợp với chân lý để trau dồi thân, khẩu ý của mình, biến cuộc sống từ khổ đau trở thành hạnh phúc và an lạc. Thực hành Bát chánh đạo không những đem lại biết bao lợi lạc cho mỗi cá nhân mà nó có thể mang đến sự hòa hợp, tương kính, trật tự, an ổn và thanh bình cho quốc gia xã hội. Học Bát chánh đạo không thể dừng lại ở mức độ khảo sát hay tìm hiểu bởi vì Bát chánh đạo không phải là một nền triết học mà là phương pháp tu tập. Chúng cần được thể nghiệm trong cuộc sống để đào tạo đạo đức nhân bản cho mỗi người và biến cuộc sống thế gian này thành hạnh phúc, an vui và tự tại. Nhưng cứu cánh tối thượng của Bát chánh đạo vẫn là đưa con người đến giải thoát, có thanh tịnh tự tại Niết bàn và vĩnh viễn sẽ không còn tái sinh nữa.
Sống không giận không hờn không oán trách
Sống mỉm cười với thử thách chông gai
Sống vươn lên cho kịp ánh ban mai
Sống chan hòa với những người chung sống
Sống là động mà không xao động
Sống là thương mà chẳng vấn vương
Sống hiên ngang danh lợi ta coi thường
Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến.
 
CHÂN LÝ VÔ NGÓAnttlakkana Sutta”
Sau đó, Đức Phật thuyết pháp cho họ bài pháp thứ hai với tựa đề “Anttlakkana Sutta”. Đây là nói về chân lý vôngã (không có cái Ta). Trong đó, Đức Phật khẳng định rằng: “Tất cả mọi hiện tượng trong thế gian này đều không ngừng tác tạo. Vì là do nhân duyên, nhân này quả nọ, mà thành chớ không có một vật thể nào tự chúng có được nên tất cả mọi hiện tượng đó không có thực thể, không có tự tánh tức là Vô Ngã”. Con người chúng ta cũng thế, không có cái gì gọi là Cái Tôi hay Cái Của Tôi tức là Vô Ngã. Đức Phật gọi Cái Tôi chỉ là một ảo giác do tâm thức biến hiện. Sự sai lầm là con người luôn đồng hóa ngũ uẩn (thân, tâm) là Tôi cho nên họ luôn bám chặt vào nó như là một cá thể vững bền. Nói một cách tổng quát,  thân thể con người gồm có hai phần là thân xác và tâm linh. Phần thân xác có hình dáng nên gọi là sắc uẩn và phần tâm linh gồm có thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn. Tuy nhiên, trong kinh Nikayà, ngũ uẩn thường được gọi là “ngũ thủ uẩn” nghĩa là năm đối tượng của sự chấp thủ, của tâm tham ái. Vì thế ngũ uẩn là nguyên nhân của biết bao nỗi khổ niềm đau mà con người gánh chịu trải qua bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp. Ngược lại đối với người giác ngộ thì ngũ uẩn lại là phương tiện giúp họ giải thoát. Vì vậy, Phật và ta không hai, không khác, không thể tìm Phật ngoài tấm thân ngũ uẩn này được. Sự bám vúi vào “Cái Tôi” chính là nguyên nhân đem lại biết bao nỗi khổ đau trong kiếp sống này và mãi mãi về sau.Bởi vì: “Chư Pháp tùng bổn lai, Thường tự tịch diệt tướng” nghĩa là tất cả các pháp từ xưa đến nay, tánh chúng thường vắng lặng, không hạnh phúc và cũng chẳng có khổ đau. Vì thế khi nói khổ đau hay hạnh phúc là có sự hiện diện của bản ngã trong đó nghĩa là tôi khổ hay tôi hạnh phúc rồi. Thí dụ cành hoa tự nó không đẹp, không xấu, không thơm, không thúi cho nên người biết đạo thì nhìn cành hoa là cành hoa thì tâm an lạc. Ngược lại, nếu cho cành hoa là đẹp thì trong tâm đã có sự so sánh, phân biệt.  Tại vì mình cho nó đẹp, mình nghĩ nó đẹp…tức là có tự ngã.Thế thì đau khổ là không được như ý mình muốn còn hạnh phúc là thỏa mãn được ý muốn của mình. Nói cách khác thỏa mãn được Cái Tôi thì gọi là hạnh phúc, ngược lại không thỏa mãn được Cái Tôi thì gọi là đau khổ chớ trên thếgian này không có cái gì là khổ đau hay hạnh phúc cả. Do đó khi không còn sống với bản ngã thì người đó trở về sống với thực tánh pháp thì gọi là giải thoát thế thôi. Vì tầm quan trọng của ngũ uẩn, chính ngài Xá Lợi Phất dạy rằng: ”Người đã đắc Quả Nhập Lưu phải gia công chuyên cần quán niệm cũng ngũ uẩn ấy một cách đầy đủ, và tự mình chứng nghiệm rằng năm uẩn là vô thường, khổ, vô ngã. Kết quả là thế nào? -- Vị ấy sẽ tiến đạt thêm lên một tầng, thành tựu Đạo và Quả Nhất Lai (Tư Đà Hàm). Rồi vị Thánh Nhất Lai hành thiền về đề mục gì? -- Cũng lại ngũthủuẩn ấy nữa. Và do công phu hành thiền nầy vị ấy đắc Quả Bất Lai (A Na Hàm). Rồi vị A Na Hàm hành thiền về đề mục gì? -- Cũng ngũ thủ uẩn. Đến đây vị ấy đắc Quả A La Hán. Và vị A La Hán hành thiền về đề mục gì? -- Cũng ngũ thủ uẩn. Điều nầy cho thấy rằng năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức luôn luôn là đề mục quán niệm. Cho đến khi đã đắc Quả A La Hán rồi cũng vẫn quán niệm ngũ thủ uẩn”.
Đến đây, năm vị tu sĩ ở vườn Lộc Uyển được giác ngộ và không bao lâu đều trở thành A la Hán và họ là năm vị đệ tử đầu tiên của Đức Phật. Sự kiện lịch sử này diễn ra vào một ngày trăng rằm vừa đúng hai tháng sau ngày Đức Phật thành đạo.
Gần Benares, có người con trai của nhà triệu phú tên là Da Xá (Yasa). Mặc dầu sống trong nhung lụa nhưng ông ta lại chán cảnh sống thế gian tầm thường vô vị. Ông tìm đến Đức Phật và được Ngài thuyết giảng về hạnh Bố thí, về nếp sống đạo đức, về nguy hại của dục lạc thế gian và sau cùng là về hạnh phúc của nếp sống Thánh thiện, lòng từ bi hỷ xả và không tham cầu ái dục. Kế đến, Đức Phật thuyết giảng cho ông về chân lý Tứ Diệu Đế để tận diệt mọi nỗi khổ đau ngõ hầu đạt đến Niết bàn. Đức Phật đã thuyết pháp liên tiếp trong 3 tháng cho tất cả mọi người trong gia đình của Da Xá. Toàn bộ gia đình 55 người đều qui y theo Phật.
Bấy giờ, Đức Phật có sáu mươi đệ tử đều là A La Hán, Đức Phật dạy rằng:“Hỡi các Tỳ kheo, Ta đã được giải thoát khỏi mọi ràng buộc của thế gian và xuất thế gian. Các người cũng vậy, cũng đã được giải thoát khỏi mọi ràng buộc thế gian và xuất thế gian”.
 
Khi thành lập Tăng đoàn, Đức Phật gọi tất cả người xuất gia là “Tỳ khưu” (Bhikkhu) tức là khất sĩ. Khất sĩ không nhất thiết chỉ là người khất thực mà phải là người thấy được sự nguy hiểm của tham ái trong luân hồi. Khất sĩ là người thật sự buông bỏ vì thế từ Đức Phật đến 1,250 vị A la hán khác đều là khất sĩ và họ chỉ có duy nhất tam y nhất bát. Cuộc sống của người giác ngộ rất đơn giản, thanh thản và được thể hiện bằng:
Nhất bát thiên gia phạn
Cô thân vạn lý du
Kỳ vi sanh tử sự
Giáo hóa độ xuân thu
Nghĩa là:
Một bát cơm ngàn nhà
Thân chơi muôn dặm xa
Mắt xanh xem trần thế
Mây trắng hỏi đường qua.
Đức Phật lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, với 60 người học trò vừa chứng được Thánh quả A la hán, đã tổ chức thành một tăng đoàn những tu sĩ khuất thực. Họ không nhà ở cố định, không có của cải vật chất nào khác ngoài tấm áo vàng che thân và bình bát để xin ăn. Họ thuyết giảng về đạo lý cứu khổ và cuộc sống thánh hạnh bằng cách tự mình nêu gương sáng về cuộc sống đó. Họ chỉ có hai điều là lòng Từ Bi và Trí Tuệ. Nhưng với hai thứ vũ khí nầy, họ đã chinh phục biết bao con tim và khối óc trên đường hành đạo.
Sau khi chia tay với những đệ tử đầu tiên nầy, Đức Phật đi về phía Nam gần vùng Uruvela. Nơi đây có ba vị tu khổ hạnh là ba anh em ông Ma-ha Ca-Diếp (Uruvela Kassapa), Nadi Kassapa và Gaya Kassapa. Ông Ca-Diếp thờ thần lửa và tự cho mình đã chứng quả A la hán. Ba anh em ông ta đều là những đạo sĩ có danh vọng lớn ở xứ Ma-kiệt-đà (Magadha) nầy. Đức Phật đến gặp ông lần đầu tiên và xin được phép ngủ qua đêm. Ông nầy có thờ một con rắn thiên rất độc. Ông Ca-Diếp tưởng rằng Đức Phật thế nào cũng bị con rắn thiên nầy cắn chết, nào ngờ chính con rắn lại bị Đức Phật hàng phục bằng sức thần thông của Ngài. Cả ba anh em ông Ca Diếp hết sức ngạc nhiên và họ đem toàn thể 500 đệ tử xin qui y theo Phật.
 Gần thành Vương Xá (Rajagaha), tại Upatisa có một thanh niên rất thông minh tên là Xá Lợi Phất (Sariputta). Gia đình ông thuộc loại giàu có và danh tiếng nhất làng. Tuy sống trong giàu sang quyền quý, nhưng ông cảm thấy cuộc sống trống rỗng và vô vị. Ông có người bạn thân là Mục Kiền Liên (Moggalana) ở vùng Kokita thường xuyên đi khắp nơi để tìm thầy học đạo. Nghe danh Đức Phật đang thuyết pháp tại tu viện Veluvana, hai vị liền tìm vào yết kiến. Đức Phật thâu nhận hai ông vào tăng đoàn với câu nói đơn giản:”EthaBhikkhave!” nghĩa là “Hãy đến đây! Các Tỳ Kheo”. Mười lăm ngày sau đó, Xá Lợi Phất chứng quả A la hán và MụcKiền Liên thì chứng sau một tuần. Đức Phật triệu tập Tăng chúng lại và tuyên bố hai ngài là hai vị thượng thủ của Tăng đoàn.
Sau đó Đức Phật về lại thành Ca-tỳ-la-vệ để thăm lại phụ vương và gia đình. Mặc dầu Ngài chỉ ở lại có bảy ngày, nhưng Ngài đã cảm hóa tất cả những người trong dòng họ Thích, và ai ai cũng muốn xin xuất gia theo Phật, như các ông: Nan Đà, A Nan Da, A nâu Lâu Đà, La hầu La (con của Phật). Khi về thăm quê hương và gia đình xong, Đức Phật cùng chư đệ tử lại tiếp tục đi truyền đạo.
Mặc dù Đức Phật đã cảm hóa cả gia đình để họ noi gương Ngài mà xuất gia, tu học, để rồi được giải thoát cũng như Ngài, nhưng lúc bây giờ trong tăng đoàn của Ngài chưa hề có ni cô, bởi vì Ngài nghĩ rằng thu nhập ni cô có thể tạo ra sự hiểu lầm cho chúng sanh vì con gái họ hơặc vợ họ một khi đã quy y theo Ngài thì gia đình họ có thể tạo nên sự bất ổn và dĩ nhiên họ sẽ gây rắc rối cho tăng đoàn, cho dù Ngài lúc nào cũng quan niệm và chủ trương nam nữ bình đẳng. Hiểu rõ tâm trạng đó, bà kế mẫu Ma-Ha-Ba-Xa-Ba kết hợp một nhóm mệnh phụ phu nhân khoảng 50 người trong đó có cả Công chúa Da Du Đà La. Bà yêu cầu mọi người cạo đầu, từ bỏ những áo quần cao sang lòe loẹt, vứt bỏ hết những nữ trang và thay vào đó bằng những chiếc áo cà sa. Họ đi bộ từ kinh thành Ca-tỳ-la-vệ đến chỗ Đức Phật đang truyền đạo (Versali), đoạn đường dài trên trăm dặm với thiện tâm được Phật thâu nhập vào Tăng đoàn. Đoàn người đi tới đâu thì khất thực tới đó và cuộc hành trình đầy thử thách nầy của họ phải mất 15 ngày mới đến được Versali. Khi họ đến nơi, chính Tôn giả A Nan không khỏi bàng hoàng xúc động khi thấy hai bàn chân của họ đều sưng lên và chảy máu trông rất thảm thiết. Đức Phật đưa ra 8 điều kiện (Bát kỉnh pháp) trước khi cho phép họ gia nhập Tăng đoàn và tất cả đều chấp nhận 8 điều kiện của Đức Thế Tôn. Làm sao Đức Phật có thể chối từ lời thỉnh cầu của họ cho được bởi vì họ đã chứng minh cho Ngài thấy là họ, cũng như Ngài khi xưa, có thể lìa xa cung vàng điện ngọc, giàu sang phú quý, để chấp nhận một cuộc sống đơn giản, thanh nhàn, có cơ hội học hỏi từ Đức Thế Tôn và tìm đường giải thoát cho bản thân họ. Đây là những ni cô đầu tiên trong tăng đoàn của Đức Phật.
Có thể nói Đức Phật là vị giáo chủ đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã cho thành lập một Ni đoàn với đầy đủ giới luật và uy nghi.
Riêng Công chúa Da Du Đà La (đồng tuổi với Đức Phật) xuất gia không bao lâu thì chứng được quả A la hán và bà ta là người giỏi phép thần thông nhất trong giới Tỳ kheo ni. Công chúa nhập diệt năm 78 tuổi.
Còn La Hầu La (con trai Phật) thì được giao cho ngài Xá Lợi Phất trực tiếp dạy dỗ. Chính Đức Phật đích thân giảng cho La Hầu La kinh Ambalatthika Rahulovada Sutta, trong đó Ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của tánh trung trực, của sự phản tỉnh để diệt trừ mọi ý niệm, lời nói và hành vi bất thiện, bất chánh. Sau khi nghe kinh Cula Rahulavada, ngài La Hầu La chứng được quả A-La-Hán. Ngài qua đời trước Đức Phật.
Tôn giả A Nan là anh em cô cậu với Đức Phật. Ông là con của Amitodana, em vua Tịnh Phạn. Vì ngày ông sinh ra đem lại niềm hoan hỷ nên được đặt tên là Khánh Hỷ (A Nan). A Nan xuất gia theo Phật lúc còn trẻ cùng với bảy vị vương tử khác và ông là người luôn luôn ở bên cạnh Đức Phật (thị giả) trong suốt 25 năm trời cho đến khi Đức Phật nhập diệt. Đức Phật tán thán ông là người học rộng uyên bác, có trí nhớ tốt, tính kiên định, săn sóc chu đáo và ứng xử tốt. Tôn giả là người duy nhất có thể nhớ tất cả những bài kinh mà trước đây Đức Phật đã thuyết giảngcho nên trong những lần kếp tập kinh điển đầu tiên, Tôn giả A Nan là người tụng thuật lại Kinh tạng trong khi đó, Tôn giả Ưu bà ly tụng thuật lại Luật tạng.Mãi một thời gian lâu sau khi Đức Phật nhập diệt thì ông mới chứng được quả A la hán.Ngài nhập diệt vào năm 120 tuổi.
Một thời gian sau, khi nghe tin vua Tịnh Phạn bị đau nặng sắp băng hà, Đức Phật về thăm cha lần cuối. Thấy phụ vương buồn rầu trên giường bệnh, Ngài giảng giải về lẽ vô thường, nguồn căn của nổi khổ và luật vô ngã cho vua cha nghe. Hãy lắng nghe Đức Phật thuyết cho vua Tịnh Phạn mấy lời trước khi vua cha nhắm mắt:"Thưa cha, cha hãy nhìn con, nhìn cây cối xinh tươi của cây cỏ..nhìn những chiếc lá màu xanh kia. Cha hãy nhìn chúng và suy nghĩ lại rằng bước chân của sự sống có bao giờ dừng lại. Nó vĩnh viễn không dừng lại. Cũng như vậy, cha đang sống trong tim của con, sống trong tim của La Hầu La, và mãi mãi trong hàng thân tộc của cha. La Hầu La chính là một bộ phận thân thể của cha...". Nghe xong vua Tịnh Phạn nói rằng nỗi sợ hãi về cái chết trong tâm tiêu tan hết, gương mặt bổng vui tươi rồi băng hà một cách êm ái. Đức Phật và Tăng chúng là những bậc giải thoát mà các Ngài không độ cho vua cha được giải thoát, không rưới nước cam lồ, không tụng kinh, gỏ mỏ mà chỉ thuyết cho vua cha nghe những định luật của thiên nhiên vũ trụ nghĩa là sự chấm dứt của cuộc sống này sẽ bắt đầu cho một cuộc sống mới khác và cứ thế tiếp diễn như trăng khuyết đến trăng tròn, hết Xuân lại đến Đông..Do đó trong Phật giáo, ai tu người ấy chứng, ai ăn người ấy no cho nên không có vấn đề độ trì hay cứu rỗi trong đạo Phật.
 
