Gia Long Tẩu Quốc
This entry was posted on Tháng Mười Một 25, 2025, in Lịch sử Việt Nam and tagged gia long, Gia Long Tẩu Quốc, nguyển anh, Tân Dân Tử, triều nguyễn. Bookmark the permalink. Bình luận về bài viết này
Tân Dân Tử, 1930
TỰ
Hảy đọc quốc sử, hảy đọc quốc sử, ấy là tiếng của các nhà trí thức đương thời, hằng kêu ca cùng quốc dân ta vậy.
Nghĩ vì quốc sử xứ nầy, chỉ có một ít nhà khão-cứu và trước-tác thông thuộc mà thôi, còn phần đông không hiểu biết truyện ký nước nhà là gì cả, Họa chăng còn nhớ vài tích hoang đàng kỳ quái, như Sơn-Tinh Thủy-Tinh, nàng Mỵ-Châu với áo long ngổng, Lý-chiêu-Hoàng háo sắc, Trần-thủ-Độ cao mưu, chính nhửng người hô hào rằng mình con Hồng cháu Lạc, chưa chắc đã biết rỏ Hồng-bàn-thị và Lạc-long-quân ở về đời nào, nhớ đến Trưng-nữ-vương đánh Mả-Viện là nhờ câu:
Đồng-trụ chí kiêm đài vị lục,
Đằng giang tự cổ huyết du hồng.
銅柱至今苔未綠
藤江自古血猶紅
Nhớ đến sự tích bà Triệu Ẩu là nhờ câu:
Quảng cáo
IFrame
Cài đặt chế độ riêng tư
Cửu-chơn có ã Triệu-Kiều,
Vú dài ba thước tài cao muôn người.
Trong đám bình dân ít học, thì nhờ một hai câu ấy mà còn tưỡng tượng phưởng phất nơi lòng, kỳ dư đối với lịch sữ nước nhà, xem ra rất lơ là nguội lạnh.
Quốc dân ta đọc đến lịch sữ nước Pháp, thấy một người chọc trời khuấy nước, nghinh ngang một cỏi biên thùy, bình phục các nước bên Âu một lúc, là Nả-bá-Luân (Napoléon) thì có lòng sùng bái kính trọng mà khen rằng :
Thật là một vị anh hùng, thật là một tay hào kiệt.
Đọc lịch-sữ Hy-lạp (Grec) thấy Á-lực-Sơn-đại (Alexandre le grand) nam phạt Ba-tư (Perse) Tây chinh ai-cập (Egypte) thì trầm trồ khen rằng : thật là siêu quần, thật là bạc tỵ.
Đọc Lịch-sữ Tàu, thấy Tiết-nhơn-Quí chinh Đông, La-Thông tảo Bắc, Ngủ-Hổ bình Tây, và thấy Nguơn-thái-Tổ lày Thiết – mộc – Chơn (Tamerlan) chinh Nga, Hốt-tất-Liệt (Koubilaï) phạt Tống, thì khen rằng : thật hào-kiệt, thật anh hùng, nhưng hỏi lại nhửng người danh-nhơn vĩ-tích trong nước mình là ai, thì coi bộ ngẩn-ngơ chẳng biết, thật cũng là :
Lạ thay cho cái nhơn tình,
Chuyện người thì sáng chuyện mình thì lu.
Vậy nên muốn phổ thông quốc sữ, chẳng chi hay bằng trích ra một đoạn, rồi đặt thành tiểu-thuyết, như nhà trước tác đại danh Langsa là Alexandre Dumas, vẫn có đặc tài về lối ấy.
Tân-dân-Tữ tiên sanh là nhà sữ-học văn-chương, lại lịch lảm nhơn tình thế thái, cũng có ý như vậy, nên đã gia công khão cứu nhiều bộ Sữ-ký Tiền-triều của người Tây và người Annam soạn, mà điền thàn một bổn lịch-sử tiểu-thuyết đề là « Gia-Long tẩu quốc »
Quyển tiểu-thuyết lịch-sử nầy làm ra rất dày công phu, khó nhứt là phãi sấp đặt ra những chuyện tích thế nào cho liên lạc, bố trí cách nào cho hoàn toàn, chuyện nội sử với ngoại truyện ăn nhau, mà có ý vị thâm trầm, dể khiến lòng người ham mộ.
Huống chi ngôn từ chãi chuốt, dể đọc dể nghe, có chổ củng « múa men ngọn bút lang-đài, trường văn tô điểm một vài bông hoa. » thi vận thanh tao, đối đáp chính chắn.
Quyển lịch-sữ tiểu-thuyết nầy, ngoại trừ một vài ý tưởng và lời lẽ dường như của người đời nay mới sãn xuất ra, củng kể là một thiên kiệt tác. Người thường đọc đến ắc phải hoan nghinh, người rộng học xem vào cũng có lý thú, nghỉa là toàn quốc có thễ xem mà không tiếc ngày giờ.
Dẩu rằng tiểu thuyết mà nếu có thể tập cho quốc dân quen thuộc các tên tuổi nhà công thần phụ tá Cao-Hoàng, bình được Tây-Sơn, lên ngôi Cữu-Ngủ, như Lê-văn-Duyệt, Nguyễn-văn-Thành, Nguyễn-huỳnh-Đức, Châu-văn-Tiếp, Vỏ-Tánh, vân vân, cũng đũ bổ ích.
Nói qua cang thường luân lý, trước tác là một nhà nho học, những đều thương phong bại tục là đều khã ố của tiên sanh, chưa lật sách ra, dám đoán chắc rằng ở trong có đủ gương, Trung, Hiếu, Lể, Nghỉa.
Tri Phủ : TRẦN-VĂN-TẤN
Délégué Administratif à
CẦNGIUỘC
TỰA
Túng sử có cái chí ngang trời dọc đất, cái tài xuất chúng siêu quần đến thế mấy, cũng không thể không hiểu qua non sông nhà mình, nòi giống nhà mình, gốc gát tự đâu đâu….mà muốn hiểu non sông nhà mình, nòi giống nhà mình, gốc gát tự đâu đâu, trừ ra lịch sử cũa tổ tiên mình lưu lại, thi không do đâu mà hiểu được. Thế đã hiểu lịch sử đối với con người có ảnh hưởng quan thiết sâu xa lắm vậy.
Lại làm người tức phải đổng tất cả những việc quá khứ, việc hiện thời, hai việc ấy ta lại cần phải đối chiếu nhau, dung hoà nhau, lọc lấy một phần tinh-ba cốt-yếu mà người ta gọi là quốc túy đó, để di dưởng lấy tinh thần, dồi mài nên khí tiết, dường ấy đối với quốc gia xã hội, rồi quốc-gia xã hội mới mong nhờ mình.
Nước mình cũng một nước có lịch sử vẽ vang lắm vậy, song người mình, trừ ra một số người có học thức, có tham khão ít nhiều về lịch sử nước nhà thì không nói, còn ra vô số những hàng người, ngoài sân vọng cái bàn thờ Trương-đạo-Lang (Trương-thiền-Sư) trên trang treo bức hình ông Quan-Vỏ, hằng năm hương hỏa bất tuyệt. Chẳng may mở miệng ra, mở miệng ra thì nào là Lưu-kim-Đính giải giá Thọ-châu, Phàn-lê-Huê phá Hồng-thủy-Trận. Chớ chưa thường có mấy ai nhắc nhở đến, sùng bái đến cái ông Đinh-tiên-Hoàng, Lê-thái-Tổ, Trần-hưng-Đạo, Trưng-Trắc, Trưng-Nhị v.v… là những bực đả làm vẻ vang cho lịch sử nước nhà, bồi đấp cho non sông tổ quốc tự hồi nào… Thật củng một đều đáng thương tâm về sự khuyết điểm của anh em mình lắm vậy.
Cũng không nói trước mình từ Trần, Lý, Lê, Đinh những trước, là cái lịch sữ vào thời kỳ xa xuôi, chí như lịch sử vào lối vài trăm năm trở lại đây, tuy là cái lịch sử người mình đua tài dành ngôi giết nhau với người mình thì mặc dầu, mà quốc dân mình cũng ít kê cứu đến cho biết sự hay dở của lịch sử xưa nay, có quan-hệ gì đến tinh thần hóa của quốc dân mình buổi nầy chăng? thì thật họ trông nom cái lịch sử ấy không bằng trông nom mấy cuốn tiểu thuyết lằng xằng của mấy văn sỉ dở, mua trong mấy quán sách ở đầu đường cuối chợ kia, bao nhiêu đó cũng đã biết được sự học-vấn của bọn bình dân mình ra làm sao rồi.
Mới đây ông Tân-dân-Tử ông củng vào hàng tiễu-thuyết-gia đương thời, tưởng ông củng cãm xúc vì cái nổ vừa mới nói trên đó, nên ông cùng tôi trong buổi chuyện trò, ông có tỏ cho tôi biết rằng : ông đả lược rút lịch sử nước mình vào hồi đức Gia long chạy vào Nam, viết thành một bổn để người mình trông đấy cho biết cái lịch sử nước mình sau nầy là thế.
Tôi nghe qua lấy làm tán dương ông có cái hoài cãm với nguồn gốc nước nhà, nên xin có mấy lời trước nầy khen ngợi ông là người lưu tâm về sử-học vậy.
NGUYỂN-TỬ-THỨC
Cựu chủ bút tờ Đông-Pháp và
hiện thời chủ bút tờ Canh-Nông
LỜI TỰA CỦA TÁC-GIẢ
Lấy cặp mắt quan sát mà xem cả hoàn cầu, từ Tây-Âu tới Đông-Á, từ Mỷ-Quốc tới Phi-Châu, cái trình độ các nước văn-minh lên cao chừng nào, thì cái nền lịch-sữ tiểu-thuyết lại càng vun bồi tô điểm, quí trọng thạnh-hành chừng nấy.
Mổi nước đều có một lịch-sữ riêng, mổi lịch sử lại có diển ra tiểu-thuyết đặng phổ thông cho quốc dân rỏ biết cái cơ-quan hành động cũa tiền nhơn, sự dinh hư tiêu trường của chũng tộc.
Lịch sử có hai thứ: một thứ gọi là lịch-sữ đại-lược chánh-biên, một thứ gọi là lịch-sữ tiểu-thuyết.
Lịch-sử đại-lược chỉ nói tóm tắc những sự lớn lao, mà không nói cặn kẻ những sự mảy múng. Còn lịch-sữ tiểu-thuyết thì nói đũ cả, vừa chuyện lớn lao, vừa chuyện mãy múng, đều trạng ra như một cái cãnh vật tự nhiên, hiển hiện trước mắt. Lịch-sữ đại-lược có nói nhơn vật sơn xuyên, quốc gia hưng phế, mà không tỏa trạng mạo ngử ngôn, không tỏa tánh tình phong cãnh.
Còn lịch-sử tiểu-thuyết thì tỏa đủ các nhơn vật sơn xuyên, tánh tình ngôn ngử, tỏa tới hỉ, nộ, ái, ố, trí nảo tinh thần, tỏa tới phong cãnh cỏ-hoa, cửa nhà đài các, nhành chim lá gió, nhạc suối kèn-ve, làm cho các độc giã ngồi xem quyển sách, miệng đọc câu văn, mà dường như mình đã hóa thân đi du lịch một phong-cãnh nào kia, xem thấy một nhơn-vật nào đó, khiến cho kẽ đọc ấy dễ cãm xúc vào lòng, dễ quan niệm vào trí.
Ví như đọc Tam-Quốc, thấy Quan-Công gìn lòng nghĩa khí, đốt đuốc xem thơ, tức nhiên tỏ ý kính vì, mà tôn sùng vào óc, thấy Tào-Tháo lộ thói gian hùng, lộng quyền khi chúa, tức nhiên ghét giận, mà bức rứt trong lòng. Đọc Thủy-hủ thấy Tống-giang chiếm cứ Lương-sơn-Bạc, bèn dững dửng chơn mày, đọc Hồng-Lâu thấy Đợi-Ngọc thát tại quán Tiêu-Tương, liền rưng rưng nước mắt. Đọc Les trois mousqu taires thấy Hồng-y Giáo-chũ là Richelieu phò vua vực nước, vửng đặt Triều-cương, làm tướng cho vua Louis cũng như Quản-Trọng, làm tướng cho Tề-Hoàng, chắc ai củng thầm khen trộm mến; thấy quận công Buckingham vào cung, tư tình cùng Hoàng-hậu Anne d’Autriche, thế ai cũng động tình mê hương luyến ngọc, mà rỡn ốc rùng mình. Đọc Les compagnons de Jéhu, thấy Roland một mình vào địa huyệt, thì ngại ngại lòng lo, thấy Bonaparte sấp binh về Paris, lại hừng hừng khí sắc, đọc Le comte de monte-cristo thấy Dantès bị hàm oan 14 năm trong hắc ngục, tự nhiên dàu dàu một mối thương tâm, thấy Mercedès nửa đêm ra mắ Edmond, kể lể sự tình, tức thì ngùi ngùi một lòng bi cảm.
Theo những sự kể trên đây, tiểu-thuyết thật là một thứ sách dể cảm động, dể khích thích lòng người làm cho nhiều kẽ đọc tới mà quên ăn bỏ ngũ, mê mẩn tâm thần, đọc rồi năm mười ngày hãy còn tưởng tượng trong trí.
Tiểu thuyết có nhiều thứ khác nhau, nhưng thuyết về lich-sử thì cần nhứt cho quốc dân ta trong lúc nầy hơn hết. Lịch-sữ với tiểu-thuyết phải cặp kè nhau như mẹ với con, hòa hiệp nhau như chồng với vợ, lịch-sữ mà không có tiểu-thuyết để phụ tùng thì như mẹ mà không con giúp đở, thế phãi bơ vơ; tiểu-thuyết mà không có lịch-sử làm cội nguồn, nào khác vợ mà không chồng chủ trương, ắc phải một mình hiu quạnh;
Vậy nếu muốn cho lịch-sữ nước nhà phổ thông, thì chẳng chi hay hơn là dùng tiễu-thuyết làm mai-nhơn để dẩn dắc quốc-dân vào đường lịch-sữ, đó là một phương pháp rất anh linh, và một phương châm rất công hiệu.
Nhưng tiểu thuyết có hai đều quang hệ khác nhau: Một là: tiểu thuyết nào từ nghiêm lý chánh, thì được bỗ ích cho xả-hội nhơn quần; hai là: tiểu-thuyết nào viết bạ nói xàm, chẳng kể luân lý cang thường, ắc gây một mối ác cãm trong lòng người mà phải tồi phong bại tục.
Vậy tiểu thuyết củng có thể đáng kính đáng yêu, mà củng có thể đáng kính đáng sợ.
Trong nước ta từ hai ngàn năm nay, lịch sữ đại lược thì có, mà lịch sữ tiểu-thuyết thì không.
Lịch-sữ ta như một cây kia có cội rể, mà chẳng có nhánh lá bông hoa, như một nhà kia có cột rường; mà không có ghế bàn trang sức, nếu cây mà không có nhánh lá bông hoa, thì thành ra cây khô, ngó tới thêm chán thêm buồn, có gì gọi rằng tốt tươi ngoạn mục, còn nhà mà không ghế bàn trang suất, thì thành ra nhà trống, ngó vào tường cao vách đứng, có gì đẹp đẽ mà quan chiêm. Vì vậy cái tình trạng lịch-sử của ta thuở nay cũng đâu như thế.
Trừ ra mấy nhà có học thức, có khảo cứu lịch sử mới được hiểu thông.
Kỳ dư, phần nhiều quốc dân đối với lịch-sữ nước nhà, lơ lảng như khách bàng quan. Nguội lạnh như người ngoại quốc, không biết ham mộ quí trọng lịch sử là gì, không hay sùng bái truy niệm tiền-nhơn chi hết, bao nhiêu tư tưởng, bao nhiêu kiến văn, đều đổ trúc ra nước ngoài là nước Tàu, mà quên mất tổ-tiên, không ai nhắc nhở chi tới.
Bỉ-nhơn không muốn nói tới chuyện thượng cổ, trung cổ thời đợi làm chi cho xa xuôi, mà xin nói chuyện một thời-đại gần đây, là chuyện của đức Cao-Hoàng (Gialong) mới vừa qua rồi, chẳng đầy 200 năm nay, mà hỏi lại quốc dân ta sau nầy, phần nhiều không ai rỏ biết.
Như các danh-nhơn vĩ-tích, phụ quốc công thần trong đời đức Gialong là Vỏ-Tánh, Ngô-tùng-Châu Nguyễn-huỳn-Đức, Nguyển hữu-Thoại, Châu-văn-Tiếp, mà người trong Nam ta thì ngơ ngẩn mồ hồ, xem như tuồng kẻ tha bang dị vức.
Vì có nào mà quốc dân ta không rỏ biết những sự tích ấy? vì cớ nào mà người nam ta đối với các đấng ấy như người dị vức tha bang?
Cái vấn đề nầy là một vấn đề rất quan thiết cho các đấng văn nhơn phải tự tri mà giải quyết.
Cái nguyên nhơn ấy vẫn có hai đều:
1er là bởi thuở nay trong xứ ta chưa có lịch-sữ tiểu thuyết ban hành ra nhiều, chỉ có một vài bộ ít oi, mới xuất bãn sau đây, chưa biết thọ yểu thế nào, và cũng chưa đủ cho mắt đời xem xét.
2è Các nhà văn sỉ ta bấy lâu chỉ chuyên luyện khuynh hướng về sự trường thiên đoãn cú, vịnh nguyệt ngâm phong, mà không thèm ngó ngàn tô điểm về lối tiểu-thuyết quốc văn, nên không ai chịu khó khão cứu sự-tích cũa nước nhà mà diển ra cho quốc dân rỏ biết.
Bĩ-nhơn đâu dám khoe văn múa bút trước cữa Đại-phương, song cũng mon men gỏ mỏ rung chuông trên trường tiểu thuyết.
Vì vậy chẳng nại lao tâm khổ tứ trong lúc đêm tịnh canh trường, khảo cứu các lịch sử tây nam, lượm lặt các chánh biên ngoại truyện, mà phô diển một bộ lịch-sữ tiểu thuyết nầy, nhan đề là « Gia-Long tẩu quốc » ngõ hầu cống hiến cho đồng bào xem chơi, cho biết một sự-tích nhơn-vật trong lúc Nguyển-thị-Hoàng-triều, đặng để làm một tấm gương phãn-chiếu cho người mình soi xét.
Cholon le 1er Novembre 1929.
NGUYỄN-HỮU-NGỠI
Biệt hiệu: TÂN-DÂN-TỬ CẨN TỰ
HỒI THỨ NHỨT
Đức Nguyễn-Ánh lạc bước phong trần,[1]
Nơi phật tự gặp người phò tá.
Đất Việt ba kỳ, trời Nam một góc, tang thương mấy độ, cuộc hưng vong dường thể chim bao; sự tích ngàn xưa, gương trị loạn còn ghi lịch sử.
Trong khoãn cách chừng một trăm năm chục năm nay, nước Việt-nam ta ném nhằm lúc Triều-Lê vận mạt, chúa Nguyển thời suy, ngoài Bắc thì chúa Trịnh tranh quyền, trong Nam thì Tây-sơn dấy loạn, làm cho một giải đất nằm dọc theo mé biển Đông-dương nầy, từ sông Nhỉ-Hà tới Cữu-long-Giang, thành ra một xứ rần rần lửa giặc đao binh; sanh linh đồ thán, kẻ thì phải chịu mùa màng thất phát, người thì lại bị nghèo khổ linh đinh, nay chạy chổ nầy, mai trốn chổ khác, thảm khổ biết là dường nào!
Lúc bấy giờ, tại Cầnthơ có một ngôi nhà, ở gần mé Hậu-giang, tuy chẳng phải là nhà hào gia cự phú, song xem có vẻ thanh-lịch u nhàn, giửa nhà có để một bàn tròn, trên bàn có trãi một tấm khãm đõ, lại có ít quyển sử, truyện, thi, thơ, văn phòng tứ bửu, hai bên thì để một bộ trường kỷ, với ít cái đôn sành, còn chung quanh ngôi nhà, có một cãnh vườn, trồng đủ thứ cây trái bông hoa, trước sân có xây một hòn giã sơn, bên thì đễ ít chậu kim quít, thanh tùng; bên lại trồng ít bụi mai, lang, cúc trước, xem rất thú vị.
Ngoài vườn trồng một vuôn tre, bốn phía sùm sề, cây yêm lá rậm; nhà nầy là nhà của một ông quan hồi hưu, cất đễ dưởng nhàn, trong lúc tuổi cao tác yếu.
Trong một đêm kia, vào khoãn canh hai, trăng sáng lờ mờ, mưa tro rải rắc, đầu làng lặng lẻ, cúi xóm vắng tanh, chỉ nghe nhửng tiếng chó sủa ma, vẳn vẵn bên rừng, mèo kiếm bạn, ngao ngao xó bụi, dây lâu, bổng nghe xa xa, mỏ sải tụng kinh cốc cốc, thỉnh thoản lại nghe tiếng chuông nhà phật bon bon.
Cái tiếng mỏ tiếng chuông nầy, đối với người thường cãnh thường, thì nghe ra như nhắc nhở như khuyên răng; mà đối với người buồn cãnh buồn, lại nghe ra như thảm, như sầu, như than, như khóc. Ấy là:
Tiếng chuông sấm-hối răng trần-tục,
Giọng mỏ từ-bi tỉnh mộng hồn.
Thật là một cãnh đêm vắng canh khuya, xem rất yêm điềm buồn bực.
Lúc bấy giờ, trong nhà ấy có một người thanh-niên, trạc chừng mười tám tuổi, xem diện mạo tõ ra một người anh phong tuấn duật, cốt cách phi thường, sống mũi thẵng mà cao, tròng mắt long-lanh, hiện ra mấy ánh hào quang chói sáng, trán cao mày rậm, mặt trắng môi hồng, hình trạng chắc chắn khôi ngô, xem ra có vẻ anh hùng khí tượng, thật là một người tướng mạo đường hoàn, dung nghi tề chỉnh. Đầu bịt một khăn vàng, mình mặt một cái vỏ bào trắng, chưn mang một đôi võ hài đen, bên lưng đai một thanh gươm, vỏ bạc cáng vàng, dọi với bóng đèn, chói ra nhấp nhán. Người ấy đương ngồi dựa bàn, chống tay bên má, sắc mặt có vẻ âu sầu, ngó chăm chăm xuống đất, dường như đương trầm tư nghỉ nghị đều chi trong trí vậy.
Phía một bên, lại có một nàng tuổi vừa hai chín, hai môi đỏ hồng như màu yên chi, nước da trắng tươi như bông bạch phấn. Xem ra có cách yểu điệu thanh bai, thật là một người thục nử giai nhơn, trâm anh đài các, đương ngồi mắt ngó lơ là ra cữa, lẵng lặng làm thinh. Tợ hồ có việc chi nghỉ ngợi trong lòng, tràng ra một vẻ sầu dung, làm cho màu hoa giã dượi.
Chính giữa, lại có một người đàn bà tuổi chừng năm mươi, sắc mặt cũng có vẻ âu sầu thảm đạm, tay cầm một vuôn khăn lụa trắng, đương chậm lâu nước mắt, rồi cũng lẵng lặng không nói đều chi, một lát bà ấy day lại ngó người thanh-niên kia mà nói rằng:
Con ôi! thảm khổ là dường nào đó con, chú con và em con đã bị tay quân nghịch giết rồi, và cái cơ đồ cũa tổ phụ ta sáng tạo mấy đời, nay cũng bị chúng nó chiếm đoạt hết cả, làm cho mẹ con ta ngày nay phải ra thân lưu lạc phong trần, ăn sầu uống thảm. Con ôi! cái thù nầy là thù chẳng đội trời chung, biết chừng nào trông mong trả đặng? mẹ nghỉ chừng nào lại càng đứt ruột đau lòng lắm con!! Nói rồi lại rưng rưng hai hàng giọt lệ.
Người thanh niên kia nghe rồi, day lại vòng tay thưa rằng: Thưa lịnh mẹ, người đời có lúc thạnh suy, mà cũng có khi bỉ thời, ấy là lẽ thường, xin lịnh mẹ tịnh dưởng tâm thần, bớt lòng phiền muộn, để mặc con ra sức lo toan, họa may trời có lòng thương, thì ngày kia cũng được thiên tùng nhơn nguyện.
Kế đó nàng gái ngồi bên kia cũng lau nước mắt rồi day lại thưa rằng:
Mẹ ôi! thật nghĩ lại cái cảnh ngộ cực khổ gian nan ngày nay thì biết bao là buồn thảm! Khi nào thì lầu son các tía, gấm phủ màng che, còn bây giờ sao lại chải gió dầm mưa, ăn nhờ ở đậu, cực khổ cho mẹ con ta biết là dường nào? Nghĩ mà câm hờn nuốt giận, tiếm ruột bầm gan với đứa nghịch thù, không bao giờ nguôi đặng Rồi day lại ngó người thanh niên mà nói tiếp rằng:
Phu-quân ôi! thiếp nghe rằng quân nghịch sai người mật thám, rải khắp các nơi, đặng tìm kiếm chúng ta mà giết cho tuyệt kỳ hậu hoạn. Vậy thì chổ nầy là chổ chúng ta tạm đở vậy thôi, nếu ở đây trì huởn lâu ngày, thì thiếp e sớm muộn cũng chẳng khỏi vào tay quân nghịch.
Vậy xin phu-quân lo liệu thế nào, đặng mau mau tìm phương lánh nạn thì mới được.
Người thanh-niên kia nghe rồi gặt đầu và đáp rằng:
— Nàng hảy yên tâm, sự ấy ta đã lo liệu trước rồi, không sao phòng ngại, khuya nay chừng lối canh tư, chúng ta sẽ tìm qua xứ khác mà trú ngụ; nói rồi, kế thấy hai người mặc đồ đen ngoài cửa hăm hở bước vô, mổi người đều mặt vỏ phục gọn gàn, và bên lưng mang một cây gươm trường, tay cầm một ngọn roi ngựa, bước ngay tới trước người thanh-niên, rồi cung tay cúi đầu thi lể.
Người thanh-niên nầy nghiêm sắc mặt và hỏi rằng:
— Hai ngươi có việc chi cẩn cấp, hãy nói mau đi.
Một người kia bước tới bẫm rằng: Bẩm lịnh bà và điện-hạ, có quân giặc gần tới.
Người thanh-niên kia nhiếu mày, đứng dậy cách lẹ làn rồi hỏi:
— Quân nghịch đã tới đâu?
— Thưa, đã tới địa phận rạch mân-thít.
— Quả thật thế chăng?
— Thưa quản thật như thế.
— Quân nghịch nhiều ít thế nào?
— Thưa độ chừng vài đội binh bộ.
Người thanh-niên đứng sững, ngẩm nghỉ trong trí một chút rồi hỏi rằng:
— Quân tuần phòng của ta ở đâu?
— Thưa ở hai bên mé sông Hậu-giang.
— Chỉ có thế mà thôi sao?
— Thưa còn một đội tuần phòng theo mé Cù-lao-mây, và một đội phân ra từng khoản mà tuần phòng từ rạch Trà-ôn, tới rạch mân-thít.
Người thanh-niên hỏi: người có nghe quân nghịch ở đâu nửa chăng? — người kia trả lời rằng: thưa không nghe.
Người thanh-niên nhiếu mày nhướng mắt ngó chăm chăm người ấy mà rằng:
Thuyền của quân nghịch đã vào cữa biển Định-an hôm qua, bây giờ nó đã tới cù-lao Đại-ngải, người có nghe chưa?
Người ấy ra vẽ lính quính rồi trả lời ngập ngừng rằng:
— Thưa tôi chưa — chưa nghe.
Người thanh niên lấy tay khoát ra một cái, tên kia lật đật đứng lại một bên rồi vòng tay, còn mắt thì châm-châm xuống đất.
Kế đó người thanh niên day qua ngó người đứng bên kia và hỏi rằng:
— Quân tuần phòng trên bộ của ta ở đâu?
— Thưa quân tuần phòng của ta đương ở nơi mé rừng tràm, đường vô Rạchgiá.
— Còn đâu nữa không?
— Thưa còn một toán quân, phân ra mỗi tốp là mười đứa, đặng đi tuần phòng các nẻo lộ khác.
