Câu chuyện đáng suy ngẫm về giá trị của hạt cơm!
Câu chuyện kể rằng, xưa kia có một đôi vợ chồng nghèo đến mức không có nhà ở, phải sống trong một cái hang, bốn bên vách tường đều không có sinh khí. Thậm chí họ còn phải mặc chung một bộ quần áo. Mỗi khi người chồng mặc đi ra ngoài có việc thì người vợ đành phải ở nhà, còn lúc người vợ mặc đi ra ngoài thì người chồng cũng đành phải ở trong hang động giấu mình.
Một ngày nọ, hai vợ chồng họ nghe thấy tin Phật Thích Ca Mâu Ni dẫn các đệ tử đi đến vùng lân cận để khất thực. Người chồng liền nói với người vợ:
“Bởi vì trước đây chúng ta không biết rõ rằng quyên tặng là gieo trồng phúc nên bây giờ mới rơi vào tình cảnh khốn cùng như thế này. Khó khăn lắm mới chờ được cơ hội Phật Thích Ca Mâu Ni đi đến nơi này giáo hóa, sao có thể để mất cơ hội này được?”
Người chồng nói xong, người vợ thở dài thật sâu rồi nói:
“Nhà chúng ta gần như không có một chút của cải gì cả, lấy gì mà quyên tặng cho tăng nhân đây?”
Người chồng nghĩ nghĩ một lát rồi nói lời dứt khoát:
“Cho dù thế nào đi nữa, chúng ta thà chết đói cũng không để lỡ mất cơ hội này. Bây giờ chúng ta còn duy nhất bộ quần áo này, hãy mang nó đi quyên tặng đi!”
Thế là hai vợ chồng họ lập tức cầm bộ quần áo là tài sản duy nhất trong nhà đi quyên tặng khiến cho các đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni bị khó xử. Tất cả các đệ tử đều trốn tránh không nhận bộ quần áo này. Cuối cùng, Ananda đành mang bộ quần áo đến trước Phật Thích Ca Mâu Ni để hỏi ý kiến:
“Bạch thầy! Bộ quần áo này thực sự là không thể mặc được, hay là chúng ta vứt bỏ đi ạ?”
Phật Thích Ca Mâu Ni ân cần chỉ giáo đệ tử:
“Con không thể nghĩ như vậy được. Sự quyên tặng của người nghèo là vô cùng đáng quý! Hãy mang đến cho ta mặc đi!”
Ananda cảm thấy hổ thẹn trong lòng, liền cùng với đệ tử khác của Phật Thích Ca Mâu Ni là Mục Kiền Liên mang bộ quần áo ra bờ sông giặt giũ. Không ngờ, chiếc quần vừa mới thấm nước thì cả sông đột nhiên sóng lớn cuộn trào mạnh mẽ, dâng cao. Mục Kiền Liên vội vàng vận thần thông đem núi Tu Di ra trấn áp (núi Tu Di được xem là vua của các ngọn núi theo quan niệm của Phật giáo). Nhưng vẫn không thể trấn áp được sóng cả, hai người đành phải vội vã trở về báo với Phật Thích Ca Mâu Ni.
Lúc này, Phật Thích Ca Mâu Ni đang ăn chay nên nhẹ nhàng cầm một hạt cơm lên và nói với hai người:
“Nước sông dâng cuồn cuộn là bởi vì Long Vương khen ngợi người nghèo có tâm nguyện tận lực quyên tặng, cứu tế. Các ngươi hãy cầm hạt cơm này đi, nó có thể trấn trụ được sóng lớn!”
Ananda cảm thấy kỳ quái liền hỏi:
“Bạch thầy! Núi Tu Di cao lớn như vậy còn không trấn áp được sóng cả, một hạt cơm nhỏ bé như thế này làm sao có thể trấn áp được sóng lớn như vậy ạ?”