6. AN CƯ KIẾT HẠ VÀ NHỮNG TỊNH XÁ
Ở Ấn Độ thì mùa mưa thường xảy ra giữa tháng 7 và tháng 11. Trong khoảng thời gian nầy Đức Phật không đi thuyết pháp từ nơi nầy đền nơi khác mà Ngài cùng chư Tăng tề tựu trong các tu viện để thuyết pháp và tham thiền. Thời gian nầy được gọi là mùa an cư kiết hạ. Đây chính là thời gian mà chư Tăng có cơ hội học hỏi từ Đức Chí Tôn trong suốt 49 năm hành đạo của Ngài. Bao nhiêu bộ kinh hay nhất đã được giảng dạy trong lúc nầy. Khi mùa mưa dứt thì chính Đức Phật cùng tất cả chư Tăng lên đường đi khắp mọi nơi trong nước Ấn độ và Tây Tạng để hoằng dương đạo pháp và họ chỉ trở lại đây vào mùa mưa năm tới mà thôi.
           1)Tịnh xá Kỳ Viên (Jatavana):
Trưởng giả Cấp Cô Độc (Anàthapindika) tên thật là Tu Đạt Đa là đại thần của vua Ba-Tư-Nặc và là vị thí chủ lớn nhất ủng hộ Đức Phật và Tăng chúng. Ông là một người trí tuệ sáng suốt, học hành cao siêu, nhà cửa giàu sang, lòng dạ nhơn đức, thường hay cứu giúp kẻ nghèo hèn cơ khổ, kẻ mồ côi mồ cút nên ai cũng kính mến và ngợi khen mà đặt cho ông danh hiệu là “Cấp Cô Độc”.
Truyện kể rằng, vì quá quý mến Đức Phật, ông bèn bạch Phật rằng:”Xin Đức Thế Tôn mở lòng từ bi, dời gót sen đến nước Xá Vệ là chỗ xứ sở của con đặng nhờ Ngài truyền pháp chơn chánh để mà dìu dắt chúng sanh ra khỏi đường mê lối vọng. Xin Ngài chuẩn lời thỉnh thì con trở về lập nhà tịnh xá liền”.
Phật nhận lời và sai ông Xá Lợi Phất đi trước với ông Tu Đạt Đa đến nước Xá Vệ mà lựa một chỗ đất cao ráo để cất nhà Tịnh xá. Hai ông đi tìm khắp nơi mà chưa được chỗ nào xứng đáng. Sau cùng họ gặp được một miếng đất rộng rãi, cao ráo và mát mẻ, có cây cổ thọ, có suối cam tuyền, cảnh trí thanh tịch, phong quang đẹp đẻ, đáng là một chỗ danh thắng dà lam. Ông Tu Đạt Đa hỏi thăm mới biết miếng đất ấy là vườn của Thái tử Kỳ Đà (Jeta), nên ông đến để bày tỏ lòng sở nguyện của mình. Thái tử Kỳ Đà trả lời rằng:”Như khanh muốn mua vườn của ta thì về chở vàng đến lót khắp cả trên mặt đất, rồi ta sẽ bán cho”. Ông Tu Đạt Đa nghe nói như vậy thì hết sức vui mừng, tức thì trở về sai người chở vàng đến mà trải lót trong nữa ngày thì đầy, chỉ còn mấy chỗ có cây choán, thì không thể trải được mà thôi. Thấy ông đang tư lự suy nghĩ  thì Thái tử Kỳ Đà bèn hỏi:”Nếu khanh thấy giá quá cao thì thôi, chớ ta không ép. Vì muốn chìu lòng khanh, ta mới hứa bán, chớ ta là con vua thì đâu có cần tiền mà phải bán vườn”.
Ông bèn tâu:”Tâu Điện Hạ! Chẳng phải tôi có lòng nghĩ sự mắc rẽ, mà tôi đang suy tính không biết sai người về lấy vàng trong cái kho nào nữa mà chở đến trải cho đầy những chỗ đất chưa lót vàng đó, chớ không phải tôi tiếc của đâu!  Cúi xin Điện Hạ hoan hỉ”.
Thái tử nghe nói thì tự nghĩ :”Thật rất ít người trọng đạo mà khinh tài như ông nầy; vì phần nhiều trong nhân gian ai ai cũng muốn tiền bạc sung túc để tiêu xài cho sung sướng, chớ ai lại đem của ra mà mong cầu lấy phước quả về sau như ông nầy”. Thái tử bèn nói với ông Tu Đạt Đa:”Khanh đã có lòng tác phước, ta há không dạ làm lành! Thôi! Bây giờ nếu chỗ đất nào đã trải vàng rồi thì thuộc về phần của khanh, còn mấy chỗ có trồng cây mà không thể trải vàng được tức là của ta, thì ta cũng nguyện dâng cúng luôn cho Phật”. Từ đó công viên có tên là :”Cấp cô độc viên Kỳ đà thụ” hayTịnh xá Kỳ Viên. Đức Phật đã giảng nhiều kinh và lưu lại 19 mùa mưa tại Tịnh xá nầy.
Khi thuyết pháp cho ông Trưởng giả Cấp Cô Độc về hạnh Bố thí của người Phật tử tại gia thì Đức Phật dạy rằng:”Sự cúng dường cho Phật cùng chư Tăng là công đức rất lớn. Nhưng công đức lớn hơn là phải quy y và thọ trì giới. Nhưng công đức lớn nhất là người Phật tử tại gia cần phải phát triển trí tuệ để thấy được chân tướng của sự vật và hiểu được tánh vô thường,vô ngã của sự vật để được giải thoát, tự tại”.
Khi ông Cấp Cô Độc lâm bịnh nặng, ông mời Tôn giả Xá lợi Phất đến giảng kinh tại nhà và ông qua đời rất nhẹ nhàng, êm ái.
2)Tịnhxá  Rajakarama: Cũng tại kinh thành Savathi của xứ Kosala nầy, ngoài Trưởng giả Cấp Cô Độc thì vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) cũng là một thí chủ lớn của Đức Phật cùng chư Tăng. Để tỏ lòng kính mến Đức Phật, nhà vua cho xây tu viện Rajakarama để cúng dường cho Phật trong mùa an cư kiết hạ. Trong cuộc chiến tranh giữa hai nước Kosala và Ma Kiệt Đà mà nhà vua của nước Ma Kiệt Đà là A Xà Thế cũng chính là cháu của nhà vua Ba Tư Nặc. Khi nghe tin vua Ba Tư Nặc thua trận, Đức Phật dạy rằng:
                “Thắng trận sinh thù oán
                   Bại trận nếm khổ đau
                   Ai bỏ thắng bỏ bại
                   Tịch tịnh hưởng an lạc”.
3)Tịnh xá Pubbarama: Trongkinh thành Savathi, còn có nữ thí chủ tên là Visakha. Bà xuất thân trong gia đình triệu phú và lấy chồng cũng là triệu phú. Khi bà lên 7 tuổi thì bà may mắn gặp được Đức Phật tại nơi sinh quán của bà, từ đó bà rất kính phục Đức Phật. Biết Đức Phật thường thuyết giảng tại kinh thành Savathi, bà nguyện xây Tịnh xá Pubbarama để cúng dường cho Phật. Chính Đức Phật cùng chư Tăng đãtrải qua 6 mùa kiết hạ tại Tịnh xá nầy.
Bà Visakha là nữ thí chủ lớn nhất của Đức Phật và Tăng chúng cũng như ông Trưởng giả Cấp Cô Độc là nam thí chủ lớn nhất.
4)Tịnh xá Trúc Lâm: Vua Tân Bà Xa La (Bimbisara) của nước Ma kiệt Đà, có kinh đô là thành Vương Xá, từng gặp Đức Phật khi Ngài mới xuất gia và yêu cầu Đức Phật trở lại thăm vua sau khi Phật thành đạo. Khi Đức Phật đến, nhà vua cho xây cất Tịnh xá Trúc Lâm để cúng dường cho Đức Phật. Đức Phật đã trải qua 6 mùa an cư kiết hạ tại nơi đây.
Bà vợ thứ của vua là Khema sau nầy cũng xuất gia cùng bà kế mẫu của Phật để lãnh đạo Ni chúng. Còn con vua Tân Bà Xa La là A Xà Thế (Ajatasattu) sau nầy cướp ngôi và giết vua cha. Đó là do nghiệp quá khứ của nhà vua quá nặng nề, nhưng nhờ công đức mà ông đã tạo dựng nhà vua vẫn được sanh lên cõi trời Lummaharajika với cái tên là thiên chủ Janavasabba.
Cũng nên nói thêm là vua A Xà Thế sau khi cùng Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) âm mưu giết Phật không thành, biết ăn năn hối lỗi, xin Phật cho quy y và trở thành Phật tử tại gia hàng đầu của Đức Phật. Nhưng bởi do nghiệp quá khứ nặng nề, cho nên đến lượt ông, ông cũng bị con ông giết và cướp ngôi.
5)Tịnh xá vườn xoài: Kỹnữ nổi danh tài sắc Ambapali của thành phố Versali là người mà một thời là ái thiếp của vua Tân Bà Xa la của xứ Ma Kiệt Đà. Ambapali sinh cho vua Tân Bà Xa la một người con. Người con nầy được sinh ra từ những đam mê trụy lạc của một quân vương và một kỹ nữ. Nhưng, đó sẽ là một đóa sen từ bùn lầy tanh hôi mà vươn lên với hương sắc thuần tịnh. Họ đặt tên cho đứa bé là Vimala, có nghĩa là không ô nhiễm, hay sẽ dứt sạch ô nhiễm. Quả nhiên, về sau Vimala xuất gia theo Phật rồi chứng đắc quả A La Hán. Trên đường đến Câu Thi Na trước khi Đức Phật nhập diệt thì Ngài có dừng lại Vesali và nghĩ tại vườn xoài của Ambapali. Được tin, Ambapali đến chào Đức Phật và trân trọng mời Đức Phật cùng chư Tăng ở lại dùng tiệc trai. Sau đó bà kính tặng Đức Phật và chúng Tăng vườn xoài to lớn của bà để làm Tịnh xá. Sau nầy, Ambapali cũng xuất gia và chứng quả A la Hán.
 
 
7. PHÁP NẠN
 Mặc dù Phật giáo dựa trên căn bản từ bi và trí tuệ, nhưng trong suốt cuộc đời  hành đạo, Đức Phật cũng gặp biết bao nhiêu điều cay đắng phát sinh từ lòng đố kỵ của ngoại đạo, tà giáo và lòng ganh ghét của con người.
A)Âm mưu hại Phật của Đề Bà Đạt Đa: 
 
Đề Bà Đạt Đa không ai xa lạ mà chính là anh emchú bác của Đức Phật. Ông là con của Bạch Phạn Vương (Amitodana) là em của vua Tịnh Phạn. Thưở nhỏ, ông cùng Thái tử Tất Đạt Đa học tập, vì tài năng không xuất sắc nên tuy thường tranh tài với Thái tử nhưng không thắng được nên ôm lòng căm hận. Sau khi thành đạo, Đức Phật về lại cung thành Ca Tỳ La Vệ thăm lại gia đình và cảm hóa và khuyến khích những người trong dòng họ Thích Ca xuất gia tu đạo. Khi nhân duyên đã đến, Đề Bà  cùng em ruột là A Nan và năm vị vương tử khác là A Na Luật, Kiếp Tân Na, Bà Sa, Bạt Đề, Nan Đề đồng lén bỏ nhà  xuất gia theo Phật.
Trong khoảng 12 năm đầu, ông siêng năng tu hành, nhưng không đạt được Thánh quả nên thối tâm sinh lòng muốn học thần thông để được lợi dưỡng và thích khoe những điều kỳ lạ để lòe người.Tuy là anh em ruột, nhưng tánh tình mỗi người mỗi khác. A Nan thì hiền hòa nhân hậu còn Đề Bà thì nham hiểm, tính toán và không an phận thủ thường. Chính Đức phật đã nhiều lần khuyên ông nên hoàn tục làm cư sĩ chớ không nên ở trong Tăng đoàn để gây thêm nghiệp chướng, nhưng ông không nghe. Vì ham thích sự kỳ bí nên ông ta yêu cầu Phật dạy về pháp môn thần thông, nhưng Phật bảo ông trước hết phải lo tu tập cho thân tâm thanh tịnh mà đừng tham cầu phép lạ. Lý do là thần thông và phép lạ không đủ tiêu biểu cho đức hạnh. Sau khi nghe Phật từ chối, ông rất tức giận bèn đến nài nỉ hai Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Các vị nầy thừa biết tánh hung ác của ông nên đều từ chối. Ngược lại các vị chỉ dạy cho ông tu quán đạo lý khổ, pháp vô thường và vô ngã mà thôi. Do đó, Đề Bà Đạt Đa ôm lòng phản nghịch. Ông nghĩ rằng nếu không tiêu diệt Đức Phật thì ông ta không thể tự do tung hoành và thề rằng Đức Phật là kẻ thù không đội trời chung.
Sau đó, Đề Bà dẫn 500 đồ chúng thoát ly tăng đoàn, tự xưng là Đại sư, lập ra 5 tà pháp, cho đó là con đường phạm hạnh dẫn đến Niết bàn:
1)Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni suốt đời đi khất thực chớ không được vào nhà thí chủ thọ trai. Đức Phật bát bỏ bởi vì ngày xưa có những vị trưởng giả hay vua chúa thường thỉnh Phật và chư tăng vào cung để cúng dường và nghe pháp.
2)Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni phải mặc y phấn tảotức là chỉ mặc y lượm được ở nghĩa địa đem giặt sạch để may y chớ không được nhận y cúng dường từ thí chủ. Đức Phật không chấp nhận mà cho phép Tăng Ni  được nhận tối đa là 3 y.
3)Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni không được ăn thịt, cá. Đức Phật cũng không chấp thuận bởi vì Tăng chúng đi khất thực ngày một bửa nếu thí chủ cúng dường vật thực gì thì cứ ăn, không có chọn lựa. Vào thời Đức Phật còn tại thế, chính Đức Phật và Tăng đoàn không có ăn chay cho nên Phật giáo Nguyên thủy gọi lối ăn chay của Phật giáo Đại thừa là đệ tử của Đề Bà. Vì thế trong 227 giới Tỳ kheo của Nguyên thủy hay ngay cả 250 giới của Đại thừa không hề có giới ăn chay. Đệ tử Phật sau giờ Ngọ không ăn, còn pháp của Đề Bà thì ăn giờ nào cũng được. Phật cho ăn thịt, cá nếu mình không thấy, không nghe, không biết, không bảo ai giết và không tự mình giết con vật đó cho mình ăn. Đó là tịnh nhục tức là được ăn thịt, cá đã chết. Từ khi hình ảnh Bồ Tát xuất hiện trong kinh điển Đại thừa thì họ chủ trương và áp dụng lối thực hành của Ấn Độ giáo mà ăn chay là một biểu tượng của lòng từ bi. Ấn Độ giáo lý luận rằng Bồ Tát sao lại nở ăn thịt chúng sinh cho nên ngày nay người tu theo Ấn Độ giáo chẳng những không ăn thịt cá mà họ còn không ăn uống những thức ăn gì làm bằng bơ, sửa nữa. Vegetarian tức là người không ăn thịt, cá. Còn vegan là người không ăn thịt, cá, bơ, sửa. Đối với 5 giới của người Phật tử tại gia là không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu chớ Đức Phật không dạy giới ăn chay. Ngay cả bát quan trai giới nghĩa là ngoài năm giới ở trên còn thêm 3 giới khác là không được nằm giường nệm êm ấm, không được trang điểm, phấn son hay nghe âm nhạc và sau cùng giới tà dâm đổi thành giới dâm dục. Tám giới này cũng không hề có giới ăn chay.
Trước hết dựa theo quan điểm của Phật giáo Nguyên thủy trong kinh luật Đức Phật có dạy cho Đại Đức Upali và bà Gotami tám điều như sau :
1/Giáo Pháp nào hành theo dứt được tình dục.
2/Thoát khỏi thống khổ
3/Xa Lìa phiền não
4/Trở nên thiểu dục
5/Thành người tri túc
6/Đức Thanh Tịnh
7/Có sự tinh-tấn
8/Thành người dị dưỡng(dễ nuôi có chi ăn nấy, ăn gì cũng được không cố chấp). Thế thì dựa theo tư tưởng ở câu này nếu người tu kén chọn vật thực cho dù chay, mặn cũng đều không đúng lời dạy của Phật.
Thêm nữa, trong Tứ Thanh Tịnh Giới có đoạn quán tưởng về vật thực như sau: “Vật thực này thật là một nguyên chất, tạo thành ra tùy theo món vật dụng, dầu cho ta là người dùng nó, nó cũng chỉ là một nguyên chất, không có sanh mạng, không phải là chúng sanh, có trạng thái không không”. Vì vậy người tu Phật không chấp vào thức ăn, không màn đến đồ ăn cho dù nó là chay hay mặn bởi vì ăn để sống cho nên phải xem thức ăn chỉ là một nguyên chất, không có sinh mạng, không phải là chúng sinh, có trạng thái không không.
Tóm lại, dựa theo như ghi chép trong kinh tạng Pali, Ðức Phật không cấm sử dụng thịt, kể cả cho các vị tăng ni nữa. Đức Phật đã dứt khoát bác bỏ lời đề nghị của Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) bắt buộc chư tăng ni phải "ăn chay trường".
Bây giờ dựa theo quan niệm của Phật giáo Đại thừa, trong Kinh Lăng Già,  Kinh Đại Bát Niết Bàn hay Kinh Phạm Võng có nói rõ là không nên ăn thịt. Kinh Lăng Già dạy rằng: "Bồ Tát nên nhận rõ rằng tất cả thịt đều từ thân bất tịnh, được kết hợp bởi máu mủ bất tịnh đỏ trắng hòa hợp của cha mẹ. Vậy nên, nhận rõ sự bất tịnh của thịt, Bồ Tát không nên ăn thịt”. Trong khi đó, Kinh Phạm Võng dạy thêm: “Đệ tử Phật không được cố ý ăn thịt. Họ không nên ăn thịt bất cứ chúng sinh nào. Người ăn thịt phá hủy cái nhân đại từ bi, đứt đoạn hạt giống Phật Tánh và khiến [thú vật] và chúng sinh [siêu nhiên] tránh xa họ. Những người đó phạm vô số tội”.
Kinh Lăng Già (Lankavatara Sutra) mặc dầu đã ghi lại những lời của Đức Phật dạy tại đảo Tích lan (Sri Lanka), nhưng các học giả ngày nay đều cho rằng kinh này được biên soạn rất trễ vào những năm 359-400 sau Tây lịch. Ngay cả thiền sư D.T Suzuki, một thiền sư nổi tiếng của Thiền tông Nhật bản(trong cuốn "The Lankavatara Sutra - A Mahayana Text", 1931) cũng đồng ý rằng bộ kinh này không phải là những lời do chính Ðức Phật nói ra, nhưng được biên soạn về sau bởi các tác giả vô danh, những luận sư nổi tiếng thời bấy giờ dựa theo triết lý của Đại thừa. Thêm nữa, Phật giáo Đại thừa Trung Hoa không dựa theo giới luật Nguyên thủy mà dựa vào kinh Phạm Võng, một kinh được xem như là tác phẩm riêng của người Trung Quốc (Mizuno).
Do vậy, nếu ăn chay được là tốt, nhưng đối với người tu Phật thì không thấy, không nghe, không biết, không bảo ai giết và không tự mình giết con vật đó cho mình ăn thì không phạm Giới do chính Đức Phật dạy. Thật ra, người tu Phật hiện nay nên ăn ít thịt thì tốt hơn, đặc biệt là những món thịt đỏ như thịt bò…và dĩ nhiên ăn nhiều rau cải thì rất tốt cho sức khỏe.
Có người lý luận rằng nếu thật sự ăn chay sẽ có giải thoát thì người Bà la môn vào thời Đức Phật đã giải thoát hết đâu cần đến đạo Phật, nhưng con đường giải thoát duy nhất vẫn là Bát Chánh Đạo vì thế từ Bà la môn cho đến tất cả mọi người trên thế gian này nếu không thực hành đứng đắn Bát chánh đạo thì không bao giờ trở thành Thánh nhân hay có giải thoát được.
4)Chư Tăng Ni chỉ được ở trong rừngchớ không được vào thành thị, xómlàng. Đức Phật cũng không chấp thuận vì đạo Phật là đạo tùy duyên, không cố chấp. Ai muốn vào rừng thanh vắng để tu cũng được mà người nào muốn vào phố thị để hóa duyên thì Phật cũng không cấm.
5)Chư Tăng Ni chỉ được ngủ ở dưới gốc cây. Đức Phật cũng không chịu bởi vì nếu chư tăng muốn ngủ dưới gốc cây cũng được hoặc ngủ ở trong tịnh  xá cũng được, tùy duyên chớ Phật không ép chế.
Đề Bà vọng lập 5 pháp như thế để mê hoặc đại chúng, lấy phi pháp làm chánh pháp, cho pháp là phi pháp, lấy phi pháp làm luật, cho luật là phi luật nên gọi là Tà pháp.
 
