Dân Quèn Bolsa + Việt Cộng "con"
Tôi có một anh bạn (và cũng là đồng ngũ hồi còn ở Trường Sinh ngữ Quân đội) có biệt danh Dân Quèn Bolsa vì anh hiện ở Little Saigon nhưng đi và về Việt Nam thường xuyên.
Tuy về Việt Nam chưa đến độ “như cơm bữa” nhưng Dân Quèn Bolsa có thể xếp vào loại “Việt Kiều nặng tình với quê hương”! Anh cũng chính là người mang 4 cuốn sách “Hồi ức Viễn du” về cho tôi sau bao tháng ngày mong đợi.
Sự nghiệp văn chương của Dân Quèn Bolsa có thể xếp vào loại “xuân thu nhị kỳ” mới thấy xuất hiện nhưng quả thật tôi thấy phục anh vì lối văn nửa châm biếm, nửa đứng đắn. Anh có văn phong tựa Công Tử Hà Đông (bút danh của nhà văn Hoàng Hải Thủy) trong những bài phiếm luận trên báo trước năm 1975.
Công Tử Hà Đông và Dân Quèn Bolsa đều là “dân Bắc Kỳ di cư năm 54” nên gì chứ việc mỉa mai là… “số một”!
Nhân “tướng râu kẽm” Nguyễn Cao Kỳ (1930-2011) qua đời tại Kuala Lumpur, Malaysia, Trịnh Hội (chồng cũ của MC Kỳ Duyên) có viết một bài trên blog với nhan đề “Bố Kỳ”, bày tỏ lòng thương tiếc (chắc cũng để trọn tình, trọn nghĩa với Kỳ Duyên)!
Ngay từ đầu bài viết, Dân Quèn Bolsa đã “đá giò lái” bài viết này một cách thẳng thừng:
“Xin lỗi Trịnh Hội nha! Tôi vẫn thích đọc blog TH vì khả năng diễn đạt giản dị, rõ ràng của anh, cũng như tài nhận xét sự việc sắc bén và tinh tế. Tuy nhiên hôm nay xem bài Bố Kỳ, thần tượng TH của tôi đã đổ vỡ gần hết. Chỉ còn lại một đặc tính tử tế, nhân nghĩa của anh là còn nguyên vẹn. Thôi thì nhân vô thập toàn, cứ xem như tôi lại có cơ hội mở mắt ra.
“Điều thứ nhất, bố Kỳ là bố của anh (TH), của con cái ông ta chứ đối với bàn dân thiên hạ thì chắc là không phải. Khi đọc đề tựa ‘Bố Kỳ’ của anh, tôi thấy anh láo lắm. Tôi chưa hề nghĩ anh có tính nết này. Anh dạo này hay ca tụng Bắc Kỳ và cũng bắt đầu nhiễm được nhiều tính cách của người Bắc rồi đấy.
“Tôi cũng là người Bắc, Bắc rặc. Vợ cũng Bắc. Nhưng nói thật với anh khi có ai nhận xét về tôi bằng những cụm từ: hình như là người Bắc, giống người Bắc, y như người Bắc, đúng là người Bắc có khác… thì tôi khựng ngay. Vì không biết mình đã làm gì, nói gì không tử tế hoặc kém thành thật đến nỗi người ta phải nói thế.
(hết trích)
Trên Blog của mình, Trịnh Hội kể lại ngày mà anh đến gặp “Bố Kỳ” xin hỏi cưới Kỳ Duyên:
“Lần đầu tôi gặp bố là ở nhà của ông ở Nam Cali cách đây khoảng 7, 8 năm về trước. Hôm ấy tôi đến để xin ông cho tôi lấy con gái của ông theo đúng như thông lệ bên Tây phương. Đại khái tôi nói thế này:
“Thưa bác, hôm nay con qua đây để xin bác cho con lấy Duyên làm vợ và cho con gọi bố là bố’. Vừa nói tôi vừa nhìn thẳng vào mắt ông (nhưng tim bên trong lúc ấy nó đang đập lộn xà ngầu).
“Ông nhìn lại tôi nhưng chỉ vài giây thôi sau đó chẳng nói chẳng rằng và không thèm đếm xỉa gì đến lời cầu xin rất thành thật (nhưng nghĩ lại thấy có phần nào hơi quá thẳng thắn của một thằng người Nam lớn lên ở Úc như tôi!), ông quay sang mặt rất tỉnh, cười bảo với các bác bên nhóm Không Quân cũng là chiến hữu ngày xưa của bố đang ngồi cùng bàn:
“Cái thằng này ngày xưa mà nó hỏi tôi như thế này thì tôi cho đem ra bắn ngay lập tức!”.
(hết trích)
Dân Quèn Bolsa lập tức “phản pháo”:
“Tôi tin rằng anh có ý tốt khi viết về ổng. Anh nghĩ người ta không hiểu hoặc hiểu lầm ổng nên anh muốn đưa ra những giai thoại nho nhỏ để hóa giải dư luận. Chúng tôi cả đời theo ổng rồi, điêu đứng tủi hổ vì ông mà không biết sao? Còn anh thì cao lắm gặp ổng chục lần ngắn gọn trong nhiệm kỳ phò mã 4 năm lại biết hơn chúng tôi? Không lẽ anh lại nông cạn và tự phụ đến thế sao”?
