Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh


 
DÁN MÁC TU "HẠNH ĐẦU ĐÀ" CHỈ BỊP ĐƯỢC AI KHÔNG HIỂU RÕ GIÁO LÝ PHẬT HỌC MÀ THÔI


KHÔNG CÓ KINH NÀO NÓI TU THEO HẠNH ĐẦU ĐÀ THÌ ĐẮC ĐẠO CẢ. Thời Đức Phật chỉ có duy nhất ngài Đại Ca Diếp thực hành Hạnh Đầu Đà, nhưng mà là CHỈ SAU KHI NGÀI ĐÃ CHỨNG TỨ THÁNH QUẢ A LA HÁN chứ không phải trước khi Ngài chứng quả A la hán. Người đắc thánh quả A la hán vô cùng vĩ đại vì có TAM MINH, LỤC THÔNG. TAM MINH, LỤC THÔNG chính là có thần thông, phép lạ khủng khiếp. Về TAM MINH, LỤC THÔNG của các vị, chúng ta nói muôn đời muôn kiếp cũng không hết.

Nhưng nói gọn lại thì như sau: * TAM MINH: (1) TÚC MẠNG MINH là nhớ được vô lượng kiếp của mình. (2) THIÊN NHÃN MINH là thấy được luân hồi của tất cả chúng sinh khác. (3) LẬU TẬN MINH là thấy được Tứ Diệu Đế, đạo lý tột cùng của vũ trụ. Thấu về Luật Nhân Quả, về đường đi tinh vi của Luật Nhân Quả, thấu rõ sự Đau Khổ của con người, của chúng sinh là gì. Lậu Tận Minh là trí tuệ mênh mông mà chúng ta bàn hoài mà không bao giờ hết được.

* LỤC THÔNG (1) THA TÂM THÔNG: là biết Tâm của Tất Cả Vô Số Chúng Sinh, mà không chỉ là chúng sinh trong cõi người mà là của tất cả chúng sinh trong Lục Đạo (6 Cõi) của Luân Hồi: chúng sinh trong Cõi Địa Ngục, Cõi Ngạ quỷ, Cõi Súc Sinh (các loài vật), Cõi Người, Cõi Trời, Cõi A Tu La. Khi các Ngài không muốn biết thì Tâm các Ngài yên trong thanh tịnh. Còn khi các Ngài muốn biết thì đừng ai dấu được điều gì trong tâm mình với các Ngài. Ý nghĩ bí mật nhất trong tâm mình các Ngài cũng đọc được hết, cả những ý nghĩ thoáng qua rất nhanh của ta, thậm chí cả những ý nghĩ mà ta chưa kịp nghĩ ra, ví dụ như một cong ong vừa mới bay ra khỏi tổ, các Ngài biết được ngay rằng nó sẽ bay về hướng nào để đi tìm hoa, vì các Ngài thấy được trực giác của nó hướng về phía có vườn hoa vừa nở. Thế giới này mở bày ra hết mọi thứ, không ai dấu được bất kỳ điều gì đối với một vị A la hán.

(2) THIÊN NHĨ THÔNG: là nghe hết và hiểu ý nghĩa của mọi âm thanh ở mọi nơi BẤT KỲ ĐÂU, từ tiếng của muôn loài, đến những tiếng động thì thầm trong lòng đất, sự sôi sùng sục âm thầm của dung nham trong lòng đất, cho đến âm thanh to lớn khủng khiếp của phản ứng nhiệt hạch trên Mặt trời, v.v…

(3) THẦN TÚC THÔNG: là vô số phép biến hóa. Các Ngài một thân có thể biến thành cả ngàn thân bay lên hư không, hiện thân thành nhỏ, hiện thân thành lớn, đi xuyên qua vách núi. Các Ngài có thể biến hóa, có thể phi hành phi thường, Làm Gì Cũng Được. Không kinh Phật nào nói tu theo Hạnh Đầu Đà thì sẽ chứng quả. Mà con đường duy nhất để chứng quả là con đường theo Bát Chánh Đạo, trong đó có Chánh thứ tư là Chánh Nghiệp, nghĩa là phải làm vô số phước lành trong vô lượng kiếp giúp ích cho chúng sinh thì mới chứng thánh quả được.

Đức Phật cũng vậy, Ngài đã vô lượng kiếp sống làm vô số việc phước lành lợi ích cho chúng sinh. Đến kiếp làm Thái tử con vua Tịnh Phạn thì mới đủ duyên và phước để chứng thành Phật. Việc Ngài bỏ ngôi Thái tử, xuất gia học Đạo, rồi ngồi thiền định chỉ có 49 ngày dưới gốc cây bồ đề chỉ là bước cuối cùng của quá trình thực hành Bát Chánh Đạo, làm vô số việc phước, chỉ là giọt nước làm tràn ly. Vì vậy, Ngài chỉ ngồi thiền 49 ngày đêm dưới gốc cây bồ đề là đã chứng đạo. Còn nếu không có phước, thì ta có ngồi thiền đến cả mười nghìn ngày thì cũng chẳng chứng gì cả. Trước khi Thành Đạo, Đức Phật cũng đã thực hành 06 năm ròng rã khổ hạnh, mỗi ngày chỉ ăn một hạt vừng, tu ép xác đến mức người chỉ còn da bọc xương.