— Người thanh niên nầy nghe rồi nghĩ nghị một chút và nói với hai người ấy rằng:
— Hai người hảy lo sắp đặt hành trang và ngựa voi cho sẵn, khuya nay chừng đầu canh tư, chúng ta sẻ qua Rạchgiá, nói rồi lấy tay khoát hai người ấy ra, rồi bước vào hậu đường với hai người đàn bà khi nãy.
Người thanh niên mặt vỏ bào trắng nói trên đấy là ai? nãy giờ tôi chưa chỉ danh, vậy xin tỏ ra dưới đây cho khán quan rỏ biết.
Người nầy là người có một tánh chất nhẩn-nại tinh thần[2], và có một lá gan anh hùng khí phách; cái tánh chất ấy với cái lá gan ấy, thật là mịnh như vàng, cứng như đá, mà cũng dẻo như sắt, chắc như đồng, trong hai mươi lăm nhăm, tẩu bắc bôn nam, vào sanh ra tử, xông tên đột pháo, giửa chổ kịch liệt chiến trường, khi thì vượt biển, lúc thì trèo non, khi nằm sương, lúc gối tuyết, gặp nhiều cảnh ngộ rất nguy hiểm gian nan, biết bao là thiên lao vạn khổ, nhưng chẳng hề rúng chí nguôi lòng, chỉ lo khăn khắn một trái tim địch-khái[3], rèn đúc một khối óc phục-thù: mà đối địch với quân giặc Tây-sơn, hơn mấy mươi trận rất hoanh-hoanh liệt-liệt, làm cho một nước Việt nam nầy từ bắc chí nam, động đất long trời, xiêu thành sập lũy.
Người nầy tên là Nguyễn-Ánh là một người nhành vàng lá ngọc trong giòng chúa Nguyễn thuở Triều-Lê. Sau người tức vị hiệu là Gia-long. Ấy là một người thống nhứt san hà, trung hưng phục nghiệp cho nhà Nguyễn, gọi là Việt-nam Hoàng-đế.
Nguyên Đức Nguyển-Ánh là cháu ruột của vua Duệ-Tôn, kêu vua Duệ-Tôn bằng chú, khi vua Duệ-Tôn thất thủ Kinh-đô Huế rồi, chạy vô Nam-kỳ, đồn binh lập trại tại sông Bến-nghé (Saigon) chẳng dè vua Tây-sơn là Nguyển-Nhạc, đem binh rược theo. Vua Duệ-Tôn đánh không lại, liền chạy xuống Cà-mau đào nạn, nhưng chẳng bao lâu, lại bị quân Tây-sơn bắt đặng, dẫn về Saigon, rồi đem ra pháp tràng mà xử tử,[4] Sau lại bắt đặng con vua Duệ-Tôn là ông hoàng Mục-Vương tại Bến-tre, rồi cũng giết chết, vì vậy Đức Nguyển-Ánh nầy chính là người được trọn quyền nối nghiệp cho vua Duệ-Tôn và chính là một người đại nghịch đại thù với quân Tây-sơn Nguyển-Nhạc.
Bởi cớ ấy, nên quân Tây-sơn đem binh truy tầm tứ hướng, kiếm bắt cho được Nguyển-Ánh, đặng giết luôn cho tuyệt kỳ hậu hoạn.
Nhưng Đức Nguyển Ánh tuổi tuy còn nhỏ, mà cang đởm rất to, đả sẳn trí thức thông minh, lại có mưu mô đỡm lược, và nhờ có nhiều kẻ bộ hạ phúc tâm, thãy đều là người trung thành vỏ dỏng, nên mới thoát khỏi quân giặc Tây-sơn, rồi dắt mẹ và vợ chạy xuống Cần-thơ, mà tá túc nơi nhà của một ông quan hồi hưu, ở dựa mé sông Hậu-giang, (Bassac) như lời tôi đã nói trong khoãn trước kia vậy, đây xin tiếp theo.
Khi Đức Nguyễn-Ánh trở vào hậu đường, đương ngồi bàn mưu tính kế với Vương-mẩu và vợ là Tống-thị-phu-nhơn. Xãy nghe canh gà gáy thúc trống đã sang tư, kế nghe có người gỏ cữa nơi trước khách đường, Đức Nguyển-Ánh bèn lật đật bước ra thấy một tướng bước tới cung tay cúi đầu rồi bẫm rằng:
— Bẫm Điện-Hạ, đã bước đầu canh tư rồi, xin Điện-Hạ sắm sửa đặng lên đường cho sớm.
Đức Nguyễn-Ánh gặt đầu và hỏi rằng:
— Các quan binh đã tề tựu đủ chưa?
— Bẩm đã tề tựu đủ rồi, đương chờ nơi lộ mà tiếp nghinh Điện-Hạ.
Đức Nguyển-Ánh gặt đầu và khoát tay một cái, tướng ấy liền cúi đầu rồi lui ra.
Một lát đã thấy Vương-mẩu và phu-nhơn cùng Đức Nguyển-Ánh với em gái ngài là Ngọc-du-công-chúa, cã thảy cung-quyến thỉnh thoản, trong nhà đi ra.
Khi ra tới ngoài ngỏ; thấy một đội quân đã rút gươm dàng hầu hai bên mé đường, và các tướng tâm phúc đều bước tới cúi đầu chào ngài cách nghiêm trang cung kỉnh.
Kế đó thấy tên quân dắt tới một con ngựa sắc hồng, xem rất hùng tráng, và hai con Bạch-tượng (voi trắng) rất to, trên lưng đều có bắt bành sẵn sàng tử tế, đó rồi Vương-mẩu với phu-nhơn và công-chúa đều lên lưng ngồi trên bành voi, còn ngài và các tướng cởi ngựa heo sau, rồi kéo nhau lên đường đi vô Rạch-giá, quanh qua lộn lại, ước được hồi lâu, khi đi ngang qua một đám tràm lớn kia, ngó ra chỉ thấy bờ bụi lờ mờ, bốn phía đều rừng hoang cỏ rậm, vương hú dơi reo, thật là một chổ sầm huất quạnh hiu, khỉ ho cò gáy.
Đức Nguyễn-Ánh liền gò cương ngừng ngựa, rồi lấy tay chỉ vào rừng ấy mà hõi các tướng tùy tùng rằng:
— Các ngươi có biết trong đám rừng nầy, có nhửng giống chi dử chăng?
Một tướng kia bước tới đáp rằng:
— Bẩm Điện-Hạ, loại độc trùng ác thú cũng nhiều mà nhứt là cọp hùm thì dử lắm.
Đức Nguyễn-Ánh nghe nồi mỉn cười mà nói rằng: Còn một giống nữa rất dử hơn, ngươi có thấy chăng?
— Bẩm Điện-Hạ, tôi chưa thấy, và chẵng biết giống chi mà Điện-Hạ gọi rằng dử hơn.
— Ừ, ngươi chưa thấy à, vậy đễ ta chỉ cho ngươi xem, nói rồi thò tay vào túi áo, lấy ra một cái chi nho nhõ, dài chừng hai gang, rồi đễ nơi miệng thổi lên tiếng, kêu te te….
Kế nghe hai bên rừng, nhửng tiếng rào rạo, lào xào như tiếng lá khô, tức thì ngó ra phía trước, đã thấy một toán quân trong rừng rần rần nhảy ra lẹ như nháy mắt, mỗi người đều cầm giáo mang gươm, lưng đai cung tiển, đứng dọc theo hai bên đường rừng, coi bộ tề chỉnh oai nghi, và mỗi người đều hầm hầm sát khí.
Các tướng tùy tùng ai nấy xem coi, thảy đều kinh dị. Đức Nguyển-Ánh bèn lấy tay chỉ toán quân đó mà nói với người ấy rằng:
— Cái giống đó mới là dử hơn giống cọp hùm của nhà ngươi khi nảy, nói rồi ngài lấy cái kèn thổi lên hai tiếng, tức thì toán quân ấy liền rút vô rừng, không còn thấy một dạng người nào, thắp thoán ngoài mé lộ nữa. Ấy là một toán binh của ngài đễ phòng hờ dọc đường, đặng ngăn ngừa quân giặc.
Lúc bấy giờ Đức Nguyễn-Ánh và các tướng kéo đi ước đặng mười dậm, bổng thấy nơi khoãn trống kia, đã ló lên một vừng thái duwong, đõ lòm rực rỡ, như một lò lửa hừng hực ở góc trời đông, rồi phóng xạ hồng quang trên mấy ngọn cây, xem ra nửa trắng nửa xanh, chừng ấy nhửng bóng tối tâm mờ mịt, rủ nhau lần lần mất đi, và cây cỏ non sông thảy đều hiện ra một cãnh tượng đẹp xinh sáng suốt.
Đi đặng một đổi, bổng thấy ẩn ẫn trong lùm cây, ló lên mấy cái tháp Hòa-thượng rất cao, chừng lại gần thì có một cãnh chùa phật nguy nga rộng rãi, cất trên một gò đất, chung quanh có cây cao bóng mát, xem ra rất tịch mịt u nhàn.
Đức Nguyễn-Ánh liền bão các tướng ngừng ngựa lại nghỉ, đặng cho quân lính cơm nước rồi sẻ đi, còn ngài và cung quyến với các tướng tùy tùng đều dắt nhau vào chùa, khi vô gần tới cửa chùa, thấy một vị Hòa-thượng với ít tên đạo chúng bước ra tiếp rước cách kính nhường tôn trọng, rồi hối các đạo chúng quạt nước pha trà, đãi đằng tử tế.
Kế đó Hòa-thượng lại đứng một bên, chấp tay cúi đầu và hỏi đức Nguyển-Ánh:
— Bẩm quới quan, xin miển chấp cho chúng tôi là kẽ tu hành, bấy lâu giữ đao từ bi, náu nương cửa phật, ỡ chốn thâm lâm cùng cốc, nay đặng quới nhân và liệt vị giá lâm đến đây, thật rất vinh-hạnh, nhưng chưa rỏ tôn tánh quí danh là ai, xin quới quan vui lòng nói cho kẻ bần tăng rỏ biết.
Đức Nguyễn-Ánh nghe hỏi liền đáp rằng:
— Ta là kẽ nối nghiệp cho chúa Nguyễn vua Duệ-Tôn, bị quân Tây-sơn dấy loạn, soán đoạt cơ đồ, lại còn bắt vua Duệ-Tôn là chú ruột ta và ông hoàng Mục-vương mà giết hết, nên ta phải tìm phương lánh nạn, đặng lo chiêu nạp nhơn tài, ngỏ được ngày sau khôi phục cơ đồ, trừ quân nghịch thù mà rữa hận.
Hòa-thượng nghe nói liền lấy cập kiến con mắt mang lên, va ngước mặt nhìn Đức Nguyễn-Ánh châm chỉ, rồi cúi xuống lặng nghỉ một hồi và nói rằng:
— Bẩm quới quan, vậy thì quới quan phải là cháu nội vua Vỏ-vương Nguyễn-phước-Hượt và là con của Đức Hoàng-Hưng-Tổ phải chăng?
— Chính là ta đây, mà sao Hòa-thượng biết đặng?
— Bẩm Điện-Hạ, khi còn trai tráng, tôi có ở tại kinh đô Huế, làm chức Vệ húy trong nội các, nên biết đặng đức Hoàng-thân của ngài.
Đức Nguyễn-Ánh nghe nói thì nhìn sững ông ấy và hỏi tiếp rằng:
— Rồi cớ sao, ông lại vào đây mà làm Hòa thượng?
— Bẩm Điện-Hạ, nhơn sau tôi có bịnh, nên xin hồi hưu, rồi tôi và cháu tôi vào Nam-kỳ, lập cãnh chùa nầy, đả hơn hai mươi năm nay, sau đây mới nghe quân Tây-sơn vào Nam-kỳ bắt vua Duệ-Tôn và ông hoàng Mục-Vương mà giết hết, nói tới đây thì lấy khăn chặm nước mắt, và sắc mặt thãm buồn, rồi nói tiếp rằng: mới đây lại nghe quân Tây-sơn đem binh truy tầm tứ hướng, kiếm bắt Điện-Hạ, chẳng dè nay gặp Điện-Hạ đến đây, làm cho tôi được thấy tôn nhan, thì biết bao là hân hạnh.
Đức Nguyễn-Ánh nghe Hòa-thượng nói mấy lời, cũng cãm động tâm thần, rồi day lại hỏi rằng:
— Hòa-thượng nói rằng, khi trước vào đây với một người cháu, mà người cháu ấy bây giờ ở đâu?
— Bẩm Điện Hạ, bấy lâu nó ở bên Xiêm-La, khi Xiêm-La đem binh đánh nước Miến-Điện (Birmanie) nó có xin theo tùng chinh với binh Xiêm mấy trận, vua Xiêm thấy nó vỏ dỏng thông minh, nên cho nó làm một chức quan nho nhỏ, như chức quản vệ của ta vậy. Kế nó nghe nước nhà hữu sự, dấy động cang qua, nên lật đật bôn tẩu về đây, đương tính chiêu mộ anh em, quyết ra ứng nghĩa.
Đức Nguyễn-Ánh nghe nói thì sắc mặt có vẻ hân hoan, rồi hỏi rằng:
— Vậy xin Hòa-thượng bảo người ấy ra đây cho tôi biết mặt, nói vừa dứt lời, bổng thấy một người ngoài cữa bước vô, ước chừng hai mươi mấy tuổi, tướng mạo khôi ngô, hình dung tráng kiện
Ông Hòa thượng thấy liền kêu tên ấy lại và bảo rằng:
— Cháu hãy lại ra mắt Điện-Hạ đây đi, Điện-Hạ đây là người kế nghiệp cho chúa Nguyễn Đức Duệ-Tôn.
Tên ấy lật đật bước lại, cúi đầu làm lễ, rồi đứng ra một bên, liếc mắt nhìn Đức Nguyễn-Ánh, còn Đức Nguyễn-Ánh cũng ngó người ấy châm chỉ và hỏi rằng:
— Tráng-sỉ quí danh là chi?
— Bẩm Điện-Hạ, tôi tên gọi là Nguyễn-hữu-Thoại.
— Ta nghe Hòa-thượng nói ngươi có đi tùng chinh theo binh Xiêm-La phải chăng?
— Bẩm Điện-Hạ, tôi có đi tùng chinh theo binh Xiêm ba năm.
— Vậy thì nhà người chắc là thông thuộc binh tình địa thế của Xiêm nhiều lắm phải chăng?
— Bẩm tôi cũng thông thuộc một ít.
— Vậy ngươi hảy vui lòng theo ta, mà giúp đở nước nhà, trong cơn hoạn nạn, đặng ráng sức dẹp loạn phò nguy cùng ta, mai sau may đặng khôi phục cơ đồ, thì cái công nghiệp của tráng-sỉ cũng được chép ghi thanh sử, và tiếng để ngàn thu, như vậy đã chẳng mai một cái tài danh của người, mà lại được vinh diệu với nước non tổ quốc.
Nguyễn-hữu-Thoại nghe Đức Nguyễn-Ánh nói vậy, lòng rất vui mừng, rồi trả lời rằng:
— Nếu Điện-Hạ có lòng cố cập, thì hạ thần sẽ hết sức theo Điện-Hạ mà giúp đở tay chơn, dầu vạng khổ thiên lao, cũng chẳng nài khó nhọc.
Ông Hòa-thượng nghe cháu nói như vậy thì rất vui lòng, rồi lấy lời mà khuyên rằng:
— Cháu có nhớ sách xưa nói rằng: « Gia bần tri hiếu tử, quốc loạn thức trung thần, » nghỉa là nhà nghèo mới biết con thảo; nước loạn mới rỏ tôi ngay, vậy thì lúc bây giờ đây chính là lúc nước loạn nhà nghiên, thành tang lủy sập, vậy cháu ráng ra mà tế khổn phò nguy, đặng cho khỏi hổ phận nam nhi thần tử.
Nguyễn-hửu-Thoại nghe chú khuyên bão mấy lời, thì ghi để vào lòng, rồi sắm sửa y phục hành trang, và từ giả chú, theo đức Nguyển-Ánh mà phò tá.
Nói rồi thấy dọn một tiệc cơm chay, Hòa-thượng liền lại mời đức Nguyễn-Ánh cùng cung quyến ngài với các tướng sỉ ngồi lại ăn uống xong rồi, bèn giã từ Hòa-thượng, kéo nhau lên đường thẵng qua Rạchgiá.
Chú thích
▲Đây kể từ khoản Nguyễn-Ánh (sau xưng hiệu là Gia-Long) ra kế nghiệp cho vua Duệ-Tôn trong năm 1775 tới bây giờ thì 154 năm.
▲Nhẩn nại tinh thần, là có một tinh thần rất chịu đựng bền bỉ.
▲địch khái là chống cự đánh giặc.
▲Vua Duệ-Tôn bị giết nhằm tháng 9 năm Đinh-Dậu (1777).
HỒI THỨ HAI
Bùi-Khắc-Phú ỷ thói dâm ô,
Châu-văn-Tiếp cứu người thục nữ.
Ngựa gát kiêm yên, người đai bửu kiếm,
Bọn du đãng nhởn nhơ đường lử-thứ;
Dậm quan hà chậm chậm mau mau.
Khách đa tình giục giả bước thừa lương;
Lời phong nguyệt trò trò chuyện chuyện.
Đây xin nói qua chuyện một tướng giặc Tây-sơn tên là Bùi-khắc-Phú đem một đạo binh qua trú tại Long-xuyên, đặng đón đức Nguyễn-Ánh mà nã tróc.
Tướng ấy là một đứa tham tài háo sắc, hảm hại lương dân, chỉ lo cho đầy mập túi tham, nào kể chi là đồng bào chủng tộc. Ban ngày thì sai người tâm phúc, rảo khắp thôn hương, coi nhà ai có gái đẹp vợ xinh, thì kiếm chước mà dâm ô hảm hiếp; ban đêm lại sai quân đến mấy nhà hào gia phú hộ, đặng cướp lấy của cải bạc tiền. Một buổi chiều kia Bùi-khắc-Phú đi với một người thơ-ký và hai tên tâm phúc bộ hạ vào làng; mổi người đều có mang gươm bồng súng, xem rất nghiêm chỉnh oai nghi.
Khi đi tới xóm kia, bổng thấy một người gái trạc chừng mười bảy mười tám tuổi, dung nhan đẹp đẽ, cốt cách diệu-dàng, ra vẽ một con nhà thế phiệt trâm anh, chớ chăng phãi hạng tầm thường nhi nữ, đương đứng trước thềm xem hoa, rồi lấy khăn đuổi mấy con ong ve vãng trên nhánh bông nguyệt quí.
Bùi-khắc-Phú thấy thì đứng sửng ngó trân, cô ta thấy vậy liền lật đật trở vào nhà trong rồi khép cửa lại.
Bùi-khắc-Phú day lại hỏi người thơ-ký rằng:
— Thầy có biết người gái ấy là con ai chăng?
Tên thơ ký nghe hõi thì nghỉ thầm rằng:
— Đéo hỏa, cha nầy muốn trổ mòi dê rồi, thây kệ, mình gò lão kiếm tiền xài chơi, ở đời phải bợ đở cho lanh, thì kiếm ăn mới đặng, nghỉ rồi day lại thưa rằng:
— Bẫm quan lớn, cô gái nầy tên là Ngọc-Sương, con của một ông nho học, tên ông là Cử khôi, cũng một nhà thế phiệt danh-gia hồi trước; bà thân cô mới khoản, bây giờ cô ở với một cha già, nhà tuy không giàu, nhưng mà cố-cách trăm anh vẫn còn giữ theo nề nết, nếu quan lớn muốn dùng cô làm tiểu thiếp, thì tôi ra công giúp miệng dùm lời, hể nhỏ to tiếng quyển giọng kèn, khôn khéo lời ngon lẻ ngọt, chắc là phải được.
Bùi-khắc-Phú nghe thầy Thơ-ký chuốt ngót mấy lời, bèn cười hì hì và nói rằng:
— Ừ, được vậy thì ở nhà cãm ơn thầy lắm, mà người ấy có chồng chưa?
— Bẫm quan lớn, cô ấy chưa chồng, hảy còn con gái đồng trinh nheo nhẻo, vì cô kén chồng lắm, nếu người nào không có chức phận phẩm hàm, thì không thế gì cô chịu ưng nhận làm chồng đâu.
Bùi-khắc-Phú cầm quạt nhịp bộp bộp trên bấp vế và mĩn cười rồi nói rằng:
Ước như ở nhà vậy, cô sẽ bằng lòng không?
— Bẫm được như quan lớn vậy, thế là quí lắm, mà nếu tôi nói giúp lời vào, có lẻ cô phải chịu lòng mà ưng thuận.
Bùi-khắc-Phú nói: có vậy, tối nay thấy bổn thân đến mà nói ngay đi thữ coi.
— Thưa vâng, tối nay tôi sẻ đến nói ngay cho quan lớn, nói vừa dức lời, bổng nhớ lại trong trì đều chi không biết, liền rùng mình một cái, rồi cã và tay chơn đều rởn ốc lên. bèn bước tới nói rằng:
— Bẫm quan lớn, nói thì chắc là được ngay, nhưng mà tôi ngại một đều lắm, quan lớn.
Bùi-khắc-Phú ngó sững tên thơ ký và hỏi rằng:
— Thầy ngại chuyện gì lắm nhỉ?
Thơ-ký cười mơn một cái, rồi ré rục nói rằng:
— Bẫm quan lớn, tôi ngại một đều là nếu Bà lớn hay ra, nói quan lớn bán dức linh hồn của quan lớn cho tôi, và nói tôi là thằng quỉ đồ mưu xúi dục quan lớn, mà làm một vị mai dong, rồi bà lớn hạ lịnh bảo quan lớn, cách chức thơ tôi đi thế thì tôi tưởng quan lớn chẳng bao giờ dám trã lời một tiếng không, chừng ấy tôi chỉ có một thế mau mau cuốn gói xách rương về nhà, mà làm một chức giữ con cho vợ thì khốn khổ cho tôi lắm đa, quan lớn.
Bùi-khắc-Phú cười ha hã và nói rằng:
— Đéo hỏa lại có thế ni, thầy không sợ quan ông, mà thầy lại sợ quan bà lắm nhẻ ở nhà xem trước mặt thầy, tỏ ra một người tướng mạo đường hoàng, mà sau lưng thầy cứ cột theo một con thỏ đế, thầy cứ việc thi hành đi, có đều gì ỡ nhà bão lảnh cho, không sao phòng ngại.
— Bẩm quan lớn, cái mạng lịnh của một vị phu-nhơn như bà lớn, không phải chơi đâu, vả lại tôi xem cái ghè tương của bà lớn rất to, nếu đổ bễ ra, thì quan lớn hốt sao cho hết, ấy là cái oai của bà sư-tữ ở Hà-đông, một tiếng gầm lên, củng đủ làm cho tôi phách lạc hồn tiêu, dùng mình nhổm gáy.
— Bùi-khắc-Phú lấy tay vổ trên vai Thơ ký một cái và nói:
— Ậy; thầy nới con thỏ của thầy ra, cứ việc thi hành đi, rồi trả lời cho ở nhà rỏ nghé.
Thơ-ký thưa vâng, và nói rằng: Bẩm quan lớn, tôi qua nói với ông Cử-khôi ắc là được ngay, song phải có lể vật chi chút đỉnh, xem cho nhả thú.
Bùi-khắc-Phú nói: ừ được, việc ấy ta đả sẳn lòng, không sao phòng ngại, nói rồi liền thò tay vào hà bao, móc ra mười đính bạc, trao cho Thơ-ký mà nói rằng:
— Vậy thầy phãi ráng lo cho xong, thì ở nhà thưỡng cho thập bội, đó rồi đồng đi trỡ về, nói nói cười cười, lấy làm hiu hiu tự đắc.
Tối lại, tên Thơ-ký sắm sửa khăn áo trang hoàng, lơn tơn đến nhà cô gái ấy, mà chẳng có sắm sanh lể vật gì cã, chỉ có một mặt hơn mười gói mà thôi.
Khi vô nhà rồi, lại ngồi tréo mãy nơi ghế, tay cầm quạt quạt lia, chơn lại nhịp nhịp như phong dực, mắt ngó láo liên trong ngoài, rồi kêu trẻ tớ mà hỏi rằng:
— Trẻ bây, ông Cử có ỡ nhà không?
— Thưa có, ông tôi ở nơi nhà sau.
— Ấy vậy, mi vô mời ông ra nói chuyện.
Một chút ông Cữ-khôi, mang dày lẹp bẹp từ trong đi ra, trên mủi đeo một cặp kiến trắng, lại dòm ngay mặt thầy Thơ-ký, và nhướng lên nhướng xuống mà nhìn, rồi hỏi rằng:
— Thầy ở đâu đến đây, có việc chi chăng?
Thơ-ký nghe ông hõi, thì lên giọng cao hãnh mà đáp rằng:
— Bác không biết tôi sao? tôi là Thơ-ký nhứt hạng của quan Đốc-binh Bùi-đại-Nhơn là tướng vua Tây-sơn, bác không biết à?
Ông Cữ-khôi nghe nói liền rùng mình một cái, và nhướng mắt ngó tên Thơ-ký từ đầu chí chơn, từ trên tới dưới, rồi nhích miệng vài cái, nhướng cổ lên cao, mà hỏi rằng:
— Chẵng biết thầy đến đây có việc chi, xin nói cho tôi rỏ?
— Thưa bác, quan Đốc-binh có một việc cậy tôi đến nói với bác, vì người thấy cô hai ỡ nhà đây người lấy làm bằng lòng, đẹp dạ lắm, nên người mới kết duyên tơ tóc với cô Hai, nếu bác bằng lòng, thì tôi tưởng cũng là một đều rất hạnh phúc cho nhà bác và cô Hai lắm đó. Vì người là một tướng yêu dấu tin cậy của vua Tây-sơn, và là người có thế lực trong lúc binh tình giặc giả, vả lại người chưa có vợ con chi hết, và người làm đến chức Đốc binh, vẫn là một chức phận cao sang lắm rồi, nếu cô Hai được kết tóc trăm năm cùng người, thì ngày kia sẽ đặng tử ấm thê phong, vinh hoa phú quí biết là dường nào, mà cái vảng cảnh của bác sau nầy cũng được châu toàn tử tế.
Vậy xin bác hảy bằng lòng, đặng tôi về bẩm lại cùng người, rồi sẽ trạch ngày hôn phối.
Ông Cử-Khôi nghe rồi gầm sắc mặt ngó xuống và ngẩm nghĩ trong trí, thì biết Bùi-khắc-Phú nầy là một đứa tham dâm háo sắc, mọt nước sâu dân, ỷ thế hiếp người mà làm muôn ngàn việc nhẩn tâm nghịch lý, thì day lại đáp rằng:
— Xin thầy về bẫm lại với quan Đốc-binh hay rằng: tôi rất cảm ơn quan Đốc có lòng hạ cố, mà thương tưởng đến con tôi, song tôi rất tiếc thay cho nhà tôi ít phước, không đặng hưởng nhờ cái hạnh phúc của ngài thương cho, vì tôi đã hứa gã con gái tôi cho người khác rồi, không thế gì mà bội ước thất ngôn với người ta cho đặng; vậy xin ngài chịu phiền kiếm nơi khác mà kết duyên, vì trong thiên hạ chẳng thiếu chi người giăi nhơn thục nữ, cũng chẳng thiếu chi bực tài sắc giàu sang, còn phận cha con tôi là hạng dân giã thấp hèn, đâu dám sánh với ngài là bực sao sang quyền tước.
Tên thơ ký lấy điếu thuốc hút vô một hơi, rồi trong lỗ mũi xì ra hai lằng khói mịt mù, vừa nhịp chơn vừa nói:
— Bác nói thật không? bác đã hứa gã cô Hai rồi sao?
— Tôi không hề nói dối với thầy bao giờ.
— Mà bác hứa gã cô Hai cho ai vậy?
— Tôi đã hứa gã cho một tên Học-sanh ở tỉnh Vỉnhlong.
— Bác rối quá, bác hứa chi vội vậy? tưởng gã cho một người nào có chức phận cao sang, chớ gã chi cho một tên Học-sanh thì uỗng lắm, vậy bác kiếm cớ hồi sự ấy lại, rồi gã cho quan Đốc binh, có tội tình chi mà bác sợ.