…
“Anh nói ông Kỳ có “sense of humour”, tiếng ta có nghĩa là có tính khôi hài. Anh không nói sense of humour của ông có good hay không, nhưng tôi cũng xin coi là good đi (dù sao ông cũng ngủm rồi). Và như vậy thì đây chắc là tính cách độc nhất mà ông có. Vì ngoài tính này ra, suốt cả cuộc đời và suốt cả sự nghiệp của ổng tôi chẳng thấy có người nào đáng tin cậy cho biết ổng có một tính tốt nào khác”.
…
“Và anh nói ông Kỳ có tính tếu tôi cũng tin ngay. Mặc dù nhận xét và kết luận của anh hình như không giống ai. Bố vợ nói với con rể tương lai “lúc tôi bằng tuổi anh thì tôi đã có đến 6 con rồi đấy nhé” là một câu nói nham nhở chứ tếu chỗ nào? Hay là sense of hunor của anh và ổng cao siêu quá người phàm như tôi không ngộ được?
“Anh Hội à, anh còn trẻ lắm. Có nghĩa là anh không phải sống qua quãng đời ê chề như chúng tôi ở VN trước đây với những lãnh tụ như ông Kỳ. Anh không hiểu được đâu… Tiếc thay anh càng biện luận tôi càng thấy anh ngụy biện.
“Anh càng binh ổng tôi càng thấy hổ thẹn vì ngày xưa đã có 1 lãnh tụ như ổng. Cứ y như là anh chọc c.. ra rồi bắt chúng tôi ngửi. Tôi khuyên anh, chuyện này không được đâu. Đừng đem thương hiệu TH tốt đẹp của anh đi làm chuyện ruồi bu.
“Mở mồm ra là đòi bắn đòi giết người ta, như vậy là quân mất dậy chứ sao bảo là người ‘trực tính’? Có người thì bảo thế là đầu gấu, du côn, ối giào đủ thứ từ. Người Bắc hay lắm cơ anh Hội. Họ có rất nhiều từ để diễn tả tính cách này. Tôi cũng chẳng hiểu vì sao. Có thể ông bố con Giời con Phật của anh lúc còn sống chắc biết”.
(hết trích)
Trịnh Hội còn viết trên Blog: “Không phải ngẫu nhiên mà con gái út của bố được thành danh qua nghề MC trong suốt hai thập niên qua”. Về điều này, Dân Quèn Bolsa tấn công tới tấp:
“Xin lỗi anh, tôi nghĩ tâm thần anh chắc có vấn đề rồi đó. Người Bắc có câu ‘vô duyên chưa nói đã cười’. Mà lại cười hô hố nữa mới ghê. Có nhiều quyển tự điển VN mở tra cứu từ ‘vô duyên’ là thấy ngay hình MC đại tài của anh mà không cần thêm 1 lời định nghĩa nào. Xin lỗi cả anh lẫn MC đại tài của anh, không có ông Nguyễn Ngọc Ngạn thì MC đại tài của anh sẽ ra sao, sẽ làm được gì. Mới nghĩ tới đó là ớn chè đậu rồi không dám nghĩ tiếp. Khiếp! Giời ạ!”
Cuối cùng, Dân Quèn Bolsa viết:
“Anh Hội ơi, tôi đã có lần gặp anh ngoài đời và thật tâm mến mộ anh. Tôi lại là một fan trung thành của blog TH. Anh Hội ơi, xin anh tha cho tôi. Viết gì cũng được, nhưng đừng viết về cha con ổng nữa.
“Những bài blog của anh đa số thật hay. Hay nhất là cái tự nhiên của nó. Hay nhất là anh nói thong thả, khoan thai, dẫn giải người đọc từng bước một thật là tuyệt vời. Văn vẻ giản dị chân phương như người miền Tây. Thầy tôi dậy ‘viết tức là đọc lại’. Có xuôi tai mình thì mới xuôi tai người. Thế cho nên anh thử đọc lại bài Bố Kỳ này của anh xem. Nó gượng gạo thế nào ấy. Nó thiếu tự nhiên, tư tưởng thì nhảy lung tung, lập luận không vũng chắc, thiếu tự tin, nói nhưng lại sợ người ta nghe. Dẫn chứng thì ngây ngô như trẻ con. Ngay cả giọng văn cũng lai lai kiểu Bắc Kỳ sáo rỗng.
“Những bài blog của anh thường đầy tính thuyết phục vì anh không phải chứng tỏ gì cả. Bài viết Bố Kỳ của anh thì không vậy. Hình như anh đang cố gắng chứng tỏ 1 cái gì đó nên kết cuộc lại đâm ra phản cảm. Chẳng thuyết phục được ai. Nghe cứ như Trịnh Hội đang nói chuyện chỉ vì đã được bấm nút. Có phải chính anh cũng đang tự thuyết phục mình điều gì chăng? Hay anh muốn chứng tỏ ta là người quân tử, vẫn sẵn sàng ra tay cứu bồ ‘người xưa’?”