Tại thành Vương Xá, Đề Bà thành lập giáo đoàn riêng rẽ độc lập chống lại Đức Phật. Với sự đãi ngộ của vua A Xà Thế, con vua Tân Bà Xa La, thế lực của Đề Bà dần dần rộng lớn. Về sau, Đề Bà xúi giục Thái tử A Xà Thế giết cha để đoạt ngôi. Rồi ông dựa vào uy quyền của vua A Xà Thế mà mưu toan lãnh đạo Tăng đoàn.
 
Đề Bà muốn hãm hại Đức Phật nên sai 500 người xô đá và dùng khí giới để giết Phật, nhưng chỉ có một mảnh đá nhỏ văng ra làm trúng chân Phật chảy máu. Một lần nữa, thừa lúc Phật vào thành Vương Xá, Đề Bà cho thả voi điên để sát hại Phật, nhưng vừa gặp Phật voi liền quy phục nên việc cũng không thành.  Ác tâm của Đề Bà không dừng ở đây, ông ta còn đánh đập Tỳ kheo ni Liên Hoa Sắc đến chết. Sau đó, Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên khuyến dụ đồ chúng của Đề Bà trở lại với Tăng đoàn của Đức Phật. Ngay cả vua A Xà Thế cũng được Đức Phật giáo hóa bèn sám hối quy y và về sau nhà vua là một đại thí chú cho Phật giáo. Tâm cùng trí quẩn, Đề Bà nhét chất độc vào trong mười móng tay của mình, định thừa dịp lễ lạy để cào vào hai bàn chân mà hại Phật, nhưng chân Đức Phật lúc đó cứng như đá nên không bị chất độc hãm hại. Ngược lại, 10 ngón tay của Đề Bà bị xây xát khiến chất độc ngấm vào máu, chết tức thì.
B)Tướng cướp Angulimala:
 
Tại xứ Kosala, có một tướng cướp khét tiếng hung ác tên là Angulimala. Cha của ông vốn là một quan chức trong triều vua xứ Kosala. Thủa thiếu niên, ông học rất giỏi và rất được các bạn cùng lớp thương yêu. Trong lớp học của ông có vài người ghen tỵ ông nên họ vu cáo với thầy giáo. Vị thầy nầy bắt đầu thù ghét và muốn giết ông bằng cách bắt ông trả học phí bằng 1000 ngón tay phải của con người. Ông rất khổ tâm nhưng phải vâng lời thầy. Ông vào trong rừng Jalini ở Kosala và bắt đầu giết người để có đủ số ngón tay cần thiết. Ban đầu, ông treo các ngón tay người trên cây, nhưng vì các ngón tay bị quạ mổ ăn, cho nên ông xâu ngón tay người lại thành vòng để đeo nơi cổ. Khi ông đã thu thập được 999 ngón thì Đức Phật xuất hiện. Ông rất mừng vì sắp đủ số ngón tay cần thiết để nộp cho thầy giáo ác độc. Thấy Đức Phật, ông liền rút gươm và chạy đuổi theo Phật. Vì Phật dùng phép thần thông nên ông càng đuổi thì càng không bắt kịp được Phật, mặc dầu Phật vẫn đi khoan thai từ từ. Cuối cùng, mồ hôi dầm dề và mệt lã, ông dừng lại và gọi :”Này Tu sĩ, hãy dừng chân”. Đức Phật nói từ tốn:”Mặc dầu ta đang đi, nhưng ta đã dừng chân. Còn nhà ngươi đã dừng chân hay chưa?”. Ông không hiểu ý của Phật bởi vì Đức phật đang đi mà lại nói đã dừng chân. Còn ông thì đã dừng chân mà Phật bảo là hãy dừng chân. Thấy ông thắc mắc, Phật dạy:“Đúng là ta đã dừng mãi mãi bởi vì Ta không bao giờ ta dùng bạo lực đối với chúng sinh. Còn nhà ngươi, hãy dừng tay chớ giết hại đồng loại. Vì vậy mà Ta nói rằng, Ta đã dừng và bảo ngươi cũng hãy dừng tay”.
Nghiệp thiện ngày xưa tác động vào tư tưởng của ông khiến ông vứt gươm xuống đất, quỳ xuống và xin quy y theo Phật. Phật chỉ nói một câu đơn giản:”Ehi Bikkhu” (Hãy đến! Tỳ kheo).

Dựa trên hai thí dụ trên thì Đức Phật chính là một ông lương y đại tài vì Ngài tùy theo hoàn cảnh mà hóa độ chứ nhất thiết không theo một đường lối cố định nào. Ngài có đủ pháp môn cho họ khai ngộ và quy y theo Ngài cho dù là kẻ thân, người thù, người thông minh hay kẻ đần độn, kẻ giàu sang hay là người nghèo khổ.
 
8. PHÁT HUY TINH THẦN BÌNH ĐẲNG

Ngoài lòng từ bi vô bờ bến, tinh thần bình đẳng là một đức tính cao quý khác mà Đức Phật đã phát huy ngay từ khi còn thơ ấu. Đối với Ngài thì không có sự khác nhau giữa người nghèo với kẻ sang hoặc người thông minh với kẻ chậm tiến. Nhắc lại thời bấy giờ trong xã hội Ấn Độ, sự phân chia giai cấp được coi là rất thịnh hành. Bất cứ nơi nào cũng có mấy chục giai cấp khác nhau từ hạ tiện đến giàu sang. Người hạ tiện thì không được phép giao du với cấp cao hơn và ngược lại kẻ giàu sang thì càng không muốn gần gủi  kẻ khốn cùng.

Điển hình là khi Ngài xin nước của một người thuộc giai cấp hạ tiện nhất Ấn độ, người nầy sợ làm ô uế cho Ngài, Đức Phật dạy rằng:”Không có giai cấp, vì mọi người trong máu đều đỏ như nhau và trong nước mắt của ai cũng mặn cả”. Nhưng đặc biệt nhất là lời tuyên ngôn của Đức Phật rằng: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. Phật giáo là tôn giáo duy  nhất trên thế giới từ ngàn xưa cho tới ngày nay, cách cửa giải thoát lúc nào cũng mở rộng cho tất cả mọi người không phân biệt nam, nữ;da trắng, da đen, da vàng hay da đỏ, từ thiên tử đến chí dân,ai ai cũng đều có cơ hội thực hành và trở thành Phật giống y như Phật. Bằng chứng là vào thời Đức Phật còn tại thế đã có 1,250 vị A la hán chớ đâu phải chỉ riêng có Đức Phật. A la hán (vô sanh) là quả tối thượng của Phật giáo và chính Đức Phật cũng là vị A la hán bởi vì Đức Phật là người chứng thánh quả A la hán đầu tiên dưới cội Bồ đề và là vị thầy của tất cả các vị A la hán cho nên danh vị Phật chỉ dành riêng cho Ngài chớ tuyệt đối không có Hóa thành hay Bảo sở như Kinh Pháp Hoa đã nói.

Ngay cả trong giáo hội của Ngài, Ngài đã thu nhận cả những người thuộc giai cấp hạ tiện. Chẳng hạn như ông Ưu Bà Ly, một người thuộc giai cấp hạ tiện, làm nghề thợ cạo, nhưng sau đó trở thành một đệ tử rất nổi tiếng về phương diện giới luật của Phật giáo. Sự thâu nhận nầy đã làm cho một số vua chúa bất mãn. Điển hình là vua Ba Tư Nặc đã bạch Phật rằng:”Ngài thâu nhận kẻ hèn hạ vào hàng tông đồ như vậy, không sợ rằng đá sỏi lẫn lộn với châu ngọc làm mất giá trị của chúng Tăng sao?

Đức Phật dạy rằng:”Người hèn hạ mà biết Phật tâm Bồ đề, xuất gia tu hành, chứng được Thánh quả, thì quý báu vô cùng, chẳng khác gì hoa sen mọc ở bùn lầy nhơ bẩn mà vẫn tinh khiết thơm tho”.

Không có tôn giáo nào trên thế giới từ ngàn xưa cho đến ngày nay và mãi mãi về sau phát huy tinh thần bình đẳng như đạo Phật. Hãy lắng nghe Đức Phật nói với quốc vương Pasenadi (Ba-tư-nặc) của nước Kosala khi Ngài thu nhận Sunita, người làm nghề hốt phân vào tăng đoàn cách nay trên 2500 năm trong một xã hội có quá nhiều kỳ thị giai cấp:

“Đại vương! Trong đạo lý giải thoát, không có sự phân biệt giai cấp và chủng tính. Trước con mắt người giác ngộ, tất cả mọi chúng sinh đều bình đẳng. Máu ai cũng đỏ, nước mắt ai cũng mặn, tất cả chúng ta đều là con người. Ta phải tìm cách để mọi người có cơ hội đồng đều và vươn tới và thực hiện hoài bão của mình cũng như hoàn thành nhân phẩm của mình, vì vậy cho nên tôi đã đón nhận Sunita vào giáo đoàn khất sĩ”.

Đức Phật đã làm một cuộc cách mạng để san bằng mọi bất công và xóa tan mọi đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ. Chỉ có đạo Phật nâng cao nhân phẩm của con người và khuyến khích họ phát triển tiềm năng trí tuệ của mình đến chỗ tột cùng. Ngày nay, ở những quốc gia văn minh tiến bộ, có rất nhiều khoa học gia, bác sĩ, kỹ sư, học giả, triệu phú, tỷ phú…xuất thân từ những hoàn cảnh cơ hàn, thiếu thốn, nhưng với ý chí vươn lên cộng thêm sự nỗ lực tích cực phấn đấu và sau cùng với cánh cửa rộng mở rất bình đẳng của xã hội, họ đã thành công và đạt được những ước mơ to lớn trong cuộc đời của họ.
 
9. ĐỨC PHẬT NHẬP DIỆT

Trong cuộc đời hành đạo 45năm của Đức Phật, Ngài đã không ngần ngại đi khắp mọi nơi từ Đông qua Tây, từ Bắc xuống Nam, hết nước nầy đến nước khác để hoằng dương đạo pháp. Hễnơi nào có bước chân Ngài đến là ánh đạo vàng bừng tỏa huy hoàng. Hạt giống từ bi được Ngài tinh tấn gieo khắp các nơi ở Ấn Độ. Ngài đã được mọi người từ nghèo đến giàu, từ vua chúa đến thứ dân, từ thiện nam đến tín nữ, từ già đến trẻ đều vui vẻ được tắm gội trong ánh sáng trí tuệ và nước từ bi do Ngài tưới xuống. Bất cứ ở đâu có ánh đạo vàng đến thì tà giáo và ngoại đạo phải tránh xa, tan biến như những làn mây, như những bóng tối trước ánh bình minh đang lên.
 
Khi giác hạnh của Phật viên mãn thì Ngài đã 80 tuổi. Cũng giống như mọi người trên thế gian nầy, sắc thân tứ đại của Ngài cũng theo luật vô thường mà biến đổi. Mặc dầu biết trước ba tháng trước ngày nhập diệt, Ngài vẫn không nghĩ ngơi mà vẫn tiếp tục đi truyền đạo.

Một ngày kia, Đức Phật nói với Đại đức A Nan rằng:
“Đạo ta nay đã viên mãn. Như lời nguyện xưa, nay Ta đã có đủ bốn hạng đệ tử: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu-bà-tắc (thiện nam), Ưu-bà-di (tín nữ). Nhiều đệ tử có thể thay Ta chuyển xe pháp, và Đạo Ta cũng đã truyền bá khắp nơi. Bây giờ Ta có thể rời các ngươi mà ra đi. Thân hình Ta, theo luật Vô thường, bây giờ như một cổ xe đã mòn rã. Ta đã mượn nó để chở Pháp, nay xe cũng vừa mòn mà Pháp cũng đã lan khắp các nơi, vậy Ta còn mến tiếc làm gì cái thân tiều tụy nầy nữa? A Nan! Trong ba tháng nữa Ta sẽ nhập diệt”.

Thế rồi một ngày nọ trên đường đi thuyết pháp, Ngài gặp một người làm nghềthợ rèn tên là Thuần Đà (Cunda) mời Ngài về nhà để cúng dường. Trong sách “Cuộc Đời Đức Phật” của tác giả A.F Herold diễn tả lại bửa ăn cuối cùng của Đức Phật như sau:
-Bạch Thế Tôn! Ngày mai, xin mời Ngài hoan hỷ đến nhà con trọ trai.
Đức Thế Tôn nhận lời.