Ông Cử-Khôi nghe nói liền lắt đầu đáp rằng:
— Hể làm người quân tữ, một lời nói xem trọng hơn là ngàn vàng, chẳng phải như kẻ tiểu nhơn mà nói đi nói lại đặng, vã lại tôi đã cho người ta làm lễ sơ vấn rồi, trong một ít ngày nữa đây, sẻ làm lễ cưới, sự thầy nói đó, tôi quyết không dám nhận lời, xin thầy về bẫm lại cho quan Đốc-binh rõ.
Tên thơ ký nghe ông nói vậy thì nghĩ rằng: nếu lấy sự hiền lành mà nói với lão, thì chắc lão không nghe, vậy mình kiếm chuyện dọa lão thữ coi, họa may lão chịu, nghĩ vậy rồi day lại nói với ông Cữ-Khôi rằng:
Thưa bác, tôi thấy bác niên cao kỹ trưởng cũng đáng như hàng thúc bá của tôi, nên tôi xin nói thiệt cho bác rõ, quan Đốc binh nầy thật là một người lợi hại nham hiểm phi thường, người muốn làm hại ai thì làm, muốn chém ai thì chém, mà nhứt là trong lúc giặc giả loạn ly nầy, thì quyền hành của người lại càng to lắm, sống làm ra chết, chết làm ra sống, không ai dám nghịch cùng người hết, hễ nghịch cùng người thì phải táng gia bại sản, tổn mạng vong thân, chớ chẳng phải dễ như người khác kia đâu, xin bác phải suy đi nghĩ lại cho kỷ cang. Ở đời nầy hễ nắng bề nào phải che theo bề nấy mới được.
Bác ơi, tôi nói thiệt cho bac rõ, có nhiều kẻ muốn đem con đưa cho người để làm hầu thiếp, đặng cậy thế cầu thân, mà người không bằng lòng, và có kẻ đem lễ lộc bạc tiền, ra cúi vào lòn, năn nỉ đưa em gá cháu, đặng lấy chút thế thần cho vinh diệu, mà người cũng không chịu.
Nay người thấy cô Hai ở nhà đây, người đem lòng thương mến, nên bão tôi đến thưa cùng bác, ấy vậy cũng là một dịp rất may mắn cho nhà bác và cho cô Hai, bác chẳng nên cố chấp theo xưa, mà thất cái cơ hội nầy thì biết bao là uổng, nếu bác không nghe theo lời tôi, mai sau có việc gì xảy ra, thì bác đừng trách tôi rằng, không nói cho bác rõ trước.
Bác ơi, bác không nghe người ta nói rằng:
Cây da cậy có ông thần,
Ở đời thì phải cầu thân thế mà.
Ông Cữ-Khôi để cho thầy thơ ký uốn lưởi khua môi một hồi, rồi ông thở ra một cái mà đáp rằng:
Thầy ơi! thiên ngôn vạn ngử, bất quá hồ thiệt, nảy giờ thầy nói với tôi cũng đã nhiều rồi, vậy thì tôi xin nói thiệt với thầy một lời rằng:
— Cái nhơn tình thiên hạ là một cái nhơn tình giả dối dua mị, làm nhiều đều tê tiện, mà cậy thế cậy thần, dẫu họ bán đức linh hồn họ đi, mà mua một đều hèn hạ nhục nhơ, họ cũng không tiếc.
Còn tôi, thì tôi chỉ cậy một vị thần lương tâm của tôi đây mà thôi, chớ không muốn cậy thế cậy thần của ai hết cả, mà thần lương tâm tôi thì không khi nào cho tôi làm những đều giả dối hèn hạ ấy được.
Vậy tôi xin trã lời cùng thầy một câu chắc chắn rằng:
Tôi không hề muốn làm một đều chi trái nghịch với lương tâm tôi, và tôi cũng chẳng hề để cho ai mua đứt linh hồn của tôi được.
Tên thơ-ký nghe ông nói những lời rất gắc gao như thế, thì ngồi xẽn lẽn một hồi, rồi cáo từ trở về, vừa đi vừa lẩm bẫm một mình rằng:
— Thật lảo già ba tri nầy không thế gì nói lão cho xiêu được, khi về tới dinh, liền thuật chuyện lại cho quan Đốc-binh Bùi-khắc-Phú nghe.
Bùi-khắc-Phú nghe rồi thì ruột héo gan xàu, bao nhiêu cái tình hy vọng, luyến ngọc mê hương, đã sằn sặc dậy lên mà đánh giặc với trí khôn, làm cho người trở ra như điên như dại, rồi nét mặt chơn mày, đều hiện ra một vẻ rất là âu sầu buồn bực, một lát day lại ngó người thơ-ký mà hỏi rằng;
— Thầy có thế chi làm cho tôi đặng gần người gái ấy chăng?
Tên thơ ký ngẫm nghỉ một hồi, rồi day lại trã lời rằng:
— Bẩm quan lớn, quan lớn muốn gần người gái ấy, thì phải dụng một thế lực mới đặng.
— Thế lực làm sao?
— Bẫm quan lớn, cái thế lực ấy là quan lớn phải viết một cái thơ cho quan Phủ sở tại đây nói rằng: ông già nàng ấy có theo phe đãng Nguyển-Ánh, và bão quan Phủ phải lập tức bắt ông ấy giam tra, hể ông thân nàng bị giam rồi, thì nàng ở nhà một mình, chừng đó tự ý quan lớn muốn đến làm gì cũng đặng.
Bùi-khắc-Phú nghe rồi mừng rở và nói: ừ được, kế ấy rất hay. Vậy để ta viết một phong thơ, đặng sáng mai thầy đem qua cho quan Phủ, rồi tối mai chúng ta sẽ đến ép buộc nàng phải thuận tình, bằng không, thì bắt quách nàng về dinh, chừng ấy nàng như cá nọ vào nôm, thỏ kia mắc lưới, thân cô sức yếu, thế nào nàng cũng phải thuận tình chớ chẵng không.
Nói rồi vội vả lại bàn viết một phong thơ trao cho thầy thơ-ký, và dặn sáng mai phải đem cho quan Tri-Phủ bão y phải lập tức thi hành.
Tên thơ-lý lãnh thơ rồi từ giã ra về, thì nghe trống đả sang ba, và trời tối như mực, vừa bước ra khỏi cửa, bỗng thấy một người mặc đồ đen, ở bên góc hè chạy ra rồi nhảy ngang rào, gần bên mé lộ, tên thơ-ký lấy làm lạ, lật đật chạy theo, thì tên mặc đồ đen đã mất đâu chẵng thấy, anh ta đứng ngơ ngẩn và lẩm bẩm rằng:
— Mấy thằng ăn trộm chết bầm, dám cả gan đến chổ nầy mà rình mò gì đây? nói rồi liền đi tuốt về nhà ngơi nghỉ.
Đây xin nhắc lại khi đức Nguyễn-Ánh còn ở Cần-thơ có sai một tướng tâm phúc của ngài là Châu-văn-Tiếp đem một đội quân của Long-Xuyên, đặng thám thính quân giặc.
Khi Châu-văn-Tiếp qua tới Long-xuyên, mướn nhà trú ngụ, rồi bão mấy tên bộ hạ đổi sắc phục mặc theo đồ của thường nhơn, ngày đêm đi mật thám tin tức và sự hành động của giặc Tây-sơn, đặng thông tin cho đức Nguyển-Ánh biết mà phòng bị.
Khi Châu-văn-Tiếp ngồi xem tờ giấy nơi bàn, xãy có một tên mặc đồ đen bước vô, lại nói nhỏ nhỏ với người một hồi, rồi lật đật trở ra.
Dây lâu lại có một tên quân nhơn ngoài cửa bước vô, cũng nói chuyện chi nhỏ nhỏ với người một hồi nữa.
Châu-văn-Tiếp liền kêu tên quân hầu bão rằng:
— Mi hãy đi kêu thầy đội trưỡng đến đây lập tức.
Tên quân hầu thưa vâng, trở ra một chút đã thấy tên đội trưỡng bước vào, lại đứng bên bàn đặng hầu người dạy việc.
Châu-văn-Tiếp xem giấy tờ rồi, day lại nói với thầy đội trưỡng rằng:
— Chiều nay ngươi phải sắm sữa y phục và đồ đạt của ta cho sẳn sàn, rồi đến cho ta dạy việc.
Tên đội trưỡng thưa vâng, lui ra.
Khi tên Thơ-ký ỡ nơi dinh quan Đốc-binh về nhà, kế sáng ra sắm sữa khăn áo rồi, cầm cái thơ của Đốc-binh đem qua cho Tri-phủ.
Quan Tri-phủ nầy vẫn là người công bình ngay thẵng, khi đặng thơ liền dỡ ra xem, thấy trong thơ quan Đốc-binh bão phãi bắt ông Cử-Khôi mà giam tra, thì lấy làm lạ và thầm nghỉ rằng: ông nầy là người thật thà chơn chất, thuỡ nay không nghe đều chi, sao quan Đốc-binh lại cáo ông có mật thông với phe đãng cũa đức Nguyển-Ánh cũng lạ; rồi day lại nói với tên Thơ-ký rằng:
— Thầy về bẩm lại với quan Đốc-binh rằng, ta sẻ thi hành việc ấy lập tức.
Nói rồi liền sai quân đi bắt ông Cử-Khôi, khi quân dẩn ông Cữ-Khôi tới nha môn, quan Phủ đã ngồi giữa thính đường và kêu ông vào mà hõi rằng:
— Ông có biết Nguyển-Ánh không?
Ông Cử-Khôi nghe hỏi thì sững sờ và đáp rằng:
— Thưa tôi không biết.
— Ông không biết Nguyễn-Ánh, mà ông có biết mấy kẽ phe đãng của người là ai không?
— Thưa ngài, tôi già cã tuổi cao tác yếu rồi, không có thù tạc vãng lai với ai, tôi chĩ biết việc trong gia đình tôi mà thôi, chớ tôi chẳng biết chi đến việc ngoài quốc sự, và cũng chẳng biết phe đãng nào hết.
Quan Tri-phủ nghe rồi, ngó ông Cử-Khôi châm chỉ và hỏi rằng:
— Ông nói rằng ông không biết Nguyễn-Ánh, sao người ta cáo ông là người phe đãng và tư thông mật sự với bọn Nguyển-Ánh?
Ông Cử khôi nghe nói liền thối lui lại hai ba bước, và ngó quan Phủ sững sờ, rồi nói lớn rằng:
— Thưa ngài, sự ấy là người ta muốn hãm hại tôi, mà vu cáo cho tôi, ngài là một vị quan công bình chánh trực, xin thẩm xét sự ấy cho tôi, nếu cáo tôi là người theo phe đãng Nguyển-Ánh, mà bằng cớ ở đâu, xin ngài nói cho tôi biết.
Quan Phủ thấy ông Cử-khôi trã lời chẫm bẫm thì đáp rằng:
— Việc nầy là một việc quan hệ trong vòng quốc sự binh cơ, vậy ông phải ở tại đây mà hầu tra, nhưng tôi hứa với ông rằng: tôi cứ lẽ công bình xét cho, ngay, gian, hay là có, không, thế nào, thì ngày kia sẻ biết, nói rồi bảo quân đem giam ông Cữ-khôi nơi khám.
Lẩn bẩn kế ngày qua thấm thoát, xem ra bóng ác đã tà.
Lúc bấy giờ quan Đốc binh Bùi-khắc-Phú đương đứng trước dinh, chắp tay sau lưng, mắt ngó xuống đất, rồi đi qua rão lại nơi trước hàng ba, dường như suy nghĩ đều chi trong trí, bổng thấy người thơ-ký xơn xao ngoài cữa chạy vô, và nói:
— Bẩm quan lớn, ông Cữ-khôi đã bị giam rồi.
Bùi-khắc-Phú nghe nói lấy làm đắc ý, vẽ mặt tỏ ra hớn hở tươi cười, rồi ngó người thơ-ký và nói:
— Lão Cữ-khôi đã bị giam rồi, vậy thì thầy có chúc mừng cho ở nhà đều chi không?
— Bẩm quan lớn, tôi xin chúc cho quan lớn đặng mọi sự toại lòng khoái chí, phận đẹp duyên ưa, mà mê mẩn một giấc vu sang,[1] cho phỉ tình bình sanh sở nguyện.
Bùi-khắc-Phú nghe nói lấy làm khoái chí, bèn ngước mặt lên cười rang rãng mà nói rằng: Được vậy thì ở nhà cám ơn thầy lắm đa, rồi hai người dắc nhau vào dinh trò chuyện.
Tối lại Bùi-khắc-Phú sắm sữa y cân tề chỉnh, bên lưng đai một thanh gươm, rồi đi với người thơ ký, hai người đều cởi ngựa thỉnh thoản đi trước, và hai tên quân nhơn bồng súng mang gươm đi bộ theo sau. Hai thầy trò vừa đi vừa nói nói cười cười, một lát đã khỏi thị thành, kế lần lần vô xóm, rồi kéo nhau đi thẳng tới nhà ông Cử-khôi.
Khi đi tới ngã ba, người thơ-ký ngó lại đàng sau, bổng thấy một người mặc đồ đen, thấp thoán đi theo, nhưng trời tối không rõ là ai, người thơ-ký, để ý xem coi, thì thấy người lật đật tách qua ngã khác mà đi mất, đó rồi mấy người cùng nhau đi đặng một đỗi nữa, Bùi-khắc-Phú ngó lại thấy xa xa phưởng phất có dạng một người quẩn quẩn theo sau, thì tưởng là kẽ hành khách đi đường, hay là người thôn hương dạo xóm, nên không đễ ý nghi ngờ đều đi, vì vậy hai người cứ cởi ngựa trò chuyện cùng nhau, thỉnh thoãn đi tới.
Khi tới nhà ông Cữ-khôi, thấy bốn phía vắng vẻ im liềm, còn trong nhà chĩ để một cửa giữa mỡ ra hé hé, trên bàn chong một ngọn đèn leo lét, ánh sáng lòn theo kẻ song, chiếu ra lờ mờ trước ngỏ, mà không thấy ai hết.
Bùi-khắc-Phú bèn xuống ngựa, bão hai tên quân nhơn ở chực ngoài đường, rồi đi với người thơ-ký vào nhà, hé cửa bước vô, ngó nơi khách đường vắng vẻ chẳng có thấy một ai, liền ngó vào trong, thấy cô Ngọc-Sương đương ngồi một mình nơi nhà sau, lẵng lặng làm thinh, sắc mặt có vẽ âu sầu thảm đạm, liền day lại nói với người thơ-ký rằng: thầy hảy ở ngoài, chờ tôi một chút.
Bùi-khắc-Phú nói rồi, lần lần đi tuốt ra sau, vừa cười chúm chím vừa nói:
— Chào cô! trong lúc đêm khuya thanh vắng, cô ở nhà một mình có khi quạnh hiu buồn bực lắm chăng?
Cô Ngọc-Sương đương ngồi trông đợi cha là ông Cử-Khôi, không biết cớ sao mà bặc tin bặc dạng, chẳng thấy trở về, bổng nghe tiếng hỏi thình lình, làm cho cô giựt mình ngó lại, thấy Bùi-khắc-Phú đã bước tới một bên, cô nhìn biết lão Đốc-binh là người đã dòm ngó cô, và mượn mai mối nói với cha cô hôm nọ; thì sửng sờ rất nên kinh ngạt rồi vội vàng đứng dậy gọn gàn, thối lui vài bước mà hỏi rằng:
— Bẩm quan lớn, đến đây có việc chi trong lúc đêm khuya tâm tối, mà xông pha vào chổ phụ nử khuê phòng, như vậy chẳng là đường đột[2] lắm chăng?
Bùi-khắc-Phú, liền lấy quạt sè ra nghe kêu cái rẹt, và phất phất quạt hơi mà nói rằng:
— Cô hai ơi! xin cô chớ ngại, trong lúc đêm khuya tịch mịch, một mình cô vắng vẻ nơi chốn cô phòng, mà có người đến trò chuyện cùng cô, tưởng cũng làm cho cô được tiêu sầu giải muộn chút đĩnh, nên tôi mới dám đường đột vào đây, xin cô miểng chấp, vã lại đêm nay tôi đến đây vẫn có ý, trước là thăm cô, sau nửa là tôi muốn làm ơn nói giùm cho cô hay rằng:
Ông thân cô đả bị quan Phủ giam cầm nơi khám, về tội theo phe kẻ nghịch là Nguyển-Ánh, bây giờ đương ở khám đường hầu tra, nên tôi vội vả đến đây thông tin cho cô được rỏ, kẻo cô nhọc lòng trông đợi, mà quới thể hao mòn, thì lòng tôi chẳng nở mặc thị điền nhiên, mà để cho cô quạnh hiu buồn bực, vậy chẵng phải là hửu tình với cô lắm sao? lẻ thì cô phải cảm ơn ở nhà, và xin cô đừng trách ở nhà rằng đường đột.
Cô Ngọc-Sương nghe nói, tức thì màu hoa ủ dột, sắc mặt buồn xàu, và giọt lệ tràn trề, làm cho cô ruột sầu dường như đứt ra từng đoạn, rồi nức nỡ khóc lên mà nói rằng:
Trời ôi! Cha tôi bị giam rồi sao? Bẩm quan-lớn cha tôi vẩn là người vô tội vô cang, thuở nay đối đải với chòm xóm anh em. cứ giử một lòng từ hòa lương thiện, mà không biết quân nào lòng lang dạ thú, kiếm chuyện vu cáo cho cha tôi, làm cho ngày nay phải chịu lâm luỵ nơi chốn lao tù như vầy, thì thật biết dường nào là oan ức?
Bẩm quan-lớn nghỉ đó mà coi, nhà tôi là nhà chỉ biết cui cúi làm ăn, châm lo vườn tược, mặc ai tranh danh đoạt lợi, mặt kẽ đồ bá xưng hùng, cha tôi chỉ lo thủ phận thanh nhàn, thong thỏa theo cuộc gia đình lạc thú; miển là có cơm trắng ngày hai, ăn no mặc ấm, hôm sớm một cha một con hũ hỉ, thì củng đủ gọi là một đều hạnh phúc trong lúc tuổi già đó rồi.
Thật là tội nghiệp cho cha tôi lắm mà, cha tôi không hề biết dòm hành đến việc thế thái nhơn tình, mà cũng không hề lân la bao giờ với phe kia đãng nọ, chẳng dè ngày nay lại bị quân ác nhơn thất đức, táng tận lương tâm nào đây, nó oán vặt thù vơ chuyện gì, mà hãm hại cha tôi như thế? tôi là một đứa gái hân cô sức yếu, quần vận yếm mang, tuy chưa có thế lực chi mà biện tội minh oan cho cha tôi mặc dầu, nhưng mà nếu tôi biết đặng đứa vu can cho ca tôi ngày nay đây, thì tấm lòng hiếu tình nhi nử của tôi đối phó với cha tôi thế nào, củng đủ làm cho đứa gái yếu đúi nầy, trở nên mạnh mẻ tâm thần, mà nguyện với cao dày, để rửa oán trả thù cho cha tôi được rồi, mới là yên lòng thỏa dạ.
Bùi-khắc-Phú thấy cô Ngọc-Sương nĩ non than khóc và kể lể mấy lời rất đắng cay đau đớn, làm cho tướng giặc ấy nghe vào mà phãi sốt mặc bưng đầu, nhởm tai điếc ráy, có lúc củng phải nheo mày trợn mắt, có khi lại nhột ý mà gục đầu, rồi đứng sửng ngơ ngẩn vì đâu, nghỉ mà nửa buồn nửa thẹn.
Kế đó cô Ngọc Sương lại khóc nỉ non mà nói tiếp rằng:
Ôi đức thượng-đế kia ôi!! Hoàng-thiên thượng-đế là một đấng giữ mực công bình, cầm quyền báo ứng, xin chứng cho tôi là một gái mồ côi bạc phước, mất mẹ lìa cha, tôi không còn biết ai mà than vang cầu khẩn, tôi chỉ biết dâng một tấm lòng thành kĩnh mà khẩn bái phật trời đó thôi, nếu cái tiếng than vang khóc lóc của một đứa gái đào thơ liểu yếu nầy, may mà được cãm động đến lòng trời phật quỉ thần, thì xin chứng minh cho cha tôi là người hiền lương vô tội, mà phãi mắc chuyện oan ức thế nầy, và xin phò hộ cho cha tôi ra khỏi khám đường, cứu độ cho cha tôi, thoát vòng tai nạn.
Trời phật kia ôi! Đức thượng-đế kia ôi! cái oan ức nầy tôi xin gò chơn dậm đất, cất cổ kêu trời, đặng cầu khẫn cùng ngài một đều là: che chở người lành, mà trừng phạt đứa dữ ấy đi.
Cô Ngọc-Sương than khóc một hồi, rồi day lại nói với tướng giặc là Bùi-khắc Phú rằng:
— Bẩm quan-lớn, quan-lớn có lòng hạ cố đến kẻ liểu yếu đào thơ nầy mà tỏ sự hoạn nạn của cha tôi cho tôi hay, thật tôi rất đội ơn quan-lớn, nhưng cái tin buồn ấy làm cho tôi héo ruột bầm gan, mà phải động lòng bi lụy, khóc lóc nãy giờ, vậy e thất lể cùng đại quan, xin đại quan tha thứ.
Cái tiếng khóc than của cô Ngọc-Sương trước kia, thật rất thiết tha cay đắng, thỉnh thoản lọt vào lổ tai Bùi-khắc-Phú, khiến cho tướng giặc nầy đương đứng nheo mày trợn mắt, nhột ý thẹn lòng, dường như có vật chi cắn rức lương tâm, chích châm gan ruột, bổng nghe mấy lời của cô cám ơn sau đây, rất thanh nhả, rất diệu dàng, phúc chúc được mát lòng thấm dạ, và thấy cái sắc cô hiện ra rất xuê xoang kiều mị, tợ hồ có một cái điển lực mạnh mẻ phi thường, kéo ngay cặp mắt tướng giặc ấy lại, làm cho ngó sững lấy cô, không hề nháy mắt.
Lạ thay cho cái vẻ thiên kiều bách-mị của cô Ngọc-Sương, khiến cho tướng giặc nầy phải xúc động ngọn lửa dâm tình, nó phừng phực dấy lên, làm cho anh ta rối ruột mê hồn, điên hình dại dạng, rồi bước tới mỉn cười hí hởn, mà nói với cô Ngọc-Sương rằng:
— Cô ôi! xin cô chớ ngại, sự ở-nhà đến đây mà nói cho cô hay đó, là một điều nhỏ mọn, đáng gì mà cô phải cám ơn, vì tấm lòng quang niệm của ở-nhà rất triếu mến, rất thương yêu cô dẫu cho việc nguy-hiểm khó khăn thế nào, ở nhà củng chẳng nại khổ tứ lao với cô thay, huống hồ một chuyện nhỏ nhoi nầy, có chi mà gọi rằng cảm ơn cam nghỉa, còn sự cô khóc than đó là một sự tự nhiên, phụ tử tình thâm của cô đối với ông thân cô trong cơn hoạn nạn, mà cô phải động lòng ai bi thủy lụy đó thôi, chớ cô chưa có đều chi thất lễ với ở-nhà, mà phòng xin tha thứ.
Cô ôi! cô là một đóa hoa khôi, một trang tuyệt sắc, dầu cây cõ thấy cũng phải tươi cười, huống hồ người có khí huyết, có ái tình, ai mà không cãm động, ở-nhà nói thật với cô, từ khi ở-nhà được thấy cái vẻ nhan sắc xinh đẹp của cô đến nay, thì trong lòng vẫn cứ thương tưởng đến cô luôn luôn, mổi đêm cái hồn ở-nhà cứ lẻo đẻo chim bao, phưỡng phất ở một bên cô, làm cho ăn chẳng biết ngon, nằm không đặng ngủ, thế thì chẵng bao lâu đây, ở-nhà cũng phải chết điên về cái lòng ái-tình đối với cô đó
Cô ôi! vả lại ở-nhà là một bực quyền cao lộc trọng, phú quí vinh hoa, đến đâu mà người chẵng kiên oai, ai không nể mặt, nếu cô bằng lòng ưng thuận với ở-nhà, thì áo quần năm bảy sắc, mặc rất xuê xang, tôi tớ đôi ba con, hắn theo hầu hạ, đã làm được một vị nhứt phẩm phu nhơn rồi, thì ai mà chẵng tôn trọng cô là bà quan, và kêu gọi cô là bà lớn, thế chẵng là vinh diệu lắm sao, chẵng là sung sướng lắm sao? Nói rồi lại sè quạt phất phất quạt hơi, còn mắt thì châm châm ngó cô Ngọc-Sương trân trối.
Cô Ngọc-Sương nghe tướng giặc nói bấy nhiêu lời, thì hơi giận đã sùng sục trào gan, mắt lại rưng rưng hai hàng đổ lụy, rồi day lại đáp rằng:
— Bẫm quan lớn, xin quan lớn chớ nên lầm tưỡng như vậy, mà lạm dụng ái-tình cùng tôi, vì cha tôi đã hứa hôn với người ta, vậy thì tôi là một gái đã có chồng rồi, xin quan lớn đổi cái lòng thương tôi đó đi, để mà thương cho người khác.
Vả lại quan lớn là một bực cao sang, nếu quan lớn muốn dụng ái-tình, thì chẵng thiếu chi là kẻ hầu xinh gái đẹp, lựa là quan lớn phải nhọc lòng ép uổng gái có chồng nầy làm chi, mà làm cho tôi trên phải thất hiếu với cha, dưới phải thất trinh thất tiếc với chồng tôi kia nữa, tôi thật không dám nhận lãnh cái chức bà quan bà lớn ấy đâu, vì tôi nghĩ cho phận tôi không đủ tài đức xứng đáng, nếu tôi lạm dụng chức ấy, thì trước mặt người ta bẫm gởi dạ thưa, mà sau lưng họ lại chê cười nhạp báng, ấy vậy thì cái sự thương của quan lớn đó, là cái làm nhục cho tôi, chớ chẳng phải thật tình thương tưởng tôi đâu, xin quan lớn xét lại.
Tướng giặc nghe nói liền cười gượng ít tiếng và đáp rằng:
— Cô ơi! cô phải biết rằng, hôm nay ở nhà đã bổn thân đến đây, và đã ôm hết một tấm lòng hi-vọng nầy, mà để vào trên mình cô đó rồi, có lẽ nào lại rức bỏ tấm lòng hi-vọng ấy đi, mà trở về không, thì sao cho thỏa tình sở nguyện, vả lại tánh ở-nhà thuỡ nay không muốn cho ai nhiều lời nghịch ý lại hết, vậy xin cô hảy vị chút tình ở-nhà mà ưng thuận cho rồi, ở-nhà hứa với cô rằng: ở-nhà sẽ làm cho cô được mọi sự đẹp lòng khoái chí; nói rồi bước tới muốn nắm tay cô Ngọc-Sương.
Cô Ngọc-Sương thất kinh chạy phức qua phía kia, sắc mặt đổi liền, vừa rung vừa nói:
— Bẩm quan lớn, quan lớn đừng làm sự vi pháp, mà ỹ thế hiếp người, quan lớn làm như vậy rất sỉ nhục cho tôi lắm da, quan lớn vẫn là người biết lể nghi phép luật, mà làm chi theo cái thói đê tiện của đứa cường bạo tiễu nhơn, chẳng là mất cái thể diện quan lớn đi chăng?
Tướng giặc nghe mấy lời cô Ngọc-Sương sỉ nhục, thì con ma phong tình đã lần lần sụt xuống, mà thằng quỉ thế lực lại bực bực lừng lên, rồi lấy tay chỉ cây đao bên lưng và bước tới trợn mắt thạnh nộ mà nói rằng:
— Ngọc-Sương hởi mi, mi có biết cây hữu đao của ta đây lợi hại thế nào không?
Ta nói cho mi biết, ta chém quân giặc kia như chém rôm chém chuối, giết đứa nghịch kia, như giết lợn giết gà, nếu mi thuận tình, thì ta để cái mạng mi được hưỡng sự sung sướng trong cõi thế gia nầy, bằng nghịch ý, thì chớ trách rằng: cái lưỡi đao nầy nó rất tàn nhẩn vô tình với mi đó hữ.