(hết trích)
Những lời đã dẫn ở trên, Dân Quèn Bolsa viết vào ngày 28/09/2011 và anh tính comment ngay trên Blog Trịnh Hội nhưng vì dài quá nên không đăng được. Thế cho nên anh gửi cho Blog của tôi (vì là chỗ quen biết) để chia xẻ cho nhiều người cùng đọc!
Và dưới đây là một vài bình luận trên Blog:
“Cái rắc rối trong đời của Tướng Kỳ là vì ông ngồi không đúng chỗ. Nếu ông chỉ là một phi đoàn trưởng hoặc cao hơn, một tư lệnh không quân, ông có nhiều tố chất, khả năng để có thể trở thành một anh hùng. Đằng này ông lại (bị hoặc được) đi vào con đường chính trị trong thời đoạn dầu sôi lửa bỏng của cuộc chiến VN.
”Trước năm 1975, ông đã có những lời nói đi trước ý nghĩ gây ra những scandal mà những đối thủ, kẻ thù của ông đã tận tình khai thác để "đập" lại ông và cái đất nước ông là thành viên trong ban lãnh đạo. Tướng Westmoreland, đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Bunker, nhận xét ông Kỳ là người bốc đồng, nói và làm thường thiếu suy xét.
“Sau năm 1975, ông vẫn không thay đổi. Khi quay lại VN, ông đã có những phát biểu (với giọng nói mất bình tĩnh) miệt thị về những chiến hữu cũ của ông và đã gây ra một làn sóng phản đối dữ dội của đông đảo người Việt ở ngoài VN.
Gia đình Tướng Nguyễn Cao Kỳ mang tro cốt của ông từ Malyasia về Mỹ
Có người còn “bốc thơm” Dân Quèn Bolsa, cho rằng anh viết quá hay hết ý chẳng có gì để nói nữa, xét cho cùng anh chàng TH cũng muốn "chơi đẹp" với bố vợ và vợ cũ NCKD, nhưng anh ta còn quá trẻ để hiểu những gì NCK đã làm trong quá khứ cũng như ổng từng làm khi đã là thằng tỵ nạn. TH nên tham khảo 2 nhân vật Không Quân Trường Sơn Lê Xuân Nhị và Lý Tống để "đả thông tư tưởng".
Nguyễn Ngọc Chính
*
Nhân nói về NCK, hãy nhà của ngài ta khi xưa ở Sài Gòn
(so với bọn chóp bu VC ngày nay thì quá nghèo...)
Tư gia của ông tướng râu kẽm
Coi lại báo Mỹ cũ nên mới biết đây là tư gia của Tướng Nguyễn Cao Kỳ khi còn làm Thủ Tướng.
Căn nhà xấu hoắc giống như một doanh trại. Hình như nó tọa lạc trong phi trường Tân Sơn Nhứt, nên thấy chất bao cát chung quanh cửa sổ để chống đạn pháo kích của Vi Xi.
Chiếc trực thăng UH1B đậu trước cửa là máy bay riêng của ông Kỳ. Theo tài liệu thì người Mỹ tặng Tướng Kỳ một hay hai chiếc UH1B gì đó.
Trực thăng đậu quá gần căn nhà nên chung quanh căn nhà trụi lủi, vì bị sức gió của cánh quạt thổi bay mất tiêu. Mà chắc cũng hỏng dám trang trí để đồ vật linh tinh gần sân đáp, sợ nó văng lên trúng cánh quạt thì nguy to. Ông nào hạ càng sát căn nhà cũng giỏi.
Ngày 30-04-1975 ông Kỳ dùng trực thăng này chở thêm Tướng Ngô Quang Trưởng bay ra hạm đội Mỹ. Nghe nói Hải Quân Mỹ giữ lại chiếc trực thăng này chớ hỏng giụt xuống biển hay viện trợ cho các nước khác.
BÔNG LAU
Việt Cộng "con"
Viết theo lời kể của một cô gái người Bắc.
Đương nhiên, tên của tôi không phải là “Việt Cộng Con” rồi.Và tôi cũng không phải là Việt Cộng, xin bảo đảm một trăm phần trăm.
Tên tôi là Trinh, Trần Thị Ngọc Trinh. Tôi lấy chồng là một người Lính Việt Nam Cộng Hòa. Con trai tôi tên là Nam, cháu nay đã được năm tuổi rồi. Mỗi lần về thăm nhà, cháu luôn luôn hãnh diện khoe với ông bà ngoại:
“Ông ơi, bà ơi, cháu là con của Lính Cộng Hòa đấy.”
Tức là, tôi không có dính dáng gì đến Việt Cộng cả. Vậy thì tại sao tôi lại có cái tên... “Việt Cộng Con”?