Ngày hôm sau, Thuần Đà dọn thịt heo và các món cao lương khác để đãi khách quý. Đức Thế Tôn và đồ chúng ngồi vào bàn, nhìn thấy thịt heo, Ngài chỉ tay nói:
-Thuần Đà, chỉ có Ta là dùng được món này. Đệ tử của Ta sẽ dùng các thứ khác.
Sau khi dùng bửa, Đức Phật nói thêm:
-Hãy chôn sâu xuống đất những gì Ta còn chừa lại, chỉ có Ta là dùng được món này.

Đức Phật từ giả lên đường. Đồ chúng lại theo Ngài. Đức Thế Tôn và đồ chúng đi cách Ba-va được một đoạn ngắn thì Ngài càm thấy mệt và nhuốm bệnh. A Nan tỏ lời than trách Thuần Đà, nhưng Đức Phật dạy rằng:
-Này A Nan, đừng giận chú thợ rèn Thuần Đà. Nhờ cúng dường Ta thức ăn mà chú ấy sẽ được nhiều phước báu to lớn. Trong tất cả các bửa cúng dường ngọ trai cho Ta, có hai bửa đáng được ca ngợi nhất: một là của Sujata và hai là của Thuần Đà.

Lúc đó, Đức Phật cảm thấy trong người đau đớn vô cùng vì Ngài đã nhiễm bịnh ly huyết rất trầm trọng. Mặc dầu cơn đau đang hành hạ thân thể, nhưng Ngài vẫn cố gắng đi bộ khoảng 9 cây số để đến cho kỳ được Câu Thi Na (Kusinagara). Vì đoạn đường đi quá xa và cơn đau hành hạ nên Ngài phải dừng chân nghĩ tới 25 lần. Lý do mà Ngài phải đến Kusinagara là vìba điều kiện:

1)Ngài muốn thuyết pháp một lần chót cho chúng tăng để sống một cuộc đời đạo hạnh.
Đức Phật dạyrằng:”Này ! Các người phải tự thắp đuốc lên mà đi ! Các người hãy lấy Pháp của Ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của Ta mà tu giải thoát! Đừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khác, đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác, ngoài các ngươi!”

Rồi Phật lại dạy tiếp:”Này! Các ngươi đừng vì dục vọng mà quên lời Ta dặn. Mọi vật ở đời đều không có gì quý giá. Thân thể rồi sẽ tan rã. Chỉ có đạo Ta là quý báu. Chỉ có chân lý của đạo Ta là bất di, bất dịch. Hãy tinh tấn lên để giải thoát, hởi các người rất thân yêu của Ta”.
Sau đó Ngài khuyên tất cả đệ tử phải lấy giới luật làm thầy.
           2)Ngài muốn thâu nhận người đệ tử sau cùng tên là Tu Bạt Đà La (Subhadda) bởi vì ngoài Đức Phật ra không còn ai có thể cảm hóa nổi ông ta.
3)Ngài muốn nhục thân Xá Lợi chia thành 8 phần cho 8 vị Quốc vương lớn ở Ấn Độ.

Khi Đức Phật đã lớn tuổi và đau yếu, một hôm người đệ tử thân cận luôn ở bên cạnh Ngài là A-nanđà hỏi Ngài như sau: “Sau khi Như Lai tịch diệt thì Tăng Đoàn sẽ phải bước theo con đường nào? Xin Như Lai cho biết quyết định của Như Lai ra sao đối với Tăng Đoàn?"  Ý của Ngài A Nan là sau khi Đức Phật nhập diệt thì ai sẽ thay thế Đức Phật lãnh đạo Tăng đoàn?   
 
Đức Phật trả lời như sau:    
"Này A-nan-đà, Như Lai không còn sống lâu nữa. Vừa lớn tuổi lại đau yếu, Như Lai đã đi đến cuối con đường của mình. Như Lai nay chỉ là một người già... Này A-nan-đà, hãy nương tựa vào chính mình, xem mình là ngọn đuốc soi đường cho mình và cũng là nơi an trú cho chính mình, không nên tìm một nơi nào khác cả [...] Đạo Pháp là ngọn đuốc soi sáng và cũng là nơi an trú cho mình [...] Này A-nan-đà, những ai ngay từ hôm nay và cả về sau này, tức là sau khi Như Lai đã hòa nhập vào niết-bàn, biết xem Đạo Pháp là ngọn đuốc soi đường cho mình và là nơi an trú cho mình, không tìm một nơi an trú nào khác cả, sẽ là những đệ tử xứng đáng của ta, là những ngườì biết giữ một cung cách hành xử đúng đắn". (Đại-bát Niết-bàn Kinh, Mahaparinibbana, DN.16, theo bản dịch của André Migot,1892-1967, trong quyển Le Bouddha, ấn bản Club français du Livre, 1957, 302 tr., đoạn trích dẫn tr.150).

Đức Phật đã khẳng định rằng sau khi Ngài nhập diệt thì các đệ tử đời sau hãy lấy Giới làm thầy nghĩa là Giới bây giờ là thầy, là Đức Phật cho nên thấy Giới là thấy Đức Phật bởi vì là Giới là nền tảng giúp hành giả sống đời đạo hạnh, ly dục ly bất thiện pháp và nhờ đó hành giả có thể tiến xa thêm một bước nữa trên con đường giải thoát. Sau cùng, Đức Phật dạy rằng hãy lấy đạo Pháp của Ngài như là ngọn đuốc tuệ giúp chúng sinh soi sáng trên con đường tìm về bến giác. Thế thì Đức Phật không hề truyền ý bát cho Ngài Ca Diếp và dĩ nhiên câu chuyện truyển y bát của Tổ Bồ Đề Đạt Ma là không có thật. Dựa theo Phật giáo thiền tông Trung Hoa, Tổ Bồ Đề Đạt Ma là sơ tổ rồi truyền y bát cho Nhị tổ Huệ Khả, đến Tam tổ Tăng Xán, Tứ tổ Đạo Tín, Ngũ tổ Hoằng Nhẫn và sau cùng là Lục tổ Huệ Năng. Đến đây thì việc truyền thừa y bát chấm dứt và thay vì truyền y bát thì Lục tổ Huệ Năng chỉ truyền cho đệ tử bằng phương thức khác là Khai tâm ngộ đạo tức là “truyền Tâm Ấn”. Đây là sáng chế riêng (đặc thù) (duy nhất) của Phật giáo Trung Hoa bởi vì đối với Phật giáo, ngộ đạo là vẫn còn đứng bên kia bờ cho tới khi nào tu chứng trở thành Thánh giả tức là chứng đạo thì mới có giải thoát giác ngộ. Do đó trong chiều dài của lịch sử Phật giáo Trung Hoa, có rất nhiều người ngộ đạo, nhưng trong họ tranh chấp vẫn còn, danh lợi quyền thế chưa buông, mong muốn trở thành quốc sư này quốc sư nọ giống như Đề Bà Đạt Đa ngày xưa, chia phe xẻ nhánh nghĩa là hình bóng tham sân si chưa dứt bỏ được.

Khi nói về Thiền tông Trung Hoa có câu chuyện “Niêm Hoa Vi Tiếu” như sau:
“Trong cuộc hội ở núi Linh Sơn, Đức Thế Tôn giơ cành hoa ra hiệu cho đại chúng. Mọi người đều im lặng không hiểu ý gì, chỉ có một mình ông Ma Ha Ca Diếp rạng rỡ mỉm cười. Đức Thế Tôn nói:
- Ta có Chánh pháp Nhãn tạng, Niết Bàn Diệu Tâm, Thực tướng Vô tướng, Vi diệu Pháp môn, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trao phó cho Ma Ha Ca Diếp.

Xưa nay Thiền tông đều xem câu nói này của Đức Thế Tôn là quan trọng nhất bởi vì tông này lấy Tâm truyền làm chỗ dựa để khai ngộ. Khi Đức Phật đưa cành bông sen lên thì trong pháp hội ai cũng nhìn vào cành bông nghĩa là mọi người chỉ thấy cành bông tức là chỉ thấy tướng mà không thấy Tâm. Chỉ riêng Ngài Ca Diếp thì chúm chím mĩm cười vì Ngài hiểu được nổi ẩn tàng sâu kín của Phật là có tướng mà không có tướng. Cành bông là biểu hiệu của Tâm, sự im lặng là biểu hiệu của Pháp. Tâm với Pháp tuy có mà không, tuy không mà có tức là vô chấp vậy.

Câu chuyện “Niêm Hoa Vi Tiếu” chỉ có duy nhất trong Phật giáo Thiền tông Trung Hoa mà không tìm thấy trong Đại Tạng của Phật giáo Ấn Độ và dĩ nhiên không bao giờ có trong giáo lý nguyên thủy.

Khi Tổ Bồ Đề Đạt Ma xuất hiện ở Trung Hoa, Ngài đưa ra tuyên ngôn đanh thép rằng: “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”.Do đó Thiền tông ở Trung Hoa không cần kinh điển, chỉ cần Tâm ấn Tâm và sau đó chỉ thẳng Tâm người nếu thấy được Tánh thì thành Phật. Đơn giản chỉ có thế thôi mà chẳng ai làm được. Nhắc lại, Thiền tông chỉ có duy nhất ở Trung Hoa vì nó hoàn toàn khác hẳn với thiền định và thiền trí tuệ của Đức Phật lúc Ngài còn sinh tiền mà người Trung Hoa gọi là Như Lai thanh tịnh thiền.

Sau khi dặn dò cặn kẻ xong, Ngài tắm rữa lần cuối cùng trên dòng sông Kakuttha, rồi bảo ông A Nan làm chiếc giường cho Ngài nghĩ. Đầu Ngài hướng về phía bắc và Ngài nằm nghiêng giữa hai cây Long Thọ. Ngài lặng lẽ nhập định, tuần tự trải qua các cấp thiền từ thấp tới cao, rồi từ cao tới thấp và cuối cùng chủ động để nhập diệt. Lúc bấy giờ là nhằm nữa đêm ngày rằm tháng hai âm lịch. Rừng cây Long Thọ (Sal-trees) tuôn hoa  đỏ thắm phủ lên thân Ngài.

Đức Phật thọ 80 tuổi. Ngài mất vào năm 544 trước Tây lịch. Các vị đệ tử tẩm liệm xác Ngài vào kim quan và họ đợi 7 ngày sau khi ngài Ca Diếp trở về từ chuyến đi truyền đạo. Họ bắt đầu làm lễ trà tỳ (lễ hỏa thiêu) cho Đức Phật và đúng như lời dạy của Phật, họ đem nhục thân Xá lợi chia thành 8 phần cho 8 vị Quốc vương lớn ở Ấn Độ. Đó là các nước Magadha, Vesàli, Kapilavatthu, Allakappa, Ramagma, Vethadipa, Pàvà và Kusinagarà (Câu Thi Na). Tất cả các nơi đều xây tháp để tôn thờ Xá Lợi Phật.

Có một điều khá tế nhị là sau khi Đức Phật nhập diệt, Ngài đại đệ tử Ca Diếp đã triệu tập 500 vị đại A la hán để cùng nhau kết tập pháp thân Xá lợi của Phật. Đó là Kinh TạngvàLuật Tạngmà không quan tâm, để mặc cho đệ tử phàm phu tranh nhau lấy nhục thân Xá Lợi của Phật. Vậy chúng ta có thể thấy, nhục thân Xá Lợi chỉ có kẻ phàm phu mới quan trọng, còn bậc Thánh lại không quan tâm bởi vì đối với họ giải thoát sinh tử mới là điều tối thượng.
Đức Phật đã đem ánh đạo vàng đến cho nhân loại, nhưng cuộc đời của Ngài có thể tóm gọn một cách giản dị như sau:
 
    Ra đời bên cạnh một gốc cây
    Thành đạo bên cạnh một thân cây
    Và lìa đời ở giữa hai nhánh cây.              
 
Cuộc đời Đức Phật rất giản dị, Ngài đi chân đất không giày dép, đầu trần không mũ nón và đặc biệt nhất là mặc áo rách quanh năm. Đây là hình ảnh sống động, trung thực của người giải thoát, không dính mắc thế trần. Đức Phật là một con người giác ngộ siêu việt, nhưng Ngài có một đời sống rất đơn giản, bình dị và gần gũi với tất cả mọi chúng sinh. Ngài đã đem ánh đạo vàng đến với nhân loại để giúp họ thoát khỏi màn vô minh hắc ám và tìm thấy ánh sáng của chân đạo.
 
 
    TAM TẠNG KINH
 
Từ khi Đức Phật thành đạo, Ngài chỉ thuyết giảng giáo pháp bằng kim khẩu và mãi trên 200 năm sau khi Ngài nhập Niết bàn với 3 lần kết tập, giáo pháp vẫn còn giữ được tính chất nguyên thủy của đạo Phật. Thời kỳ nguyên thủy kéo dài đến hơn 600 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, rồi lần lượt xuất hiện các vị luận sư uyên bác của Đại thừa bắt đầu là ngài Mã Minh, rồi tới ngài Long Thọ và sau cùng là ngài Vô Trước và em là sư Thế Thân. Thời kỳ này kéo dài từ 600 đến 1000 năm sau ngày Đức Phật nhập Niết bàn.

Phật giáo Đại thừađược chia làm hai trường phái triết học chính là phái Trung Luận của triết gia Long Thọ và phái Du già của sư Vô Trước. Tại Ấn Độ, những kinh điển liên quan đến Đại thừa hoàn toàn bị thất lạc, có lẽ do sự tàn phá hũy diệt tất cả những tu viện lớn của đạo quân Hồi giáo vào thế kỷ thứ 12.Ngày nay chỉ còn những bản dịch sang Hoa ngữ, Nhật ngữ và Tạng ngữ vẫn còn được lưu giữ. Vào năm 1833, ông Brian Houghton Hodgson được cử làm đặc sứ tại Kàthamandu ở Nepal cho đến năm 1843. Trong thời gian ở tại Nepal, ông phát hiện được 381 cuốn kinh Phật bằng Phạn văn nguyên bản. Điều đặc biệt là kinh Phật bằng tiếng Phạn rất khác với kinh điển tiếng Pali và kinh tiếng Phạn này lại rất giống với các bộ kinh Phật giáo tại các nước Trung Hoa, Nhật Bản và Tây Tạng. Trong số những Phạn kinh có bộ Trung Luận (Madhyamaka Sàtra) của Long Thọ và bản chú thích Minh Cú Luận  (Prasannapadà) của Nguyệt Xứng (Candrakìrti).
Phái Trung Quán được thành lập bởi ngài Long Thọ vào những năm 150 sau dương lịch. Ngài được xem là một trong những kỳ tài vào thời đại đó của xứ Ấn Độ. Chính tư tưởng Trung Quán là xương sống cho Phật giáo Đại thừa khi truyền sang Trung Hoa và cũng là yếu chỉ cho Phật giáo Mật tông Tây Tạng. Triết lý Trung Quán Luận là một học thuyết biện luận đưa đến sự hoài nghi tất cả mọi hiện sinh và cho rằng tất cả mọi sự vật đều là giả tạo vì chúng không có tự tánh, không có chủ thể. Vì thế con đường giải thoát là phải buông bỏ hết cho đến khi chỉ còn lại cái tánh không tuyệt đối thì lúc ấy giải thoát sẽ được đạt đến. Trên căn bản, học thuyết Bát Nhã của Long Thọ đặt trong tâm vào hai chân lý tục đế và chân đế. Long Thọ cho rằng mặc dù chân lý có hai cấp bậc (chân-tục), nhưng chỉ có thực thể mới là chân lý tối thượng. Đó là cảnh giới bất sinh bất diệt, không bao giờ thay đổi, luôn luôn là “cái tự bao giờ đã là”và dĩ nhiên trong đó không còn sự khác biệt giữa sanh tử và Niết bàn, hay phiền não và Bồ-đề. Trong Trung Luận, chúng ta có thể thấy rõ rằng Chân lý Tánh Không của Long Thọ được áp dụng rộng rãi qua biện chứng pháp về “Bát Không”. Đó là “không sinh, không diệt, không thường, không đoạn, không đồng, không dị, không lai, không khứ”.Giáo lý nhị đế (tục đế, chân đế) thật ra cũng chẳng xa lạ gì đối với Phật giáo Nguyên thủy. Vào thời Đức Phật còn tại thế, Ngài không bao giờ nói về nhị đế hay Bát Nhã, nhưng trong Tứ Thánh Đế đã ngầm chứa nhị đế rồi. Tục đế là nói về thế giới hữu vi, hữu hình, hữu sanh, hữu diệt trong khi đó chân đế là diễn tả về tánh không tối thượng tức là chơn không. Đức Phật giảng giải Tứ Diệu Đế mà trong đó Tập đế (nguyên nhân khổ), Khổ đế (các loại khổ) và Đạo đế (con đường diệt khổ) là nói về Tục đế và Diệt đế tức là giải thoát Niết bàn tức là Chân đế của Long Thọ vậy. Ở đây tánh không tối thượng của Long Thọ tức là Niết bàn của Đức Phật.