Cô Ngọc-Sương tuy là một gái đào thơ liểu yếu, nhưng mà củng có một tánh khí cang thường, cơn bấy giờ trong lòng cô không còn một mãy gì trông mong thoát khỏi cái tay bức sách của tướng giặc, vì vậy trong trái tim cô đã nổi lên một trận bất bình, và một lòng tu ố, làm cho cô ngực nhãy phập phồng, tay run bây bẩy, cô không còn biết sợ sệt gươm đao, mà cũng không kiên gì cái oai thế hung hăng của tướng giặc, liền ngó nghinh tướng ấy rồi cười gằn một tiếng và nói rằng:
— Quan lớn chẳng cần gì phải nói, tôi đã biết chán cái oai thế đó rồi, cái oai thế của quan lớn chém người như chém chuối, giết chúng như giết gà, ai mà chẳng kiêng dè sợ sệt, cái oai của quan lớn đó, nhưng mà tôi thì rất vui lòng hứng chí, muốn cho quan lớn lấy cái khí phách anh hùng mà xuống tay cho tôi một lưởi dao đi, cho rồi cái đời một gái thân cô sức yếu nầy thì xong việc, để chi cho quan lớn phải nhọc lòng bức sách buộc ràng;
Quan lớn là một đứng anh hùng, dẩu có giết một gái yếu đuối nầy thì dể như trở tay, không chút gì là hao hơi mệt sức, như vậy các bực anh hùng hão hớn trong thiên hạ mới biết cái oanh danh của quan lớn rất mạnh mẽ, và cái thế lực quan lớn rất lẫy lừng, đành lòng nở dạ mà giết một gái thơ côi cúc nầy, chẵng thèm gớm mắt nhơn tay, nheo mày sẩu mặt. Từ đây những gái hồng nhan nhi nử, trong thiên hạ, thấy quan lớn đều rung en phát rét, mất vía kinh hồn, dường như thấy một vị Diêm chúa lai trần, thiên thần giáng thế, vậy củng đủ làm cho quan lớn hiển hích oai danh lắm mà.
Quan lớn nè, tôi tuy không muốn đầu ngón tay quan lớn đông đến mình tôi, nhưng mà tôi rất muốn cái lưỡi đao cũa quan lớn sấn ngang cổ tôi cho rãnh, quan lớn sợ chém tôi không chết sao? nếu quan lớn e rằng cái lưởi đao không trúng ngay yết hầu, thì tôi sẵn lòng ngữa cổ cho quan lớn chém, hay là quan lớn chê cái máu tôi dơ sao? cái mạch máu trong cổ tôi rất sạch sẻ tinh anh, rất tốt lành trinh bạch; không có chút chi ô uế lẩn lộn vào trong, mà làm cho nhơ bợn cái lưỡi đao của quan lớn đó đâu, quan lớn chém đi, chém đi.
Thuỡ nay từ bé chí lớn, tôi chưa từng biết cái khí vị gươm đao ra sao? vậy thì ngày nay tôi muốn nếm cái mùi nó thử coi; thử coi cho biết, nói rồi lấy vổ vổ trên cổ và kêu lớn lên rằng:
— Quan lớn hãy lại đây, lại đây mà chém phức tôi đi.
Lúc bấy giờ lại có một người đương đứng núp trong cánh cửa gần đó, lom lom ghé mắt theo kẹt cửa dòm ra, và lóng tai nghe thữ, xảy nghe những lời cô Ngọc-Sương nói với tướng giặc ấy rất khẵng khái hùng hào, từ nghiêm l(văn bản không rõ) chánh, thật là tấm lòng trinh liệt của cô, cứng như đá, vửng như đồng và cái khoa ngôn ngử của cô củng trơn như dầu, chảy như nước, cái dung nghi của cô rất nghiêm nghị, làm cho người đứng trong cửa, thấy mà phải cảm động tâm thần, cách điệu chí khí cô rất cang cường, làm cho tướng giặc kia cũng phải ngẩn ngơ hồn phách.
Thật rất đáng khen cho cô Ngọc-Sương, trong lúc bình thường vô sự, thì tánh nết cô rất mềm mỏng diệu dàng, mà gặp cơn bức trắc hiễm nguy, thì lòng dạ cô trở nên một người rất vửng bền cứng cỏi.
Thi rằng:
Trần biên Đại-tướng khéo thày lay,
Tiết liệt thuyền quyên ít kẻ tày.
Một kiếp dâm-ô thiên hạ ghét,
Ngàn thu trinh bạch đất trời hay.
Mưu thần chước quỉ ai khen đó,
Dạ sắt lòng son mới thấy đây.
Oai hiếp ép duyên, duyên chẳng khứng,
Treo gương thanh sữ vậy cùng ngay.
Cái tánh tình cô khẳn khái, cái cách điệu cô nghiêm trang, khiến cho đám nam tữ râu mày, thấy vậy cũng phãi thẹn lòng nể mặt.
Tướng giặc Bùi khắc-Phú nghe những lời cô Ngọc-Sương khích-báng, thì muốn tuốt gươm ra mà giết quách cho rồi, nhưng mà nghỉ cho một gái rất trinh liệt, rất khôn ngoan, lại có tánh tình khẳng khái, thì thỉnh thoãn cũng nức nỏm khen thầm, và cũng để lòng vì nể một ít. Song con ma tình dục nó đã hớp mất mãnh hồn lương tâm, khiến cho cái thói tà dâm của tướng giặc nầy, lại lừng lẩy nổi lên, rồi bước tới cười mơn, và đưa tay muốn ôm cô Ngọc-Sương mà hảm hiếp.
Nhưng cô Ngọc-Sương rất lẹ chơn lanh mắt, khi hai tay cũa tướng giặc vừa vói tới, thì cô đả tránh phức mà chạy qua phía kia, làm cho đụng ghế tuông bàn, cái thì ngã nghiên, cái thì té ngửa.
Cô Ngọc-Sương đỏ mặt tía tai, tay thì rung rung, chơn thì rão bước, rồi nói lớn lên rằng:
Quan lớn làm thế gì đó? tôi đả bảo chém phức tôi đi, tôi chẵng hề khi nào để cho ngón tay quan lớn động tới chéo áo tôi đâu, hãy chém tôi đi, hãy chém tôi đi.
Người đứng trong cánh cữa, khi ló ra, khi núp xuống, dòm thấy cái tình trạng đáng ghét đáng thương nầy, thì nóng nãy ruột gan, rồi trán đổ mồ hôi, cã và mình hừng hực như lữa, ngó đến cô Ngọc-Sương thì chắc lưỡi châu mày; ngó qua tướng giặc lại phùng gan trợn mắt.
Còn tướng giặc nầy lúc bây giờ chẵng khác gì đã mắt chứng điên, nhăn mày nhiếu mặt, hằm hằm sắc khí, như cọp nọ gặp chồn; lắp lẽm miếng ngon như mèo kia thấy chuột, liền dắc quạt vào lưng, rồi xăn tay vén áo, ngó cô Ngọc sương châm bẫm và nói rằng:
Đố cô thoát đâu cho đặng, cô hãy để cho ở-nhà hích cái mùi thơm tho trên gò má hồng nhan của cô một chút mà thôi; thì đủ cho ở-nhà vui lòng thõa dạ; ở-nhà hứa chắc với cô rằng: ở nhà không có vọng tưỡng đều chi khác nửa đâu mà cô phòng sợ, cô hãy đứng lại cho ta nếm thữ cái mùi thơm tho một chút với nào, nói rồi nhãy ngang qua bàn, vói tay chụp cô Ngọc-Sương mà ôm, chẵng dè vấp chơn té ngay xuống đất, lật đật lồm cồm chổi dậy rồi lại rược theo.
Cô Ngọc-Sương hoãn kinh, chạy vuột qua phía khác, vói tay lấy cái dỉa sẳn để trên ghế, liện ngay vào mặt tướng giặc một cái rất mạnh, cạnh dỉa tuông nhằm sống mủi, tức thì máu mũi chãy ra, làm cho tướng giặc nầy giận đổ thần hung, liền tuốt lưởi dao ra, vừa hươi lên mà chém xuống. Chẳng dè người đứng trong cữa nhãy phức ra, lẹ như chớp mắt, bắt cánh tay tướng giặc nầy một cái, tướng giặc ngó lại, thì cây gươm đã vào trong tay người ấy rồi.
Chú thích
▲Vu sang là giấc chiêm bao thấy một vị thần nữ ở núi Vu sang; chỉ nghỉa là trai gái tình tự với nhau
▲Đường đột, là xung pha vào, thình lình
HỒI THỨ BA
Giết tướng giặc đặng bức âm thơ,
Hứa nhơn duyên đền ơn cứu nạn.
Lưỡi kiếm anh hùng, răng người bạo ngược,
Non vu một giấc, giống ma tình hảm hại khách mê hồn
Biễn nghiệt ngàn trùng, con sóng sắc nhận chìm thuyền đãng tử.
Tướng giặc liền thối lui hai ba bước, và trợn mắt nhìn sững người ấy và hỏi rằng:
Ngươi là ai, mà dám cang dự vào đây, hãy nói cho ta biết hữ?
Người ấy nghiêm sắc mặt, và nói cách hằng chấn rằng:
— Ta là người thay mặt cho thần pháp luật, đến đây mà xữ cái tội ác dâm tàn bạo của ngươi chớ ai, ngươi làm một chức quan trưởng trong việc binh gia, mà chẵng bão hộ lương dân, giữ lòng công lý, lại đem thói tàn bạo dâm ô, mà hãm hiếp con nhà lương thiện, ngươi lại đồ mưu toán kế, vu cáo cho cha người gái nầy là ông Cử Khôi, ngày nay phải bị giam tra nơi khám đường, đặng người đến đây mà làm sự cường dâm hãm hiếp, lại còn mong lòng tàn nhẫn, hươi đao muốn giết người gái nầy, thật là ngoài mặt thì ngươi mang một cái lốt thể diện viên quan, mà trong ruột ngươi lại nuôi một tấm lòng lang dạ thú; cái cơ quan độc ác của ngươi, nay đã bại lộ ra rồi, ngươi không còn chối từ trốn tránh đâu đặng nói rồi phóng cây đao xuống đất một cái, lút hơn ba tất, và nói tiếp rằng:
— Cây đao khốn nạn nầy, cầm nó càng thêm nhơ tay, ta trả lại cho ngươi đó.
Tướng giặc thấy cây đao phóng xuống trước mặt, hoãn hồn nhãy trớ qua một bên, và trợn mắt lườm lườm, ngó người ấy không thèm chớp mí.
Cô Ngọc-Sương thấy vậy lấy làm lạ không biết người ấy là ai, rồi cũng đứng trân ngó sững.
Tướng giặc nầy tức thì thừa dịp, liền nhãy lại rút cây đao lên, rồi day qua đâm đùa người ấy.
Người ấy né qua một cái, thì đã rút cây đoản đao bên lưng ra, rồi đánh với tướng giặc một cách rất dữ dội, kẻ đâm ngang, người chém ngược, khi nhảy lại, lúc tràn qua, làm cho bàn ghế đều ngã lăng, tiếng gươm đụng nhau, nghe kêu rang rảng.
Tướng giặc yếu thế đánh không lại, vừa muốn lùi ra, thì một mũi đao đã đâm ngang vào ngực.
Tướng giặc nầy la lên một tiếng, rồi ríu ríu ngã xuống cái thích, cây đao của người ấy cũng còn để gâm trên ngực tướng giặc, chẵng thèm rút ra.
Tướng giặc nằm dưới đất, hai tay ôm lấy ngực một hồi, rồi ngó người ấy cười lên một tiếng lạt lẽo, vừa thở hào hển vừa nói ngặp ngừng rằng:
Ta, ta chẳng ngờ ngày nay ta phải chết, chết về tay ngươi, nhưng ta thú thật cùng ngươi, ta không hề than vang oán trách ngươi, mà cũng chẵng trách ai hết cã. Vì ta tự biết lấy ta, đã làm nhiều đều tội ác, thuở nay ta hại người giết chúng chẳng biết bao nhiêu, làm cho trời giận đất hờn, thế thì ngày nay trời muốn phạt ra, nên khiến cho gặp ngươi ấy là một sự nhãn tiền quã báo.
Vậy người hãy làm ơn lai đây đâm cho ta một mũi đao nửa đi, đặng thoát sanh giùm cho ta khỏi sự đau đớn khổ sở; nói rồi lấy tay chỉ trên ngực và bảo: Ngươi hãy lại đây, lại đây đâm thêm cho ta một đao, kẻo tội nghiệp lắm nầy.
Người kia nghe nói thì gặt đầu và bước tới hỏi rằng:
— À, ngày nay ngươi đả hồi tâm tỉnh ngộ cái tội ác của ngươi rồi sao? ngươi có vu cáo cho ông Cữ-Khôi là cha của người gái nầy như lời ta đã nói trước đó không?
— Ừ, có, có, y như lời ngươi nói đó, ta không chối đâu, ta khen cho ngươi biết đặng sự bí mật của ta, củng là giỏi lắm.
— Ngươi có viết thơ bảo quan phủ giam tra ông thân cô gái nầy không?
— Có, chính là ta viết thơ ấy chớ ai. Vậy ngươi hẩy đâm thêm cho ta một đao nữa đi, kẻo đau đớn khổ sở ta chịu không nổi; nói rồi ôm ngực lăng qua trở lại, xem rất thảm khổ là dường nào!
Người ấy thấy vậy liền bước lại rút lưỡi đao ra, tức thì trong ngực tướng giặc phung lên một vòi máu đỏ điều, rồi chảy ra lai láng, thì thấy sắc mặt tướng giặc liền đổi ra xanh lét như chàm, còn mắt thì nhướng lên nhướng xuống một hồi, dường như còn tiếc cái cảnh trần hoàng nầy mà ráng ngó lại một lần sao hết, và láp giáp trong miệng đều chi ít tiếng, rồi mới chịu thiêm thiếp một giấc im liềm, và ríu ríu hồn qui địa phủ.
Thi điếu Bùi-khắc-Phú rằng:
Cậy quyền ỹ thế bực cao sang,
Thấy sắc tham dâm muốn bốc càng,
Liệt-nử đả toan giồi tiết rạng,
Cường đồ khó nổi trổ mưu gian,
Ba sinh hết kể tình hi-vọng
Một kiếp thôi rồi thói ngược-ngang.
Nước giận trào gan người nghỉa sỉ
Ra tay giụt tắt lửa hung tàn.
Trong khi tướng giặc nầy là Bùi-khắc-Phú đương cơn hấp hối, bổng thấy ba người ở trước khách đường, rần rần chạy vô, và áp lại chém đùa người giết tướng giặc.
Người nầy liền rút đao cự lại, chẵng đầy một phút, thì đả giết luôn ba tên ấy chết hết.
Ba người nầy là người Thơ-ký với hai tên quân nhơn của tướng giặc, trong khi đương ở ngoài trước cửa ngỏ. Xảy nghe lụi đụi nơi phía sau nhà, bèn lật đật chạy vô, thấy chũ tướng bị giết, thì áp lại chém đùa, chẳng dè cả ba củng đều bị một tay người ấy mà táng mạng.
Người ấy liền bước lại lục soát áo quần, và trong mình tướng giặc, lấy đặng một phong thơ, thì nghĩ rằng: thơ nầy chắc là thơ mật sự chi đây, nên tướng giặc không đễ ở nhà, mà bõ theo trong túi, tức thì dỡ thơ ra xem thấy trong thơ có đóng một dấu ấn soái đỏ lòm, thì biết một cái thơ quang hệ về việc binh tình của giặc.
Trong thơ ấy nói như vầy:
« Bổn soái gởi mật thơ nầy cho quan Đốc-binh rỏ, nghe rằng bọn Nguyển-Ánh còn đương tàn tụ ở tại Cần-thơ, vậy Đốc-binh phải lập tức đem binh đến đó mà tập nả;
Ta còn đương dẹp đảng nghịch của chúng nó ở Vỉnh-long, nội ba ngày nữa, ta sẻ qua tới Cần-thơ, đặng hiệp binh cùng người mà diệt trừ bọn Nguyển-Ánh cho tuyệt. »
Tây-sơn đại nguyên-soái
ký tên: NGUYỄN HUỆ.
Người ấy đọc thơ rồi, sắc mặt có vẻ kinh nghi, và tự nghĩ rằng: sự nầy là sự rất quang-hệ, ta phải thông tin lập tức cho Đức Nguyển-Ánh hay, mà cũng may cho ta, giết đặng tướng nầy rồi, thì cũng bớt đi một mũi quân giặc, nghỉ rồi liền bỏ thơ vào túi, kế thấy cô Ngọc Sương lần lần bước lại và nói với người ấy rằng:
— Bẩm quới quan, tôi không biết quới quan ở đâu đến đây thình lình giết tướng giặc nầy mà cứu tôi trong cơn nguy cấp, thật tôi cảm đội ơn dày, xem dường tái tạo.
Vậy xin quới quan vui lòng tỏ cho tôi biết tôn tánh đai danh, ngỏ hầu ngày sau, tôi lo ơn đền nghỉa trả.
Người ấy nghe hỏi mấy lời thì vui sắc mặt mà đáp rằng:
— Cô nương muốn biết danh tánh của kẻ hạ sỉ nầy, xin cô làm ơn cho tôi mượn viết mực lại đây.
Cô Ngọc-Sương nghe nói liền vội vả lấy viết mực đem lại.
Người ấy bèn lấy bút nghiêng, rồi lại nơi vách viết ba hàng chữ lớn như vầy:
« Ta tên Châu-văn-Tiếp,[1] là tướng bộ hạ cũa Đức Nguyển-Ánh, và chính là người giết bọn Bùi-khắc-Phú mà cứu cha con Cử-Khôi bị chúng nó hảm hại. »
Châu-văn-Tiếp viết mấy hàng chử nầy, là có ý sợ quan viên tra khảo án mạng, mà làm liên lụy đến người vô cang, nên xưng tên mình ra cho khõi xóm làng mang hại.
Cô Ngọc-Sương thấy người xưng tên là Châu-văn-Tiếp thì ngạc nhiên và nói: bấy lâu tôi vẩn nghe danh quan nhơn là người nghĩa khí trượng phu, nay mới thấy tôn nhan, thật tôi rất hết lòng cảm phục, vậy nay quan nhơn đả giết tướng giặc nầy mà cứu tôi, nhưng cha tôi còn mắc nơi chốn khám đường, nếu chúng nó hay ra, thời e cho cha tôi không thế gì được toàn tánh mạng, vậy xin quan nhơn làm thế nào mà giải thoát cho cha tôi, thì công ơn của quan nhơn cứu tử hoàn sanh, cha con tôi sẽ kết cỏ ngậm vành, mà ghi vào lòng, tạc vào dạ.
Châu-văn-Tiếp nghe cô Ngọc-Sương nói vậy liền đáp lại cách tề tỉnh rằng: Xin cô chớ ngại, ông thân cô một chút nữa sẻ về tới đây, song tôi khuyên cô một đều là cô phải sấm sửa đồ hành trang, và thâu góp bạc tiền, rồi qua xứ khác mà đào nạn thì mới được.
Trong lúc Châu-văn-Tiếp đương đứng tại nhà nầy nói chuyện với cô Ngọc-Sương, thì đã có hai tên bộ hạ của người là Đội-Tam với Bếp-Lượng đến dinh quan Phủ, nhãy qua tường thành, rồi sẽ lén vào tới khám đường, ngó quanh bốn phía đều vắng vẽ
Đội-Tam bước lại nói với Bếp-Lượng rằng:
Chú mầy phải ở dưới nầy coi chừng mấy tên quân canh, để tôi nhảy lên nóc nhà đặng coi ông Cử-Khôi ở chổ nào rồi chúng ta sẽ tính, Bếp-Lượng nói: Thôi! anh để tôi nhãy lên nóc nhà cho, anh đứng dưới coi chừng, anh không cần gì nhọc sức. Đội-Tam nói: không được đâu, chú mầy cái thây to quá, nhãy lên thì chắc bể ngói gảy rui, xiêu nhà sập khám, để tôi nhãy lên mới được, chú mầy cứ việc con mắt cho lanh, coi chừng mấy thằng quân canh, nếu nó thấy thì chúng ta hư sự.
— Ừ được, anh cứ việc lên đi, nói rồi Bếp-Lượng nhãy lại đứng dựa vách khám, núp theo bóng tối mấy cây, dòm ra phía trước vọng đài và coi chừng bốn phía, còn Đội-Tam lên nóc khám đường, lần lần dỡ ngói dòm xuống, đặng kiếm ông Cử-Khôi, song trong khám tối thui, không thấy ai hết.
Đội-Tam liền lần ra mái hiên, bổng nghe tiếng ho trong khám, bèn thò đầu dòm xuống, thấy mấy lổ để thông-khí trên vách tường, tức thì móc chơn trên cây đà ngang dưới mái hiên, tòn ten như một con dơi quạ, rồi thòng đầu xuống, ngoãnh cổ lên, và lấy một cái đèn rọi trong túi áo ra, đút vào lổ vách tường mà rọi ngay vô khám.
Ông Cử Khôi đương ngồi trên sạp váng, tư tưởng việc nhà, không biết con ông là cô Ngọc-Sương có hay ông bị giam nơi khám nầy chăng? và không biết ở nhà có việc gì xãy đến nửa chăng? ông nhửng mảng thầm suy trộm nghỉ như vậy mà khắc lụn canh tàn, không hệ nhắm mắt.
Bổng thấy một yến sáng dọi vào, không biết đèn gì, ông bèn lẵng lặng để coi, kế thấy đèn ấy nhán qua thoản lại một cái rồi tắt, ông nghĩ thầm rằng: không lẻ quân trộm đến đây rình mò làm gì? cũng không lẽ ai tới thăm mình trong lúc canh khuya đêm vắng, lạ nầy, hay là mấy thằng quân canh sợ mình vượt ngục trốn đi, nên rọi đèn mà coi chừng cho biết, ông nghỉ vậy rồi ngồi lặng thinh.
Tên Đội-Tam ở trên mái nhà rọi đèn thấy ông, liền co giò nhảy ngay xuống đất nhẹ nhàn rồi lại nói nhỏ với tên Bếp-Lượng rằng:
— Ông Cử-Khôi ở trong căng khám nầy, nếu ta dở ngói cưa rui mà đem ông ra, thế thì khó lắm, vậy chúng ta phải đem ông ra ngả cửa khám mới được.
Bếp-Lượng lấy tay khoát khoát và nói rằng:
— Ngả cửa khám thì bị khóa chắc lắm, và sợ mấy tên quân canh đi tuần, dòm vô ngó thấy, chi bằng ta cưa rui đem ông ra mái sau, rồi thòng ông xuống đất, thì không ai thấy đặng.
Đội-Tam lắt đầu và nói rằng, không được, không được, vậy e bất tiện cho ông lắm, thôi chú cứ đứng núp ngoài bụi coi chừng, để tôi bẻ khóa cửa đem ông ra, rồi leo ngang vách thành phía sau mà xuống thì tiện việc; nói rồi day lại dặn Bếp-Lượng rằng:
— Chú mầy cứ việc coi chừng, cho lành, hể thấy ai thì lấy khẩu hiệu riêng làm gà gáy cho tôi biết.
Bếp Lượng nói: tôi làm gà gáy không được, thôi để tôi ra khẫu hiệu làm chó sủa hay là mèo ngao được không?
Đội Tam nói: chú mầy làm chó sủa không được đâu, vì tiếng chú mầy ồ ề lắm, sủa đây chắc người ta giựt mình mà thức dậy, ắt là hư việc không xong, thôi chú mầy cứ làm mèo ngao thì tiện hơn.
Bếp Lượng gặt đầu rồi lại núp dựa bụi cây, còn đội Tam lén lại cửa khám đặng mằn mò bẽ khóa, bổng nghe tiếng mèo ngao ngao ngoài bụi.
Đội Tam lật đật nhảy ra, chạy lại lũi vào bụi rậm, kế thấy một tên quân canh ngoài trước lưỡng thưỡng đi vô, vừa đi vừa đánh trống lung tung, lại thấy một tên đi sau nhịp sanh nghe kêu cắc cắc, rồi cả hai đều đi vòng qua phía kia, khi hai tên quân canh đi khỏi rồi, đội Tam liền bước vô mằn mò bẽ khóa.
Lúc bấy giờ ông Cữ-Khôi đương ngồi trong khám, sắc mặt thãm buồn, và mắt ngó châm châm ra cửa, một lát ông lại bắt đầu, một lát ông lại chắc lưởi, ta nha thiết xỉ, cứ lẫm bẫm than trách số mạng vận thời, chẵng biết họa đâu bay tới thình lình, đến tuổi nầy mà còn phải chịu lao tù khổ sỡ, ông đương cằn nhằn than thỉ, bổng nghe ngoài cửa có tiếng rọc rạch như tiếng ống khóa, một lát nghe kêu cái rắt, kế cánh cửa mỡ ra, thấy một người mặt đồ đen, tù đầu chí chơn, chẫm hẫm bước vô, bên lưng có dắc một cây đoãn đao, xem rất dị hình dị dạng.
Ông Cử-Khôi ngó sững mà chẵng biết ai, kế người ấy bước lại kê miệng vào tai, nói nhỏ với ông rằng:
— Chúng tôi đến đây cứu ông, xin ông hảy theo tôi cho mau đặng thoát ra khỏi ngục.
Ông Cữ-Khôi nghe nói thì hỏi rằng:
— Cậu ỡ đâu đến đây mà cứu tôi, xin nói cho lão rõ.
— Chúng tôi là kẽ bộ hạ của Châu-văn-Tiếp là tướng của đức Nguyển-Ánh.
Ông nghe liền gật đầu và nói: tôi hiểu, tôi hiểu, nói rồi liền theo người ấy đi ra.
Lúc bấy giờ mấy tên quân canh, đều ỡ canh giữ trước dinh, còn phía sau, thì quân lính ngủ hết.
Hai người bèn sẽ lén dắc ông Cữ-Khôi ẫn theo bóng câ đi ra tường sau, rồi đỡ ông lên mặt tường leo xuống.
Bổng nghe trống trên vọng đài đả điểm ba duồi và nhiệp sanh đánh nghe rắc rắc, thì biết đã tới canh ba rồi, lại thấy mấy tên quân canh, ỡ trước cọng đài, rão lại đi qua, tuần phòng nghiêm nhặc.
Khi hai tên kia, đem ông Cữ-Khôi ra khõi tường thành, rồi liền dắc ông đi thẵng về nhà một nước.
Cô Ngọc Sương thấy cha về nữa mừng nữa sợ, và chạy lại rưng rưng nước mắt mà nói rằng:
— Cha ôi! con tưỡng cha con mình đã lâm đại hại, mà phải tử biệt sanh ly nhau rồi, chẳng dè may nhờ có quan nhơn đây, cứu khỗn phò nguy cho mình, ngày nay cha con mới được trùng phùng hội diện, mà tại cớ sao cha bị giam, cha có rỏ chăng?
Ông Cử-Khôi nghe cô hỏi thì đáp rằng: quan Phủ nói người ta cáo cha theo phe Đức Nguyễn-Ánh, nên quan Phủ phải bắt mà giam tra.
— Cha ôi! thằng khốn nạn là Bùi-khắc-Phú nó vu cáo cha đó chớ ai, đặng nó đến đây mà hảm-hiếp con, may không thì con cũng chết về tay nó, nói rồi cô lại kễ các công chuyện ở nhà cô bị tướng giặc là Bùi-khắc-Phú, hãm-hiếp thế nào, và Châu-văn-Tiếp giết chết tướng giặc mà cứu cô và sai người đến khám đường cứu ông thế nào, đầu đuôi đều thuật lại một hồi cho ông nghe cặn kẻ.
Ông liền bước lại chào Châu-văn-Tiếp cách cung kính, và tõ nhiều lời cảm ơn rất thiết tha trân trọng.
Châu-văn-Tiếp cũng đáp lể lại, rồi nói với ông rằng:
— Tướng giặc Bùi-khắc-Phú nay tuy chết rồi, song le vi cánh nó còn đông, thế lực nó còn mạnh, vậy xin bác và cô nương phải mau mau kiếm nơi khác mà lánh đi, thì mới khõi bọn nó gây thù trả hận.