Theo lời bố tôi kể lại, bố mẹ tôi quê quán ở Phú Thọ, sau chuyển về Hà Giang. Đến năm 1979 thì mới về Hà Nội ở. Lúc đầu, gia đình tôi không có "hộ khẩu", phải sống tạm bợ ở gầm cầu. Hàng ngày, ba mẹ tôi đi ra chợ, bến xe hàng hay là bến xe lửa xuyên Việt đứng chờ công việc làm, ai nhờ việc gì thì làm việc nấy, thông thường là khuân vác, đẩy xe, cưa cây... Kiếm được việc làm không phải dễ, vì ba mẹ tôi là dân mới tới, thường bị đám người sống lâu năm ở chợ tranh dành đuổi đi đừng ở nơi xa chứ không cho đứng ở gần chợ.
Một hôm, có một đoàn người gồm đa số là đàn bà từ miền Nam vào, nhờ đẩy hàng đi Hà Giang. Hà Giang cách Hà Nội cả trăm cây số, đám đầu nậu không biết địa thế, hơn nữa, vì Hà Giang gần núi, có nhiều sơn lam chướng khí, nên không ai dám nhận đi hàng, bọn chúng mới gọi bố mẹ tôi đến mà bố thí cho việc làm. Tưởng đi đâu chứ Hà Giang thì bố mẹ tôi sống ở đó từ nhỏ, biết từng góc rừng, từng con đường mòn xuyên qua núi. Thì ra đó là những người vợ, con của Lính Cộng Hòa bị đi tù cải tạo. Từ Hà Nội đến Hà Giang thì có xe hàng, nhưng từ Hà Giang tới các trại tù thì phải gánh hàng đi bộ nhiều ngày mới tới.
Bố mẹ tôi chịu cực khổ đưa những người khách hàng đến tận nơi, chờ họ gặp người thân xong xuôi rồi lại đưa họ trở về ga Hàng Cỏ Hà Nội. Những người này cám ơn bố mẹ tôi và tặng tiền nhiều lắm. Sau chuyến đi đó, bọn đầu nậu đứng bến có vẻ nể nang bố mẹ tôi, không dám dành mối như trước nữa. Thực ra, cũng vì không có đứa nào biết đường đi nước bước ở Hà Giang và những vùng xa xôi có trại tù cải tạo, nên bố mẹ tôi hầu như được độc quyền đưa đón thân nhân những người tù cải tạo. Những người này vừa tử tế lịch sự, vừa cho tiền thưởng khá, vì thế, cuộc sống của gia đình tôi mới đỡ vất vả.
Nhờ có ít tiền, bố mẹ tôi mới... mua được hộ khẩu ở Hà Nội và cho anh em chúng tôi đi học. Trong thời gian đưa đón những người Miền Nam này, bố mẹ tôi đã được họ tin tưởng, vui vẻ nói chuyện và còn chỉ dẫn cách nấu những món ăn ở Miền Nam, như là bánh xèo, bánh phồng tôm, chả giò... Đã có một lần, một nhóm người vì phải mang theo nhiều hàng, lại già yếu bệnh tật, nên đã nhờ bố mẹ tôi vào Nam để mang hàng từ đó ra ngoài Bắc cho họ. Nhân dịp này, họ đã đưa bố mẹ tôi đi chợ mua những món hàng cần thiết và đãi bố mẹ tôi ăn một bữa no say.
Đến khi những người đi thăm thân nhân tù cải tạo vơi đi dần, bố mẹ tôi liền giải nghệ mà mở một quán ăn nhỏ, chuyên bán những “Món Ngon Miền Nam”. Thời gian đó, bất cứ món hàng nào có xuất xứ "Miền Nam" đều được dân miền Bắc thèm muốn, mua bằng hết, từ cây kim sợi chỉ, nói chi tới những Món Ngon Miền Nam. Cửa hàng của bố mẹ tôi vì thế mà lúc nào cũng đông khách.
Học xong đại học, tôi xin đi làm cho chính phủ, thời gian rảnh thì phụ bố mẹ tôi trông coi công việc. Cửa hàng bán những món ăn Miền Nam của bố mẹ tôi càng ngày càng phát triển, không những chỉ bán hàng ăn, bố mẹ tôi còn mở công ty, mua nhiều loại hàng ở Miền Nam đem ra Bắc bán nữa.
Trong thời gian làm việc, tôi đã được tiếp xúc với một số bạn bè đi du học trở về, đa số đều nói ngoại ngữ rất khá, và đều vào Sàigòn làm việc, chứ không chịu ở lại ngoài Bắc, dù rằng Hà Nội mới là thủ đô. Tôi bắt chước bạn bè, xin bố mẹ tôi cho vào Nam làm việc, nhân tiện làm đầu cầu mua hàng trong Nam đem ra Bắc.
