Phần _3A
PHÁP CỦA ÐẠI ÐỨC SÀRÌPUTTA
Những kinh đã được Ðại Ðức Sàrìputta thuyết ra bao gồm nhiều đề tài khác nhau có liên hệ với đời sống phạm hạnh. Nó diễn tả từ những tư thức đơn giản đến những điểm sâu xa trong giáo lý và sự thực hành Thiền Ðịnh của nhà Phật. Một bảng kê khai những bài pháp ấy với sự trình bày tổng quát về mỗi đề tài sẽ được đưa ra dưới đây. Vị trí sắp xếp của chúng trong Kinh Tạng không chỉ rõ một hệ thống đạo sử nào để người Phật tử có thể định được thời gian tính của nó.
Tuy nhiên, cũng có một số ít nội dung các cuốn kinh nói về những biến cố đặc biệt đã xảy ra và được ghi nhận trong thời gian đức Phật còn sinh tiền và đang lãnh đạo Giáo Hội.
Pháp của Ðại Ðức Sàrìputta trong Majjhima-Nikàya
PHÁP SỐ 3: NHỮNG KẺ THỪA HƯỞNG PHÁP BẢO (DHAMMA DÀYÀDA)
Sau khi đức Phật đã thuyết về "Kẻ thừa hưởng Pháp bảo và loại người đáng thừa hưởng của cải trên đời", Ngài bèn vào tư thất an nghỉ. Ðại Ðức Sàrìputta liền tiếp tục giảng giải cho chư Tỳ-khưu về đề tài "Làm thế nào để kềm chế lấy mình và tại sao không kềm chế được?".
Sau thời pháp là lúc đức Bổn Sư nhập định họ bèn theo cách đó để luyện tập cho tư tưởng mình trở nên thuần thục và thanh tịnh hầu loại trừ những điều phóng tâm lẫn chán nản. Kết quả là tâm họ đã trở nên trong sáng và ưa thích pháp cô tịch. Lý do, Ngài đã nói rõ sự nguy hiểm của mười sáu Tùy phiền não trong tâm và chỉ cho Tăng Chúng biết được con đường Trung đạo, con đường có thể tận diệt tất cả các pháp xấu xa. Hay nói cách khác đó là Bát Chánh Ðạo.
PHÁP SỐ 5: SỰ CHẤM DỨT TỘI LỖI.
Trong số bốn hạng người:
Kẻ gây tội và biết rằng đó là tội.
Kẻ có tội mà thành tâm ăn năn quyết lòng chừa bỏ.
Kẻ không làm tội và ghê sợ tội lỗi.
Kẻ không tội lỗi mà luôn luôn tinh tấn tiêu diệt những nguồn gốc gây ra tội lỗi.
NẾU PHẠM TỘI MÀ BIẾT RẰNG ĐÓ LÀ TỘI HOẶC KHI MÌNH DỄ DUÔI PHẠM NHẰM TỘI LỖI RỒI SAU ĐÓ TỰ ĂN NĂN, VẪN CÒN CÓ THỂ GIÁC NGỘ, HƠN LÀ LÀM TỘI MÀ KHÔNG BIẾT TỘI HAY CÓ TỘI MÀ KHÔNG Ý THỨC ĐƯỢC NÓ.
Ðại Ðức Sàrìputta đã giảng giải rõ ràng tại sao Phật giáo lại phân tích như vậy. Trong bài pháp này, Ngài còn chỉ rõ tầm quan trọng trong việc tự kiểm soát lấy tư tưởng và làm sao tạo cho nó sự phát triển.
PHÁP SỐ 9: SAMMÀDITTHI SUTTA
Nói về Chánh Kiến (Sammàditthi) xin xem cuốn "Chánh Kiến Trong Ðạo Phật".
PHÁP SỐ 28: MAHÀ HATTHIPÀDA PAMA SUTTA
Ðó là bài pháp khá sâu sắc, nói về "Sự so sánh những bước chân voi" (Hatthipàda) đã được nhắc đến trong đoạn trước.
PHÁP SỐ 45: MAHÀ DEVALLA SUTTA
Bài pháp thuộc loại thâm thúy này nhắc lại sự Minh Giảng của Ðại Ðức Sàrìputta trước một số câu hỏi do Ðại Ðức Mahà Kotthika đặt ra. Ðại Ðức ấy cũng là một trong những người đã đạt được Tuệ Phân Biệt.
Trưởng lão Sàrìputta đã tạo cho cuộc đối đáp trở nên vô cùng tuyệt diệu với những câu hỏi sáng sủa và những đoạn trả lời thâm thúy, sâu xa đã làm cho thính giả lẫn người luận đạo chấp nhận một cách thích thú mọi khía cạnh trong chiều sâu của trí tuệ. (Dĩ nhiên là bắt đầu bằng Chánh Kiến và kết thúc bằng Chánh Ðịnh.)
PHÁP SỐ 69: GULISSÀNI SUTTA
Ðây là bài pháp thuyết cho ông Gulissàni nói về phương diện trông nom cũng như thực hành Pháp bảo của các Tăng sĩ trú ngụ trong rừng. Ðại Ðức Mahà Moggallàna (Mục Kiền Liên) đã đặt nhiều câu hỏi để bàn luận. Ðức Trưởng lão còn xác nhận rằng "Không phải riêng những Sa-môn ẩn tu trong rừng mà ngay cả các Tăng sĩ ngụ trong những vùng phụ cận thành phố cũng phải thực hành cùng một phận sự mà Pháp bảo đã dạy rõ".