Ông Cử-Khôi nghe rồi liền gật đầu và nói rằng:
— Sự ấy xin để mặc tôi toan lo, quan nhơn chớ ngại, còn sự quan nhơn cứu cha con tôi, khõi tay quân hung gian tàn ngược ấy, thật tôi không biết lấy chi mà đền ơn đáp nghĩa cho xứng đáng, tôi chỉ mong rằng: nếu quan nhơn chẵng chê cha con tôi là bực thôn hương dân giả, côi cúc thật thà, thì tôi xin đưa con gái tôi cho quan nhơn, để hầu sữa trắp nưng khăn, gọi là đền chút công ơn tri ngộ, ước có được chăng?
Châu-văn-Tiếp nghe ông nói thì sững sờ rồi hõi rằng:
— Thưa bác, trong khi tôi núp nơi cánh cữa, tôi có nghe cô nương nói với tướng giặc rằng: cô nương là người đã có chồng rồi, sao bây giờ bác lại tính hứa hôn cùng tôi, như vậy chẵng là trái với lời cô nương đã nói đó chăng?
Ông Cữ-Khôi nghe hõi thì mĩn cười và đáp rằng: Số là quan nhơn chưa rõ, đễ tôi nói lại cho quan nhơn nghe, bỡi hôm nọ tướng giặc Bùi-khắc-Phú mượn mai nhơn đến nói con tôi, tôi biết nó là đứa mọt nước sâu dân, tham ô tàn bạo, nên tội phải kiếm cớ mà chối từ, kỳ thật tôi chưa hứa hôn con tôi cho nơi nào hết cả, chỉ có ngày nay hứa gả cho quan nhơn đó thôi.
Châu-văn-Tiếp nghe ông nói vậy, thì trầm tư nghĩ nghị một chút rồi đáp rằng:
— Tôi rất cãm ơn bác có lòng hạ cố, mà tính cho cô nương gá cuộc lương duyên cùng tôi, nhưng tôi nghĩ cho phận tôi ngày nay bốn biển không nhà, bèo mây trôi nổi, chưa biết đâu là quê quán gia cang, vì chúa tôi là đức Nguyển-Ánh còn đương lưu lạc phong trần, thế thì tôi phải ra sức tế khổn phò nguy, đặng lập chút công lao mà đền bồi nợ nước, còn như phận cô nương đây, chẵng may gặp cơn gia biến, bác lại chĩ có một mình cô là gái, thì để cho cô sớm hôm theo bác, giúp đỡ tay chơn, gọi rằng đền đáp ơn nhà trong cơn hoạn nạn.
Nếu nay tôi kết duyên cùng cô nương, thì cô chẵng lẻ bõ cha mà theo chồng, còn tôi chẵng lẽ bõ vua mà theo vợ, nếu cô nương đeo đuổi theo chồng, thì thành ra thất hiếu với cha, còn tôi bận biệu theo vợ, lại phải thất trung cùng chúa, thế thì cũng một đều rất khó cho tôi và cho cô nương lắm đa, vậy xin lổi cùng bác sự ấy tôi chưa dám nhứt định lẻ nào bây giờ, xin bác để cho tôi lo việc nước yên rồi, ngày sau sẻ tính tới việc nhà, cũng chẵng chi rằng muộn.
Ông Cữ-Khôi nghe Châu-văn-Tiếp bày tõ mấy lời rất đường đường chánh đáng, thì gặt đầu mà đáp rằng:
— Quan nhơn có lòng ưu quân ái quốc như vậy, tôi rất yêu mến kỉnh vì, nên tôi muốn tỏ chút tình nghỉa cùng quan nhơn, đặng mà đền ơn cứu nạn, song việc ấy chẵng phải tôi muốn tính gắp bây giờ đây đâu, mà quan nhơn phòng ngại. Vậy nếu quan nhơn bằng lòng thương tưởng đến con tôi, thì xin hứa chắc một lời, cho tôi đặng thỏa chút tình, còn việc hôn phối thì ngày sau sẻ tính củng được.
Châu-văn-Tiếp thấy ông có lòng quyến luyến, thì cũng đem dạ kính vì, liền chịu hứa cuộc nhơn duyên với con ông, nhưng để việc nước yên rồi, ngày sau sẻ vầy duyên cang lệ, đó rồi day lại thưa với ông rằng:
— Thưa bác, nay tôi có việc binh tình cẫn cắp, phải đi thông báo cho chúa tôi là đứa Nguyển-Ánh được hay, vậy tôi xin từ giả bác và cô nương, cầu xin bác và cô nương quới thể bình an, đặng mau mau tìm qua xứ khác mà thê ngụ. Nói rồi kêu hai tên bộ hạ bảo về thắng ba con ngựa đem lại cho mau.
Hai tên bộ hạ lãnh mạng ra đi, chẳng đầy một lát, đã thấy ngựa tới trước nhà, cô Ngọc-Sương lúc bấy giờ cũng bước ra trước ngỏ, đưa đi và tiểng biệt nhiều lời rất trân trọng mà nói rằng:
— Trước khi quan nhơn lên ngựa cầm cương, bôn ba việc nước, tôi chẵng có chi đưa tặng quan nhơn, tôi chỉ có một khối vàng-đá trong trái tiêm tôi đây, để cống hiến cho quan nhơn gọi là chút lòng kỷ niệm của gái nầy, đem ra mà tiển biệt nhau trong cơn nguy cấp.
Cái phận sự cũa quan nhơn đứng một chí khí nam nhi, gặp buổi nước ngặc nhà nghiên, thì phải ra đỡ vạt nưng thành, phò nguy tế khổn, tôi chẳng hề dám lấy cái thói nhi nử thường tình, mà cản trỡ anh hùng trên đường nghỉa vụ. Vậy tôi chỉ cầu xin cho quan nhơn được thân cường, thể kiện, mà xông pha giữa chốn mủi đạn đường tên, đó là một chổ danh dự của các đứng anh hùng, ngày sau sẻ được lưu truyền lịch sử. Ấy là một phận sự quan nhơn đối với nước nhà trong cơn bác loạn.
Còn phận tôi thì chĩ xin quan nhơn chớ quên rằng, hôm nay là ngày tôi đả đem cái thân phận của đứa gái đào thơ liểu yếu nầy, mà ký thác cho quan nhơn, và cắt một khúc ruột chung-tình nầy mà trao cho quan nhơn giữ lấy, tôi chỉ gìn một tấm lòng trực tiếc cùng quan nhơn trong khi vắng vẽ cô phòng, xiết bao là ngày trông tháng đợi; mong rằng: ngày kia sẻ được nước trị nhà yên, cho vợ đặng gặp chồng mà phối hiệp lương duyên, ngõ cùng nhau chung hưởng sự thái bình hạnh phước. Ấy là một chút tình hi-vọng của gái nầy xin đối phó cùng quan nhơn, và một tấm lòng trinh bạch nầy, xin chứng minh cùng trời đất vậy thôi.
Mấy lời của cô Ngọc-Sương tiển biệt, Châu-văn-Tiếp nghe rất thấm thía vào lòng, thì vội vả day lại trã lời rằng:
Những lời vàng tiếng ngọc của cô nương bày tỏ ra đây, làm cho tôi rất cãm động tâm tình, và in vào lòng chạm vào dạ, không bao giờ quên đặng.
Vậy tôi xin căng dặn cùng cô nương một đều, là cô nương phải lấy một tánh cang trường thiết thạch cho chắc chắn, cho vửng bền, đặng mà lo bão hộ nghiêm đường, và chống với sự gian nan cực khổ. Vì nghiêm đường thì đương lúc tuổi cao tác yếu, mà nhà lại cơn vận bỉ thời quai, tôi rất buồn thầm cho tôi, mắc tẩu bắc bôn nam, buộc ràng việc nước, đã không đặng chia bớt cái gánh trách nhậm gia đình nầy cùng cô, lại còn chất thêm cho một khối chung tình rất nặng nề vào lòng cô nữa.
Nhưng mà cái tấm lòng của tôi bôn ba vì nước, đối với tấm lòng cô báo bổ việc nhà, hai mối dây ấy vẩn cứ ràng buộc vấn vít trên mình chúng ta, không thế nào tránh đặng. Vì thế mà đôi ta ngày nay phải chia gánh chung tình nầy làm hai, nữa thì tôi ôm ẫm đem theo, nữa thì cô giử gìn mà cất lấy.
Tôi cũng cầu xin Hoàng-thiên Thượng-đế cho Nguyễn chúa mau được khôi phục sơn hà, và cho cô cùng tôi được sống trên cỏi thế giang nầy, thì ngày kia hai ta cũng được đoàn viên hội ngộ.
Nói rồi Châu-văn-Tiếp liền từ giả cô Ngọc-Sương và cho người dọn dẹp ghe thuyền đặng đưa ông và cô tiềm qua xứ khác mà trú ngụ, còn mình vội vã lên yên, giục ngựa buông cương, đi với hai tên bộ hạ, lước dặm băng ngàn, nhắm đường qua Cầnthơ thẵng tới.
Chú thích
▲Châu-văn-Tiếp quê quán ở Phú-yên thuộc tỉnh Bình-định, nhơn lúc loạn tụ chúng ở núi Trà-lang-Sơn đem binh ra giúp Nguyễn-Vương.
HỒI THỨ TƯ
Đức Nguyễn-Ánh tỵ nạn Thổ-Châu.
Nguyễn-hửu-Thoại du thám sơn-động.
Đây nói về một đội quân Tây-sơn ở Rạch-mân-Thít qua tới Cần-thơ, nghe Đức Nguyển-Ánh và cung quyến đả chạy qua Rạch-giá; tức thì đem binh rược theo, khi đi ngang qua rừng tràm, thình lình nghe hai bên rứng ré lên một tiếng dậy đất vang trời, đội quân Tây sơn hoãn kinh, vừa muốn kéo nhau thối lại, thì hai bên rừng tên bắn tuông ra như mưa; quân Tây-sơn bị thương rất nhiều, liền kéo nhau chạy đùa trỡ lại.
Bổng thấy một toán quân thình lình trong rừng rần rần nhảy ra, áp tới hổn chiến một trận rất kịch liệt, quân Tây-sơn lớp bị thương, lớp bị tên, nằm dọc theo mé rừng chết thôi lểnh nghễnh.
Toán quân nầy là của Đức Nguyển-Ánh để phục nơi rừng tràm đặng phòng ngừa quân giặc. Tướng ngài là Lê-văn-Quân lảnh toán quân ấy làm hậu đội, để theo hộ vệ ngài trong lúc hành trình, nên khi thấy quân Tây-sơn rược theo, thì nhảy ra cãn cự.
Khi Đức Nguyễn-Ánh và cung quyến của ngài đi gần được nửa đường vô Rạch-giá, bổng thấy ba người cỡi ngựa chạy theo, ngài liền dừng ngựa lại xem, thấy ba người ấy là Châu-văn-Tiếp với hai tên quân nhơn đã chạy tới, ngài có ý kinh nghi, và hỏi rằng:
Khanh có việc chi cẩn cấp báo cho ta hay chăng?
Châu-văn-Tiếp liền xuống ngựa lại cúi đầu thi lể, rồi nói rằng: Bẩm Điện-Hạ, có việc cẩn cấp, nên tôi lật đật bôn tẩu về đây, đặng thông tin cho Điện-Hạ rõ, nói rồi liền đưa cái thơ đã lấy trong mình tướng giặc Bùi-khắc-Phú mà dâng lên cho ngài xem.
Đức Nguyển-Ánh liền lấy thơ dỡ ra, xem rồi có sắc kinh ngạt mà hỏi rằng:
— Thơ nầy của Nguyển-Huệ gỡi cho Bùi-khắc-Phú mà sao nhà người bắt đặng?
Bẩm Điện-Hạ, Bùi-khắc-Phú nầy là một đứa tham dâm háo sắc, kiếm chước hãm hại vu oan cho cha một nàng gái kia ỡ Long-xuyên, làm cho cha nàng ấy phãi bị giam nơi ngục đường, rồi ban đêm đến nhà làm sự cường dâm cùng nàng, tôi dọ biết sự tàn ngược của nó, nên giết nó mà cứu cha con nàng gái ấy, trong khi tôi giết nó rồi xét trong mình nó đặng một phong thơ, thấy tướng Tây-sơn là Nguyển-Huệ nói rằng trong ba ngày nửa, thì đem binh qua Cần-thơ và vô Rạch-giá mà truy tầm Điện Hạ, nên tôi phãi vội vã trở về thông tin cho Điện-Hạ rỏ, đặng lo tầm phương lánh nạn cho sớm, nếu để đạo binh của Nguyễn Huệ rược theo, thì chúng ta khó bề chống lại.
Đức Nguyễn-Ánh nghe thì ngẫm nghỉ một hồi, rồi nói với các tướng sỉ rằng: vậy thì chúng ta phãi lập tức qua Ca-mau mới đặng, nói rồi liền dắc cung quyến và các tướng tùy tùng băng theo đường rừng mà đi, còn Châu-văn-Tiếp trở lại hiệp với đạo binh Lê-văn-Quân, ở sau đặng dọ thám binh tình của giặc.
Nguyên-soái Tây-sơn là Nguyển-Huệ đương ở Vỉnh-long nghe tin Đốc-binh là Bùi-khắc-Phú bị giết tại Long-xuyên, tức thì đem binh qua Cần-thơ rồi sai một tướng lên Long-xuyên thế cho Bùi-khắc-Phú, còn đạo binh Nguyển-Huệ phân làm hai toán, một toán sai vô Rạch-giá và một toán tuốt qua Cà-mau, đặng rược theo Đức Nguyễn-Ánh mà bắt.
Thãm thay cho Đức Nguyễn-Ánh, cùng cung-quyến của ngài, ban ngày thì băng đồng lước bụi, giãi nắng dầm mưa, đi quanh lộn trong đường rừng, bất kể chông gai, không nài lao khổ, phía trước có một tốp Cao-mên dẩn nẻo đem đường; phía sau có một đội quân nhơn tùy tùng hộ tống, ban đêm thì kiếm chỗ gò cao khoản rộng ngơi nghỉ, rồi sai quân đốn cây làm sàng đễ cho cung-quyến của ngài nằm. Còn ngài và các tướng sỉ, thì trải chiếu trên đất mà ngủ. Thật là ngàn trùng gian hiểm, quản bao gối tuyết mền sương, muôn dậm quan hà, cậy có màng trời chiếu đất.
Các tướng sỉ thấy vậy không nở, bèn nói với ngài rằng: Bẩm Điện-Hạ, xin Điện-Hạ hãy lên nằm trên sàng, nếu nằm dưới đất, e hơi thấp khi nổi lên mà sanh đều bịnh hoạn.
Đức Nguyển-Ánh nghe nói thì đáp rằng: các khanh vì ta mà phải bôn nam tẩu bắc, cực khổ gian nan, thì ta nở lòng nào nằm chiếu nằm sàng, để cho các khanh nằm rơm nằm đất? Xin các khanh chớ ngại. » Nói rồi bảo quân nhơn canh giữ bốn phía chung quanh, và đốt mấy đống lữa cháy lên cho sáng, đặng loài độc trùng ác thú thấy thì chẵng dám léo hánh lại gần, cái cãnh ngộ gian nan cực khổ nầy chẳng biết bao nhiêu mà kể cho xiết.
Khi tới Cà-mau, đức Nguyển-Ánh và các tướng kiếm chổ để cho cung quyến đình trú xong rồi, liền sai các bộ hạ tâm phúc đi các nơi thám thính quân giặc, nhứt diện, lại lo cụ bị ghe thuyền sẳn sàng, đặng phòng khi quân giặc rược theo, thì đem cung quyến xuống thuyền mà vượt biển.
Khi Nguyên soái Tây-sơn là Nguyển-Huệ ở Cần-thơ, nghe tin đức Nguyển-Ánh chạy xuống Cà-mau, liền phân binh làm hai đạo, một đạo đi đường bộ thẳng xuống Cà-mau, một đạo đi đường sông, thẳng vào Ba-thắc, hai đạo binh lước dậm băng ngàn, ngày đêm rược theo đức Nguyển-Ánh mà tập nã,
Bửa nọ, đức Nguyển-Ánh đương ngồi bàn nghị quốc sự với các tướng sỉ, xảy có hai tướng ngoài cửa bước vô, cúi đầu rồi báo tin rằng:
— Bẩm Điện-Hạ có một đạo binh giặc đã tới Bạc-liêu, và một đạo nửa đã tới Cà-mau địa-phận.
Đức Nguyển-Ánh nghe tin giặc rược theo, thì nhiếu mày rồi nói với các tướng sỉ rằng:
— Ta nay đã cùng đường yếu thế, không sức đủ mà chống nổi quân giặc, đương lúc thế mạnh binh cường, ta thầm trách cho phận ta, gặp buổi nước loạn thời quai, lưu ly điên bái, làm cho các tướng sỉ phãi nhọc lòng vì ta, mà chịu cực khổ gian nan, dầm mưa giải nắng như vầy, thì lòng ta rất cám cãnh ngậm nguồi, không sao ngớt đặng.
Các tướng sỉ nghe ngài nói thì cãm động mà đáp rằng:
— Xin Điện Hạ yên tâm, dẫu cho vạn khổ thiên lao thế nào, chúng tôi cũng nguyện trải mật phơi gan, liều sanh tri tữ mà giúp đở Điện-Hạ cho hết sức hết lòng, xin cho Điện-Hạ thể tráng thân cường, đặng mà lo việc nước nhà trong cơn hoạn nạn.
Kế Nguyển-văn-Thành[1] bước ra nói với đức Nguyển-Ánh rằng:
— Bẩm Điện-Hạ cái cãnh ngộ gian nan nầy là trường học của các đứng anh hùng, để mà tập luyện chúng ta cho dạn dỉ tâm thần, và mạnh mẽ khí phách. Xưa nay những bực anh hùng hào kiệt, thì đều phải trãi qua chẳng biết bao nhiêu sự cay đắng hiễm nguy, mà cũng chẳng biết bao nhiêu lúc thời quai vận bỉ, đó là một chổ cao đẳng học đường, ai có vào cái cao đẳng học đường nầy rồi, sau mới đặng lãnh một cấp bằng danh dự anh hùng và mới đặng gánh một trách nhậm to tác của Đế-vương sự nghiệp.
Nay Điện-Hạ muốn gánh vát một trách nhậm của Đế-vương sự nghiệp mà làm như vua Quan-Vỏ trung hưng thuở xưa, như vua Lê-thái-Tổ dựng nghiệp lúc trước, thì chúng ta dẩu nát thịt tan xương cũng theo phò giúp Điện-Hạ cho hoàn toàn nghĩa vụ.
Đức Nguyễn-Ánh nghe nói thì sắc mặt tỏ ra có vẻ hân hoan, rồi ngó các tướng mà đáp rằng: ta rất cảm ơn các tướng sỉ, xin hãy ráng tận tâm kiệt lực cùng ta, ngày kia may mà được khôi phục sang hà, thì các người đều đứng bực công thần đệ nhứt trong nước; nói rồi liền truyền các tướng sấm sữa ghe thuyền đặng vượt biển qua cù lao Thổ-Châu[2] mà tỵ nạn. Vì quân giặc nay mai sẽ tới đây, chúng ta chẵng nên trì hưỡn.
Các tướng vâng lịnh, sắp đặt mười chiếc thuyền sẵn sàng, mỗi chiếc đi chừng hai mươi người, bườm, chèo, lương, phạn đều đủ.
Đức Nguyễn-Ánh và các tướng sỉ cơm nước xong rồi, ngó ra thì trời đã tối, cã thãy vội vả kéo nhau xuống thuyền, Đức Nguyễn-Ánh và Cung-quyến ngài, đi hai chiếc thuyền lớn ở giữa, còn bốn chiếc đi trước dẫn đường, và bốn chiếc đi sau hộ tống, cứ theo ngọn sông ông Đốc[3] đi ra.
Khi đi đặng một khúc sông, bỗng thấy mây dăng mờ mịt, rải rắc mưa to, hai bên chỉ thấy cõ rậm rừng hoang, không có xóm làng nhà cửa ai hết, trong lúc đêm khuya tịch mịt, chẵng nghe chi lạ hơn, là nghe nhửng tiếng chim mèo ó ré, giọng ục kêu rân, giặc muỗi dấy lên ồ ồ, nghe kêu như ong vò vẻ, một lát lại nghe hai bên mé rừng, cọp kêu cà-um dậy đất, dường như nó thấy thuyền Đức Nguyễn-Ánh, thì rủ nhau áp ra hai bên mé sông, đặng mà đón ngăn chào hõi.
Thuyền Đức Nguyễn-Ánh đi đặng một đỗi nữa, khi ra gần tới cữa biển, có hai con sấu rất to, nỗi lên trước mũi thuyền của ngài, mỗi con lớn và dài như chiếc ghe lường, cất đầu lên cao, rồi đập đuôi xuống nước đùng đùng, làm cho nước văng lên trắng giả, và cứ cản ngang trước thuyền, dường như không muốn cho thuyền của ngài đi tới.
Đức Nguyễn-Ánh lấy làm lạ, bảo day thuyền tránh qua phía khác mà đi, song thuyền tránh phía nào thì sấu cứ theo trước mũi thuyền cản mãi.
Các tướng sỉ thấy vậy bất bình, người lấy chỉa ra muốn đâm, kẻ vát súng ra đòi bắn.
Lúc bấy giờ có Trịnh-hoài-Đức là người văn sỉ tin cậy của Đức Nguyễn-Ánh ra cãn, không cho các tướng sỉ bắn, và nói với Ngài rằng:
— Bẩm Điện-Hạ, sấu là một giống Ngạt-ngư rất dữ trong loài thủy tộc, nay thuyền ta mới khởi hành, mà gặp giống ấy cãn trở, thế thì cũng có một điềm gì lạ đây, tôi e quân giặc nó đón ngăn ngoài cữa, vậy xin Điện-Hạ hảy bảo đình thuyền, để sáng mai sẻ đi, cũng không sao phòng ngại.
Đức Nguyễn-Ánh liền bão các thuyền đình lại, đậu dọc theo ngọn sông ông Đốc mà nghĩ, chờ áng sẽ đi, các tướng ở tiền đội cũng nói rằng: trong khi thuyền đi, thấy một bầy sấu, cãn ngăn rước mũi, ấy cũng là một điềm rất quan hệ trong lúc hành trình.
Khi các thuyền đậu lại, sấu đều lặng ngấm xuống nước, không con nào nỗi lên vơ vẫn trước mũi thuyền như khi nảy vậy, chẵng bao lâu kế trời vừa rựng sáng, các tướng sỉ cơm nước xong rồi, liền trương bườm bọc gió chạy ra cữa biển, nhắm cù lao Thổ-Châu thẵng tới. Bổng gặp hai chiếc thuyền chài đương đánh cá theo mé biển Rạchgiá, nói rằng: trong đêm ấy có một đạo chiến thuyền của giặc Tây-sơn, rão lại chạy qua trước cửa biển Cà-mau rất nhiều, đặng tìm đón thuyền ngài mà bắt.
Đức Nguyễn-Ánh nghe nói, có vẻ kinh nghi và hõi rằng:
— Các người bây giờ có biết đội chiến thuyền của giặc ở đâu chăng?
Mấy người thuyền chài đáp rằng:
— Bẩm ngài, chúng tôi thấy thuyền giặc hồi canh tư, đã kéo nhau chạy về hướng cù lao Côn-nôn, còn một đội thì chạy lên cữa Ba-thắc (Bassac).
Đức Nguyễn-Ánh day lại nói với Trịnh-hoài-Đức rằng:
— Thật quả như lời khanh đã nói chẵng sai.
Các tướng sỉ nghe nói rất mừng, liền bước tới trước mặt Đức Nguyễn-Ánh, và nói rằng:
— Chúng tôi xin kính mừng cho Điện-Hạ, thoát khõi quân giặc Tây-sơn, ấy cũng bỡi cái hồng phước của Điện-Hạ còn nhiều, nên khiến cho đêm nay sấu cãn thuyền ta, chẳng cho ra cửa, nếu chẵng có sự ngăn cản ấy, thì chúng ta đã bị quân Tây-sơn đón bắt, vậy thì cái mạng của Điện-Hạ rất lớn, nên có trời phật phò trì, quân giặc không thế nào hại đặng.
Đức Nguyễn-Ánh nghe nói thì sắc mặt có vẻ hân hoan, và đáp lại rằng:
— Thật cũng nhờ trời phật phò trì, mà cũng nhờ công tướng sỉ hết lòng ũng hộ.
Khi thuyền bọc gió ra khỏi, ngó qua bốn hướng, chỉ thấy trời nước minh mông, thật là một cái thế giới của Đông-Hãi Long-Vương, gió lặng sóng êm, xem trên mặt biển như trãi một đường lụa trắng, ngó lại hướng Đông, thấy vài cù lao nhõ nhõ, sường núi khum khum, cái thì cây cõ xanh dờn, cái thì hình như một con rùa rất to, ló cõ phơi lưng, nằm trên mặt biển chần ngần, đối với cãnh trời ban mai, một ánh dương quang dọi ra nữa vàng nữa đõ, ấy là một cái cù lao tục kêu là hòn Tre, (Jle de Tortue) và một cái kêu là Hòn-Rái, ở gần mé biển Rạchgiá.
Các thuyền của Đức Nguyễn-Ánh vượt biển, gặp lúc trời êm gió thuận, chạy đi chẵng đầy một ngày, bỗng thấy trước mũi thuyền một cái cù lao mù mù, nỗi lên giữa biển, thật là nước bích non xanh, xem như một chỗ Bồng-lai tiên cảnh.
Các tướng sỉ đều mừng rở la lên và nói: tới rồi tới rồi, cù-lao Thổ-châu ở trước mắt chúng ta kia cà; liền bẻ lái day mủi ngay vào cù-lao mà thẳng tới, chạy chẳng đầy vài giờ nữa thì đã tới mé cù-lao Thổ-châu, xãy thấy một bầy chim én chẳng biết mấy muôn con, ở trên mấy hòn núi Thổ-châu bay ra mịt trời, và vần vần theo trên chiếc thuyền của đức Nguyển-Ánh, kêu la xăn xích, dường như thấy ngài tới, thì bay ra mà chào mừng tiếp rước.
Đức Nguyển-Ánh liền bão các thuyền bõ neo đậu dựa mé cù-lao, thì thấy trên cù-lao cây cõ mịt mù, và có nhiều động đá ló-ra rất lớn; chính giữa cù lao lại thấy mấy đãnh núi rất cao, đá liển chặp chồng, chổ do ra, chổ hủng vô, xem rất kỳ quang dị mục.
Đức Nguyễn-Ánh bèn sai hai tướng là Nguyển-hữu-Thoại với Nguyển-huỳnh-Đức, đem quân lên cù lao, tìm coi có nhà cữa dân cư chi chăng? đặng lên mà đình trú.
Nguyển-hữu-Thoại và Nguyển-huỳnh-Đức mỗi người đem theo bốn tên bộ hạ, đều có cụ bị binh khí sẳn sàng rồi đi theo bãi biển lần lên, khi lên tới trên, Nguyển-huỳnh-Đức đi vòng qua phía Nam, còn Nguyển-hữu-Thoại đi vòng qua phía Bắc.
Khi Nguyễn-hữu-Thoại đi tới chơn núi, liền leo lên mấy gộp đá cao, rồi lần lên đãnh núi, đứng xem bốn phía, xãy thấy một thạch động rất to, hai bên thạch động, có mọc một đám Huỳnh mai, trổ bông vàng rựng.
Nguyển-hữu-Thoại với bốn tên quân nhơn bước vô phía trong thạch động, thấy ổ én đóng theo kẹt đá, chẳng biết bao nhiêu, còn chim ém thấy bóng người ta, thì trong ổ cả bầy bay ra như dơi đáp muổi, mấy người nầy quanh qua lộn lại hồi lâu, khi ra khỏi thạch động, xem lại đã lọt qua phía núi bên kia, thì thấy mặt trời đã lần lần chen lặng, chỉ còn một bóng tàng dương ững đỏ, rưng rưng theo mé chơn trời, với ít cụm mây hồng, đương phưởng phất trên không, rồi dọi ngay xuống nước, xem như một vóc gấm điều, ai đem trải trên mặt biển kia vậy.