Vào tới Sàigòn rồi, đi làm một thời gian rồi, tôi mới thấy là giữa những người giữ chức vụ cao, được gọi là "lãnh đạo cơ quan" mặc dù là học thức kém, tầm mức hiểu biết về việc làm rất là hạn chế, nhưng lại là những người ngồi mát ăn bát vàng, hống hách với dân chúng nhiều nhất. Càng tỏ ra khó khăn, họ càng được hối lộ và lấy đuợc nhiều tiền trong công quỹ. Những người có bằng cấp, biết làm việc và phải tiếp xúc với dân chúng nhiều như chúng tôi thì lại bị đẩy cho làm việc thật là nhiều. Và cũng vì sự hống hách quan liêu của cấp trên, mà chúng tôi bị vạ lây, bị dân chúng miền Nam ghét bỏ. Thậm chí, chỉ nhìn thấy chúng tôi, hoặc chỉ cần nghe giọng nói của chúng tôi thôi, họ đã bỏ đi, không quên nói nhỏ với nhau: "Cái đồ Bắc Kỳ... thấy ghét"
Mặc dù những điều kiện mà chúng tôi giải thích, là do cấp trên đòi hỏi, chứ chúng tôi không hề muốn làm như vậy.
Một vài lần, tôi được dịp may tiếp xúc với những người ngoại quốc tới làm việc chung với chúng tôi, họ có kiến thức rất cao, nói chuyện rất lịch sự. Cũng có những lần tôi được tiếp xúc với vài du khách đến nhờ làm thủ tục, tôi thấy họ nói chuyện cũng hòa nhã và rất hiểu biết. Tầm mắt và kiến thức của tôi được mở rộng, tôi muốn được đi du học để mở mang trí tuệ, và cũng để có thể giúp cho công việc làm ăn của gia đình tôi được phát triển hơn. Tôi đem việc này ra bàn với bố mẹ tôi, cả hai đều đồng ý, nhất là ông bà nội của tôi. Chọn nơi học mới là điều khó khăn hơn cả. Đa số các bạn bè của tôi chọn đi học ở Mỹ (nhất là những đứa có cha mẹ có quốc tịch đảng), tôi lại thấy Úc là xứ sở hiền hòa có nhiền nét về văn hóa nghệ thuật, nên tôi đã chọn môn học về Tài chánh ở trường Đại Học RMIT (Royal Melbourne Institute of Technology), Melbourne, nước Úc.
Dù là đã có một ít vốn liếng tiếng Anh đã học ở trường học cũng như trường đời, nhưng ngày đầu tiên đến giảng đưởng nghe giảng bài, thú thực là tôi như con vịt nghe sấm, chẳng hiểu ông Giảng viên tóc vàng nói cái gì cả, vì giọng của ông hoàn toàn là giọng Úc, khác xa với những phát âm theo tiếng Mỹ mà tôi đã từng nghe ở Việt Nam. Môn học kế tiếp thì tôi lại còn thua nặng hơn nữa, vì Giảng viên này gốc ngưởi Ấn Độ, tiếng Anh của ông còn pha nhiều âm thanh R R R thật là khó nghe.
Hai năm trời trôi đi thật nhanh, ngoài giờ học, tôi xin đi làm thêm ở những nhà hàng ăn ở đường Victoria, khu vực Richmond. Những nhà hàng này tuy bán món ăn Việt Nam nhưng đa số khách hàng lại là người da trắng, nên nhờ đó mà tiếng Anh của tôi đã khá hơn trước và cách phát âm cũng vì thế mà đổi hoàn toàn theo giọng Úc.
Cuối cùng, tôi đã học xong cái bằng Master và sửa soạn khăn gói về nước. Bạn bè của tôi đa số xin ở lại Úc làm việc và sinh sống, tôi không có ý định ở lại, chỉ muốn về phụ giúp gia đình mà thôi.
Tôi mua vé máy bay về Sàigòn trước, nghỉ ở đó một ngày gặp bạn bè rồi mới về Hà Nội ở luôn. Ngồi bên cạnh tôi là một người đàn ông trung niên, ông không bắt chuyện với tôi mà chỉ ngồi im lặng, lâu lâu lại nhìn vào cái hộp sắt gắn kín đang cầm trên tay. Mãi khi xuống phi trường Changi để nghỉ hai tiếng, ông mới mở miệng nhờ tôi cầm dùm cái hộp sắt để đứng lên lấy hành lý để trên khoang xuống. Cái hộp tưởng là bằng sắt nhưng lại là hộp bằng nhôm rất nhẹ.
Ngồi trên ghế chờ đợi, ông mới cho tôi biết đó là cái hộp đựng tro của vợ ông. Vợ ông mới qua đời tuần trước, đã được hỏa táng và ông đem về Việt Nam để ở nhà mẹ vợ, theo lời trăn trối của vợ ông trước khi chết.
Tới phi trường Tân Sơn Nhất, ông chào và cám ơn tôi một lần nữa rồi ai về nhà nấy. Tôi không biết tên ông là gì và ông cũng chẳng bĩết tôi là ai?