PHÁP SỐ 79: DHÀNANJÀNI SUTTA
Ðại Ðức Sàrìputta giảng giải cho ông Bà-la-môn Dhànanjàni nhiều phận sự khác nhau của một người cư sĩ, là không phải chỉ lo sám hối những ý nghĩ hay hành động sai lầm. Cũng không phải cứ lo làm sao tránh khỏi những hậu quả đau khổ của những tội lỗi đã tạo từ trước sẽ đem đến trong tương lai.
Khi chưa lâm chung, còn nằm trên giường bịnh được nghe bài pháp ấy, ông đã tỉnh ngộ trút hết những phiền toái trong tâm, rồi một lòng tin nơi Ðại Ðức Sàrìputta, niệm tưởng đến ân đức của những bậc Phạm Hạnh. (Như đã nói ở đoạn trước).
PHÁP SỐ 114: ASEVITABBA SUTTA
Pháp nói về điều nên thực hành hay chẳng nên thực hành (Sevitabba: Nên. Asevitabba: Chẳng nên).
Ðại Ðức Sàrìputta nghiên cứu kỹ lưỡng những lời dạy tóm tắt của đức Phật về các pháp nên thực hành, nên nuôi nấng hay phát triển. Và những pháp nào không nên thực hành như thế. Pháp này được trình bày một cách có liên hệ với những hành động, lời nói và ý nghĩ của con người luôn luôn bị ảnh hưởng bởi những đối cảnh của Lục căn.
PHÁP SỐ 143: ANÀTHAPINDIKA SUTTA
Pháp thuyết cho ông bá hộ Cấp Cô Ðộc (Anàthapindika): Ðại Ðức Sàrìputta đã đến bên giường bịnh để giảng giải cho ông bá hộ Cấp Cô Ðộc nghe về sự gìn giữ tâm hồn, không cho dính mắc vào những âu lo cố hữu.
Ngài hướng dẫn bịnh nhân lần lượt từ căn thức một và dạy ông theo lối kiểm soát:
"Này người thợ sinh diệt. Ta không còn âu lo ở con mắt, không còn âu lo ở lỗ tai, không còn âu lo ở cái lưỡi, không còn âu lo ở lỗ mũi, không còn âu lo ở làn da xúc cảm nữa. Vì ngươi đã không bao giờ ngừng nghỉ việc tạo ra xác thân ô uế này. Nó đã chứa trong đó sáu cái nguy hiểm mà giờ đây ta đã biết rồi. Chúng đã được sáu đối tượng là hình sắc, âm thanh, mùi thơm, vị ngọt và sự xúc tiếp vừa lòng nuôi nấng. Sáu sự cấu hợp ấy đã tạo ra sáu cảm nhận đầy vô thường, đầy phiền não".
Ông cứ tiếp tục quán xét như vậy, ghi nhớ theo thứ tự từ Lục thức, Lục nhập (hay còn gọi là Lục thọ), rồi đến những biến thức trong Thiền tâm. Những hình thức gồm sự tan rã từ một thế giới này sinh ra một thế giới khác. Và tất cả các cảnh giới cũng thế. Nghĩa là thoát ly khỏi những màng lưới ràng buộc của Danh và Sắc.
Tóm lại, chỉ có phép quán xét để an tịnh thì mới nên thực hành cho thuần thục, thấm nhuần bởi khi một người sắp chết, sự bắt đầu cho một kiếp sống tiếp theo chính là ở chỗ tâm trí an trụ, các thức sẽ duyên theo đó mà tiến sinh.
Pháp của Ðại Ðức Sàrìputta trong Dìgha Nikàya
PHÁP SỐ 28: SAMPASÀ DANIYA SUTTA
Ân đức trọn lành là nguồn phát sinh niềm tin tưởng. Ðại Ðức Sàrìputta đã ca ngợi một cách hùng hồn ân đức của chư Phật trước sự hiện diện của đức Bổn Sư, khi đó Ngài đang thuyết về những phẩm tính vô song (Anuttariya) của những bậc Toàn Giác. Ðó là sự phát biểu đúng lúc để nói lên lòng tin tưởng tuyệt đối của Ðại Ðức Sàrìputta đối với Ðức Phật. Ðây có thể xem như một sự bổ túc cho bài pháp được đức Phật mệnh danh là "Tiếng Gầm Con Sư Tử" (Sìhanada) của Ðại Ðức Sàrìputta. Nội dung của nó hoàn toàn trùng hợp với phần đầu của một đoạn giảng giải về Giáo Lý Giải Thoát đã được ghi trong kinh Mahà Parinibbàna.
PHÁP SỐ 33: SANGÌTI SUTTA
Ðây là một bài pháp do Ðại Ðức Sàriputta nghe đức Phật thuyết rồi lập lại một cách thuộc lòng trong kinh Sangìti Sutta.
PHÁP SỐ 39:
Một bài pháp gồm 10 chi, cắt nghĩa rộng rãi, đã được nói một cách tóm tắt ở đoạn trước (Pháp này nằm trong kinh Dasutara Sutta).
Pháp của Ðại Ðức Sàrìputta trong Anguttara Nikàya
Những số la mã sau đây là số đánh trên các cuốn sách (Nipàta) và những "số thường" là số những bài kinh. Sự phân chia các kinh phần trong Anguttara Nikàya chỉ danh số như vậy.
-ooOoo-
{Còn tiếp}
Hoang Nguyen gởi