ĐỨC PHẬT DÙNG THẦN THÔNG HÓA ĐỘ CHO GIA ĐÌNH NGƯỜI THỢ SĂN
Câu truyện tích: Có một cô con gái con nhà giàu ở Vương Xá đã quy y Phật, nghe Pháp và chứng Quả Dự Lưu. Chợt có một lần cô gặp một người thợ săn, râu ria xồm xoàm, vai bắp cuồn cuộn, vác con thú đi qua chợ bán và cô đem lòng say mê. Và cô biết rằng cái nề nếp gia phong của cô thì không bao giờ cho cô lấy cái người thợ săn nghèo khổ đó được, chỉ còn một cách duy nhất là bỏ theo trai. Cô mới cho người làm hẹn và tiếp xúc với người thợ săn đó. Ông thợ săn mới ban đầu ông cũng ngỡ ngàng, không biết gì. Nhưng đến khi mà gặp được cô thì ông cũng thích, tại vì cô này vừa giàu vừa đẹp. Thế là cô này trốn nhà đi theo, mang theo một ít tài sản về sống với anh trong cái làng xa ven rừng, tại anh đi làm thợ săn mà. Nhưng mà cô này vì là người chứng Quả Dự Lưu nên cô sống rất là tốt với mọi người chung quanh nên làng xóm ai cũng thương. Thì chồng làm nghề đi săn, khi mà đem thú về được cô phải cầm dao xẻ thịt ra, để cho ông chồng gánh ra chợ bán. Hai vợ chồng sinh được bảy người con, sau này cưới thêm được 7 người vừa dâu, vừa rể thành ra tất cả 14 người con.
Một hôm, khi đó Phật cũng đã lớn tuổi, đêm đó Ngài quan sát thế gian, Ngài mới thấy cái gia đình này đã đến cái duyên hóa độ, vì Ngài biết là cái gia đình này là có duyên rất là sâu dày với Phật pháp rất là lạ, nhưng mà họ quên, trong luân hồi họ quên thôi, đã tới lúc được hóa độ rồi.
Sáng hôm đó Đức Phật tách ra đi một mình. Ngài đi luôn vào trong khu rừng mà rất nhiều thú dữ, đi vào sâu trong rừng và để các đệ tử bên ngoài, không cho ai đi theo. Mọi người ngạc nhiên không biết hôm nay Đức Thế Tôn đã lớn tuổi rồi tự nhiên đi vào trong rừng mà rừng này rất là hoang vu. Nơi đó chính là nơi người thợ săn đặt bẫy, đặt cả trăm cái bẫy, đặt từng khúc từng khúc như vậy. Cả trăm cái bẫy là Đức Phật dùng thần thông đuổi sạch thú đi hết, không cho. Và Phật cứ để cái bước chân mình ven ven cái bẫy đó, Ngài dùng thần thông Ngài in cái dấu chân mình theo bẫy và dẫn cái dấu chân đi dần dần đến một gốc cây có cành lá sum suê, Ngài ngồi thiền chờ. Bữa đó Phật không đi khất thực, Ngài đi sớm, bữa đó Ngài nhịn ăn.
Người thợ săn sáng sớm đi vào rừng để thăm mấy cái bẫy, thì cả trăm cái bẫy mà không dính một con thú nào hết, chỉ thấy những bước chân. Ông rất là buồn bực, rất tức giận, rất là sân. Ông nghĩ rằng cái người nào mà giẫm lên cái bẫy này là người chạy tới chạy lui mà phá không cho thú vào. Ông rượt theo những dấu chân đó dẫn đến một cái gốc cây, ông thấy thấp thoáng một người đang ngồi và ông nào giờ chưa biết Phật pháp. Ông chỉ thấy có một người ngồi, mà lúc đó Đức Phật dùng thần thông để cho ông không thấy được cái uy đức của Phật, Ngài giấu uy đức, giấu bặt luôn. Thế là ông mới tức giận, ông giương cung ra ông bắn, nên cái ác tâm vẫn còn. Ông giương cung ra nhưng lúc đó Phật dùng thần thông khiến ông không buông dây cung được, cái lực kéo thì vẫn còn mà không buông ra được, cứ kéo nặng tay như vậy mà không buông ra được thì rất là mỏi. Mồ hôi ông nhễ nhại mà ông không nhúc nhích được, la lên không được, buông cung không được, cứ đứng yên đó.
Tới trưa, gia đình không thấy tin tức mới cho mấy người con trai và con rể đi vào rừng tìm. Bảy người con trai và con rể cũng đi vào khu vực bẫy, thấy những cái dấu chân như vậy mới men theo thì thấy cha mình đang đứng đó, mặt mày xanh lè xanh lét, mồ hôi nhễ nhại thiếu điều muốn xỉu, cầm cung tên giương ra mà không được, không nói được cứ ú ớ, ú ớ. Bảy người con trai và con rể đó thấy như vậy mới rút dao đi rừng ra, vì nghĩ rằng có ông đang ngồi đó không biết làm gì có lẽ là thủ phạm, nên mới xông vào tấn công, mới chạy đến thì cũng đứng yên như vậy, không ai làm được gì nữa hết. Cứ đứng bất động như vậy và mồ hôi cũng nhễ nhại đổ ra.