Ở Ấn Độ trường phái Du Già được gọi là Du Già hành tông, nhưng tại Trung Hoa và Việt Nam thì thường gọi là Duy thức tông hay Duy thức học. Nói chung cả hai trường phái Trung quán tông của Long Thọ và Du Già hành tông của Vô Trước, Thế Thân đều cùng chung một ý niệm rằng tất cả vạn hữu trên thế gian này được tạo thành đều không có tự tánh cho nên tất cả đều là không mà bên Phật giáo nguyên thủy gọi là “Vô Ngã”. Tuy tư tưởng Du Già đã bắt đầu hình thành vào thờiLong Thọ, nhưng mãi đến mấy thế kỷ sau triết lý này mới được phát huy đến mức tận cùng bởi luận sư Vô Trước và người em là sư Thế Thân. Phái Du Già tin vào chủ nghĩa “duy tâm siêu hình” mà theo đó tâm thức sáng tạo ra đối tượng của nó nhờ vào những năng lực tiềm ẩn nội tại. Thế Thân lý luận rằng tất cả vạn hữu trong thế giới hữu vi này mà con người biết được, trong thực tế đều chỉ là cấu trúc của tâm thức bởi vì những vật thể đó cũng chỉ là sự thông giải do tâm trí của con người đặt ra. Dưới mắt các học giả Tây phương, Du Già là một triết học mang tính duy tâm chủ nghĩa (idealism) vì nó lấy sự thông giải tâm thần các kinh nghiệm của con người làm điểm phát xuất. Nói cách khác, tâm thức tự nó hiện hữu mà không cần có bất cứ đối tượng nào. Dựa theo Vô Trước, sự giải thoát chỉ có thể thực hiện được khi nào con người có thể tạo ra được một nhận thức thuần túy nghĩa là chỉ thuần có tâm thức và không lệ thuộc vào phạm trù đối đãi của nhị nguyên. Chẳng những Vô Trước là nhà biện luận xuất sắc, sư có người em là Thế Thân tài trí cũng không kém. Công trình chính của Thế Thân là hệ thống hóa tư tưởng Du Già hành tông của sư huynh Vô Trước thành Duy thức tông và là tác giả cuốn Duy thức tam thập tụng mà một trong những công dụng là giải thích những khúc ẩn trong bát thức tâm vương, đặc biệt là Mạt-na thức và A-lại-da thức. Ngài Huyền Trang đến Ấn Độ tu học vào thế kỷ thứ 7 tại tu viện Na Lan Đà đã chú giải bộ Duy Thức Tam thập tụng của sư Thế Thân và khi về lại Trung quốc đã dịch lại là Thành duy thức luận. Tuy Duy thức là tác phẩm của Vô Trước, Thế Thân nhưng họ đã trích dẫn một phần về sự biến hành của tâm trong bộ luận Vi Diệu Pháp của Phật giáo Nguyên thủy và từ đó khai triển thêm Mạt na thức và A lại da thức để trở thành Bát thức tâm vương. Nhắc lại, Đức Phật lúc còn sinh tiền chỉ nói lục thức nghĩa là sáu cái biết: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức và Ý thức tức là cái biết của mắt, cái biết của tai, cái biết của mũi, cái biết của lưỡi, cái biết về cảm xúc của thân và cái biết về sự phân biệt của ý tưởng. Bát thức tâm vương của Đại thừa: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, thân thức, ý thức, thêm phần Mạt na thức, A lại da thức.

Dựa theo triết lý Trung Quán, Long Thọ đã giới thiệu lý tưởng “PHÁP THÂN” và sau đó Vô Trước của phái Du Già Hành Tông (Duy Thức) đề ra khái niệm về “BÁO THÂN”. Long Thọ phủ nhậnquan niệm của Phật giáo Nguyên thủy về Đức Phật lịch sửcho rằng Đức Phật cũng bắt đầu bằng thân phận bình thường của một con người, cũng chia sẻ tất cả mọi hệ lụy của kiếp người. Ngài cũng phải đương đầu với sanh, lão, bệnh, tử như tất cả mọi chúng sinh khác. Sau cùng, Ngài tìm kiếm một con đường giải thoát và đạt đến hạnh phúc Niết bàn, chứng đắc trí tuệ viên mãn và thoát ly sinh tử luân hồi. Ngài chỉ rõ cứu cánh này cho mọi người biết và những ai đi theo con đường này cũng sẽ đạt đến cứu cánh tối thượng giống như Ngài. Vì thế Đức Phật là vị A la hán đầu tiên của tất cả các vị A la hán. Ở đây, Long Thọ cho rằng Đức Phật lịch sử chỉ là ứng thân của Phật vào trong thế giới Ta Bà để cứu độ chúng sinh. Vì vậy dựa theo Long Thọ, Đức Phật không phải là một nhân vật lịch sử, mà Đức Phật chân chính là một thực thể siêu việt, vượt hiện thế, vĩnh hằng và vô hạn tức là “Pháp thân”.  Cho nên Đức Phật lịch sử chỉ là nhân vật được “Đức Phật chân chính” gởi đến với thế gian để tạo thành một nhân vật có hình thể là một con người, có một đời sống sinh hoạt giống hệt như một con người thường tục để thuyết giảng Chánh Pháp cho nhân thế. Do đó Đức Phật đã thành Phật từ vô lượng kiếp trước chớ không phải mới thành Phật tại thế giới này nhờ công phu tu thiền định. Từ quan điểm này mới phát sinh ra tín ngưỡng trong Phật giáo Đại thừa. Tư tưởng này nằm trong Kinh Pháp Hoa. Độc giả có thể đọc trong cuốn Kinh Pháp Hoa Giảng Giải, phẩm Như Lai Thọ Lượng, cùng tác giả trong Thư Viện Hoa Sen, phần Giảng Giải Kinh.
(https://thuvienhoasen.org/p17a15474/4/kinh-phap-hoa-giang-giai), (https://thuvienhoasen.org/p17a15492/4/16-pham-nhu-lai-tho-luong).

Dựa theo Phật giáo Nguyên thủy thì không thể có 2 Đức Phật cùng xuất hiện nên chủ trương thuyết “Nhất Phật”, đó là chỉ có duy nhất Phật Thích Ca trong thế giới này mà không hề có Phật A Di Đà, Phật Dược Sư hay bất cứ vị Phật nào khác. Nhưng Phật giáo Đại thừa thì cho rằng có nhiều vị Phật xuất hiện cùng lúc, phía Tây có Phật A Di Đà, phía Đông có Phật A Súc và vô số Phật tồn tại mà kinh điển gọi là “Thập phương hằng sa chư Phật”. Từ đó Phật giáo Đại thừa giới thiệu thuyết “Tam thân” là Pháp thân, Báo thân và Ứng thân cho mỗi vị Phật.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có ba thân là Pháp thân, Báo thân và Ứng thân.
1) Pháp thân(Dharmakaya) là pháp giới thanh tịnh của các Đức Như Lai lan tỏa trong khắp không gian làm sở y bình đẳng cho Báo thân và Ứng thân. Pháp thân thì luôn thường trụ, bất sinh bất diệt cũng được gọi là Pháp giới tánh, Như Lai Tạng…Phật lấy Pháp Tánh Chân Như làm thân nên gọi là Pháp thân. Pháp thân là chỗ sở y chứa tất cả công đức trong Pháp giới. Vì Pháp thân là thường trụ nên Pháp thân ở khắp mọi nơi. Cho dù Phật nhập thế cứu độ chúng sinh thì Pháp thân cũng không tăng hay Phật có xuất thế thì nó cũng không giảm, lúc nào cũng vậy mà thôi. Cái Pháp thân nầy Phật và chúng sinh đều có như nhau, nhưng ở Phật thì nó sáng suốt chiếu soi rực rỡ còn ở chúng sinh thì nó bị vô minh che mờ nên không hiển lộ. Pháp thân chính là cái mà con người sẽ trở về sau khi diệt hết vô minh phiền não để phát huy trí tuệ sẳn có của mình. Vậy Pháp thân chính là cội nguồn, là Bản Thể của tất cả muôn sinh vạn vật. Đây chính là Bản Lai Diện Mục, là Phật tánh, là Như Lai Tạng có sẵn trong mỗi chúng sinh.
2) Báo thân(Sambhogakaya) là thân tốt đẹp do công phu tu hành trãi qua bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp mà có. Vì thế mà Đức Phật có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp rực rỡ là vậy. Báo thân còn được gọi là tự thọ dụng thân.

Nếu chúng sinh đoạn trừ mọi vô minh phiền não thì tâm được hoàn toàn thanh tịnh. Cái thanh tịnh an lạc tự tại nầy chỉ có người đó biết và hưởng được còn người khác không hề cảm nhận hay san sẻ được thì cái quả thanh tịnh an nhàn nầy là tự thọ dụng thân. Cũng như uống một tách trà thơm ngon thì chỉ người uống trà mới biết được hương vị thơm ngon như thế nào mà thôi. Do đó nếu chúng ta bớt được một phần vô minh phiền não thì có được một phần thanh tịnh tức là có được một phần tự thọ dụng thân.

Còn Báo thân của chúng sinh thì gọi là Karmakaya tức là thân nầy là do quả nghiệp của tiền kiếp tạo thành. Muốn có thân thể khỏe mạnh sống lâu thì đừng bao giờ sát sinh. Muốn có giọng nói thanh tao trong trẻo thì đừng nên vọng ngữ. Muốn thân hình được đoan trang, đẹp đẻ thì đừng nghĩ tới tà dâm. Muốn gia đình được ấm no hạnh phúc thì đừng trộm cướp gian tham.

3) Ứng thân hay biến hóa thân(Nirmanakaya) Chư Phật do trí thành sở tác mà biến hóa ra thành vô lượng thân, ứng theo căn cơ của chúng sinh mà hóa độ. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là ứng thân của Phật trong cõi Ta bà nầy. Vì Ứng thân là thân thị hiện nên phải ảnh hưởng bởi luật vô thường là sinh lão bệnh tử. Ứng thân cũng được gọi là tha thọ dụng thân.

Đối với Phật giáo Đại thừa thì báo thân hay tự thọ dụng thân có giá trị tuyệt đối vì chỉ có người được thức tỉnh giác ngộ mới hưởng được cái hương vị thanh tịnh an vui tự tại của giải thoát giác ngộ mà không một người nào khác có thể biết được. Khi chư Phật hay Bồ-tát thị hiện để hoằng dương đạo pháp thì chúng sinh có cơ hội học hỏi, tu sửa và sống theo Chân lý để tự mình giải thoát giác ngộ thì ứng thân để cứu độ chúng sinh ra khỏi bể khổ sông mê gọi là tha thọ dụng thân.

Dựa theo tư tưởng Trung Quán của Long Thọ và Du Già của Vô trước thì chúng ta đang sống trong cái thế giới đa dạng và phong phú với những hóa tướng, tập tục và truyền thống cho nên nó đã thối thúc con người đi tìm sự bí mật về chân tướng của sự vật, cái thực tại tuyệt đối (Ultimate Reality)(Phật giáo Mật tông Tây tạng thường gọi). Họ khẳng định rằng cái thực tại này chính là ở ngay trong những hóa tướng này. Trong khi Phật giáo Nguyên thủy chỉ chú trọng vào Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) và chân lý Vô Ngã, phái Du Già (Duy Thức) của Vô Trước chú trọng đến tam tánh (viên thành Phật tánh, y tha khởi tánh, biến kế sở chấp tánh) thì Trung Quán tông của Long Thọ đưa ra những lý luận rất sâu sắc về Nhị Đế (Tục Đế, Chân Đế).

Trong tác phẩm Trung Quán Luận, Long Thọ viết rằng:
-Vì chúng sinh, chư Phật đã y cứ vào Nhị Đế (hai chân lý) để thuyết giảng giáo pháp. Nhị Đế đó là Thế Tục Đế và Đệ Nhất Nghĩa Đế (Chân Đế).
-Nếu người nào đối với Nhị Đế mà không có khả năng tri nhận, phân biệt để liễu giải toàn vẹn sự hổ tương quan hệ của nó thì kẻ đó không thể tri nhận được ý nghĩa chân thật của giáo pháp sâu xa vi diệu của chư Phật. (Trung Luận XXIX.8,9).

Trong tác phẩm “Bảo Tàng Tri Kiến” , ngài Thế Thân giảng giải  rằng:
-Một sự vật sau khi bị hủy hoại hay được tách rời những đặc tánh của chúng ta, khiến tri thức của ta không còn nhận ra chúng thì sự vật đó được coi là thuộc về Tục Đế. Ngược lại là những sự vật thuộc về Chân Đế.

Từ đó, Tục Đế được định nghĩa là:

-Đó là một hiện tượng giới mà nếu khi chúng bị hủy hoại về mặt vật chất hay tách rời các đặc tánh của chúng ta, những nhận thức về chúng không còn hiện hữu nữa..

Và Chân Đế được định nghĩa như sau:

-Ðó là một hiện tượng giới mà nếu khi chúng bị hủy hoại về mặt vật chất hay tách rời những đặc tánh của chúng ra thành những phần khác, những nhận thức về chúng không bị loại trừ.

Ngài Thế Thân cho rằng sắc pháp là một thí dụ của Chân Đế. Trong cuốn Bảo Tàng Tri Kiến, Thế Thân giải thích như sau: “Ngay cả khi sắc được phân ra thành các phân tử cực kỳ vi tế, hoặc các đặc tánh của nó được phân ra thành các hiện tượng giới chẳng hạn như mùi vị, sự nhận biết về bản tánh của sắc vẫn tồn tại.”.  Nếu ta hủy diệt sắc trên bình diện vật lý biến nó trở thành những vật thể khác thì kết cục những phần này tự nó cũng vẫn là sắc, và như vậy ý thức nắm bắt về sắc vẫn không bị loại trừ. Ngay cả nếu ta có khả năng cô lập từng đặc tánh cá biệt của sắc như mùi, vị, xúc, v.v..., ý thức nắm bắt về sắc vẫn tồn tại, bởi vì mỗi một đặc tánh này lại là một sắc.

Tóm lại, phái Du Già chú trọng về mặt tâm lý và tin rằng cái tuyệt đối nếu đứng về phương diện thực dụng thì có thể được diễn tả như là tâm, ý hay thức. Do đó, lý thuyết của Du Già là một thứ chủ nghĩa duy tâm siêu hình.
Hai trường phái Trung quán và Du già rõ ràng là hoàn toàn khác biệt nhau về con đường cũng như cứu cánh giải thoát cho nên sự tranh cải giữa hai tư tưởng thường hay xảy ra. Đối với những người tin theo phái Trung luận thì cho rằng giáo lý của phái Du Già có vẽ như là một sự sai lầm, quá ảo tưởng nên không thể hiểu được. Trong khi đó, phái Du Già xem giáo lý Trung luận chỉ là điểm khởi đầu, nhưng đã đi chênh lệch đường hướng chân lý và cốt tủy bí truyền của Phật giáo. Long Thọ phát triển những giáo lý thâm diệu của “tánh không” dựa vào căn bản trí của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, trong khi đó Vô Trước và Thế Thân đi theo con đường “Duy thức” của Bồ Tát Di Lặc. Hai tư tưởng căn bản trí và duy thức được mô phỏng rất rõ ràng trong Kinh Pháp Hoa.

Sở dĩ tư tưởng Như Lai tạng được thành lập là vì Đại thừa muốn thuyết minh cái “khả năng tánh” thành Phật tức là cái “bản giác” đã có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh. Thí dụ hàng ngày chúng sinh tu hành với cứu cánh một ngày nào đó sẽ trở thành Phật. Nhưng Phật giáo đại thừa lý luận rằng có tu hay không thì trong mỗi chúng sinh đã có chất Phật tức là mình đã và đang là Phật rồi (bản giác). Lỳ do mình không là Phật bởi vì vô minh che lấp làm cho Phật tánh bị lu mờ mà cuộc sống xa dần chân lý. Vì thế Tổ Bồ Đề Đạt Ma mới tuyên bố rằng chỉ cần thấy tánh là thành Phật ngay là như vậy.

Đặc biệt tư tưởng A lại da thức được ra đời với chủ đích thuyết minh cái khuynh hướng trở về cảnh “ngộ” mà những kinh Lăng Già và kinh Mật Nghiêm lấy nó làm trung tâm điểm. Mặc dù tư tưởng Như Lai tạng và A lại da thức được ra đời sau Long Thọ, nhưng những tư tưởng đó đã manh nha ngay từ trong những tư tưởng của Thượng tọa bộ và Đại Chúng bộ. Tư tưởng Như Lai tạng phát xuất từ thuyết “Tâm tính bản tịnh” của Đại chúng bộ và A lại da thức có rất nhiều điểm tương quan với thuyết “Sinh cơ - Sinh mệnh” của Thượng tọa bộ.

Sau thời đại của Long Thọ, trong những kinh Giải Thâm Mật, kinh A-Tỳ-Đạt-Ma Đại thừa có khuynh hướng giới thiệu tư tưởng Như Lai Tạng và A lại da thức, nhưng trên thực tế về ý nghĩa các kinh đó vẫn chưa đạt chỗ triệt để. Mãi đến khi sự xuất hiện và thông giải của Vô Trước và Thế Thân thì ý nghĩa của nó mới được thấu hiểu tột cùng.

Hãy nghe lời giải thích của Thế Thân về A-lại-da thức như sau: “Dòng chảy của các biến cố tâm thần mà bạn trải nghiệm, để lại hạt mầm (chủng tử) của nghiệp trong thức lưu trử nên gọi là Tàng thức (A-lại-da thức). Các hạt mầm được tồn trử trong nhà kho đó cho tới sau cùng, khi hội đủ các điều kiện thích đáng, chúng chín muồi và rồi ảnh  hưởng lên các biến cố về sau”.