Việc Ngài tu khổ hạnh 06 năm ròng này là tiền vô hậu khoáng, trước đó không có ai làm được và sau này cũng không có ai làm được. Nhưng khi đó Ngài cũng không thể chứng Đạo, và Ngài nhận ra rằng tu khổ hành không phải là phương pháp tu để Chứng Đạo. Cho nên Ngài mới từ bỏ phương pháp tu khổ hạnh và chọn con đường Trung Đạo để tu và sau đó mới Thành Đạo. Ngài Đại Ca Diếp cũng không ngoại lệ của con đường duy nhất Bát Chánh Đạo.

Ngài KHÔNG CHỨNG ĐẠO DO TU THEO HẠNH ĐẦU ĐÀ, mà Ngài Chứng Đạo là do đã phải tích vô lượng phước từ vô lượng kiếp trước. Trong kiếp Ngài Chứng Đạo cùng thời Đức Phật thì trước khi xuất gia Ngài là con nhà giàu Bà la môn nức tiếng giàu có. Ngay khi được sinh ra thì Ngài đã hội đủ những quý tướng của một bậc vĩ nhân, trong đó có bảy quý tướng giống với vẻ đẹp của Đức Phật. Ngay từ nhỏ, Ngài được giáo dục theo truyền thống Bà la môn và nhanh chóng trở nên xuất chúng trong nhiều lĩnh vực như văn học, toán thuật, thi họa, thiên văn, tướng số... Khi nhân duyên đến, Ngài và vị hôn thê của Ngài nhất quyết dứt bỏ đời sống thế tục để bước đi trên con đường phạm hạnh tìm cầu Đạo cho đến khi gặp Đức Phật.

Một ngày. Thế Tôn và Tăng chúng đang đi khất thực ngoài thành Vương Xá. Như biết nhân duyên với vị đại đệ tử của mình đã đến, bỗng nhiên Đức Phật biến mất giữa hư không, sau đó xuất hiện đứng ôm bát trên con đường Tôn giả sắp đi ngang qua. Từ đằng xa, nàng Bhadda nhìn thấy Phật đầu tiên và sững người trước dáng vẻ uy nghiêm rực rỡ của bậc Đạo Sư.

Tôn giả Đại Ca Diếp trông thấy Phật thì rúng động và quỳ xuống đành lễ: Kính bạch Đức Thế Tôn! Người là bậc Đạo Sư của con, con là đệ tử của Người. Đức Thế Tôn đáp lại: “Lành thay, Tỳ kheo Ni Bhadda, hãy đến đây”. Ngay lập tức, bằng thần thông của Người, hai vị có đầy đủ y cụ của một vị Tỳ kheo chân chính và cùng Đức Phật trở về Tình xá Trúc Lâm (Veluvana). Sau khi xuất gia trong Pháp và Luật của Thế Tôn được tám ngày, Tôn giả chứng đạt Thánh quả A La Hán, viên mãn lời chư Phật dạy.

VÌ VẬY:

1- Không có kinh sách nào nói rằng Hạnh Đầu Đà là con đường đi đến Chứng Đạo. Pháp Tu Khổ Hạnh ép xác không đưa đến Chứng Đạo (Đức Phật đã chứng minh và dạy điều này và chỉ ra con đường Trung Đạo).

2- Ngài Ca Diếp chỉ thực hành Hạnh Đầu Đà SAU KHI NGÀI CHỨNG QUẢ A LA HÁN, có đầy đủ TAM MINH, LỤC THÔNG. Nghĩa là điều kiện để thực hành Hạnh đầu đà là PHẢI ĐÃ CHỨNG THÁNH QUẢ A LA HÁN (có đầy đủ TAM MINH, LỤC THÔNG (thần thông).

3- Con đường duy nhất để Chứng Đạo Giải Thoát là BÁT CHÁNH ĐẠO, trong đó có Chánh Nghiệp là PHẢI LÀM PHƯỚC VÔ LƯỢNG trong vô số kiếp, chứ không phải là tu Hạnh Đầu Đà, không phải là đi khắp nơi biểu diễn có ê kíp đi theo quay phim chụp ảnh dàn dựng lễ bái đưa lên mạng xã hội quảng bá.

HĐMT

________________


Hoang Nguyen gởi