Nguyễn-hữu-Thoại và mấy tên bộ hạ đương đứng xem coi, bổng thấy hai chiếc ghe ngoài biển phăn phăn chạy vô, có sáu bãy người đương đứng trên muôi, mắt ngó châm châm vô cù lao, và thỗi lên một tiếng còi, thì ghe đã cuốn bườm, và lần lần chạy vô tới bến.
Nguyển-hữu-Thoại đứng trên gộp đá ngó ra ghe ấy châm chỉ một hồi, rồi day lại nói với mấy tên quân nhơn rằng:
— Chắc thuyền ấy là thuyền của bọn cướp nào đây, đến tàng tụ nơi cù lao nầy, là chỗ sào huyệt của chúng nó. vậy chúng ta hảy xuống núi đặng dọ xem cho biết chúng nó ở đâu, và coi sự hành động của chúng nó thế nào luôn thể, nói rồi liền lần lần kéo nhau xuống núi, xãy thấy hai người ở dưới thuyền ấy đi lên, một người đội nón trắng, vành lớn như mâm, bên lưng có dắc một ngọn đoãn đao. còn một người đội nón lông chim sắc đen, tay cầm một cái búa, cã hai đều đi vào tron đường núi.
Nguyễn-hửu-Thoại với mấy tên quân nhơn bèn lén lén theo sau, kế nghe người đội nón trắng nói rằng:
— Tối nay chúng ta làm một tiệc rượu cho xình xàng, rồi ngủ mới sướng.
Lại nghe người đội nón lông chim đáp rằng:
— Chú cứ ưa theo thần men hoài, còn tôi lại thích theo thần-phiện, sau khi ăn rồi, kéo chơi ít điếu, lấy làm khoái sãng tinh thần, và sướng cã và mình mẩy gân cốt, thế chẳng phải là thú vị lắm ư? còn thần men của chú hể vô khõi yết hầu rồi, thì khiến cho người phãi say sưa vất vã, rồi ngã bụi tuông bờ, đường chính không đi, cứ mé nầy xẹt qua mé kia, mé kia đâm vào mé nọ, nghỉnh mặt nghiên đầu, như ghe bầu chạy vát. Chớ có thú vị gì đâu, mà chú gọi rằng sướng? nói rồi lấy một điếu thuốc vỏ-thẩu ra đốt lên, bập bập nơi miệng, rồi trong lổ mũi xịch ra hai lằng khói bay lên mịt mù như một đám mây.
Tên kia nghe nói thì cãi lại rằng:
— Anh dám khi thần men tôi à, anh coi trong mấy đám cưới vợ gả con, nếu không có thần men, thì lấy chi mà làm lể hiệp cẩn giao-bôi, và trong mấy tiệc hội hữu tân quan, nếu không thần men, thì lấy chi mà chén tạc chén thù, chuyện trò vui vẻ, còn thần phiện của anh, chĩ làm cho người ta máu hết thịt tiêu, hình gầy vóc ốm; quanh năm chí tối, cứ xẩn-bẩn trên một bộ váng đó, mà xem như một chổ cẩm tú giang san, và cứ sâm soi một ngọn đèn leo lét kia, mà ngỡ là một cãnh cực-lạc thế-giới, vậy mà gọi rằng thú vị, thú vị cái gì?
Người đội nón lông chim cười ha hả mà nói rằng:
— Chú không biết thần phiện của tôi là một vị phẩm giá cao sang lắm sao? để tôi nói cho chú nghe, thần-phiện nầy tổ quán ở tại Vân-Nam, giòng giõi sanh tại Phù-dung Thành[a] ở bên Tây-Tạng (Tibet); cả thảy trong Hoàn-cầu, ai mà chẳng biết danh, vì vậy các nhà công-yên,[4] người ta có dán một cặp liển mà tặng thần-phiện rằng:
Lưởng chẩm đối đàm thiên hạ sự,[5]
Nhứt cang xi táng cổ kim sầu.[6]
Chú không thấy à? còn thần men của chú đó, có hay gì mà khoe khoan. Chú không nhớ trong đời Tam-quốc kia à? Trương-Phi bị thần men làm cho mê mang bất tỉnh, mà phải thất thủ đất Từ-châu; Lử-Bố củng vì thần men làm cho say sưa, mà phải bị Tào-a-Mang hượt tróc; vậy thì thần men, thật là một giống đại hại cho nhơn quân, mà củng là một giống đại ác cho xã hội.
Tên kia nghe nói liền xịt một cái, hơi bay nực nồng nhửng rượu, rồi nói rằng:
— Anh đừng khi thần men, tự cổ cấp kim, ai ai cũng đều ưa mến thần men hết cả, bởi vậy các văn-nhơn nho-sĩ người ta có nói câu rằng: « Vãng tống nhứt sanh duy hửu tữu », nghĩa là trong một đời con người chĩ có rượu là vui. Lại có câu rằng: « Dụng tữu binh giãi phá sầu thành » nghĩa là dùng bình rượu mà giãi phá cái thành buồn rầu. Anh không biết hai câu đó sao?
Ấy vậy thần-men chẵng những là cần dùng trong việc quan, hôn, tang, tế, mà thôi, lại còn giãi sự buồn rầu cho người ta được nữa. Khi nào buồn, buồn rầu cho người ta được nữa. Khi nào buồn, thì nhai một hai chiếc nem, uống một vài cốc rượu, rồi ngồi vích đốc trên ghế, chắp chắp một hồi, thì tự nhiên thần-men, rần rần chạy cùng mặt mày gan ruột, chạy khắp gân cốt tay chơn, làm cho tẵng mẵn tê mê, thì sướng biết bao nhiêu là sướng, bởi vì vậy người ta mới nói câu rằng: Tẵng mẵn tê mê vì cô bán rượu, liệt chiếu liệt giường vì chị bán nem.
Nói rồi hai người cười rân cùng nhau trong đường núi.
Chú thích
▲theo sử histoire d’annam của Charles Maybon nói: Nguyen-văn-Thành là người quê quán ỡ Gia-đinh, theo Gia-đinh thông chí (Description de Gia-dinh) nói: là người ở Biên-Hòa.
▲Thỗ-Châu, theo trong « Giađịnh thông chí » của Trịnh-hoài-Đức làm, và trong Histoire d’annam par charles B Maybon, nói rằng: Cù-lao Thổ-Châu nầy ỡ ngoài bien ngang Rạchgiá, từ Rạchgiá ra đó chừng 200 ngàn thước, Cù-lao nầy đi giáp vòng chừng 100 dậm. Kêu là Poulo-Panjang.
▲Sông ông Đốc, kêu là sông Đốc Huỳnh ở tại Cà-mau.
▲Công yên là tiệm hút á phiện
▲nghỉa là hai người nằm đối với nhau mà nói chuyện thiên hạ,
▲nghĩa là một ống thơi tan các sự buồn rầu xưa nay.
▲Phù-Dung là cây người ta chích mủ đễ làm nha phiến.
HỒI THỨ NĂM
Nơi thạch động ra tay xạ tiếng;
Chốn sơn đầu tạm bước đình quân.
Nguyển-hữu-Thoại thỉnh-thoãng theo sau, nghe hai tên ấy cải lẩy cùng nhau, thì chúm chím miệng cười, rồi nghỉ thầm rằng: thuở nay những tưởng rằng quân cướp thì đều là kẻ bạo tàn dốt nát, chẵng dè ngày nay củng có quân cướp mà biết chử nghỉa văn-chương. Vậy chắc hai tên nầy là tướng cướp chẳng sai, âu là mình phải theo coi chúng nó đi đâu cho biết. Nói rồi sẻ lén đi theo, khi núp theo mấy bụi cây cao lá rậm, lúc thì ẩn theo mấy hòn đá kẹt non.
Kế thấy hai tên ấy đi tới một chổ thạch động rất to, trước thạch động có một sân rộng đất bằng, ngoài sân có để một bàn dài, trên bàn có sẳn sàng chén dỉa và ly rượu, hai bên sân có cậm bốn cây đèn chai, đốt lên sáng rỡ.
Hai tên ấy khi lên tới thạch động, thì đả có bãy tám người trai, hình thù vậm vỡ, mỗi người đều có dắc một ngọn đao bên lưng, ngoài cửa xơn xao bước vô, lại đứng hai bên sân và hỏi rằng: Đại-ca chưa ra sao? hõi vừa dứt lời, bổng thấy một người trong động bước ra, trạc chừng ba mươi mấy tuổi, mặt đen mày rậm, mắt lộ ra như mắt thao, mình cao hơn bảy thước, trên đầu có vấn một cái khăn màu nu, có sọc đen đen trắng trắng, bên vai choàn một cái lốt da cọp vằn vện phủ ra sau lưng, rồi ngó mấy người kia mĩn cười mà hỏi rằng:
— Anh em đã tới đũ chưa, đặng chúng ta nhập tiệc. Mấy người kia nói: chúng ta đã đủ, chỉ còn thiếu chị hai An-Tôn mà thôi, nói chưa dứt lời, thì thấy một nàng gái trạc chừng hai mươi mấy tuổi, trong cửa động đá vội vã chạy ra, trên đầu thì tóc cụt phủ xuống chí vai, nước da trắng ngâm ngâm như vỏ trứng gà, trên mình mặc một cái áo màu vàng mà ngắn, dưới lưng vận một cái chăng đỏ, có thêu sọc trắng lằng xanh dựa bìa, rằn rực xen nhau, như hồi-văn lạc-khoãn; trước ngực thịt vun lên cao, và cổ tay tròn như bấp chuối.
Nguyên người choàn một cái lốt da cọp trên đây, tên là Hà-hỉ-Văn, là một người Thanh-khách, làm chánh đãng trong bọn ấy, còn nàng gái nầy gốc là người Xiêm La.
Trong lúc Hà-hỉ-Văn ở bên Xiêm gặp nàng, thì kết làm vợ chồng, kế Hà-hỉ-Văn bị tội giết người Xiêm-La, rồi hai vợ chồng dắc nhau trốn ra cù lao nầy mà trú ngụ, và chiêu mộ mấy bọn đồng chí, quần tụ tại đây, rồi chiếm cứ chổ Sơn động nầy để làm sào huyệt, đặng đón cướp ghe Thương-hồ của Xiêm dọc theo mé biển.
Nàng nầy sức lực mạnh mẽ, và thông thuộc vỏ nghệ, mà nhứt là việc bắn ná Xiêm thì rất tài.
Còn hai người cải lẩy cùng nhau trong đường núi hỗi nãy đó, là người Annam, mà nhập bọn với Hà-hỉ-Văn, rồi làm phó đãng.
Trong lúc tên Phó-đãng là người đội nón lông chim khi nãy. Đương đứng nói chuyện với mấy anh em kia, bổng thấy một con dơi quạ rất to, bay lại móc tòn ten trên ngọn cây ở bên Thạch-động thì kêu nàng ấy rồi lấy tay chĩ trên ngọn cây mà nói rằng:
— Chị hai An-Tôn, chị có tài bắn hay, vậy xin chị lấy ná bắn con dơi nầy, đặng nấu một trả cháo khuya, ăn chơi cho bổ khỏe.
Nàng ấy nghe nói thì mỉn cười mà đáp rằng: Chú muốn ăn cháo khuya cho bỗ khỏe, mà tôi không thấy chú bổ khõe chút nào, chĩ thấy chú ốm và mệt hoài, chớ không thấy mập được. Thôi chú hảy vô lấy ná đem đây.
Tên Phó đãng lật đật vô lấy đem ra, nàng ấy bước lại, một tay dương ná, một tay ráp tên, rồi nhắm ngay con dơi cách chừng trăm thước, bắn ra một mũi, nghe dơi la một tiếng rồi rớt xuống liền, cã thãy trong bọn đều vổ tay khen hay.
Lúc bây giờ Nguyển-hửu-Thoại đương đứng núp trên gộp đá cách xa mấy người ấy ước gần hai trượng, thấy dơi rớt xuống gần một bên mình, liền bắt cầm nơi tay, rồi rùn mình nhãy vọt xuống sân một cái lẹ như chim đại bàng trên không đáp xuống, mình không lắc, mắt không lay, đứng sửng giữa sân chần ngần, như thiên thần giáng hạ.
Quảng cáo
Cài đặt chế độ riêng tư
Tên chánh đãng là Hà-hỉ-Văn thấy thì thất kinh, vùng thối lui lại vài ba bước, rồi la lên một tiếng, cả thãy mấy tên kia đều rút dao bên lưng ra sáng giới, Hà-hĩ-Văn mắt ngó Nguyễn-hửu-Thoại lườm lườm rồi hỏi rằng:
Ngươi là ai sao dám ban đêm lén vào sơn-động? ngươi hãy nói ngay, như thuận-tình thì ta sẻ dung cho, bằng nghịch ý ắc không ra khỏi động.
Nguyển-hửu-Thoại mỉn cười và đáp lại cách tề tỉnh rằng:
Ta không biết đều chi gọi rằng thuận-tình, mà củng chẳng biết đều chi gọi rằng nghịch ý. Ta tên Nguyển-hửu-Thoại là thuộc tướng của Đức Nguyển-Ánh, bị quân Tây-sơn dấy loạn, nên tôi, chúa, thất lạc vào đây, muốn kiếm chổ tạm trú ít ngày, đặng chờ cơ hội sẻ đem binh diệt trừ đãng giặc. Xảy thấy cô nương có tài xạ tiểng thì lòng rất ngợi khen, kế thấy con dơi bị cô nương bắn nhằm, rớt dựa bên ta, nên ta vội vả bắt giùm xuống đây, chớ không đều chi nghịch ý, xin anh em miễng tể.
Tên chánh đảng thấy Nguyển-hữu Thoại oai nghi vỏ dỏng, mà lời nói nghe có lý thú diệu dàng, thì ngẩm nghỉ một chút rồi hỏi rằng:
— Nguyển-hữu-Thoại nào, phãi là Nguyển-hữu-Thoại khi trước ta nghe có tùng chinh với quân Xiêm đó chăng?
Nguyển-hửu-Thoại thấy hõi liền đáp lại rằng:
— Chính là ta đây, mà sao Túc-hạ biết đặng sự ấy?
Hà-hỉ-Văn liền bước lại lấy lời cung đốn mà nói rằng:
— Thưa quan-nhơn nguyên khi trước, tôi ở xứ Annam buôn bán, sau qua Xiêm kiếm chuyện sanh nhai, bị quân Xiêm ngang ngược, ỹ thế hại người, tôi thấy vậy bất bình, bèn giết quân Xiêm, nên phãi ra đây trú ngụ, từ ấy đến nay đả đặng hai năm trời rồi, tôi tính cũng muốn trở về Annam làm ăn, nhưng chưa gặp dịp.
Nguyển-hữu-Thoại nghe nói thì đáp rằng: vậy thì Túc-hạ củng là người trượng phu nghỉa khí, và khi trước cũng có tá ngụ xứ ta, nay gặp lúc xứ ta nước loạn nhà nghiên. Sao không ra mà lập chút công lao, đặng giúp đở Đức Nguyển-Ánh là người biết chiêu hiền nạp sĩ, trọng dọng nhơn tài, và là người lá ngọc nhành vàng trong giòng chúa Nguyển, để ở chi chổ sơn lâm cùng cốc nầy, cho mai một cái danh giá của mình, đem một chí khí nam nhi, mà vùi theo rừng cây bụi cỏ, thế thì chẵng phải là oan uổng lắm sao?
Hà-hỉ-Văn gặc đầu và nói rằng:
— Nếu quan-nhơn có lòng tiến cữ, thì kẻ tiện sỉ nầy củng xin ra sức mọn mà giúp đở tay chơn cùng ngài, vậy bây giờ đây thuyền ngài ở đâu? xin quan-nhơn chỉ dẫn.
Nguyễn-hửu-Thoại nói:
— Các thuyền của ngài còn đậu dựa mé cù-lao bên kia, từ đây qua đó cách chừng mười dặm.
Hà-hỉ-Văn mừng rở và nói:
— Vậy thì sẳn dịp đây, xin quan-nhơn vui lòng ngồi lại dự cái tiệc mọn nầy cùng chúng tôi, đặng đàm đạo chơi, rồi sáng mai chúng tôi sẻ đến thuyền ngài, mà cầu xin ra mắt.
Nguyễn-hửu-Thoại thấy ý Hà-hỉ-Văn thật tình quyến luyến, thì vui sắc mặt mà đáp rằng:
— Nếu các anh em có lòng chiếu cố thì tôi đâu lẻ thối sút cáo từ.
Hà-hỉ-Văn nghe nói rất mừng liền bão dọn tiệc ra rồi mời hết thảy anh em, và bốn tên quân nhơn của Nguyễn-hửu-Thoại cũng đều vào dự tiệc.
Trong khi ăn uống, quạt gió hiu hiu thổi mát, đèn trăng vặt vặt sáng lòa, thanh thao bên kẹt dế ngâm, xao-xác ngoài gành sóng vỗ. Nguyển-hữu-Thoại ngó lên, thấy mấy con dơi đương bay phưỡng phất trên không, bèn day lại nói với cô An-Tôn và Hà-hỉ-Văn rằng:
— Xin lổi cô nương và Túc-hạ cho tôi mượn cây ná bắn con dơi trên kia một mũi thử coi, nói rồi bước lại lấy câu ná dương lên và ráp tên.
Cô An-Tôn và các anh em đều ngước mặt lên xem, thấy Nguyển-hửu-Thoại mắt nhắm con dơi đương bay rồi bắn lên một mủi, tức thì dơi ấy rớt ngay giửa sân, cã thảy những người trong tiệc đều la lên một tiếng khen hay, rồi vổ tay nghe kêu bốp bốp.
Cô An-Tôn và Hà-hỉ-Văn thấy vậy củng đều kinh dị, và khen cho Nguyển-hửu-Thoại có tài bắn giỏi phi thường, và mủi tên ấy thật là một mũi thần tiễng.
Khi mãng tiệc rồi, Hà-hỉ-Văn nói với Nguyễn hữu-Thoại rằng:
— Cảm phiền quan nhơn, xin quan-nhơn về bẩm lại cho Đức Nguyễn-Ánh hay rằng: ngày mai chúng tôi sẻ đến yết kiến ngài, và mời ngài lên sơn-động xem chơi cho biết.
Nguyễn-hửu-Thoại nói: tôi sẻ y lời, nói rồi từ giả Hà-hĩ-Văn, cô An-Tôn và các anh em, rồi trở về với mấy tên bộ hạ.
Khi Đức Nguyển-Ánh ở dưới thuyền, đương ngồi bàn nghị việc nước với Vương-Mẩu và phu nhơn xảy thấy Nguyễn-huỳnh-Đức bước vô, thì hõi rằng:
— Khanh đi thám dọ sơn đảo thế nào? có đều chi lạ chăng hãy nói cho nghe thữ.
Nguyển-huỳnh-Đức nói:
— Bẩm Điện-Hạ, tại phía nam cù lao nầy, cách đây chừng hai mươi dậm, có một xóm người Ma-Lai, tục kêu là người Chà Châu-giang ở đó, những người ấy toàn làm nghề phường chài đánh cá theo mé cù lao nầy mà thôi, chớ không có chi lạ.
Đức Nguyển-Ánh lại hỏi:
Quảng cáo
Cài đặt chế độ riêng tư
— Xóm người chà Ma-Lai ở đó nhiều ít thế nào?
— Bẩm Điện-Hạ, chúng nó ở đó ước chừng vài ba chục cái nhà lá nhỏ nhỏ mà thôi.
— Phía ấy có đồ thổ sãn chi chăng?
— Bẫm, người Ma-Lai có làm ruông nương, cũng đũ cho chúng nó dùng, còn khoai bấp thì chĩ trồng chút đĩnh, chớ không thấy thỗ sãn chi lạ. Nói vừa dứt lời, kế Nguyễn-hửu-Thoại về tới, rồi bước vô thuật các công việc gặp Hà-hĩ-Văn nơi sơn-động cho đức Nguyển-Ánh nghe, và nói Hà-hỉ-Văn đã chịu qui thuận theo ngài, sáng mai chúng nó sẻ đến yết kiến.
Đức Nguyển-Ánh nghe nói liền hõi rằng:
— Hà-hỉ-Văn là người tài lực thế nào? và phe đãng nó bao nhiêu?
— Bẫm Điện-Hạ, tôi xem Hà-hỉ-Văn cũng là một người nghĩa khí anh hùng, tánh tình hào hiệp, còn các thủ hạ phe đãng của va, độ chừng năm bãy chục người mà thôi.
Đức Nguyển-Ánh nghe rồi gặt đầu và nói rằng:
— Hai ngươi hôm nay đi dọ thám sơn đão cũng đã mệt nhọc, vậy hãy về thuyền mà nghỉ ngơi, mai sớm hai khanh và các tướng sĩ sẻ hội lại đâ, đặng cho Hà hĩ-Văn yết kiến.
Nguyển-huỳnh-Đức và Hửu-Thoại liền bái từ lui ra rồi trở về thuyền mình ngơi nghĩ.
Sáng ra đã thấy Hà-hĩ-Văn với hai tên Phó-đãng đến xin ra mắt, và mời đức Nguyển-Ánh lên sơn động đặng tạm bề trú ngụ.
Đức Nguyển-Ánh cũng lấy cách lể nghi tử tế mà đối đãi với Hà-hĩ-Văn, và khuyến dụ Hà-hỉ-Văn nhiều lời rất từ nghiêm lý chánh.
Chiều bữa ấy, đức Nguyển-Ánh truyền cho các tướng kéo neo trương bườm chạy theo mé cù-lao vòng qua phía bắc, rồi đem các thuyền vào bến thủy của Hà-hĩ-Văn mà đình trú, còn ngài và các tướng sỉ cã thãy hơn hai trăm người, súng ống gươm giáo chỉnh tề, kéo nhau đều lên sơn động.
Hà-hỉ-Văn với các thủ hạ hơn năm chục người đều ra nghinh tiếp, rồi dắc ngài và các tướng sỉ đi theo đường núi tấn lên.
Khi tới cửa sơn động, thì thấy một hang đá lớn bằng một cái nhà, trong hang ấy có một đường thông hành ra phía sau, đường ấy tối đen như mực, bổng thấy hai tên thủ hạ cũa Hà-hỉ-Văn mỗi đứa cầm một cây đèn chai đi trước dẩn đường.
Đức Nguyển-Ánh và các tướng đi quanh lộn một hồi, khi ra khỏi hang ấy, thấy một chổ đất bằng rộng rãi, độ chừng bốn năm mẩu, ngó ra bốn phía đều là non núi bao dăng, thật là một chổ tuấn lãnh cao sơn, thâm lâm cùng cốc, Hà-hĩ-Văn chiếm cứ chổ nầy, chẵng khác chi Tống-Giang chiếm cứ Lương-sơn-Bạc thuở trước vậy.
Quảng cáo
IFrame
Cài đặt chế độ riêng tư
Giữa khoãn đất bằng ấy, Hà-hĩ-Văn có cất môt nhà rộng rãi, gọi là Tụ-nghĩa-Đường, và hai bên có hai cái trại; gọi là Đông-trại với Tây-trại, còn chung quanh đều có hang nhỏ nhõ theo chơn núi, để cho các bộ hạ trú ngụ.
Hà-hĩ-Văn bèn mời đức Nguyển-Ánh và các tướng vào nhà tiếp đải trà nước tử tế, rồi để nhà ấy cho ngài và cung quyến của ngài tạm trú.
HỒI THỨ SÁU
Đức Nguyển-Ánh giã dạng thám binh cơ.
Nguyễn-huỳnh-Đức ra tay trừ đãng nghịch.
Đây xin nhắc lại khi Nguyển-Huệ là em của Nguyển-Nhạc đem binh rược theo đức Nguyển-Ánh đến Càmau, và truy tầm tứ hướng mà bắt không đặng; kế nghe đức Nguyển-Ánh đã cởi thuyền vượt biển, trốn qua xứ khác lánh thân, thì chắc rằng: ngài đã thế yếu sức cùng, không còn dám léo hánh xứ nầy mà làm gì nửa đặng, liền đem binh trỡ về hiệp với anh là Nguyển Nhạc, rồi để Tổng-đốc-Châu với một tên Hổ-tướng Hản và Tư-khấu-Oai, ở lại trấn thủ Saigon, còn các trấn khác thì sắp đặt quan binh gìn giử, rồi hai anh em kéo nhau trở về Qui-nhơn là chổ kinh-đô của Nguyển-Nhạc mới kinh dinh sáng tạo.
Lúc bấy giờ Đổ-thanh-Nhơn[1] là một viên kiện tướng của đức Nguyển-Ánh, có lập một đạo binh hơn ba ngàn, kêu là quân Đông-sơn, chủ ý để đối với quân Tây-sơn của Nguyển-Nhạc.
Khi đức Nguyển-Ánh chạy ra cù lao Thổ-châu tỵ nạn, thì Đổ-thanh-Nhơn ỡ lại, rồi trở ra Bình-thuận mộ thêm binh sĩ, và tích thảo đồn lương, đặng chờ ngày khỡi chiến cùng quân Tây-sơn một trận.
Xãy nghe anh em Nguyển-Nhạc xuống thuyền trở về Qui-nhơn, liền kéo binh tấn vô và hiệp với các tướng đức Nguyển-Ánh là Nguyển-văn-Hoằng, Tống phước-Khuôn, và Tống-phước-Lương, mà chấn chỉnh binh thế.
Còn Châu-văn-Tiếp với Lê-văn-Quân cũng lo quần tụ các đạo binh nghỉa dỏng ở nơi Ba giống, về hạt Mỷtho. Rồi ngày đêm tập luyện quân sỉ, và sắm sữa khí giới chiến thuyền, đặng chờ ngày thâu phục Saigon và các xứ trong Nam-kỳ nầy lại.
Bửa nọ đức Nguyển-Ánh đương ở tại cù lao Thổ-châu nghe tin anh em Nguyển-Nhạc và Nguyển-Huệ trỡ về Qui-nhơn, thì hội chư tướng lại mà nói rằng:
Nay ta muốn trở vào Cần-thơ đặng do thám binh tình quân giặc thể nào, và sắp đặt tướng sỉ các nơi cho sẵn sàng, ngỏ hầu thừa dịp nầy mà diệt trừ kẽ nghịch.
Các tướng nghe nói thì cang rằng: Điện-hạ là một người thân trọng ngàn vàng, không nên vào chổ hiễm nguy hổ huyệt, nếu quân giặc tri tình, ắc đem binh tập nả, xin Điện hả chẳng nên khinh suất ra đi, vì quân giặc còn đương dọ thăm tìm kiếm Điện-hạ.
Đức Nguyễn-Ánh mỉn cười và đáp rằng:
Nếu muốn lo một sự nghiệp vỉ đại anh hùng, thì phải ra sức mông trần mạo hiễm[2] mới được.
Vậy Nguyễn-huỳnh-Đức và Nguyễn-hữu-Thoại hãy đi với ta, không sao phòng ngại; nói rồi liền truyền cho quân nhơn sắm sữa một chiếc thuyền, rồi ba chúa tôi giã dạng thường nhơn và kéo nhau xuống thuyền vượt biễn, chạy vào Rạch-giá.
Khi lên tới Cần-thơ, Đức Nguyển-Ánh bèn sai Nguyển-hửu-Thoại đi thông tin cho Châu-văn-Tiếp hay, và chiêu mộ các đạo binh nghỉa-dỏng trong các xứ, còn ngài với Nguyển-huỳnh-Đức ghé vào khách quán uống trà, đặng thăm nghe tin tức quân giặc luôn thể.
Xảy thấy một người cao lớn vậm vỡ, đầu đội một cái nón ngựa, hai quai thắc bằng lụa xanh, bỏ xuống lòng thòng trước ngực, trong mình mặc một cái áo chẹt cổ giữa, ngoài choàn một cái áo quàng đông màu đen, trán nổi mấy đường gân lăng nhăn, râu rìa mọc ra hai bên lún phún, bộ tướng hung hăn, xem ra như một đứa vỏ-phu cường-bạo, đi với năm sáu tên bộ hạ, ngoài cửa bước vô, lại ngồi nơi bàn gần bên Đức Nguyển-Ánh, và Nguyển-huỳnh-Đức.