Nói cách khác, A-lại-da thức chứa đựng mọi kinh nghiệm trong kiếp sống của mỗi con người và nguồn gốc của tất cả các quan niệm tinh thần. Theo quan niệm của Pháp tướng tông thì A-lại-da thức là nơi tập hợp mọi nghiệp quá khứ rồi tới một thời đểm nhất định, tác động lên kiếp tái sinh. Và cá thể thật ra chỉ là dòng sinh diệt tiếp nối của vô số chủng tử của nghiệp. Do đó, trong ta không có một bản ngã cố định.

Nếu dựa trên lập trường Duy Tâm Luận của Vô Trước, Thế Thân thì A-lại-da thức là nguồn gốc của vạn hữu, là nơi nương tựa của vạn vật, là nguyên lý của mỗi cá nhân và cũng là nguyên lý của vũ trụ. Mặc dù Vô Trước, Thế Thân lấy A lại da thức làm trung tâm để biện chứng rằng tất cả đều do thức biến hiện, nhưng tư tưởng này tức là “Tam giới duy tâm” đã có trong Hoa Nghiêm thức rồi. Nhưng quan trọng hơn hết và cũng là chủ đích của Dù Già Phật giáo là làm thế nào để chuyển hóa A lại da thức hữu lậu trở thành chủng tử vô lậu nghĩa là chủng tánh Bồ-tát tức là đắc thành Phật quả. Tiến trình này rất phức tạp thường được gọi là “Ngũ trùng duy thức quán” nghĩa là dùng pháp quán tưởng để soi vào nội, ngoại tướng phần, kiến phần tâm vương, tâm sở, thức tướng dần dần đi từ thô đến tế sau cùng đến được chân như. Nói cách khác, hành giả phải lấy Thập địa làm nền tảng, phá trừ hết phiền não chướng và sở tri chướng, tiêu diệt cho hết tất cả những chủng tử tập khí khiến cho tất cả chủng tử hữu lậu trong A lại da thức hoàn biến mất mà chỉ còn lại độc nhất cái trí tuệ vô lậu thuần khiết.

Vậy thế nào là A lại da thức?

A lại da là âm của tiếng Phạn Alaya có nghĩa là cái kho mà danh từ Hán-Việt gọi là tàng. Tất cả mọi chủng tử không phân biệt thiện ác, tốt xấu, sanh tử và niết bàn, mê ngộ và khổ vui, ngay cả vô ký đều được chứa đựng trong tàng thức này. A lại da thức có khả năng tiếp nhận, duy trì và làm các hạt giống chủng tử trăng trưởng, chuyển biến cho đến khi đầy đủ nhân duyên thuần thục chín mùi thì mới được đi tái sanh vào những thế giới thích hợp với căn nghiệp của mình. Tùy theo nghiệp lực của mỗi chúng sinh mà được thọ sanh vào trong lục đạo hoặc sinh về những cõi trời trong những cõi Sắc giới và Vô sắc giới. Nếu nhân trong A lại da thức chứa nhiều chủng tử thiện thì khi đầy đủ nhân duyên chín mùi thì sẽ chuyển biến và hiện khởi ra quả báo là người hay là trời. Ngược lại nếu chứa nhiều chủng tử bất thiện thì sẽ hiện khởi ra quả báo trong ba đường ác là súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục.  Vì các sự huân tập và chuyển biến trong A lại da thức thật tiềm ẩn và vi tế nên người chưa đắc đạo không thể biết được mình sẽ thọ thân làm loài gì và ở trong quốc độ nào.

Thêm nữa tất cả những chủng tử tốt xấu đều được gieo vào mảnh đất A lại da trong trạng thái tiềm ẩn. Các chủng tử này được huân tập, chuyển biến, tương sanh, tương duyên, tương diệt liên tục. Tất cả những sự chuyển biến này xảy ra liên tục và tức thời, chớp nhoáng và liên tiếp. Cái này diệt thì cái kia sinh, tương tức tương tục liên miên bất tận nên được gọi là Sát Na Sinh Diệt. Sát Na Sinh Diệt có thể được ví như những khối nước liên tục chuyển động chẩy trong dòng thác lũ. Khối nước trước đổ qua thì có khối nước khác đổ tới, tiếp nối liên tục không ngừng nghĩ và dĩ nhiên dòng nước cũ không thể chẩy trở lại nơi mà nó đã chẩy qua. Sự sinh diệt triền miên đó cũng có thể ví như những đợt sóng dạt dào trên biển cả. Đợt sống này đẩy đợt sóng kia, đợt sóng mới đẩy đợt sóng củ. Bởi có gió vọng tưởng thổi sóng dạt dào trên biển cả làm các ngọn sóng liên tiếp nhồi lên lặn xuống không ngừng nghĩ cho nên ngọn sóng này diệt thì ngọn sóng mới khởi sanh.

Khi chúng sinh biết tu tập làm cho tâm được thanh tịnh thì các chủng tử vô lậu được huân tập, tăng trưởng và phát sinh ra hiện hành. Các hiện hành này được huân tập trở vào thức A lại da thành các chủng tử vô lậu mới. Tùy theo tánh chất của các chủng tử vô lậu mới này mà chủng tử hữu lậu tiềm ẩn sẳn có trong tàng thức bị suy thoái và tiêu diệt hoặc các chủng tử vô lậu sẳn có ở trong đó được tăng trưởng và phát sinh thêm. Nếu chúng sinh trì công tu tập có nghĩa là tiếp tục huân tập các chủng tử vô lậu thanh tịnh đến khi tất cả các chủng tử và hiện hành hữu lậu hoàn toàn bị tiêu diệt thì lúc đó họ sẽ chứng đắc được bát địa Bồ-tát của Đại thừa. Đến đây thì tàng thức chỉ chứa toàn các chủng tử vô lậu. Các hạt giống hữu lậu của phiền não, nghiệp báo luân hồi sinh tử không còn nữa và A lại da thức bây giờ chuyển thành “Vô cấu thức”. Vô cấu thức cũng còn cái tên khác là Yêm-ma-la thức, Bạch tịnh thức, Thanh tịnh thức, Chân như thức, Như Lai tạng thức hay thức thứ chín. Tuy có rất nhiều tên như thế nhưng chúng quy cũng chỉ có một ý nghĩa “thanh tịnh”.

Tóm lại, một khi chúng sinh đạt đến quả vị bát địa Bồ-tát thì các chủng tử hữu lậu làm chướng ngại chân tâm sẽ bị hủy diệt, nhưng thật ra vẫn còn những chủng tử hữu lậu vi tế nằm tiềm ẩn trong thức thứ tám này. Chỉ khi nào các vị bát địa Bồ-tát tiếp tục tiến tu pháp tối thắng vô phân biệt trí, được gọi là Thắng Pháp Không Quán, để vượt qua khỏi bậc Bồ-tát Thập địa mà đến bậc Đẳng Giác và khởi Kim Cang Dụ Định mà đạt tới Phật quả thì thức thứ tám này mới xóa tan hoàn toàn tất cả các vô lậu thậm thâm vi tế và chuyển thành Đại Viên Cảnh Trí. Khi đó các chủng tử vô lậu, cấu nhiễm đã hết, thức này chuyển thành trí thanh tịnh chiếu khắp mười phương các cõi nhiều như vi trần nên gọi là Đại Viên Cảnh Trí. Đây chính là cái thể thanh tịnh của Chơn Tâm cũng như mặt gương sáng chiếu soi tất cả vạn pháp một cách chân thật mà nhà Phật gọi là “như thị bất khả tư nghì”.

Phật giáo Nguyên thủy nhìn Đức Phật bằng một góc độ rất thực tế, dựa trên con người lịch sử. Vì thế Đức Phật đối với họ là vị A la hán đầu tiên của tất cả các vị A la hán. Trong ngũ bộ kinh Nikayas, Đức Phật đã nhiều lần xác nhận rằng hằng trăm nếu không muốn nói hằng ngàn đệ tử thuộc hàng Thánh giả của Ngài cũng chứng đắc các cấp độ tâm linh ngang bằng với Đức Phật. Trong kinh Bộ Tương Ưng, Đức Phật tuyên bố chính Tôn giả Xá Lợi Phất (Sariputa) đã chứng ngộ và thâm hiểu giáo lý Duyên Khởi (Pratiyasamutpada) rất sâu thẳm như chính Thế Tôn vậy. Ngoài ra, còn có những bậc Thánh giả khác như các Tôn giả Đại Ca Diếp (Mahkassapa), Mục Kiền Liên(Maggallana), Phú Lâu Na…cũng chứng đắc một số khả năng về những lãnh vực như giảng giải thuyết pháp, xuất nhập các cấp độ thiền, thi thố thần thông ngang bằng Đức Phật. Đức Phật trong ngũ bộ kinh Nikayas không hề phát biểu lời tuyên bố nào để phân biệt sự khác nhau giữa Ngài và các vị A la hán ngoại trừ lời nói sau đây trong kinh Tương Ưng:

-Này các Tỳ kheo! Như Lai là vị A la hán, bậc chứng ngộ hoàn toàn. Như Lai là người đã khiến cho con đường trước kia chưa sinh khởi nay sinh khởi, đưa ra con đường trước kia chưa được đưa ra, làm hiển lộ con đường trước kia chưa từng hiển lộ, là vị nhận biết con đường, hiểu rõ con đường và là vị thiện xảo trong con đường. Và giờ đây, này các Tỳ kheo, hàng đệ tử là người đi theo con đường của Như Lai. Này các Tỳ kheo! Đó là nét đặc biệt, sự đặc thù để phân biệt Như Lai, bậc A la hán, vị chứng ngộ hoàn toàn với các Tỳ kheo đã giải thoát.

Vì vậy, Đức Phật không chỉ là vị A la hán với vài điểm đặc biệt, mà chính những nét đặc biệt đó đã nâng Ngài lên tầm mức phi thường, trở thành đấng vô thượng đạo sư của cả thế giới và dĩ nhiên đứng trên tất cả các vị A la hán khác. Thật vậy, Đức Phật không chỉ là vị A la hán mà Ngài là thầy của tất cả các vị A la hán và Ngài chính là người khai sáng ra đạo Phật cho nên danh vị Phật chỉ dành riêng cho Ngài.

Do đó, A la hán là quả vị tối thượng của người đi trên con đường giải thoát giác ngộ. Ngược lại, Đại thừa chủ trương A la hán chỉ là sự chứng đắc nửa đường tức là hóa thành mà cứu cánh tối thượng phải là đạt thành Phật quả tức là thành Phật (bảo sở)(Kinh Pháp Hoa Phẩm Hóa Thành Dụ).  Mặc dù giáo lý Thập Địa xuất hiện đầu tiên trong kinh Thập Địa Giải Thuyết Luận (Dasabhaùmivibhàsà Sàstra) của Long Thọ, nhưng ý nghĩa của nó chưa rõ ràng, chỉ có một vài yếu tố về Thập Địa được đưa ra. Khi kinh Hoa Nghiêm được thành lập thì kinh mới có một phẩm riêng nói về Thập Địa của một vị Bồ tát. Đó là phẩm Thập Địa. Nhưng mãi đến thời đại của Vô Trước, Thế Thân thì giáo lý Thập địa mới đạt đến trình độ cao nhất. Thập địa là mười giai vị trong quá trình tu hành của người đệ tử Phật trên con đường tiến đến quả vị Phật. Địa nghĩa là trụ xứ, sinh thành.                                                                                        
Kinh Đại Phẩm Bát Nhã có giải thích về Cộng Thập Địa mà Thiên Thai tông gọi là Thông Giáo Thập địa tức là 10 địa chung cho cả ba thừa.

1)Càn Huệ địa: Giai vị này chỉ có Tuệ mà chưa có Định, tương đương với Tam Hiền vị của Thanh Văn và Giác vị của Bồ tát từ Sơ phát tâm cho đến trước khi được Thuận Nhẫn.

2)Tinh địa: Giai vị tương đương với Tứ Thiện Căn vị của Thanh Văn và Thuận Nhẫn của Bồ tát tức là tuy đắm trước thật tướng các pháp nhưng không khởi tà kiến, đầy đủ trí tuệ và thiền định.

3)Bát Nhân địa: Tương đương với Tu Đà Hoàn hướng trong 15 tâm kiến đạo của Thanh Văn và Vô Sanh Pháp Nhẫn của Bồ tát.

4)Kiến địa: Tương đương với Tu Đà Hoàn và giai vị Bất thoái chuyển (A-bệ-bạt-trí) của Bồ tát.

5)Bạc địa: Là giai vị của các vị Tu Đà Hoàn hoặc Tư Đà Hàm. Cũng chỉ cho giai vị Bồ tát đã đoạn các phiền não, nhưng vẫn còn các tập khí mỏng tức là giai vị Bất thoái chuyển trở lên cho đến trước quả Phật.

6)Ly Dục địa: Là giai vị hết phiền não, tương đương với quả A Na Hàm và giai vị Bồ tát ly dục chứng được ngũ thần thông.

7)Dĩ Tác địa: Là giai vị được tận trí, vô sanh trí, chứng được quả A la hán của hàng Thanh Văn hoặc giai vị thành tựu Phật địa của Bồ tát.

8)Bích Chi Phật địa: Tức hàng Duyên giác quan sát pháp 12 nhân duyên mà thành đạo.

9)Bồ tát địa: Chỉ cho giai vị từ Càn Huệ địa cho đến Ly Dục địa ở phần trước hoặc từ Hoan Hỉ địa cho đến Pháp Vân địa tức là giác vị từ sơ phát tâm cho đến trước khi thành đạo.

10)Phật địa: Giai vị hoàn toàn đầy đủ các pháp của chư Phật, thành tựu Nhất thiết chủng trí.

Trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập Địa nói lên mười giai vị của Bồ tát là:

1)Hoan hỷ địa (Sơ địa) (Pramudità): Khác với lý tưởng của Nguyên thủy là tìm sự giải thoát Niết bàn trước cho chính mình rồi sau đó mới giúp chúng sinh để họ tự giải thoát cho chính họ. Ở đây,Đại thừa giới thiệu một lý tưởng nhằm giúp cho tất cả mọi chúng sinh diệt được các pháp tướng mê lầm, chỗ giác ngộ đã đến cùng tột, diệt trừ được phân biệt ngã chấp, pháp chấp nên tâm bắt đầu có được pháp lạc nên mới gọi là hoan hỷ địa tức là sơ địa.

2)Ly cấu địa (Uimada): là giác vị lìa bỏ tâm sai lầm, phá giới, phiền não cấu.

3)Phát quang địa (Prabhàkari): đến đây Bồ-tát thấu biết tánh vô thường của tất cả vạn vật trong thế gian vũ trụ nên nội tâm càng thanh tịnh thì trí tuệ càng sáng suốt.

4)Diệm huệ địa (Arcismati): trong giai đoạn này, Bồ-tát bắt đầu thực hành sự an nhiên tự tại và cắt dứt những thứ ô nhiễm, vô minh. Đến giai vị này hành giả đã lìa bỏ kiến giải phân biệt, dùng lửa trí tuệ thiêu đốt củi phiền não nhờ đó mà ngộ được bản thể trí tuệ. Lúc ấy trí tuệ được sáng suốt tỏ tường và dĩ nhiên sự giác ngộ được viên mãn.

5)Nan thắng địa (Sudurjayà): Đến đây, Bồ-tát bắt đầu phát huy tinh thần bình đẳng đồng nhất và giác ngộ nhờ vào thiền định giúp Bồ-tát biết thấu suốt tục đế và chân đế viên dung bất nhị.Giác vị này đã thành tựu trí xuất thế gian, nương vào năng lực phương tiện tự tại mà cứu độ các chúng sinh khó cứu độ.

6)Hiện tiền địa (Abhimukhi): Khi vào được giai đoạn này, Bồ-tát sẽ trực diện với thực tại và sẽ ý thức được sự đống nhất của tất cả mọi hiện tượng. Và bấy giờ Bồ-tát sẽ nhận biết rằng vô vi chân như hoàn toàn không nhiễm, không tịnh, thường hằng hiện tiền tức là tự tánh của chân như hiện rõcó được đại trí.

7)Viễn hành địa (Dùrangamà): Đến đây Bồ-tát có đủ dữ kiện để tiến vào giải thoát Niết bàn, nhưng họ dừng lại vì còn trách nhiệm cứu giúp tất cả chúng sinh cùng được giải thoát như mình. Họ biết rằng đến đây tất cả đều là chân như, không có gì không phải là chân như, vô cùng vô tận.

8)Bất động địa (Acalà): Đến đây Bồ-tát thấu biết rốt ráo sự bất sinh của tất cả hiện tượng vạn hữu trong thế gian. Khi đã trải qua “vô sanh pháp nhẫn” Bồ-tát thấu biết sự tiến hóa và thoái hóa của nhân sinh vũ trụ. Vì vậy, tâm Bồ-tát thường trụ không thay đổi, tuyệt đối không bị phiền não làm lay động.