Phật Thích Ca Mâu Ni cười và trả lời:
“Các ngươi cứ cầm đi thử đi, rồi sẽ nói sau!”
Ananda và Mục Kiền Liên nửa tin nửa ngờ cầm hạt cơm đi và ném xuống sông. Không ngờ, thoáng một cái mà cả con sông trở nên gió êm sóng lặng.
Hai người họ trong sâu thẳm thật sự không thể tưởng tượng nổi:
“Chẳng lẽ sức mạnh của một tòa núi Tu Di mà không bằng một hạt cơm nhỏ bé sao?”
Sau khi trở về, hai người họ lập tức thỉnh giáo Phật Thích Ca Mâu Ni.
Phật Thích Ca Mâu Ni lúc này mới nói rõ:
“Một hạt thóc ban đầu được gieo trồng, trải qua tưới tiêu nước, bón phân, thu hoạch, chế biến, buôn bán…Tức là phải trải qua đủ loại sức lực và nỗi vất vả mới có thể tạo thành một hạt gạo. Công đức mà một hạt cơm ẩn chứa là vô lượng (không tính đếm được). Cũng giống như vậy, đối với hai vợ chồng người nghèo kia, bộ quần áo là tài sản duy nhất của họ, là toàn bộ gia sản của họ. Tâm lượng mà nó ẩn chứa cũng là vô hạn! Tứ Hải Long Vương hiểu được công đức của một hạt cơm và của bộ quần áo là to lớn như nhau, đều là do một niệm thành kính mà dẫn xuất ra, cho nên mới nhanh chóng nhượng bộ. Bởi vậy có thể thấy được rằng, chỉ cần một niệm thành kính thì một hạt cơm nho nhỏ hay một bộ quần áo rách cũng sẽ có sức mạnh lớn như một tòa núi Tu Di vậy!”
Về sau, có người đem chuyện này viết thành một lời hát trong kinh Phật để cảnh tỉnh con người:
“Phật quan nhất lạp mễ, đại như tu di sơn; nhược nhân bất liễu đạo, phi mao đái giác hoàn.”
(Tạm dịch: Phật xem một hạt cơm to lớn như núi Tu Di, nếu như con người không hiểu đạo lý này thì sẽ phải mang lông đội sừng để hoàn trả. Mang lông đội sừng ở đây ý chỉ là làm kiếp trâu ngựa.)
Có thể thấy, mỗi hạt cơm được tạo ra đều chứa đựng biết bao mồ hôi công sức, nếu như bỏ mứa đồ ăn, chính là đang tạo tội nghiệp rất lớn, đang mắc nợ mà không biết. Cũng như cô gái trong câu chuyện đầu tiên, vì những đồ ăn bị bỏ lại mà chưa thể nào siêu sinh được.
Trong câu chuyện thứ 2, Phật Thích Ca Mâu Ni đã dạy cho con người hiểu được ý nghĩa và công đức vô lượng của hạt cơm. Vì vậy nếu như con người không hiểu được đạo lý này thì sẽ phải hóa kiếp làm trâu ngựa.
Thượng tọa Thích Thanh Huân, trụ trì chùa Pháp Vân, Phó văn phòng trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam từng chia sẻ trên báo Đất Việt:
"Trong Kinh Phật, các vị Thầy, các vị Tổ, cũng đã răn dạy, tiếc Duyên cũng là tiếc phúc, trân quý cái Duyên, cái Phúc của mình để đừng lãng phí, thì sẽ không mất đi cái Duyên, cái Phúc.
Ở chùa chúng tôi luôn coi một hạt gạo như là con ngươi mắt, không được lãng phí dù chỉ một hạt gạo, người trong chùa ăn cơm xong phải tráng nước để không còn hột cơm nào trong bát.
Có nghĩa là lấy nước lọc tráng uống hết để không lãng phí từ cơm đến thức ăn. Khi rửa bát cũng không lãng phí nước, rồi nhiều điều nữa, tiết kiệm từng tí một, tích lũy từng chút một trong cuộc sống".