Người nói trên đây là một tên đầu dọc trong bọn côn đồ, quần tụ nơi chốn thảo mảng sơn lâm, ỷ thế nghinh ngang, cứ việc cướp làng phá xóm, hể ghét ai thì kiếm chuyện đâm trâu thuốc chó, oán ai thì sanh sự đoạt của đốt nhà, vì vậy trong xứ đó không ai dám làm chi hắn đặng.
Khi chúng nó ráp lại ngồi nơi bàn rồi kêu chú quán bảo đem rượu thịt ăn uống chuyện trò.
Còn Đức Nguyễn-Ánh với Nguyễn-huỳnh-Đức ngồi trong lẳng lặng hàm thinh, đễ lóng tai nghe chuyện.
Bổng nghe một người trong bọn ấy nói rằng:
— Đại-ca, có nghe nói hai anh em Nguyển-Nhạc đã trở về Qui-Nhơn rồi không?
Tên đầu đãng nghe hõi thì nói rằng:
— Ừ, anh em Nguyển-Nhạc đã bắt vua Duệ-Tôn mà giết rồi, trong nầy bây giờ còn ai dám rục rịch đều chi, nên anh em họ trở về Qui-Nhơn, các xứ đả yên rồi, có gì mà lo nửa.
Một người kia nói rằng:
— Hảy còn bọn Nguyển-Ánh bắt chưa đặng, đại ca quên sao?
Tên đầu đãng bưng ly rượu ực một hơi, rồi cười hã hã mà nói rằng:
— Bọn Nguyển-Ánh đả trốn mất rồi còn gì mà nói;
Đức Nguyển-Anh ngồi phía trong nghe nói, thì lấy mắt nháy Nguyển-huỳnh-Đức một cái, dường như bảo Huỳnh-Đức lẵng lặng mà nghe, kế một tên kia ngó tên đầu đãng mà nói rằng:
— Đại ca nói vậy, chớ tôi nghe nói bọn Nguyển-Ánh cũng còn nhiều phe đãng, tảng lạc các nơi, nếu Nguyển-Nhạc không để ý đề phòng, thì e cho bọn Nguyển-Ánh có ngày sẽ đem binh trỡ về mà phục lại.
Tên đầu đãng bưng ly rượu uống một hơi nữa rồi nói vính cướng rằng:
Mốc xì, Nguyển-Ánh là bọn con nít, miệng còn hơi sữa lo trốn cho khõi chết là may, chớ tài gì chống cự với anh em Nguyển-Nhạc cho nổi.
Nguyển-huỳnh-Đức nghe nói, thì hơi giận tràn hông, phừng phừng sắc mặt, rồi ngó tên ấy lườm lườm mà nói rằng:
— Tên kia, mi là một đứa lục lâm thảo giá, biết chi đến việc quốc sự mà dám nghị luận chuyện thành bại của các đấng anh hùng?
Tên kia, đương ăn ăn uống uống, nói nói cười cười, thình lình nghe Nguyển-huỳnh-Đức kêu và nói mấy lời như lữa đốt vào gan, cây phan vào óc, liền đứng dậy xốc tới trước mặt Huỳnh-Đức mà nói cách xẳng xớm rằng:
— Mầy là thằng quái nào mà dám lớn lối khi thị tới tao, mầy gặp tay tao thì phần số mầy phãi hết; nói rồi giang tay nhắm ngày mặt Huỳnh-Đức đánh tới một cái rất mạnh.
Huỳnh Đức liền né qua lẹ như nháy mắt, làm cho tên ấy đánh xuống hụt tay không trúng, rồi đứng cách tề chỉnh mà nói với tên ấy rằng:
— Mi đánh vậy dỡ quá không trúng ta đâu, ta cho mi đánh một cái nữa đi, mà mi ráng đánh sao cho trúng ta, thì mi mới giỏi.
Tên cường bạo đánh trật một cái, đã giận đỏ mặt tía tai, lại nghe Huỳnh-Đức nói khích đố thêm, thì càng tím ruột bầm gan, liền chuyển hết khí lực bình sanh, bao nhiêu gân cốt trong mình nỗi lên, quyết đánh Huỳnh-Đức một cái cho tiêu hồn tuyệt mạng.
Tức thì lên tay nhắm ngay bàng tan đánh ngang một cái rất mạnh.
Huỳnh-Đức liền thụt đầu xuống lẹ làn, rồi day bắt cánh tay tên ấy, vặn trái ra sau, nghe kêu cái rắc, và đánh luôn một thoi vào hông, tên ấy la lên một tiếng châu ôi, thì té nhào xuống đất cái thịch.
Mấy tên kia thấy vậy liền nhảy lại tiếp đánh nhầu Huỳnh-Đức, nhưng Huỳnh-Đức sắc mặt tề chỉnh như thường, và đánh luôn cả mấy đứa kia, đứa thì xách ghế, đứa thì rinh bàn, quyết giết chết Huỳnh-Đưc mà báo thù cái nhục ấy cho chủ.
Huỳnh-Đức bèn nổi trận lôi đình, bắt ghế quăng ra, hươi quyền đánh lại, đánh một hồi, chúng nó rạp hết, đứa thì bị lọi cẳng u đầu, đứa thì sếu hàm sặc máu, rồi cã thảy bò càn dưới đất năn nỉ xin dung.
Huỳnh-Đức thấy vậy nhơn tay và nghiêm sắc mặt mà nói rằng.
Quân bây là một lủ hèn mạt tiểu nhơn, đánh bây thêm nhơ tay, song bây phải bỏ thói ngang tàn bằng không thì quân bây chẵng còn tánh mạng.
Nguyên Nguyển-huỳnh-Đức[3] là một người vỏ nghệ cao cường, mà lại khí lực mạnh mẽ, biết nhiều miếng côn quyền độc thũ, nên cứ mấy chổ nghiệt đánh vô, tức thì liệc cốt bại gân, dẫu cho mạnh dạng thế nào, cũng phải nhào liền xuống đất, không thế gì vùng vẫy dậy đặng.
Tên đầu đãng bọn ấy, bị Huỳnh-Đức vặn trái cánh tay ra sau lưng, đau đớn vô cùng, ngồi dưới đất vừa rên vừa nói:
— Thuở nay ta đánh chúng như đánh con, trong xứ nầy ai ai cũng sợ ta như sợ cọp, chẵng dè ngày nay bị tay độc thủ nầy làm cho bọn ta phải nhục nhơ xấu hổ.
Huỳnh-Đức bước tới trước mặt tên ấy nghiêm nghị mà nói rằng:
Thằng khốn nạn kia, ta nói cho mi biết: ta nhơn tay cho mi, nếu ta dùng miếng độc thủ, thì bây giờ bọn mi không còn ngồi đây mà thấy cỏi dương giang nầy đặng.
Đức Nguyển-Ánh thấy vậy liền bước lại vỗ vai Nguyển-huỳnh-Đức một cái và nói rằng:
Ta khen cho hiền khanh vỏ dõng hơn người, côn quyền đủ sức, nhưng chúng ta là người trượng phu quân tử, phải lấy lòng đại độ mà dung thứ cho đứa đệ tiện tiểu nhơn, hiền khanh lấy một oai quyền mạnh mẽ mà trừng trị chúng nó đủ rồi, vậy thì chúng ta phải sắp sửa đăng trình, không cần gì luận biện hơn thua với bọn vỏ phu cường bạo.
Nguyễn-huỳnh-Đức nói: trong thế gian nầy thường thường, những bọn gà sành chó đất, vô loại côn đồ, đồ đó là đồ đả ăn quen cái thói đánh phách trong óc chúng nó thuở nay, thì phải dụng quyền lực mà trị nó mới kiên, chớ lấy nhơn nghĩa phải chăng mà nói, chúng nó không kể.
Kế đó Đức Nguyễn-Ánh bảo Huỳnh-Đức trả tiền cho chủ tiệm rồi hai người dắc nhau ra đi, còn bọn nó ở đó rên la, đứa thì quẹo tay, đứa thì lọi cẵng, rồi lần lần cũng kéo nhau đi hết.
Tên khách lật đật chạy lại cóm róm nói với tên đầu đãng rằng:
— Cậu ôi! mấy cậu đánh lộn, đập bể đồ hết, hóa nghèo không tiền mua lại, cậu làm ơn cho hóa tiền, đặng hóa mua đồ khác, hóa bán.
Tên đầu đãng nghe nói liền trợn mắt tròn vo như hai cục đạn, và nói lớn rằng:
— Mi đòi tiền tao à, tao cho mi cái cùi tay của tao đây nè, chớ không tiền gì hết, nói rồi đưa cùi tay trên mặt chú khách một cái, chú khách hoản kinh ngã ngửa ra, rồi lấy tay rờ rờ sống mũi coi có chãy máu không? và cười xì xà mà nói rằng:
— Cậu cho hóa chút đĩnh không hà gì, đặng hóa mua đồ, kẻo mấy cậu đập bể hết trọi.
Tên đầu đãng ngó nghinh một cái rồi nói:
— Mi còn nói nữa, tao cho một mũi lữa lên đây, cháy tiêu hết cái tiệm mi, thì mi phải về Tàu ăn cháo; nói rồi kéo nhau đi mất.
Tội nghiệp cho tên khách điếm nầy, sớm mai vừa mới mở hàng đầu tay, rủi gặp một trận giặc con, làm cho bàn ghế ngã lăng, đồ ăn vật uống đổ ra lai láng, nào là chén dĩa, nào là nhạo ly, nào ạp-mì, nào xiếu-mại, đều bể ngớu như tương, văng ra trắng giã dưới đất, mà bọn nó không trả một đồng, lại còn chữi thề là khác nửa.
Lúc bấy giờ vợ tên khách đi chợ về, thấy đồ đạt tang hoang, ghế bàn đổ bể hết cả, không biết cớ gì, ngó lại thấy chú khách đương ngồi khoanh tay xo rỏ trên ghế, cứ chắc lưởi, lắc đầu, mặt mày nhăn nhó, xem ra không bằng hai ngón tay tréo, thì hỏi rằng:
— Làm sao đồ đạt bể hết như vậy?
Tên khách nghe vợ hỏi thì há một tiếng rồi nói:
— Mấy người đến ăn rồi lánh lộn chớ gì.
— Đánh lộn đập bể đồ hết mà lứ không bắt thường người ta sao?
— Há, Hóa không bắt thường, mà mấy thằng đó còn chửi hóa, nếu hóa bắt thường, nó lánh hóa chết, bây giờ hóa không còn sống mà ăn câm.
Người vợ thấy chú khách nói vậy, thì để rồ đồ ăn uống đất cái thịch, rồi hứ một cái mà nói rằng:
— Lứ cứ lo ăn cơm, ăn cơm hoài, Lứ dại quá, lứ sợ nó đánh chết lứ sao?
— Há, làm sao khổng sợ, con chó còn muốn sống ăn cất, làm sao hóa không muốn sống ăn câm, nó dữ quá, bây giờ nó đập bễ đồ đạt chén dĩa không hà gì, nếu chọc nó giận, nó đốt hết tiệm đi, chừng đó hóa với lứ phải ở truồng, không còn một cái quần mà bận làm sao không sợ.
Người vợ nghe nói thì dững dưng một hồi, rồi day ngó lại chổ đồ trầu, thì la lên rằng:
— Trời ôi! lứ để người ta đánh lộn làm cho ông bình vôi của hóa bễ miệng rồi còn gì?
Chú khách nghe vợ nói liền liếc cặp mắt trắng vờ ngó một cái rồi lấy tay chỉ trên bàn thờ và nói:
— Há, léo mẹ, lứ, lứ không thấy trên bàn thờ kia à, ông Bổn của hóa còn phải nhào đầu; ông bình vôi cũa lứ làm sao không bễ miệng?
Chú thích
▲Đổ-thanh-Nhơn quê quán ở Thanh-hóa, khi Tây-sơn dấy loạn, Đổ-thanh Nhơn phò chúa Nguyễn vua Duệ-Tôn vào Gia-đinh, sau Duệ Tôn bị Tây sơn giết chết, Đổ thanh Nhơn đầu đức Nguyễn Ánh, lập đạo binh gọi là Đông-sơn, theo lời của Aubaret nói trong Description de Gia đinh, thì đạo binh Đông sơn nầy đều dùng trường thương, và mặc y phục vằn vện như cọp.
▲Mông trân mạo hiễm, là phải chịu trần ai khỗ sở mà vào cho nguy hiem.
▲Nguyển-huỳnh-Đức quê quán ở Tây-an, Huyện Kiến Hưng nguyên Ngài là họ Huỳnh tên công Đức, vua Gia-Long thấy ngài trung thành vỏ dỏng, nên cho ngài Họ Nguyen đặng tỏ là người một họ với vua, vì vậy nên kêu là Nguyễn-huỳnh-Đức, bây giờ lăng của ngài còn ở tại Tân-an tước cua ngài là Bình-Tây thượng tướng quân. (Général commandant de l’aunée de l’ail droite, Pacificateur de l’Ouest.) Và có làm Tong trấn Bắc-kỳ và, Nam-kỳ.
HỒI THỨ BẢY
Trấn Ba-giồng, Châu-văn-Tiếp chỉnh đốn quân lương;
Vào Giađịnh, Đổ-thanh-Nhơn thi hành mật ước
Đây nhắc lại Châu-văn-Tiếp lúc bây giờ ỡ tại Ba-giồng đương lo chiêu mộ binh sỉ, bữa nọ nói với Lê-văn-Quân rằng:
— Nay binh lương thuyền pháo của ta đả cụ bị sẳn sàng, vậy hiền đệ phải lập tức qua cù-lao Thổ-châu rước Điện-Hạ về đặng định ngày cữ binh khởi chiến, nói vừa dứt lời, bổng thấy một tên quân nhơn vào báo rằng: có một người đương đứng ngoài ngỏ, xin vào ra mắt.
Châu-văn-Tiếp[1] và Lê-văn-Quân[2] lật đật bước ra, thấy người ấy là Nguyển-Hữu-Thoại thì mừng rở dắc vô thính đường và hỏi rằng:
— Điện-Hạ và cung quyến của ngài đều được bình yên vô dạng chăng?
Nguyển-hữu-Thoại nói: Ngài và cung quyến ngài cả thảy đều bình yên.
Châu-văn-Tiếp hỏi: Nay tướng quân đến đây có việc chi cẫn cấp chăng? Xin nói cho tôi rõ chút.
Nguyển-hữu-Thoại nói: Tôi vâng lịnh Điện-Hạ đến đây thông tin cho tướng quân hay rằng: Hiện thời bây giờ Điện-Hạ đả trở lại Cần-thơ rồi, ngài định trong mười lâm ngày nữa, thì các binh sỉ ở cù-lao Thổ-châu sẻ về hiệp với các đạo binh nghỉa dỏng ở Hà-tiên, Châu-đốc, đặng tấn lên thâu phục Long-xuyên và các miền kế cận.
Vậy tướng quân phải chỉnh đốn binh sỉ sẳn sàng và phải đem một đội chiến thuyền đến Long-xuyên, đặng ngài độ binh qua địa phân Sa-đéc, rồi sẽ trực chỉ xuống Long-hồ, còn tướng quân thì phãi đem binh đánh lấy Mỷ-tho, rồi hiệp binh cùng ngài mà tấn vào Gia-định, và ngài bão Lê-văn-Quân phãi lập tức đem mật chỉ truyền cho Đổ-thanh-Nhơn rằng: phãi đem một đạo binh đánh lấy Biên-hòa, và một đạo bọc theo ngã Thủ-dầu-Một mà kéo xuống, đặng hội binh cùng ngài mà đánh lấy Gia-định.
Châu-văn Tiếp nghe Nguyển-hửu-Thoại nói rồi, thì liền bão Lê-văn-Quân thằng ngựa gát yên, đi với bốn tên quân nhơn ra Bình-Thuận, truyền cho Đổ-thanh-Nhơn phải y lịnh thi hành lập tức, rồi day lại nói với Nguyển-hữu-Thoại rằng:
— Vậy xin tướng quân trở về thông tin cho Điện-Hạ hay rằng: tôi đả chỉnh đốn quân sỉ sẳn sàng, và sẽ y kỳ, đem binh thuyền đến Long-Xuyên mà tiếp giá.
Nguyển-hữu-Thoại hõi: Hiện bây giờ tướng quân có đặng binh thuyền bao nhiêu?
Châu-văn-Tiếp nói: Hiện bây giờ tôi có ba ngàn quân nghĩa dõng, và ba chục chiến thuyền nhõ đễ đi trong sông còn binh của Điện-Hạ bây giờ đặng bao nhiêu, xin tướng quân nói cho tôi rỏ.
Nguyển-hữu-Thoại nói: Hiện bây giờ đã có một ngàn binh bộ ở Cà-mau, và các đạo binh nghĩa dõng ở Hà-tiên và Rạch-giá cũng được một ngàn nữa, còn năm trăm binh thủy đương ỡ cù-lao Thổ-Châu, cả thãy độ chừng hai ngàn năm trăm binh bộ và binh thủy. Nói rồi liền từ giã Châu-văn-Tiếp đặng trỡ về bẩm lại cho đức Nguyển-Ánh rõ.
Đây nói về đạo binh cũa Đổ-thanh-Nhơn ở ngoài Bình-Thuận kéo vô đi ngả đường rừng, bổng gặp Lê-văn-Quân tại Mô-Xài. Lê-văn-Quân bèn trao mật thơ cũa đức Nguyển Ánh cho Đổ-thanh-Nhơn xem và nói rằng:
Điện-Hạ bây giờ đương chiêu tập mấy đạo binh nghĩa-dõng ỡ Cần-thơ, bảo tôi thông tin cho tướng quân hay, khắc kỳ nội một tháng, thì phải hội binh tại Saigon mà diệt trừ quân giặc.
Đổ-thanh-Nhơn xem mật thơ rồi mỉn cười mà nói rằng:
— Ngươi hãy về bẫm lại cho Điện-Hạ hay rằng: xin ngài chớ lo, ta sẻ lấy thành Gia-định lại trong nháy mắt, và chém đầu tướng giặc là Tư-khấu-Oai trước khi ngài tới Saigon.
Lê-văn-Quân nghe Đỗ-thanh-Nhơn nói chẩm hẩm thì nghĩ thằm rằng: Tư-khấu-Oai là một tên kiện tướng cũa Tây-sơn, đánh giặc đã nỗi danh, mà sao Đổ-thanh-Nhơn dám đại ngôn quyết đoán như vậy.
Kế nghe Đổ-thanh-Nhơn day lại nói với một tướng kia là Đỗ-Bãng và bão rằng:
— Ngươi hãy qua đồng-môn sắp đặt năm chục chiến-thuyền và sáu trăm thủy binh cho sẳn. Hạn trong hai mươi ngày nửa, phải ra đánh lấy đồn Tâm-kỳ, và ngăn đón quân giặc, đừng cho chúng nó ra khõi sông Nhà-Bè địa phận.
Tướng ấy vâng lịnh lui ra, còn Đổ-thanh-Nhơn truyền cho các tướng kia sắm sữa kéo binh tấn tới.
Chú thích
▲Theo sử ta và histoire d’annam của Charles maybon nói: Châu-văn-Tiếp quê quán ở Phú-yên, sau nghe Tây-sơn dấy loạn, đem binh ra giúp chúa Nguyễn, vua Duệ-Tôn, khi Duệ-Tôn bị Tây-sơn giết, thì Châu-văn-Tiếp ỡ Trà-lang-Sơn đem binh vào Giađịnh giúp Đức Nguyễn-Ánh
▲Lê-văn-Quân là người ở Định-Tường (Mỷ-tho) khi ban sơ theo Đổ-thanh-Nhơn, sau lại về giúp Châu-văn-Tiếp mà làm bộ hạ, theo lời trong Giađịnh thông chí, (description de Giađịnh par Aubaret) thì Lê-văn-Quân là người có tánh nóng nảy, và căng cường, sau tự tử trong năm 1791.
Hồi thứ tám
Đức Nguyễn-Ánh thâu phục Long-giang;
Đổ-thanh-Nhơn đoạt hồi Gia-định.
Đây nói về tướng Tây-sơn là Tổng-đốc-Châu trấn thủ Saigon, bửa nọ đương ngồi nơi thính đường, xảy có quan Tri-Phủ ỡ Long-Xuyên bước vào ra mắt.
Tổng-đốc-Châu thấy thì hõi rằng:
— Quan Tri-Phủ về đây có việc chi?
— Bẫm quan Tổng-đốc, có việc rất cẫn cấp, nên tôi phải bổn thân, lật đật đi trọn một ngày một đêm đặng về đây báo tin cho quan lớn rõ.
Tổng-đốc-Châu nghe nói nheo mày ngó sững Tri-Phũ và vội vã hõi rằng:
— Có việc chi cẫn cấp, quan Phũ hãy nói mau cho tao nghe.
— Bẫm quan lớn, hôm qua tôi mới bắt đặng một cái mật thơ cũa bọn Nguyển-Ánh.
Tổng-đốc-Châu nghe nói tới bọn Nguyễn-Ánh, thì có sắc hãi kinh, rồi hỏi tiếp rằng:
— Quan Phũ nói rằng có bắt đặng mật thơ của bọn Nguyển-Ánh, mà bọn Nguyển-Ánh là ai?
— Bẫm quan lớn, bọn Nguyển-Ánh là Nguyển-hửu-Thoại.
— Tỗng-đốc-Châu nghe nói thì có ý trầm tư nghĩ nghị một chút rồi hõi rằng:
— Nguyển-hữu-Thoại gởi mật thơ cho ai?
Quan Tri-Phũ ngó ra hai bên, coi chẳng có ai rồi day lại nói rằng:
— Bẫm quan lớn, Nguyển-hửu-Thoại gởi mật thơ cho quan Vệ-húy là Đặng-tấn-Hưng ở Long-Xuyên.
Tổng-đốc-Châu nghe nói như sét nổ bên tai, đất bằng dậy sóng, liền nheo mày trợn mắt, chờn vờn đứng dậy và hỏi rằng:
— Vệ-húy Đặng-tấn-Hưng là tướng của nhà Tây-sơn ta, có lẻ nào Nguyển-hửu-Thoại lại gởi mật thơ nói về chuyện gì?
Quan Tri-Phủ liền thò tay lấy thơ trong áo trao ra, và xin Tổng-đốc xem thơ thì rõ.
Tổng-đốc-Châu lật đật lấy thơ dở xem, trong thơ ấy nói như vầy:
« Tôi là Nguyển-hửu-Thoại tướng của đức Nguyễn Ánh, kính gởi thơ nầy cho quan Vệ-Húy rõ. Chúa tôi là đức Nguyển-Ánh nhứt định nội ba ngày nữa, đem binh vào Rạch-giá, rồi tấn lên thau đoạt Long-Xuyên, vậy xin Vệ-Húy hảy sắp đặt binh cơ đặng giết quân nghịch Tây-sơn mà làm nội ứng.
Đức Nguyển-Ánh một lòng tin cậy nơi quan Vệ-Húy, mà phú thác việc nầy, xin hảy y lịnh thi hành, chẳng nên sơ thất. »
Ký tên NGUYỂN-HỬU-THOẠI kĩnh cáo.
Tổng-đốc-Châu xem thơ rồi, thấy nói nội ba ngày nữa, Nguyển-Ánh độ binh vào Rạch-giá, thì mặt liền thất sắc, trán rịn mồ hôi, tay cầm thơ mà rung rung như người bị chứng cãm hàng, rồi nghĩ nghị một chút day lại hỏi quan Tri phủ rằng:
Quảng cáo
IFrame
Cài đặt chế độ riêng tư
— Theo thơ nầy thì nội ba ngày nữa, Nguyển-Ánh sẽ độ binh vào Rạch-giá phãi chăng?
— Bẩm quan lớn phải vậy.
— Mà quan Phủ bắt thơ nầy tại đâu?
— Bẫm tôi bắt đặng thơ ấy tại nhà vệ-húy Đặng-tấn-Hưng, trong khi va đi cứu hỏa.
Tổng-đốc-Châu lấy khăn lau mồ hôi trên trán, mà sắc mặt nhàu nhò, liền kêu đội Hầu một tiếng; bổng thấy tên đội Hầu hé cửa bước vô cúi đầu.
Tổng-đốc-Châu ngó lại và bão tên đội Hầu rằng:
— Người hãy đi vời quan Tư-khấu-Oai và quan Tuần-Phủ-Đạt đến đây lập tức.
Tên đội Hầu thưa vâng, rồi cúi đầu lật đật bước ra, một chút đã thấy quan Tư-khấu-Oai và Tuần-phũ-Đạt, hai người ngoài cửa bước vô.
Tổng-đốc-Châu liền thạnh nộ, ngó nghinh Tuần-phủ-Đạt mà hỏi rằng:
— Ngươi có nghe bọn Nguyển-Ánh ở đâu chăng?
Tuần-phủ-Đạt nghe hỏi, thì ra vẻ lính quính và khép nép bẩm rằng:
— Bẩm quan lớn, tôi không nghe.
Tổng đốc-Châu nghiêm sắc mặt mà nói xẵng tiếng rằng:
— Ngươi lãnh một trách nhậm về việc Tuần-phòng tế soát trong các xứ, mà người không nghe biết chi hết, vậy thì phận sự ngươi để làm gì? nội ba ngày nữa, Nguyễn-Ánh sẻ độ binh vào Rạch-giá, mà ngươi không nghe, vậy để chừng nào Nguyển-Ánh lên tới Saigon, đem binh lấy thành Giađịnh nầy, chừng ấy ngươi mới báo tin cho ta biết phải chăng? Ngươi phãi biết rằng: nếu thành Saigon nầy mất, thì chẳng nhửng cái quyền lợi gia sảng của ta mất mà thôi, lại cái quyền lợi gia sảng của ngươi và của ai nấy củng đều tiêu điều tận tuyệt hết cã, sao người không lo tuần phòng tế sát cho kỷ cang, để nước tới trôn thì làm gì cho kịp; nói rồi lấy cái mật thơ đọc cho Tư-khấu-Oai và Tuần-phũ-Đạt nghe. Tư-khấu-Oai nghe rồi, rất nên kinh ngạc, còn Tuần-phủ-Đạt mặt liền biến sắc, và đứng ngơ ngẩn sững sờ rồi rè rụt hỏi rằng:
— Bẫm quan Tổng-đốc, tôi có sai người đi tuần thám các nơi, nhưng việc nầy là việc rất bí mật, nên tôi không hay, vậy chẵng biết thơ ấy ở đâu, mà quan lớn bắt đặng?
Tỗng đốc-Châu, mặt còn phừng phừng sắc giận, liền lấy tay chỉ quan Tri-phũ mà nói rằng:
— Thơ ấy của quan Phủ Long-xuyên nầy bắt đặng hôm qua, mới đến báo tin cho ta đó; nói rồi day lại ngó quan Tư-khấu-Oai và nói tiếp rằng:
— Nay vệ-húy Đặng-tấn-Hưng đã đem lòng phãn nghịch, nhập theo phe đãng Nguyển-Ánh, vậy thì Tư-khấu phải lập tức sai người đem binh tiếp cứu Long-xuyên và bắt Đặng-tấn-Hưng mà trị tội, nếu trể thì bọn Nguyễn-Ánh tấn vào Long-xuyên, ắc sanh đại biến.
Quảng cáo
Cài đặt chế độ riêng tư
Tư khấu-Oai lãnh mạng, liền trở về dinh, rồi sai hai tướng là Phạm-Ngạn với Ngô-Lăng đem hai ngàn binh ngày đêm tốc xuống Long-xuyên tiếp cứu.
Tỗng-đốc-Châu day lại hỏi quan Tri-phũ rằng:
Quan Phủ có rỏ binh mã ở đâu mà Nguyển-Ánh độ vào Rạch-giá rất lẹ như vậy?
— Bẩm quan Tổng-đốc, theo ý tôi tưỡng Ánh quần tự quân sỉ tại mấy cù lao ngoài biển, và các thuộc tướng cũa Nguyển-Ánh còn tàng ẫn các nơi để làm tiếp ứng, nếu Nguyển-Ánh độ binh lên bờ đánh lấy Long-xuyên được rồi, tức nhiên kéo binh thẵng lên Saigon, chừng ấy chúng ta khó bề ngăn cãn lại được.