9)Thiện huệ địa (Sàdhumti): Đến đây Bồ-tát có thể phát hiện ra vô số thân để hóa độ chúng sinh với đấy đủ bốn trí vô ngại. Đó là Ý thức thành ra Diệu Quan Sát Trí, tiền ngũ thức thành ra Thành Sở Tác Trí, Mạt na thức trở thành Bình Đẳng Tánh Trí và A Lại da thức sẽ thành Đại Viên Cảnh Trí.Bồ tát dùng năng lực vô ngại để thuyết pháp, hoàn thành hạnh lợi tha và trí tuệ được tự tại.

10)Pháp vân địa (Dharmameghà): Khi Bô-tát công phu đầy đủ, công đức trí tuệ và từ bi viên mãn có thể che chở cho vô lượng chúng sinh thì gọi là nhập vào Pháp vân địa tức là Thập địa Bồ-tát vậy. Lúc ấy Bồ tát được đại pháp thân, có năng lực tự tại.

Đến đây Bồ-tát đã có đồng một giác tánh bình đẳng với Như Lai nên gọi là Đẳng giác Bồ-tát. Sau cùng Bồ-tát chỉ cần giác ngộ sinh tướng vô minh thì tức thì chứng được Nhân địa Như Lai tức là đạt được Diệu giác. Bồ-tát chuyển Dị Thục thức thành ra Bạch Tịnh thức rồi vào Kim Cương địa mà phát sinh Nhất thiết chủng trí, Nhất thiết trí trí, tùy duyên hóa hiện, độ thoát chúng sinh mà không rời tự tánh thanh tịnh Niết bàn cho đến tột đỉnh nhân quả đồng thời là hoàn thành Phật đạo tức là thành Phật. Đây là luận thuyết của trường phái Mật tông dựa theo hai bộ kinh Đại Nhật và Kim Cương.

Chưa hết lần lượt các vị Phật được tin là hiện hữu khắp mọi nơi trong không gian hiện hữu. Về hướng Đông có Phật A Súc tức là Phật không bất động. Hướng Tây có Phật A Di Đà. Hình tượng Phật A Di Đà có rất nhiều điểm tương đồng với thần mặt trời của nước Iran (Ba Tư). Có lẽ do nguồn gốc từ đế quốc Kushana ở vùng biên giới giữa Ấn Độ và Ba Tư. Và dĩ nhiên còn hằng hà vô số những vị Phật khác nữa trong thế giới vũ trụ. 

Thập địa là lối biện chứngdựa theo tinh thần Mật tông của Vô Trước, Thế Thân và luận sư Long Thọ dựa theo hai bộ kinh Kim Cương và Đại Nhật. Thế Thân là tác giả của Duy thức Nhị thập tụng và Duy thức Tam thập tụng (Vimsatikà và Trimsikà-vijnịapti-kàrikà), cùng một quyển nhỏ khác, nói về ba tánh của hiện hữu, tức tam tự tánh (Trisvabhàva-nirdesa), hay còn gọi là Tam vô tự tánh luận (Trinisvabhàva-sàstra). Trong khi đó Vô Trước là tác giả của Bồ tát địa (Bodhisattvabhùmi), A-tì-đạt-ma Tạp tập luận (Abhidharmasamuccàya), và Du-già sư địa luận (Yogàcàryà-bhùmi-sàstra), viết theo quan niệm Duy thức. 

Trường phái Du Già đã sáng tạo ra phần cuối cùng của giáo lý về Tam thân Phật. Pháp thân là tuyệt đối, là chân lý. Báo thân là thân Phật thị hiện cho các vị Bồ-tát và hàng thánh giả được nhìn thấy và thuyết pháp cho họ nghe ở các cõi trời, tạo ra sự vui thú và ưa thích các Pháp. Sau cùng Ứng thân là thân chúng sinh có thể nhìn thấy thị hiện vào những thời điểm nhất định ở thế gian, vốn là thân hư ảo do Phật hóa hiện ra để thực hiện công việc hóa độ trên thế gian.
Hai trường phái Trung quán và Duy thức rõ ràng có những mâu thuẩn về tư tưởng triết học. Trường phái này đua nhau tranh chấp, cải vả vì không chấp nhận lý luận hay tư tưởng của trường phái khác. Đến khoảng 1100 năm sau ngày Đức Phật nhập Niết bàn, Tổ Bồ Đề Đạt Ma xuất hiện ở Trung Hoa và đưa ra tuyên ngôn đanh thép rằng: “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”. Tại sao? Bởi vì ngài đã quá chán ngán với bao tranh cải, biện chứng, kinh này giáo nọ và không còn tin vào văn tự hay những luận giải bóng bẩy cao siêu ấy của các luận sư Đại thừa nữa. Văn chương, chữ nghĩa, luận giải đã cải vả nhau cả ngàn năm rồi mà cũng chẳng tới đâu. Kết quả, lịch sử Phật giáo Đại thừa truyền vào Trung Hoa và Tây tạng bắt đầu từ những thế kỷ thứ 6, thứ 7 ảnh hưởng đến cách áp dụng và thực hành cũng khác nhau. Trong khi Phật giáo Mật tông Tây tạng chỉ hành trì dựa vào Trung Quán và Duy thức thì ở Trung Hoa, Thiền tông dựa theo tư tưởng của Tổ Bồ Đề Đạt Ma được phổ biến sâu rộng và đạt đến đỉnh cao nhất vào thời Lục Tổ Huệ Năng. Phải nhận định thật rõ ràng (Without a doubt) rằng Phật giáo Đại thừa là Phật giáo phát triển cho nên từ ngày Đại thừa xuất hiện cho tới ngày nay phát hiện rất nhiều luồng tư tưởng của chư Tổ, nhưng tựu trung chỉ có ba luồng triết học chính: một là Trung Quán (Bát Nhã) của Long Thọ, hai là Duy thức của Vô Trước, Thế Thân và sau cùng là “trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” của Tổ Bồ Đề Đạt Ma. Giáo lý Nguyên thủy của Đức Phật chỉ có chân lý Tứ Diệu Đế, Vô Ngã và Duyên Khởi. Chân lý là sự thật, đúng ở bất cứ không gian và thời gian nào, đúng ở ngay cả trong cái thế giới tương đối, tục đế này và bất ai cũng có thể áp dụng nó để có một kết quả giống nhau. Ngược lại, luận giải của chư Tổ thì đúng với trường phái này mà lại không thích hợp đối với trường phái khác cho nên các trường phái luôn cải vả với nhau là như vậy. Có người lý luận rằng lời Phật thuyết là kinh, còn lời chư Tổ là luận. Đó là Đại Thừa Khởi Tín Luận của Mã Minh; Trung Quán Luận và Đại Trí Độ Luận của Long Thọ; Đại Thừa Nhiếp Luận Tông, A Tỳ Đạt Ma Tập Luận, Du Già Sư Địa Luận của Vô Trước ngay cả tác phẩm của Tổ Bồ-đề Đạt Ma là Tuyệt Quán Luận(Đạt Ma Tổ Sư Luận). Nhưng Bát Nhã Tâm Kinh do Long Thọ viết và Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ Huệ Năng thì tại sao không gọi là luận mà lại gọi là kinh?
Hiện nay, Phật giáo Nguyên thủy có đủ Ngũ Bộ Kinh Nikayas bằng tiếng Pali là:
1)Trường Bộ Kinh (Digha Nikaya) gồm 36 phẩm trong 3 phần.
2)Trung Bộ Kinh (Majjhima) gồm 153 phẩm.
3)Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya) gồm 56 chương xếp theo từng loại chủ đề.
4)Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara) các phẩm đánh số theo thứ tự các con số.
5)Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) gồm 15 kinh trong đó có kinh Pháp Cú và các bài kệ của tăng ni đã đạt thánh quả A la hán. Các kinh này phát xuất từ nhiều bộ phái trước khi Nguyên thủy bị phân hóa, dù phần lớn vẫn được xem là Nguyên thủy.
Phật giáo vào thời Nguyên Thủy chỉ có Kinh tạng và Luật tạng và truyền thống đó vẫn được lưu giữ sau hai lần kết tập kinh điển đầu tiên. Cho tới lần kết tập kinh điển lần thứ ba khoảng 250 năm sau ngày Đức Phật nhập diệt thì Vi Diệu Pháp mới được giới thiệu và được xem như là luận tạng đầu tiên và sau đó có Thanh Tịnh Đạo. Cũng xin nhắc lại, vào thời Đức Phật còn tại thế, Ngài giảng dạy rải rác khắp mọi nơi ở Ấn Độ cho nên về sau chư Thánh tăng đem gom góp lại những bài pháp thoại đó và chú giải thêm nên gọi là Vi Diệu Pháp. Mặc dầu Vi Diệu Pháp được gọi là luận, nhưng đây là những lời dạy của Đức Phật. Trong khi đó, luận bên Phật giáo Đại thừa là những lời dạy, kiến giải của chư Tổ ở những thế hệ về sau chẳng hạn như Đạt Ma Tổ Sư Luận của Tổ Bồ Đề Đạt Ma…Mãi về sau ngài Vô Trước, Thế Thân chuyển một phần của Vi Diệu Pháp để thành lập riêng một hệ tư tưởng mới cho Phật giáo Đại thừa. Đó là Duy thức luận (Thành Duy thức).
Nói chung các bộ kinh thuộc hệ Nguyên Thủy nói về Chân lý Tứ Đế, Bát Chánh Đạo, Thập Nhị Nhân Duyên chứa đựng trong ngũ bộ kinh Nikayas. Còn các bộ luật của Phật giáo Nguyên Thủy từ xưa đã có 5 bộ: Tứ Phần của Đàm-vô-đức, luật Thập tụng của Tát-bà-đa, luật Ngũ Phần của Di-sa-tắc-bộ, luật Giải Thoát của Ca-Diếp-di và luật Ma-ha-tăng-kì của Ma-ha-tăng-kì.
Bây giờ, viết bằng tiếng Phạn (Sanskrit) có kinh tương đương với Ngũ Bộ Kinh Nikayas là kinh A Hàm (Agamas), được biên tập khoảng 5 thế kỷ sau khi Đức Phật nhập diệt. Sau đó kinh A Hàm được dịch sang chữ Hán. Agamas có nghĩa là truyền thừa. Nguyên bản tiếng Phạn đã mất dấu tích vì bị đạo quân Hồi giáo hũy diệt. Nhưng các bản dịch chữ Hán, chữ Nhật, chữ Tây Tạng vẫn còn.
1)Trường A Hàm (Dirgha-Agama) (30 kinh) tương đương với Trường Bộ Kinh (Pali).
2)Trung A Hàm (Madhyamagama) gồm 222 kinh, tương đương với Trung Bộ Kinh.
3)Tạp A Hàm (Samyuktagama) gồm 1361 kinh, tương đương với Tương Ưng Bộ Kinh.
4)Tăng Nhất A Hàm (Ekottarragama) gồm 481 kinh tương đương với Tăng Chi Bộ Kinh.
5)Ksudraka-Agama tương đương với Tiểu Bộ Kinh.
Trong khi đó, kinh điển Phật giáo Đại thừa có rất nhiều, nhưng đại để cũng thuộc về năm loại chính sau đây:
1)Bát Nhã (Prajnaparamita – Perfection of Wisdom) gồm trên 600 quyển mà Bát Nhã Tâm Kinh (Heart Sutra) là cốt tủy và kinh Kim Cang là kinh rút gọn lại. Học giả Tây phương gọi Bát Nhã là The Mother of all Mothers.
2)Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka-Flower Ornament) có ba bộ lớn mà một bản có tên là Gandavyuha (World Array Sutra).
3)Kinh Duy Ma Cật (Vimalakirti Sutra) nhấn mạnh vai trò của cư sĩ Bồ-tát Duy Ma Cật.
4)Kinh Đại Niết Bàn (Nirvara-Parinivara) diễn tả lại những ngày cuối cùng của Đức Phật trước khi Ngài nhập diệt.
5)Kinh Pháp Hoa (Sadharma pundarila – The Lotus Sutra), Kinh Lăng Già (Lankavatara) và Kinh A Di Đà hay Vô Lượng Thọ (Sukhavati –vyuha).
Mặc dù kinh điển chỉ được thực hiện bằng chữ viết lần đầu tiên sau lần kết tập kinh điển lần thứ tư khoảng năm 70 trước công nguyên nghĩa là gần trên 500 năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Tuy thế mức độ khả tín của Ngũ Bộ Kinh Nikayas (Pali) tương đối khá cao có thể nói trên 95% cho dù trong quá trình truyền miệng qua nhiều thế hệ thì thế nào cũng có chuyện sai lạc ít nhiều, tam sao thất bản là chuyện thường. Trong khi đó, mức độ khả tín của kinh điển Đại thừa trầm trọng hơn nhiều. Vì sự tiêu hoại những tu viện lớn ở Ấn Độ bởi người Hồi giáo nên kinh điển Đại thừa bản gốc không còn dấu tích ở Ấn Độ mà chỉ có các bản dịch ở Tây Tạng hay ở Trung Hoa. Ngay cả giới luật cũng sai khác rất nhiều bởi vì lúc khởi nguyên, đoàn thể tăng già Đại thừa chưa được thành lập nên chưa có giới luật. Về sau, khi các đoàn thể tăng già được thành lập như ở tu viện Nalanda, Vikramasila, giới luật mới dần dần được thiết lập.
 
Dựa theo học giả Mizuno, kinh Bát Nhã tương truyền là do sư Long Thọ chế biến từ thế kỷ thứ 2 sau công nguyên rồi sau đó những kinh điển khác như Pháp Hoa cũng lần lượt ra đời. Ở Ấn Độ sự tranh chấp giữa Nguyên thủy và Đại thừa có phần quyết liệt vì Nguyên thủy cho rằng Đại thừa đem những tư tưởng tín ngưỡng, thờ đa thần của Ấn Độ giáo vào để phá hoại giáo pháp chính thống của Đức Phật vốn không hề có tín ngưỡng. Nhắc lại, một nguyên nhân lớn lót đường cho sự suy tàn của Phật giáo ở Ấn Độ là Ấn Độ giáo (Hindu là hậu thân của đạo Bà la môn) đã thần thánh hóa Đức Phật và họ còn đưa ra một số thần và nữ thần Ấn Độ giáo vào làm các vị thần Phật giáo dưới dạng những Bồ-tát làm cho Phật giáo không còn khác biệt với các thần thánh của Ấn Độ giáo. Chính điều này đã xóa tan sự khác biệt giữa hai tôn giáo và họ chứng minh rằng Phật giáo chỉ là một tông phái của Ấn Độ giáo. Nhưng ở Trung Hoa, đoàn thể tăng già lại chấp nhận kinh điển Đại thừa như phản ảnh lời dạy chân thật của Đức Phật mà không hề có nghi vấn dựa theo tiến trình phát triển lịch sử. Phật giáo Đại thừa Trung quốc không dựa theo giới luật Nguyên thủy mà dựa vào kinh Phạm Võng, một kinh được xem như là tác phẩm của Trung Hoa. Mizuno viết tiếp:” Ở Trung Hoa có một số tăng như Huệ Tạo, T’an Le và Seng Yuan chỉ trích những kinh Bát Nhã, kinh Pháp Hoa và kinh Đại Bát Niết Bàn nhưng các sư này bị bịt miệng ngay, không cho phép nói lên sự thật”.
 
Nhắc lại, Bản Khai Nguyên Thích Giáo Lục do ngài Trí Thăng biên soạn năm 730 sau công nguyên là bản mục lục ghi lại tất cả rất chi tiết những kinh được dịch từ nguyên bản tiếng Phạn sang chữ Hán là 1076 kinh. Trong đó có đến 392 là kinh giả và 14 kinh khác có nguồn gốc đáng nghi ngờ. Như thế số kinh giả và không đáng tin cậy đã chiếm đến một phần ba. Nếu con số nêu trên là đúng thì kinh điển Đại thừa thật sự có vấn đề. Để có một ý tưởng rõ ràng về chân hay giả, hãy quay về nghe lại những lời Đức Phật dạy trong kinh Kalama rằng:
 
"Không được tin bất cứ gì Ta nói là đúng, chỉ vì đấy là do Ta nói. Trái lại phải mang ra thử nghiệm những lời giáo huấn của Ta giống như một người thợ kim hoàn thử vàng. Nếu sau khi quán xét các lời dạy của Ta mà nghiệm thấy là đúng, thì lúc ấy mới nên mang ra thực hành. Dầu sao thì nhất định cũng không phải là vì kính trọng ta mà mang ra thực hành".
 