Trong Âm Luật Vô Tình của tác giả Thượng Quan Ngọc Hoa cũng đã nói về vấn đề báo ứng của việc lãng phí thức ăn.
"Phán Quan từng nói: Lãng phí thức ăn sẽ bị đọa địa ngục thọ báo. Mỗi người khi ăn một miếng thức ăn nào đều phải mang lòng biết ơn và xấu hổ mà thọ dụng, phải biết ơn trời đất sinh trưởng thức ăn, cảm ân sự cực khổ của nông phu, cảm ân sự dưỡng dục của cha mẹ, cảm ân sự tích lũy phước báo thức ăn qua nhiều kiếp của mình. Con người sinh tồn cần phải có thức ăn, không khí, nước và ánh sáng, những thứ này là nhân duyên bên ngoài; nếu không có những nhân duyên bên ngoài này thì nhân gian không có thức ăn tốt được.
Do đó đầu tiên chúng ta phải cảm ân trời đất,nếu không có ánh sáng không khí đất đai của đại tự nhiên nuôi dưỡng, thức ăn ngũ cốc làm sao có được? điều kiện tiên thiên có đủ rồi,ngũ cốc còn cần phải trải qua quá trình khổ cực cày xới, gieo trồng, tưới tiêu, thu hoạch, gói lại v.v... của nông phu.
Mùa xuân gieo trồng, mùa thu thu hoạch, trải qua ba mùa xuân hạ thu, nên mới nói: Nắng trưa cày lúa ruộng, mồ hôi thấm từng hạt; ai biết trong bữa ăn, mỗi hạt đều khổ nhọc! Nông phu phải dãi nắng dầm mưa rất khổ cực mà từ từ tỉ mỉ trồng trọt ra, chúng ta cần phải biết ơn sự khổ cực của người nông phu. Mỗi một người chúng ta đều do tinh cha huyết mẹ mà đầu sanh làm người tại thế gian này. Tất cả người khi còn nhỏ đều áo đến đưa tay cơm đến mở miệng, do đó chúng ta cần cảm ân ơn dưỡng dục của cha mẹ, lại nữa chúng ta cần phải quý trọng sự bố thí, trì giới, hành thiện, từ từ tích lũy phước báo qua nhiều kiếp của mình.
Nếu như là người không có đủ phước báo, cũng như Phi Châu, Estopia, Gango, một số nơi xa xôi hẻo lánh lạc hậu tại Trung Quốc cùng các quốc gia nghèo v.v... nghiêm trọng thiếu thốn thức ăn, rất nhiều người lớn trẻ nhỏ đều chết đói, hoặc là đói đến nổi mặt vàng trơ xương, cũng nghiêm trọng khuyết hãm dinh dưỡng, phải đợi người khác cứu trợ;c ó khi chưa đợi đến lúc người khác cứu trợ đã chết đói rồi!
Mỗi một người lúc đầu sanh nhân gian thì ăn bao nhiêu mặc bao nhiêu, dáng người cao thấp mập ốm, quý tiện, tai nạn, tài sản, lúc nào thọ chung v.v...đã được quy định sẵn hết rồi; vì thế mà mỗi một miếng ăn của chúng ta là đại diện cho phước báo đã định trong kiếp này mà ta hưởng dụng; có nghĩa là trong phần còn lại của cuộc đời, chúng ta lại hưởng thụ phước báo ít đi một lần. Người dương bình thường, đều không thể vượt qua cái định nghiệp này; chỉ có hai loại người, có thể ảnh hưởng định nghiệp này, đó là người đại thiện và người đại ác.