Đến qua giờ ăn cơm rồi không thấy tám người kia về thì người mẹ mới đem theo bảy người con vừa gái vừa dâu cũng đi vào rừng kiếm, cũng thấy dấu vết của bẫy, cũng thấy dấu chân. Đi tìm tới nơi rồi thấy cái cảnh tượng đó, bảy người con gái và con dâu thì không biết chuyện gì, nhưng bà mẹ thấy, bà nhìn ra Đức Phật. Tại hồi ở trong thành Vương Xá bà đã quy y với Phật và bà đã chứng Dự Lưu, cái lòng tôn kính đã tột độ. Trong cái giây phút mà bà vừa nhìn thấy Phật, mà cũng giây phút đó vừa nhìn thấy cái mũi tên hướng về Phật, cũng giây phút đó nhìn thấy một loạt bảy người kia đang cầm dao, cầm búa hướng về Đức Phật, bà chưa nhìn thấy là họ đã bị khóa cứng nhắc, chỉ trong thoáng một cái bà sợ quá bà la lên: "Đừng giết cha ta".
Tâm của tám người đàn ông mới giật mình tưởng người này là cha ruột của bà, tại vì nào giờ lấy chồng là bà trốn đi nên cái ông thợ săn không biết mặt cha mẹ vợ là ai và những người con không hề biết ông ngoại của mình là ai. Nên nghe câu nói "Đừng giết cha ta", tưởng đây là ông ngoại, là cha vợ của mình nên cái tâm ác trong lòng mọi người lắng xuống liền. Lúc mà họ lắng xuống rồi Đức Phật mới buông thần thông ra, ông thợ săn mới trùng cái mũi tên xuống được, lúc đấy trùng lại được nhưng mà nắm chặt tại vì sợ mũi tên bay ra giết cha vợ của mình, rồi những người cháu kia mới lật đật buông dao xuống chạy lại để thăm tưởng là cha vợ. Nhưng mà bà mới đến bà quỳ xuống, bà đảnh lễ Phật và khóc bởi vì bà bỏ nhà theo trai, lấy chồng bao nhiêu năm hôm nay mới gặp được bậc Đạo Sư mà mình tôn kính.
Lúc đó Đức Phật mới kêu mọi người đến ngồi quanh, Ngài mới thuyết pháp, lúc đó Ngài mới hiện trở lại cái uy đức bình thường của Ngài ra thì mọi người mới giật mình, thấy một Đức Phật rực rỡ như là ánh mặt trời. Khi Ngài thuyết pháp xong thì toàn bộ mười bốn người con và ông chồng của bà đều chứng Quả Dự Lưu luôn, sau đó về họ đổi nghề luôn. Đây là một cái nhân duyên rất là đặc biệt .
Các Tỳ kheo biết chuyện mới hỏi Phật mấy chuyện, thứ nhất là một người phụ nữ đã chứng Quả Dự Lưu rồi mà tại sao còn bị cái tâm luyến ái nặng đi lấy một ông chồng sát sanh, hằng ngày vẫn phải cầm dao xẻ thịt. Như vậy là đã phạm tội sát sanh hay sao. Lý do thứ hai nữa là tại sao gia đình làm nghề thợ săn như vậy trong phút chốc gặp Phật chứng Quả Dự Lưu liền. Cái nhân quả gì lạ như vậy.
Đức Phật mới giải thích thế này:
Người vợ đã chứng Quả Dự Lưu, bà không có ác tâm, bà lấy chồng là thợ săn là vì duyên nợ quá khứ, vì họ đã làm vợ chồng nhiều đời quá, gặp nhau không cưỡng lại nổi, cái tình thương yêu đó không cưỡng lại nổi, nên chứng thì chứng mà thương thì vẫn phải thương, yêu vẫn phải yêu, cái duyên nợ buộc phải lôi cuốn. Còn việc mà bà bỏ cái nề nếp gia phong để đi theo đó cũng là nhiều cái nghiệp phức tạp buộc mình phải từ bỏ cuộc sống giàu sang đi theo cái người mình thương yêu mà sống cuộc sống nghèo hèn vì cái nghiệp tới lúc đó là phải thay đổi, cái nhân quả nó bị chi phối như vậy. Nhưng mà vì bà không có ác tâm nên bà không có tội, bà chỉ tùy thuận theo cuộc sống của chồng thôi, mà cái quan trọng là bà sống với hàng xóm làng giềng, bà con bên chồng sống rất là tốt vì bà chứng Quả Dự Lưu nên bà sống rất là quân tử, rất là độ lượng.
Còn nguyên nhân mà cái gia đình này chứng hết Quả Dự Lưu vì từ thời Đức Phật Ca Diếp, khi Đức Phật nhập Niết Bàn, người ta có xây cái tháp rất to để thờ xá lợi của Phật, thì gia đình này đã tình nguyện hiến hết gia tài để vào đó sống và bảo vệ cái tháp của Phật Ca Diếp, tối ngày cứ chăm sóc, quét dọn, mọi người đến viếng thì họ là người phục vụ .v.v như vậy. Nhờ công đức đó mà đến ngày nay họ được hưởng cái phước là chứng Quả Dự Lưu. Riêng cái người phụ nữ đó thì bà có nhiều công đức hơn một chút cho nên bà chứng sớm hơn một chút.
Câu truyện tích là như vậy, nên rồi Phật mới đọc bài Kệ là:
Bàn tay không trầy xước
Cầm thuốc độc chẳng sao
Lòng không có tham sân
Cầm vũ khí hại gì.
____________________
Hoang Nguyen gởi