Một năm sau, tôi quay trở lại Úc để dự lễ phát bằng cấp cho đứa em tôi. Đang đi trên đường Victoria, thật là ngạc nhiên, tôi đã gặp lại ông khách đi chung máy bay hồi nào. Ông cho tôi biết đã đem tro tàn của người vợ về xong xuôi rồi, đã đi làm trở lại. Tôi cũng cho ông hay là tôi đã xin được việc làm và đang làm việc ở Sàigòn, nhân dịp dự lễ phát bằng cấp cho đứa em, tôi xin nghỉ một tháng để đi thăm những thắng cảnh Úc mà trong suốt hai năm đi học tôi không có thì giờ đi đâu cả. Lần này ông cho tôi số điện thoại và nói nếu tôi muốn đi chơi thăm phong cảnh, ông sẽ xin nghỉ đưa tôi đi cho vui.
Thế là chúng tôi quen nhau. Ông tên Thanh, là Lính Cộng Hòa, ngày cuối cùng của cuộc chiến, ông là một Chuẩn Úy 18 tuổi mới ra trường, đánh trận đầu tiên và cũng là trận cuối cùng của đời lính. Ông có hai đứa con nhưng chúng nó đi làm ở Tiểu bang khác, lâu lâu mới về thăm nhà, còn tôi, tôi ba mươi lăm tuổi rồi, và chưa có ý định gì về tương lai cả.
Về lại Sàigòn, chúng tôi vẫn tiếp tục emails qua lại với nhau. Có một lần ông về Việt Nam thăm tro tàn của vợ và nhân dịp đó đi chơi uống cà phê với tôi. Qua năm sau, tôi muốn trở lại Úc một lần nữa để đi thăm Đảo San Hô ở Queensland, Thanh cũng xin nghỉ để đi chơi cùng với tôi.
Thanh đã ngỏ lời muốn cưới tôi làm vợ. Suy đi nghĩ lại, tôi tuy còn độc thân nhưng đã lớn tuổi rồi (so với Thanh thì tôi còn nhỏ lắm), nên đồng ý làm vợ Thanh.
Thanh làm bữa tiệc gia đình để ra mắt tôi với hai đứa con và bạn bè. Hai đứa con của Thanh nói toàn tiếng Anh, tụi nó không có ý kiến gì, miễn thấy ba nó vui là được rồi. Lần đầu tiên gặp những người bạn của Thanh, tôi vui miệng kể lại cuộc đi chơi ở Đảo San Hô:
“Thật là... Hoành Tráng chưa từng thấy. Đi xem đảo xong, chúng em đi phố mua hàng, chỗ nào cũng bán Khuyến mãi, thích ghê..”
Cả nhà đang ồn ào, tôi chợt thấy không khí có vẻ im lặng sau khi tôi nói chuyện, những người bạn của Thanh nhìn tôi có vẻ e dè lắm, họ vẫn nói chuyện, nhưng hình như không có nói chuyện với tôi. Một bà vợ của người bạn thân của Thanh đã hỏi thẳng tôi:
“Cô là... du học sinh hả? Lấy chồng già để... được ở lại Úc hả?”
Khi vào trong bếp lấy thêm đồ ăn, tôi thoáng nghe một người nào đó nói nhỏ với Thanh:
“Mày lấy... Việt Cộng Con đấy à?”
Tôi nghe Thanh trả lời:
“Đâu phải ai nói giọng Bắc cũng đều là Việt Cộng hết đâu!”
Tiệc cưới của chúng tôi mới là phiền phức, mặc dù chúng tôi chỉ tổ chức đơn giản thôi, nhưng bạn bè của Thanh nhận thiệp mời, họ đều có vẻ ngại ngùng, không muốn tham dự. Thanh nói với tôi:
“Ông Hội trưởng của anh họp cả hội lại để lấy quyết định... có dự tiệc cưới của anh hay không? Họ quyết định... đi với tư cách cá nhân mà thôi, vì dù sao cũng là bạn bè.”
Tôi ngần ngừ nói với Thanh:
“Anh ơi... nếu thấy khó khăn quá, hay là... mình đừng có lấy nhau nữa... Sao họ lại... kỳ thị với em như vậy? Em nói tiếng Bắc, vì em sinh đẻ ở ngoài Bắc, chứ em đâu có tội tình gì đâu?”
Thanh an ủi tôi:
“Em cũng phải hiểu cho họ, họ cũng như anh, đều là những người bị bọn Cộng sản Bắc Việt xâm chiếm đất nước, bắt tù bắt tội sống chết đủ điều. Suốt ngày họ nghe cái giọng Bắc kỳ mạt sát họ, nó thấm vào đầu, nên không thể có cảm tình với cái giọng Bắc được. Anh hiểu em, nhưng họ chưa hiểu và chưa thông cảm cho em. Cứ để một thời gian, họ sẽ hiểu em đó mà.”
Tôi sinh đứa con trai đầu lòng, đặt tên cháu là Nam. Ngày thôi nôi, anh chị nó đến dự, vui vẻ thay phiên ẵm em, đứa con gái út của Thanh ẵm em vừa cười vừa nói:
“My... baby brother”
Những người bạn chúc mừng Thanh... “Đáo Mã Thành Công”.