Do đó muốn tự mình nhận biết kinh nào phát xuất từ kim khẩu, kinh nào do người sau sáng chế thì chỉ có một con đường duy nhất là nghiên cứu đọc kỹ lại Ngũ Bộ Kinh NiKayas (hoặc toàn bộ Kinh A Hàm) rồi so sánh với những kinh điển Đại thừa. Nếu giáo lý nào không có trong Ngũ Bộ Kinh thì phần đó được chư Tổ thêm vào ở những thế hệ về sau. Mặc dù chư Tổ có những kiến giải rất thâm sâu về thế giới siêu hình về vũ trụ, nhưng kiến giải của chư Tổ không thể nào so sánh với trí tuệ Chánh Biến Tri của Đức Phật được. Bằng chứng là cần trải qua nhiều thế kỷ và nhiều thế hệ, những tư tưởng về thế giới siêu hình Như Lai tạng và A lại da thức mới được hoàn chỉnh. Tuy vậy cho đến ngày nay những tư tưởng này vẫn chưa đồng nhất về lý thuyết cũng như cách hành trì. Ngược lại chân lý cứu khổ do Đức Phật nói ra cách nay trên 2500 năm lúc nào cũng đúng, ở đâu cũng đúng, bất cứ ai cũng có thể áp dụng được, không có gì huyền bí cả. Giáo lý Đức Phật là đơn giản, không phức tạp, dễ áp dụng, nhưng thực hành để thành tựu trí tuệ Bồ-đề thì không dễ đòi hỏi hành giả phải có một ý chí sắc đá để viễn ly. Viễn ly những thói hư tật xấu, viễn ly những tham đắm dục tình, viễn ly những tham vọng đê hèn, viễn ly những ý nghĩ bất thiện…Nói chung, hành giả phải viễn ly cho hết những dục vọng tham-sân-si, tẩy sạch hết tập khí ngã mạn. Càng viễn ly thì con người càng gần với an lạc thanh tịnh Niết bàn. Đức Phật dạy chúng sinh đời là bể khổ vì Ngài thấy biết như thế, nếu Đức Phật là đấng thần linh thì Ngài chì cần niệm “Úm ba di bát nhị hồng” rồi phảy cái phất trần thì thế gian làm gì còn đau khổ. Biết đời là bể khổ, con người lặn hụp trong biển trầm luân, nhưng chính Ngài không thể hóa giải nỗi khổ của chúng sinh mà mỗi người phải tự mình giải thoát ra khỏi mọi gông cùm của phiền não khổ đau mà giáo lý Đức Phật chính là tấm hải đồ giúp chúng sinh đến được bờ an lạc.
 
 
    BỐN LẦN KẾT TẬP KINH ĐIỂN
 
 
Trong lịch sử của Phật giáo liên quan đến kinh điển cho hậu thế, chúng ta thấy có những lần đại hội như sau:
 
1)Thời kỳ kết nạp thứ nhất: Đức Phật vừa mới nhập diệt, một số phàm tăng như Subhada đã có những thái độ và lời bất kính:” "Này các bạn! Tại sao các vị thương tiếc nhiều đến Ðức Phật làm chi, Ngài đã viên tịch rồi thì chúng ta về sau sống thoải mái hơn lúc trước nhiều, không còn nghe những lời khuyên răn trách cứ nữa: 'Hãy như thế này, hãy như thế kia ...'. Kể từ hôm nay chúng ta muốn làm gì thì làm, không còn bị ràng buộc bởi các giới luật, vì Ðức Phật đã viên tịch rồi". Tôn giả Ca Diếp nghe qua rất xót xa và lo ngại cho tiền đồ của Phật giáo. Với tư cách là đệ nhất “Hạnh đầu đà” , Tôn giả Ca Diếp cùng các ngài Kiều Trần Như, Phú Lâu Na, A Na Luật…không muốn đạo pháp mai một về sau nên đứng ra triệu tập một đại hội gồm 500 vị A la hán ở thành Vương Xá ba tháng sau khi Đức Phật nhập Niết bàn với sự bảo trợ của vua A Xà Thế. Trong số 500 Tỳ kheo này, 499 vị đã đắc quả A la hán chỉ trừ tôn giả A Nan. Lúc đó, tôn giả A Nan đang ở tại thành Tỳ Xá Ly, ngày đêm thường thuyết pháp cho tứ chúng. Mọi người lui tới nghe pháp đông đúc chẳng khác gì lúc Phật còn tại thế. Lúc ấy cũng tại đây, có một Tỳ kheo người xứ Bạt Kỳ đang ngồi thiền trên lầu, vì không khí ồn ào không thể tham thiền nhập định, bèn quán chiếu xem A Nan đã giác ngộ hay chưa, thì thấy rằng A Nan còn ở địa vị hữu học, liền đến chỗ A Nan, đọc lên bài kệ:
 
"Ngồi dưới cây chỗ vắng,
Tâm hướng đến Niết bàn.
Thiền định, chớ phóng dật,
Nói nhiều có ích chi?"
 
A Nan nghe vị Tỳ kheo ấy đọc kệ như vậy, lại biết việc ngài Ca Diếp không cho mình tham dự đại hội kết tập kinh điển, nên đầu đêm, giữa đêm và cuối đêm tinh tấn siêng năng đi kinh hành, mong cầu được giải thoát, nhưng vẫn chưa đạt được. Đến lúc nửa đêm, thân thể mệt mỏi tột cùng, tôn giả bèn có ý định nằm nghỉ một chút nên liền nghiêng đầu xuống gối.  Nhưng khi đầu vừa chấm gối thì bỗng dưng dứt hết lậu hoặc, có giải thoát.
Tôn giả Ca Diếp chọn thành Vương Xá làm nơi kết tập tại vì ở đây có đầy đủ các phương tiện và thực phẩm.Bấy giờ, 500 vị A La Hán liền đến thành Vương Xá. Họ chọn thạch động Satttapanna trên núi Vebhara trong thành Vương Xá (Rajagaha) làm địa điểm kết tập. Sau đó chư Thánh hiền Tăng cùng nhau kéo đến thành Rajagaha và yêu cầu vua A xà Thế giúp đở bằng cách cho nới rộng 18 Tăng đường cho chư vị kết tập có chỗ nghỉ ngơi. Thế rồi, tôn giả Ca Diếp đề cử tôn giả Ưu Ba Ly kết tập luật tạng, và được đại chúng chấp thuận. Ca Diếp bắt đầu hỏi Ưu Ba Ly: Giới nào Phật chế trước nhất, chế tại đâu, người nào sai phạm, phạm về tội gì.... Ư Ba Ly trình bày rằng: Phật chế giới dâm trước nhất, do Tu Đề Na (Sudinna) vi phạm đầu tiên... Một người hỏi, một người đáp và cuối cùng hỏi lại đại chúng, đại chúng cũng hoàn toàn đồng ý với sự trình bày của tôn giả Ưu Ba Ly. Công việc này kéo dài đến 80 lần mới hoàn tất, gồm đủ cả giới Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni và được đặt tên là Bát thập tụng luật (Bộ luật được đọc đến 80 lần).
 
Sau đó, tôn giả Ca Diếp đề cử tôn giả A Nan kết tập kinh tạng và cũng được đại chúng đồng ý. Tôn giả A Nan lần lượt kết tập các kinh sau đây: Tăng nhất, Tăng thập, Đại nhân duyên, Tăng Kỳ Đà, Sa môn quả, Phạm Động và những kinh Phật thuyết giảng cho Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, chư thiên và nhân loại. Những kinh dài kết tập thành một bộ gọi là Trường A Hàm. Những kinh trung bình kết tập thành một bộ gọi là Trung A Hàm. Những kinh nói cho nhiều đối tượng như Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di và chư Thiên kết tập thành một bộ gọi là Tạp A Hàm. Những kinh lần lượt nói từ một pháp tăng dần đến mười một pháp kết tập thành một bộ gọi là Tăng Nhất A Hàm. Ngoài ra, tập hợp các kinh nói bao quát nhiều vấn đề thành một bộ gọi là Tạp Tạng.
 
2)Thời kỳ kết tập thứ hai: Khoảng 100 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, có nhóm tỳ kheo (phàm tăng) ỏ thành Vajji thường xuyên nhận cúng dường bằng vàng bạc,châu báu từ chư thiện nam tín nữ. Khi đó, có một vị Thánh Tăng tên là Yassa từ Kosambi đến đây chứng kiến được nên liền triệu tập một đại hội để khiển trách các Tỳ kheo đó. Họ tập họp 60 vị A la hán và suy tôn ngài Revata, một bậc thánh tứ quả làu thông Phật ngôn làm chủ tọa. Nhóm Tỳ kheo ở thành Vesali không hành trì 10 điều học do Đức Phật ban hành cho nên các vị Thánh Tăng tuyệt đối cấm các vị Tỳ kheo đó không được hành động sai lầm nữa. Đó là không được giữ muối riêng, không được ăn trái giờ, không được ăn nhiều lần trong một ngày, không được uống rượu, không cất giữ vàng bạc cho cá nhân…
 
3)Thời kỳ kết tập thứ ba: xảy ra sau khi Đức Phật nhập Niết bàn 218 năm(325năm trước Tây lịch), Hoàng Đế A Dục triệu tập hơn 1000 vị Đại trưởng lão tại thành Hoa Thị (Pataliputra) dưới quyền chủ tọa của ngài Mục Kiền Liên Tứ Đế Tu (Moggaputta Tissa). Lý do kết tập là vì các ngoại đạo trà trộn vào hàng ngũ Tăng đoàn làm cho Tăng chúng bất hòa và Phật pháp trở nên hổn loạn. Sau 9 tháng làm việc, hội nghị đã hoàn thành công tác kết tập kinh điển và còn chỉnh đốn Tăng giới, bài trừ những hàng Tu sĩ phạm trai, phá giới, vô kỷ luật.
 
4)Thời kỳ kết tập lần thứ tư: Khoảng 400 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, vua Cà Ni Sắc Ca (Kaniska) đã triệu tập 500 vị Hiền Thánh Tăng (A la hán) họp tại thành Ca Thấp Di La để kết tập Kinh điển dưới quyền chủ tọa của hai ngài Hiếp Tôn Giả và Thế Hữu(Vasumitra). Vua Ca Nị Sắc Ca sai thợ đúc đồng đỏ thành lá mỏng để chép lại ba bộ luận:
 
1)Bộ luận “Ưu Ba Đề Xá” gồm 10 vạn bài tụng dùng để giải thích Kinh tạng.
2)Bộ luận “Tì Nại Da Tì Bà Sa” cũng gồm 10 vạn bài tụng, để giải thích Luật tạng.
3)Bộ luận “A Tì Đạt Ma Tì Bà Sa” cũng gồm 10 vạn bài tụng, để giải thích Luận tạng.
 
Như vậy ba bộ luận gồm 30 vạn bài tụng và có 9,600,000 lời giải thích đầy đủ ba tạng giáo điển. Sau khi hoàn tất, nhà vua sai đem cất vào trong hang đá, xây tháp lên trên để cúng dường, không cho ai mang ra khỏi lãnh thổ. Nếu ai muốn học tập nó thì phải đến đó mà đọc.
 
Tóm lại, ba kỳ kết tập đầu chưa cần đến sự biên chép, nghĩa là chỉ đọc tụng lại, xem lời lẽ nào là của Đức Phật đã nói ra, hay xét cho những ý nghĩa nào là đúng với chánh pháp. Cho đến kỳ kết tập thứ tư thì mới dùng đến văn tự để biên chép thành sách vở. Trong sự biên chép nầy, chư tăng chia làm hai phái: phái nam thì ghi bằng văn Pali, còn phái bắc thì chép lại bằng văn Phạn.
 
Ngoài bốn lần kết tập kinh điển ởtrên của Phật giáo Nguyên thủy, dần theo thời gian cũng có thêm vài lần nữa tổ chức tại Miến Điện vào năm 1871 cho lần kết tập lần thứ 5 và năm 1954 cho lần kết tập lần thứ sáu.
Trong khi đó, Phật giáo Đại thừa chỉ có một lần kết tập kinh điển tại A Phú Hản vào khoảng 500 năm sau khi Phật nhập Niết bàn để kếp tập toàn vẹn lại bốn bộ A Hàm:
1)Trường A Hàm (Dirgha-Agama) (30 kinh) tương đương với Trường Bộ Kinh (Pali).
2)Trung A Hàm (Madhyamagama) gồm 222 kinh, tương đương với Trung Bộ Kinh.
3)Tạp A Hàm (Samyuktagama) gồm 1361 kinh, tương đương với Tương Ưng Bộ Kinh.
4)Tăng Nhất A Hàm (Ekottarragama) gồm 481 kinh tương đương với Tăng Chi Bộ Kinh.
 
Sau đó,tất cả các kinh điển khác như Kinh A Di Đà, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Duy Ma Cật, Kinh Địa Tạng…đều do chư Tổ viết về sau và không có một kỳ kết tập nào để duyệt qua hay chấp thuận, ngay cả không có một đại hội của chư Tăng nào để đồng thuận rằng tất cả những kinh điển đó là do những lời giảng của Đức Phật. Nhắc lại, mỗi lần kếp tập kinh điển thì trong đại hội phải có ít nhất từ 500 cho đến 1000 vị Thánh tăng hay trưởng lão để kiểm nhiệm từng câu, từng bài giảng và thời gian làm việc có thể kéo dài từ một năm cho đến vài năm mới hoàn tất.
 
 
    LỜI TÁN THÁN ĐỨC PHẬT
 
Cuối cùng,chúng tôi xin trích dẫn lời ca ngợi Đức Phật của học giả H. G. Wells như sau:“Nơi Đức Phật ta thấy rõ ràng là con người giản dị, có lòng nhiệt thành, một mình tự lực phát huy ánh sáng tươi đẹp, một nhân vật sống thực, một con người như mọi người, chứ không phải một nhân vật thần thoại ẩn hiện trong nhiều truyện hoang đường. Ngài cũng ban cho nhân loại lời khuyên bảo có tánh cách phổ thông, nhiều quan niệm tân tiến và đạo đức của thế hệ tân thời đều tương hợp với giáo lý ấy”.
 
Đại Đức Sri Radhakrishman thì nói rằng:“Nơi Đức Phật Thích Ca chúng ta nhận thấy một tinh hoa toàn thiện của người Đông phương, và ảnh hưởng của Ngài trong tư tưởng và đời sống nhân loại là một kỳ công hy hữu cho đến nay không thua kém ảnh hưởng của bất cứ một vị giáo chủ nào trong lịch sử. Mọi người đều sùng kính, tôn Ngài là người đã dựng lên một hệ thống tôn giáo vô cùng thâm cao huyền diệu. Ngài thuộc về lịch sử tư tưởng thế giới, Ngài còn là kết tinh của người thiện trí. Đứng về phương diện trí thức thuần túy, đạo đức trang nghiêm và tinh thần minh mẫn, chắc chắn Ngài là một trong những vĩ nhân cao thượng nhất của lịch sử”.
 
Thêm nữa, chính thủ tướng Nehru tuyên bốrằng:“Nếu bất kỳ vấn đề nào phải được xem xét, thì vấn đề ấy phải được xem xét một cách hài hòa an lạc và dân chủ như phương pháp mà Đức Phật đã dạy”. Và ông nói thêm:”Có lẽ không thời điểm nào trong lịch sử của nhân loại mà thông điệp về hòa bình của Ngài lại cần thiết hơn cho nhân loại đang khổ đau và điên cuồng như thế giới hiện nay”.
 
Ngay cả  họcgiả Hồi giáo Abdul Atahiya nói rằng:” Đức Phật không phải là tài sản riêng cho giới Phật tử. Ngài là tài sản của toàn thể nhân loại. Giáo pháp của Ngài dành cho tất cả mọi người. Mọi tôn giáo, được ra đời sau Đức Phật, đã mượn nhiều ý tưởng hay đẹp từ Đức Phật”.
 
Nhà đại văn hào Aldous Huxley nói rằng:”Duy nhất trong tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới, Phật giáo tiến hành trên con đường của mình mà không gây sát hại, hành hạ, cấm đoán, kiểm duyệt hoặc tìm tòi soi bói”.
 
Chính Gandhi tán thán Đức Phật:”Bằng đức hy sinh rộng lớn của Ngài, và bằng phẩm hạnh thanh tịnh vô nhiễm của đời Ngài, Ngài đã ghi tạc lên trên Ấn Độ giáo những dấu vết không bao giờ phai mờ, và đối với bậc thầy vĩ đại ấy, Ấn Độ giáo còn mang một mối nợ phải được tri ân muôn đời”.
Ngay cả nhà bác học Albert Einstein cũng nói:”Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo của hoàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học.Tôn giáo ấy phải bao quát cả hai phương diện tự nhiên và siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng đầy đủ các điều kiện đó. Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo cũng không cần từ bỏ những quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khỏi khoa học”.
 
Một triết gia người Úc là Schopenhauer phát biểu rằng:”Phật giáo là một tôn giáo cao cả nhất và là một trong những tia sáng vĩ đại nhất không chỉ riêng cho Châu Á mà cho khắp toàn cầu”.
 
Và sau đây chúng ta hãy nghe tiến sĩ Edward Conze nói về Phật giáo:”Tất cả mọi người sống ở Á Châu đều có thể hãnh diện về một tôn giáo không những có trước tôn giáo Tây phương cả hơn 500 năm mà còn có thể bành trướng và duy trì mà không cần dùng đến bạo lực và không hề bị oen ố bởi những cuộc chiến tranh tôn giáo và thánh chiến”.
 
Sau cùng Tiến sĩ Oldenburg, một học giả người Đứcphát biểu rằng:”Không phải chính Đức Phật đã giải thoát con người, nhưng Ngài dạy họ tự giải thoát cho chính mình bởi sự thức tỉnh của những lời dạy phát sinh từ ánh sáng trí tuệ của chính họ”.
 
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
 
 
Lê Sỹ Minh Tùng
 
__________________
 
 
usaelection gởi