Người đại thiện có hai loại: Loại một là Phật Bồ Tát thừa nguyện trở lại độ hóa hữu tình tại nhân gian. Phật Bồ Tát có thể đi lại tự do, không bị định nghiệp trói buộc. Có khi các vị vì muốn độ hóa nhiều chúng sinh hữu duyên tại nhân gian hơn, mà thị hiện các loại khổ nạn để hiện thân thuyết pháp độ hóa đại chúng; thật ra những khổ nạn đó căn bổn không thể trói buộc tâm linh của các vị, chỉ có phàm phu mới bị cảnh giới ngũ dục phiền não tại nhân gian mê hoặc.
Loại người đại thiện còn lại là phàm phu bình thường, nhưng có một tấm lòng đại từ đại bi, cứ không ngừng tích lũy đại phước báo âm đức, loại người thiện này cũng có thể đột phá sự trói buộc của vận mệnh mà trực tuyến đi lên.
Còn loại người đại ác, do ác nghiệp quá lớn mà trực tuyến bị đọa xuống địa ngục. Do đó mà phải mang tâm xấu hổ để thọ hưởng các loại thực phẩm. Thực phẩm chỉ để nuôi dưỡng sắc thân của chúng ta, sắc thân là một loại công cụ giúp ta tu đạo, chúng ta không nên quá xem trọng thức ăn, tức là trở thành nô lệ cho đồ ăn ngon, bị thức ăn trói buộc; cũng không được lãng phí thức ăn, tức là chà đạp ngũ cốc.
Địa phủ lúc trước có một địa ngục đói khát mô hình nhỏ, những kẻ đọa lạc đến địa ngục đói khát thọ hình phạt, đều là lúc sống có phước báo lớn thuộc gia đình giàu có, hoặc vợ của những người giàu có, hoặc là người làm ăn lớn. Bọn họ vì có phước báo lớn, nên tùy tiện chà đạp lãng phí ngũ cốc lương thực, sau khi thọ chung đọa vào địa ngục đói khát. Hoặc là có tiền nhưng không chịu bố thí cho ăn xin hay người nghèo, thọ chung cũng sẽ đọa vào địa ngục đói khát thọ hình phạt, để tội hồn chịu đủ cái khổ của đói khát mà biết quý trọng ngũ cốc lương thực, cũng nhờ thế mà trừ bỏ được tánh bỏn xẻn. Lúc trước bị phán vào địa ngục đói khát thọ hình có thời hạn tương đối ngắn, ít nhất 3 năm, nhiều nhất 50 năm, người đọa vào cũng không nhiều, kẻ đọa thường là người giàu có lớn tuổi.
Ở phía nam địa phủ có khu vực linh hồn địa ngục, trong khu vực linh hồn địa ngục có đại địa ngục tên “Ngũ Cốc Phong Thu”. Trong Địa Ngục Ngũ Cốc Phong Thu chiếm đa số là người trẻ tuổi, lãng phí thức ăn việc gì cũng có, nhiều mà tích lũy liên miên như núi lớn vậy.
Lúc trước lãng phí thức ăn, thọ chung bị âm luật địa phủ phán thọ phạt đói khát; những chúng sinh hiện tại nếu như lãng phí thức ăn, thọ chung phải chịu Địa Ngục Ngũ Cốc Phong Thu báo. Bất cứ thức ăn nào bị lãng phí tại dương gian, đều bị Thần Câu Sinh ghi lại hết, khi thọ chung đến Địa Ngục Ngũ Cốc Phong Thu, tiếp tục ăn lại tất cả những thức ăn đã lãng phí khi còn sống cho đến hết. Dương gian có rất nhiều người trẻ tuổi thích không ngừng mua rất nhiều thức ăn, ăn không hết thì bỏ đi. Âm luật địa phủ muốn bọn họ trải nghiệm hình phạt ăn không hết thì không nên mua mà lãng phí, nếu như mua rồi thì là phước báo của ngươi, cần phải ăn hết".
Tác giả: Tâm Như.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT _()_
Trong bài viết có sử dụng tư liệu trong "Âm Luật Vô Tình" của tác giả Thượng Quan Ngọc Hoa.
Hoang Nguyen gởi