Khi tôi tháo chiếc dây chuyền hộ mạng của tôi đeo vào cổ cho Nam, một bà ngạc nhiên nhìn sợi giây mà hỏi tôi:
“Cái gì vậy?”
“Dây chuyền hộ mạng của em đấy.”
“Đẹp quá nhỉ! Ai khắc mà đẹp quá, hình như là hai cái mặt chữ khắc trên gỗ đen thì phải.”
Chồng tôi biết tôi có sợi dây chuyền này, nhưng coi đó là đồ nữ trang của tôi thôi, nên chẳng để ý đến. Khi thấy ai cũng nhìn vào nó, tôi vui miệng kể lại lai lịch của sợi giây chuyền cho tất cả cùng nghe:
Tôi sinh ra ở Hà Giang. Nói là Hà Giang chỉ để cho có nơi có chốn trên bản đồ mà thôi, chứ thực ra, nơi tôi sinh ra không có tên trên bản đồ miền Bắc. Đó là một nơi ở giữa rừng núi âm u không có vết chân người.
Theo bố tôi kể lại, vào thời năm 1954, khi mọi người dân đều muốn di cư vào Nam, gia đình tôi gồm có ông bà nội, ba mẹ tôi và gia đình của các bác các chú đã gồng gánh từ quê lên Hải Phòng, để xuống tầu di cư vào Nam. Khi đang ở trên đường thì gặp một đám người khác cũng nhận là đi di cư và biết có một con đường tắt đi Hải Phòng rất gần, thế là cả bọn theo chân đám người này. Đến chiều tối thì có xe hàng tới chở tất cả, nói rằng đi xe cho chóng đến nơi. Xe chở đi tới một vùng rất xa, tài xế cho mọi người xuống mà nói rằng, nghỉ đỡ đêm nay, sáng mai sẽ có xe khác tới chở thẳng đến Hải Phòng.
Ai cũng vui mừng trải chiếu ra ngủ qua đêm. Sáng hôm sau, có xe tới đón thật, nhiều xe lắm, xe nào cũng chở đầy người. Mọi người vui mừng kéo nhau lên xe đi Hải Phòng. Xe đi cả ngày trời vẫn không tới vùng biển như mọi người mong đợi, trái lại, xe chở mọi người tới một nơi đầy lính canh có súng. Những người lính này chĩa súng bắt tất cả ngồi im không được hỏi han gì cả, họ khiêng từng miếng vải nhà binh tới phủ kín xe rồi bắt đầu chạy suốt đêm. Đến sáng mới tói nơi, cả bọn được đẩy xuống xe để bị chỉa súng bắt đi bộ vào trong rừng. Tới nơi, cán bộ tập họp mọi người lại, kết tội cả nhóm là đã phạm tội phản lại nhân dân, bỏ trốn vào miền Nam, bị đầy vào đây đến bao giờ được cách mạng và nhân dân khoan hồng, sẽ được về với nhân dân.
Đến lúc đó, mọi người mới biết rằng đã bị bọn Cộng sản đưa người ra dụ dỗ đi theo chúng để rồi bị đi đầy vào vùng rừng núi âm u không biết ngày về. Lâu lâu lại có từng đoàn người khác hoặc được xe chở, hoặc bị xiềng xích đi bộ ngang qua để tới những nơi xa xôi hoang vắng khác được gọi là “Cổng Trời”.
“Cổng Trời”
Vào khoảng năm 1960, có thêm một nhóm tù nữa được đưa tới Cổng Trời, đám người này thỉnh thoảng được ra ngoài làm rừng, họ tự xưng là “Biệt Kích Miền Nam” được thả ra Bắc để hoạt động, chẳng may bị bắt.
Tôi sinh ra vào năm 1973 ở cái vùng rừng núi âm u, trại tù của những người muốn di cư vào Nam năm 1954 và trải qua thời thơ ấu ở giữa nơi núi rừng trùng điệp không bóng người này. Khi tôi được năm tuổi, một hôm đi theo cha chặt mây, đã bị ngã xuống hố sâu. Bố tôi bất lực nhìn thân xác của tôi mà không có cách nào để cứu. May thay, một nhóm Biệt kích đi ngang, thấy vậy đã thòng dây đu xuống tận vực xâu mà cứu tôi lên và đưa cả hai bố con tôi về tận nhà. Từ đó, lâu lâu những người Biệt Kích này lại đi ngang vào thăm gia đình tôi.
Người Biệt kích cứu tôi nhận tôi làm con nuôi và đã gỡ sợi dây chuyền ông đang đeo để đeo vào cổ tôi mà nói:
“Tặng cho cháu cái bùa hộ mạng đó.”
Ông giải thích cho bố tôi biết, sợi dây chuyền này do ông đẽo gỗ trong rừng mà khắc thành hai chữ BK tức là Biệt Kích. Các chú này đã khuyên bố mẹ tôi nên tìm cách về thành phố mà sống, chứ đừng ở mãi nơi rừng hoang cô quạnh này mà bỏ phí cuộc đời của những dám con cháu.
Năm 1979, khi Trung cộng bắt đầu đánh Miền Bắc, những Biệt Kích đã bị đem đi nơi khác, bố mẹ tôi nhớ lời các Biệt Kích mà tìm đường trốn về Hà Nội, vì thế, tôi mới được đi học và sống cho đến ngày hôm nay.
Khi tôi kể xong câu chuyện, mọi người đều thay nhau cầm lấy sợi dây chuyền của con tôi một cách trân trọng và quý mến.
Người bạn mà trước đây gọi tôi là “Việt Cộng Con” là người đầu tiên hỏi tôi:
“Gia đình của chị bị đưa đi... vùng kinh tế mới Cổng Trời đấy à? Chỉ vì muốn di cư mà bị đầy ải suốt hơn hai mươi năm trời đấy sao? Bọn Việt cộng chúng mày sao mà tàn ác thế! Cám ơn Trời Phật đã phù hộ cho gia đình chị, những người Việt Nam yêu Tự Do, còn sống được cho đến ngày hôm nay.”
Tôi mỉm cười nói thêm vào:
“Tôi cảm ơn Trời Phật và cảm ơn Chúa nữa. Ông bà chúng tôi không đi tìm Tự Do vào năm 1954 được, thì đến đời cháu tức là đời của chúng tôi, chúng tôi đã tìm được Tự Do rồi đấy. Nhờ các anh Biệt Kích Miền Nam mà tôi được cứu sống, nhờ lời khuyên của các anh mà bố mẹ tôi mới dám trốn vùng cải tạo để về được tới Hà Nội.
Cũng nhờ những bà mẹ, bà vợ của những người Lính Miền Nam bị tù cải tạo mà bố mẹ tôi mói có cuộc sống đáng sống. Các anh chị thấy không, nhờ tình người, nhờ những người Miền Nam mà chúng tôi mới sống đến ngày hôm nay, chứ đâu có bác nào đảng nào cứu giúp chúng tôi đâu? Cũng vì thế mà dù có ai nói gì thì nói, tôi cũng cứ lấy người Lính Cộng Hòa mà tôi quý mến.”
Từ hôm đó, tôi thấy tất cả bạn bè của Thanh đã thay đổi thái độ với tôi. Các anh đã gọi tôi là “Chị Thanh” và các bà đã gọi tôi bằng “Trinh” hoặc là “Cô Em Gái Bắc Kỳ”.
Con tôi đã được năm tuổi rồi, cháu đã đi học mẫu giáo, tôi có thì giờ đi tìm một công việc tạm thời. Tôi tìm đến một văn phòng Luật Sư của người Việt để xin làm Điện Thoại Viên. Ông Luật Sư phỏng vấn tôi xong, nói với tôi:
“Để chú sắp xếp cho cháu làm hồ sơ nhé, còn công việc nghe điện thoại, chú sẽ tìm người khác”
Tôi thông cảm với ông Luật sư, mọi người vẫn còn... ác cảm, còn... kỳ thị với giọng nói Bắc Kỳ của tôi.
Tôi xin lỗi đã nói như vậy, nhưng thật sự tôi không biết dùng chữ gì để nói về hoàn cảnh của tôi.
Chồng tôi đã thông cảm với tôi, anh Thanh đã nói với tôi:
“Người ta nói “Cái áo không làm nên ông thầy tu” Nhưng thực sự cái áo đã làm cho người ta nhìn lầm nguời mặc nó là thầy tu. Em không những nói giọng Bắc, em còn dùng những từ ngữ mà cái đám Việt cộng thường dùng, ngay cả những người Miền Nam hay những người Lính Cộng Hòa mà nói cái giọng đó, cũng bị ghét, nói chi là Bắc Kỳ rặt như em.
Em cứ giữ cái giọng Bắc Kỳ của em, nhưng em đừng... Hoành Tráng, đừng... Bức Xúc nữa, có được không?”
Tôi suy nghĩ... Đúng! Chồng tôi nói đúng.
Nhập Gia Tùy Tục – Nhập Giang Tùy Khúc.
Tôi đã lấy chồng Lính Cộng Hòa rồi, mà tôi lúc nào cũng có cái giọng Bắc Kỳ Hai Nút (75, Bắc kỳ chín nút tức là Bắc kỳ 54) thì ai mà chịu nổi.
Bây giờ, tôi không còn... “Xử Lý” nữa, mà tôi phân tích, tôi tìm hiểu từng trường hợp mà giải quyết cho thỏa đáng. Mỗi khi đi ra ngoài đường, nghe tôi nói chuyện, không còn ai quay lại nhìn tôi rồi bỏ đi chỗ khác nữa.
Đôi khi, những ông bà bạn của anh Thanh vẫn gọi tôi là “Việt Cộng Con”
Nhưng họ nói chỉ để mà đùa dỡn mà thôi, chứ không còn châm chọc như trước nữa.
Riêng phần con tôi, cháu Nam, lúc nào cháu cũng khoe:
“Con là con của “Lính Cộng Hòa” mà!”
NGUYỄN KHẮP NƠI
_________________
Đặng Hữu Phát gởi