Tỗng-đốc-Châu nói: vậy thì quan Phũ phải lập tức trỡ về Long-xuyên, hiệp với đạo binh Phạm-Ngạn mà bắt vệ húy Đặng-tấn-Hưng, nếu trì hưỡn ắc sanh đại biến.
Quan Phũ thưa vâng lui ra, rồi trỡ về Long-xuyên tức tốc.
Nguyên tên vệ húy Đặng-tấn-Hưng nầy, tuy ra làm tướng Tây-sơn, nhưng mà lòng không thiệt phục, nên muốn theo phe đãng của Đức Nguyển-Ánh, khi đặng mật thơ cũa Nguyển-hửu-Thoại gỡi cho, dỡ ra xem rồi, vừa để trên bàn, bỗng có việc hỏa hoạn thình lình phát lên ở gần binh trại.
Đặng-tấn-Hưng hoản kinh lật đật chạy đi đốc binh cứu hõa, không kịp cất thơ, kế đó quan Tri phủ Long-xuyên đi tới, lúc ấy trong nhà không ai, lại thấy cái thơ đễ trên bàn, liền dỡ ra xem, thấy nói Nguyển-Ánh nội ba ngày nửa thì độ binh vào Rạch-giá, rồi tấn lên thâu đoạt Long-xuyên, thì thất kinh, nên lập tức tuốt về Saigon đặng thông báo cho Tỗng-đốc-Châu rõ.
Còn Đặng-tấn-Hưng khi đốc quân chữa lửa xong rồi, lật đật về nhà, thấy mất phong thơ, kiếm tìm hết sức mà không đặng, thì nghỉ thầm rằng: nếu thơ nầy bị quân Tây-sơn bắt đặng, chắc phải bại lộ cơ mưu, vậy thì ta phải lo liệu thế nào, nếu trì huỡn sẽ bị chúng nó sát hại.
Kế qua hôm sau nghe đạo binh của Đức Nguyển-Ánh đã kéo tới Long-Xuyên, liền đem bốn trăm binh ra xin hàng đầu, và nghinh tiếp.
Đức Nguyển-Ánh thâu phục đặng Long-Xuyên, chẳng tốn một tên quân, không hao một mũi đạn, kế nghe Châu-văn-Tiếp đã sai quân đem ba chục chiến thuyền chực tại Long-Xuyên, thì ngài truyền lịch cho tướng sĩ sắm sửa độ binh qua sông, rồi kéo tới Sadec, bổng thấy một toán quân Tây-sơn ở Sadec kéo đến qui hàng.
Đức Nguyễn-Ánh liền thâu dụng, đễ làm đội quân tiền phong, rồi đem binh tấn vào Sadéc, và thâu phục thành trì, vổ an dân chúng. Đức Nguyễn-Ánh thâu phục Long-Xuyên và Sadéc, lấy đặng lương thảo rất nhiều, và binh thế quân oai càng thêm hùng tráng.
Kế đó gặp hai đạo binh Tây-sơn ở Saigon sai xuống tiếp cứu, một đạo thì Phạm-Ngạn làm Chánh-tổng Binh, còn một đạo thì Ngô Lăng làm Phó-tướng, hai đạo binh nầy ở dưới Long-Hồ tấn lên Sadéc, vừa đặng nữa đường, gặp đạo binh của Đức Nguyễn-Ánh kéo xuống.
Đức Nguyễn-Ánh liền hội nghị cùng các tướng rồi sai Nguyễn-huỳnh-Đức đem năm trăm binh, bọc qua phía hữu đặng xốc tới đánh ngang hông đạo binh Tây-sơn, và sai Nguyễn-hữu-Thoại đem một đạo chiến-thuyền, với sáu trăm thủy-binh, vòng xuống Long-Hồ, rồi bọc qua phía hậu đạo binh Tây-sơn, đặng đoạt thâu lương thảo, và tuyệt đường vận tải của giặc, còn Đức Nguyễn Ánh với các tướng dẩn một ngàn binh, để đi hậu tập mà tiếp ứng, rồi sai Tôn-thất-Hội dẫn một đạo binh đi tiền phong, và hổn chiến với quân Tây-sơn rất kịch liệt.
Khi đạo binh tiền phong đương hổn chiến với quân Tây-sơn gần hai giờ, chưa phân thắng bại, bổng đạo binh Hữu-dực của Nguyễn-huỳnh-Đức, thình lình bọc tới đánh ngang hông đạo binh Tây-sơn, làm cho chúng nó, chẳng kịp trở tay, rồi hàng ngủ rối loạn, lúc bấy giờ Nguyễn-huỳnh-Đức cởi ngựa tới trước đốc binh xốc vô, lớp súng bắn, lớp thương đâm, tràn tới ào ào như nước, giết quân Tây-sơn chết không biết sa số nào mà kể.
Quân Tây-sơn thất vía kinh hồn, rồi lớp thì kéo đến hàng đầu, lớp thì kéo nhau chạy chết.
Lúc bấy giờ đạo chiến-thuyền của Nguyễn-hữu-Thoại trương bườm bọc gió chạy xuống gần tới Vỉnhlong, xảy gặp một đội chiến-thuyền của Tây-sơn, đương vận tải khí giới lương thảo đi dọc mé sông.
Nguyễn-hữu-Thoại liền lên đứng trên muôi thuyền, cầm cờ phất qua một cái, tức thì năm chục chiến-thuyền đều giăng hàng chữ-nhứt ngang sông, rồi lần lần áp lại phủ vây thuyền giặc, còn đạo chiến-thuyền vận tãi của quân Tây-sơn bị chỡ lương thảo khí giới nặng nề, day trỡ chẵng đặng lẹ làn, nên khó bề vận động; chỉ có mấy chiến thuyền hộ tống đi cập hai bên, phát súng xạ tên, xốc tới cự chiến.
Nguyễn-hửu-Thoại chẵng cho bắn lại, cứ truyền quân lấy khiên đở đạn ngăn tên, để chúng nó bắn riết một hồi cho mệt mõi tay chơn, hết đạn lơi cung, rồi mới truyền quân xông vào và bắn lại, tên đạn bay ra như mưa, chừng xáp lại gần, Nguyễn-hửu-Thoại hô lên một tiếng, các tướng sỉ đều rần rần nhảy qua thuyền giặc, lớp chém lớp đâm, quân giặc thấy thế cự địch không kham, liền bỏ giáo quăng gươm, mà xin hàng đầu qui phục.
Trận nầy Nguyễn-hữu-Thoạt đoạt thâu lương thảo khí giới rất nhiều, bắt đặng binh giặc hàng đầu hơn ba trăm, và lấy đặng bốn năm chục chiến-thuyền vận tải.
Tướng Tây-sơn là Phạm-Ngạn thấy đạo tiền phong đã bại trận, còn đạo vận tải lại bị đoạt hết lương thuyền, thì thối chí ngả lòng, kế nghe tin báo rằng: Nguyễn-hửu-Thoại đã độ binh lên bờ, và kéo vào Long-Hồ mà chận đường hậu lộ, thật là một cuộc chiến tranh dử dội, tứ hướng bao vi, mặt tiền thì Tôn-thất-Hội đem binh rược theo, phía hửu thì Nguyễn-huỳnh-Đức bọc hông đánh tới.
Phạm-Ngạn thấy cái hiện tượng binh cùng thế bức, thì biết bao là táng đởm kinh hồn, rồi thấm tính lặng suy, trong ba mươi sáu chước, chước gì là hay, chỉ còn một chước dỉ-đào vi thượng thì mới đặng, đó rồi lập tức truyền quân thối lại, nhỗ trại cuốn cờ, cứ việc lước bụi băng đồng, mạnh ai nấy chạy.
Tôn-thất-Hội và Nguyễn-huỳnh-Đức đem binh ngày đêm rược theo không nghỉ.
Quảng cáo
IFrame
Cài đặt chế độ riêng tư
Còn đạo binh của Phạm-Ngạn phần thì lương phạn không có, bụng đói xếp ve, phần thì mệt mỏi tay chơn, chạy nữa không nổi, rồi kéo nhau ra xin hàng đầu, chẵng biết bao nhiêu mà kể.
Đức Nguyễn-Ánh đem binh khỡi chiến, chẳng đầy ba ngày mà lấy đặng Long-Xuyên, Sadéc, Long-Hồ, ba xứ.
Đây nhắc lại đạo binh của Đổ-thanh Nhơn khi đi theo đường rừng, băng qua Thủ-dầu-Một, rồi phân làm ba đạo, một đạo thì Vỏ-Nhàn làm tiền phong, một đạo Nguyễn-văn-Hoằng làm hậu tập, còn một đạo Đổ-thanh-Nhơn làm thống tướng, và có luyện một đạo binh mả kỵ, đều dùng trường thương, để khi gặp giặc thì xông tới mà công thành hảm trận, lại có lập một đạo binh kêu là Hổ-lang-Quân, đạo binh nầy đều mặc y phục vằn vện như cọp, và vẻ mặt dữ tợn như quỉ dạ xoa, đều dùng cung tên và lau nhọn, để mai phục hai bên đường rừng, chờ khi ngộ trận xáp binh, thì xạ tiển phóng lau mà ám sát quân giặc.
Khi Đổ-thanh-Nhơn sắp đặt tướng sỉ xong rồi, liền độ binh qua sông, kéo xuống địa phận Hóc-Môn, đặng tấn vào Saigon là chổ nhao rún của giặc.
Lúc bấy giờ Tổng-đốc-Châu và Tư-khấu-Oai ở Saigon, nghe báo Đổ-thanh-Nhơn khởi binh kéo xuống, tức thì hội các tướng lại, bàn luận chiến lược, rồi phân làm hai đạo tấn lên, một đạo thì sai Hổ-tướng-Hãn, làm tiên phong, còn một đạo thì Tư-khấu-Oai làm thống chế.
Tư-khấu-Oai nầy củng là một viên danh tướng của Tây-sơn, võ dõng siêu quần, nhưng ít có mưu mô trí lược.
Khi gặp đạo binh Đổ-thanh-Nhơn ở gần Hốc-môn, thì hai bên đều bài binh liệt trận, rồi xáp lại hỗn chiến cùng nhau một trận rất dữ dằn, hai đàng chưa ai hơn thua, bổng thấy một đạo binh mả kỵ cũa Đổ-thanh-Nhơn rần rần sãi tới như giông, rồi lước vào mặt trận của Tư-khấu-Oai mà hỗn chiến.
Binh cũa Tư-khấu-Oai lớp bị ngựa đạp, lớp bị thương đâm, chết nằm lểnh nghểnh, Tư-khấu-Oai thấy vậy thạnh nộ, liền hươi siêu cởi ngựa xốc ra, tã xung hửu đột, giết quân mả kỵ của Đỗ-thanh-Nhơn một trận rất nhiều, rồi xua binh lước tới.
Võ-Nhàn thấy vậy liền huơi thương xáp lại đánh với Tư-khấu-Oai, một đàng thương đâm, một đàng siêu vớt, lúc qua lúc lại, khi tới khi lui, binh đánh với binh, tướng tranh với tướng, thật là tướng ngộ lương tài, kỳ phùng địch thủ; hai bên hỗn chiến cùng nhau hơn một giờ, kế mặt trời chen lặng, bờ bụi tối tâm. Đổ-thanh-Nhơn liền truyền lịnh thâu binh, Tư-khấu-Oai củng rút quân về trại.
Đêm ấy Đỗ-thanh-Nhơn hội các tướng lại bàn nghị và nói rằng:
Tư-khấu-Oai có sức mạnh, mà ít có mưu sâu. Vậy ta phải dụng mưu thì thắng va mới đặng, liền giao cho Nguyễn-văn-Hoằng điều khiển cơ binh, và dặn các tướng phãi y lịnh mà làm như vậy như vậy,…
Qua bửa sau Nguyễn-văn-Hoằng truyền cho Vỏ-Nhàn đem binh khêu chiến, Tư-khấu-Oai củng truyền cho Hỗ-tướng-Hản sắp đặt quân ngủ chỉnh tề, rồi kéo ra đánh nhầu một trận;
Bổng thấy Vỏ-Nhàn lần lần rút binh thối lui, vừa chạy vừa đánh; Tư-khấu-Oai thấy binh giặc thua chạy, thì kiêu căng đắc ý, liền đốc quân rượt theo, rượt đặng một đổi rất xa, ngó ra đả thấy rừng bụi lờ mờ, trời hầu chạn vạng, chẵng bao lâu kế tối. Tư-khấu-Oai bèn truyền các tướng đình binh, đặng cho quân sỉ nghỉ ngơi cơm nước, còn Nguyển-văn-Hoằng thấy Tư-khấu-Oai đình binh, cũng lập tức truyền quân hạ trại.
Đêm ấy Nguyển-văn-Hoằng bèn truyền lịnh cho Vỏ-nhàn, bước đầu canh ba phãi đem năm trăm mả kỵ đi trước, và Hồ-văn-Lân đem năm trăm quân hổ-lang theo sau, hể nghe một tiếng súng phát lên, thì lập tức xông vào vòng binh của Tư-khấu-Oai-mà cướp trại, và sai Tống-phước-Khuông và Tống phước-Lương mổi người đem năm trăm binh bộ, núp theo đường rừng, chờ Tư-khấu-Oai chạy tới, sẽ ào ra hổn chiến.
Đêm ấy Hổ-tướng-Hản lại dinh bàn nghị với Tư-khấu-Oai rằng:
— Chổ nầy bốn phía đều rừng hoang bụi rậm, ta phải để ý cẩn thận đề phòng, e quân giặc thừa lúc tối tâm, thình lình đem binh cướp trại.
Tư-khấu-Oai mỉn cười và nói rằng:
— Quân giặc đả bại trận chạy dài, lẻ nào chúng nó còn dám đem binh cướp trại, nói rồi chỉ đễ ít đội quân canh giữ mặt trận, và truyền cho các tướng nghỉ ngơi, đặng rạng ngày quyết ý rược theo mà tận sát quân giặc.
Kế bước qua đầu canh ba, Vỏ-Nhàn và Hồ-văn-Lân kéo binh lén theo đường rừng lần lần đi tới, khi đi gần tới vòng binh cũa Tư-khấu-Oai, kế nghe một tiếng súng phát lên, tức thì năm trăm mả-kỵ rần rần sải tới như giông, rồi xông vào mặt trận.
Quân giặc đương ngủ, thình lình nghe đạo mã-kỵ rần rần chạy vào mặt trận, áp tới như gió như giông, kế thấy đạo Hổ-lang quân ào ào kéo tới, mặt mày dử tợn, mình mẫy có vằn, rồi ré lên một tiếng dậy trời, làm cho cả vòng binh của Tư-khấu-Oai đều hoãn vía kinh hồn, ngở là quĩ tướng thiên binh, ở đâu dưới đất trồi lên, trên trời rớt xuống.
Còn quân Hổ-lang nầy mổi đứa đều có mang cung đai tiểng, và cầm một nắm lau nhọn sắc trong tay, hể xa thì xạ tiểng, gần thì phóng lau, vì vậy đạo binh của Tư-khấu-Oai bị thương mà chết chẵng biết bao nhiêu, rồi rùng rùng kéo nhau vở chạy.
Tư-khấu-Oai với Hổ-tướng-Hản nghe la thì biết quân giặc tấn vào cướp trại, liền cắp đao lên ngựa xông ra, gặp Vỏ-Nhàn và Hồ-văn-Lân đùa binh rược tới, hổn chiến một trận rất dữ dằn.
Hổ-tướng-Hãn là viên tướng tài của Tư-khấu-Oai bị Hồ-văn-Lân bắn một mũi tên té nhào xuống ngựa.
Tư-khấu-Oai thấy Hổ-tướng-Hãn bị tên bắn chết, mất một viên Hỗ-tướng cũng như gảy hết một cánh tay, và thấy quân giặc ào ào tràn tới vạn mã thiên binh, thế khó tranh đương, liền kéo binh ra sau, kiếm đường mà chạy, Hồ-văn-Lân liền giục binh rược theo, đánh giết một trận rất dữ.
Quảng cáo
IFrame
Cài đặt chế độ riêng tư
Tư-khấu-Oai chạy đặng một đổi, thấy hai bên đường, rừng cây lúp xúp, gò nỗng ngỗn ngang, thình lình nghe một tiếng pháo nổ lên động đất long trời, kế thấy trong rừng kéo ra hai đạo binh, áp tới hỗn chiến.
Tư-khấu-Oai với mấy tướng bộ hạ ra sức huơi đao cự địch một hồi, bỗng thấy một tướng cởi ngựa đứng trên gò cao, là Tống-phước-Khuông, kêu tên Tư-khấu-Oai và nói lớn rằng:
— Tư-khấu-Oai, ngươi đả binh cùng thế nhược, sao chưa chịu thúc thủ qui hàng, còn đợi chừng nào.
Tư-khấu-Oai thấy binh giặc càng đông, còn binh mình thì ít, không thế cự nỗi, liền kêu mấy tướng tùy tùng, hiệp lực huơi đao chém đùa một hồi, rồi mở đường mà chạy.
Tống-phước-Khuông, và Tống-phước-Lương đem binh rược ùa, bắt đặng bốn năm trăm quân hàng đầu, và nhung xa, chiến mả, khí giới lương phạn, bõ lại dọc đường, chẵng biết bao nhiêu mà kể cho xiết.
Lúc bấy giờ Tư-khấu-Oai với mấy tướng, dắc nhau chạy về Saigon, quân sĩ còn lại chẵng đầy một trăm, Tư-khấu-Oai thấy vậy liền ngước mặt mà than rằng:
— Thuỡ nay ta làm một viên chiến tướng, đề binh xuất trận, chẵng biết mấy phen, nhưng không khi thất tướng bại binh như trận nầy vậy, nói vừa dứt lời, thì trời đã rựng sáng, bổng thấy một đội binh mả, ước chừng một trăm, ỡ mé rừng phía tây, bôn ba chạy tới.
Tư-khấu-Oai liền gò cương ngừng ngựa, đứng lại nhắm coi, ngỡ là binh giặc rược theo, chừng chạy lại gần, té ra một tướng bộ hạ của Tư-khấu-Oai, bị thất trận lạc đường, tới đây mới gặp, đó rồi cả hai đạo binh dắc nhau trở về Saigon một lược.
Khi đi vừa tới, thấy trên các cửa thành đều cậm cờ của Đỗ-thanh-Nhơn, thì rất sững sờ mà nghỉ thằm rằng: Thành Saigon đã mất rồi sao? mà cờ Đỗ-thanh-Nhơn cậm đó?
Kế thấy một người mặc giáp võ đằng màu xanh, lưng đai một cây bửu kiếm, đầu đội một mủ thanh cân, chơn mang một đôi vỏ hài đen, chung quanh có các tướng hộ tùy, xem diện mạo đường oai vỏ, đứng trên mặt thành kêu lớn và nói rằng:
— Tư-khấu-Oai, ta nói cho ngươi biết rằng: thành nầy đả về tay ta rồi, ngươi hảy xem trên các cửa thành, đều cậm cờ Đông-sơn của ta hết cả, mà ngươi chưa chịu hạ mã qui hàng, còn đợi chừng nào?
Tư-khấu-Oai nghe nói liền gò cương ngừng ngựa, ngảnh mặt trông lên, thấy người ấy là Đổ-thanh-Nhơn, thì thạnh nộ mà đáp rằng:
— Chừng nào sông Saigon nầy cạn, thành Qui-nhơn kia tan, chừng ấy ngươi sẻ nói chuyện chiêu hàng cùng ta, bây giờ ta xin ngươi chớ hỡ môi, mà hao hơi mõi miệng, nói rồi liền quày ngựa chạy đi, nhắm theo mé sông Saigon thẵng tới.
Đổ-thanh-Nhơn liền lên ngựa, kéo binh rược theo, Tư-khấu-Oai giục ngựa chạy theo mé sông, bổng thấy một chiếc chiến thuyền của Tây-sơn đương đậu dựa bờ, Tư-khấu-Oai liền bỏ ngựa, rồi nhãy ngay xuống thuyền, và bão trương bườm, bọc gió, nhắm theo ngã sông Nhà-Bè chạy tới.
Quảng cáo
IFrame
Cài đặt chế độ riêng tư
Đổ-thanh-Nhơn thấy vậy củng bõ ngựa, cởi thuyền rược theo, khi gần tới đồn Tam-kỳ, Đổ-thanh-Nhơn liền lấy cờ Đông-sơn phất lên một cái, tức thì năm chục chiến thuyền ngử tại ngã ba Nhà-Bè, đã giăng ngang qua sông, rồi áp lại vây thuyền của Tư-khấu-Oai mà bắt.
Lúc bấy giờ Tư-khấu-Oai như cá nọ mắt lờ, hùm kia phãi rọ, sau thì Đổ-thanh-Nhơn rược tới, trước thì thuyền giặc đón ngăn.
Tư-khấu-Oai thấy mình đã vào một chổ đường cùng thế bức, thì quyết đánh liều xã mạng quyên sanh, thà cam một thát cho tròn, chẳng chịu hàng đầu quân giặc, bèn lên đứng trên muôi thuyền huơi thương đánh nhầu với các tướng cũa Đổ-thanh-Nhơn, rủi thất thế sa cơ, bị Đổ-thanh-Nhơn bắt đặng, dẩn về Saigon; khi Tư-khấu-Oai vào tới viên-môn, Đổ-thanh Nhơn với các tướng lật đật ra trước nghinh tiếp, rồi Đỗ-thanh-Nhơn bước tới và nói rằng:
— Tướng quân là một người kiến thức cao minh, và thông tri thời vụ, nay đã sa cơ thất thế, binh bại thành vong rồi, tôi không nở lấy hình luật mà sát hại một người tài năng, võ dỏng như tướng-quân, vậy xin tướng-quân giải giáp qui hàng, thì ngày kia tướng-quân củng đặng phong hầu tước vị, xin tướng-quân nghĩ lại.
Tư-khấu-Oai nghe Đỗ-thanh-Nhơn nói bấy nhiêu lời, liền cười gằn một tiếng, rồi nghiêm sắc mặt mà đáp rằng:
— Ta chẵng phãi là một đứa húy tử tham sanh, như mấy đứa nhát gan kia, mà người phòng đem lời khuyến dụ, ta đã nói cùng ngươi rằng: chừng nào sông Saigon nầy cạn, thành Qui-nhơn kia tan, thì ngươi sẻ nói sự ấy cùng ta, bây giờ đây dầu ngươi nói gãy lưởi, ta củng chẳng thèm nghe đâu, ngươi hãy chém ta đi, đừng nói với ta mà uỗng công vô ích.
Đổ-thanh-Nhơn khuyến dụ hết sức không được, rốt cuộc rồi phải đem ra trước vàm Bến-nghé mà xử trãm.
HỒI THỨ CHÍN
Lập tướng đài tôn soái Nguyễn-Ánh.
mở đại tiệc thưỡng khao quân sỉ.
Đây nói lại khi Tỗng-đốc-Châu trấn thủ tại thành Saigon, nữa đêm bị Đỗ-thanh-Nhơn đem một đạo binh đi bọc ngã tắc, áp xuống vây thành, Tỗng-đốc-Châu cự chiến không lại, liền bỏ thành đem gia quyến với ít tướng tâm phúc, theo thường bộ, chạy về Qui-nhơn mà tị nạn.
Đổ-thanh-Nhơn lấy thành Saigon, chẵng đầy một đêm, và chém Tư-khấu-Oai tại vàm Bến-nghé, đoạt hết chiến-thuyền Tây-sơn, dẹp yên quân giặc, bèn mở tiệc khao thưỡng tướng sỉ tam quân, rồi truyền binh vỗ an dân chúng.
Cách bữa sau, Đỗ-thanh-Nhơn sai một tướng báo tin thắng trận cho Đức Nguyễn-Ánh hay.
Lúc bấy giờ Đức Nguyễn-Ánh đương hiệp binh với Châu-văn-Tiếp đánh lấy Mỷ-tho, rồi tấn binh thẵng lên Bến-lức, giửa đường xảy gặp một đạo binh Tây-sơn đóng tại Gòđen, và một đội chiến-thuyền tại sông Bến-lức, liền phân binh hỗn chiến một trận rất kịch liệt, quân Tây-sơn cả thua, lớp xin hàng đầu, lớp chạy tảng lạc.
Quảng cáo
IFrame
Cài đặt chế độ riêng tư
Đó rồi Đức Nguyễn-Ánh truyền lịnh kéo binh tấn lên Saigon.
Đổ-thanh-Nhơn bèn sắp đặt binh sỉ giàn hầu tại Saigon, rồi bổn thân đem các tướng xuống Gòđen, tiếp nghinh thánh giá.
Đức Nguyễn-Ánh và các tướng kéo binh về Saigon, quân giặc dẹp xong, toàn xứ Nam-kỳ đều đặng bịnh yên thâu phục.
Đổ thanh-Nhơn và các tướng xin tôn Đức Nguyễn-Ánh lên làm Đại-nguyên-Soái, đặng cầm quyền hành binh khiển tướng, và lo chấn chỉnh việc chánh trị trong cỏi Nam-kỳ.
Các tướng sỉ đều hiệp ý bằng lòng, liền giao cho Trịnh-hoài-Đức sắm sửa lể nghi, bài trí cuộc tiệc, đặng trạch ngày tôn soái cho Đức Nguyễn-Ánh, và khao thưởng tam quân tướng sỉ.
Bữa nọ nhằm tháng giêng năm Mậu-Tuất (1778) trong lúc trời vừa tảng sáng, ác đã rựng hồng, bổng nghe mấy tiếng đại bát thần công, phát ra đùng đùng, long trời động đất, ngó lên bốn phía mặt thành, thấy quân sỉ la liệt, hàng ngủ nghiêm trang, khí giới đặt bày, cờ xí bao giăng rực rở.
Trong thành có cất một cái đài cao, trước đài đã thấy một đạo vỏ lâm quân, cầm giáo mang gươm, ra đứng dàng hầu hai bên tề chỉnh, kế thấy một đội nhạc binh kéo tới, thình thùng trống giục, thãnh thót chiên reo, sáo quyển rập rình, xem rất oai nghi thứ tự.
Bỗng chúc thấy đức Nguyển-Ánh đầu đội một mão Kim-quang, mình mặc một cây bạch-giáp, ngoài choàn một áo huỳnh bào, long, phụng qui lân, chơn mang một đôi võ hài, có thêu kim ngân văn thễ, thật là tướng mạo đường đường, xem ra đáng đứng một bực anh hùng khí tượng, thỉnh thoảng bước lên trên đài, và có các hàng vỏ tướng văn ban theo sau, thãy đều y quan tề chỉnh.
Đức Nguyễn-Ánh lên đứng giữa đài, còn các quan văn võ đứng hầu hai bên, kế Trịnh-hoài-Đức đem ra một ấn soái và một cây Long-phụng Bữu-kiếm dâng lên, chúc tụng ít lời, rồi các văn võ tướng sỉ từ trong tới ngoài, đều rập nhau tung hô một tiếng vạn-phước nghe rất lớn, nghe dậy hết cả vòng thành.
Đức Nguyển-Ánh lảnh chức Nguyên-soái rồi liền ban phong cho các quan văn vỏ, đều đặng quyền tước gia thăng, và mở tiệc khao quân thưởng tướng.
Tiệc bày thưởng tướng khao binh,
Ầm ầm trống trận rập rình nhac quân.
Đức Nguyễn-Ánh thân phục đặng Saigon và các xứ trong Nam-kỳ nầy rồi, lên làm Đại Nguyên-soái, ngày đêm lo chấn chỉnh binh nhung, sửa sang chánh-trị, sai người ra Bình-thuận, Khánh-hòa, chiêu mộ nhơn dân, đem vào Gia-dinh, đặng cho khẫn ruộng khai rừng, mỡ mang bờ cõi, và đặt quan coi trưng thâu thuế-khóa, tích súc binh lương, chế tạo thuyền, đặng phòng khi cự chiến với quân Tây-sơn Nguyển-Nhạc.
HỒI THỨ MƯỜI
Nặc-Vinh dấy loạn giết Hoàng-huynh
Nguyển-Ánh sai binh cứu Chơn-Lạp
Cây nhuộm lá xanh, đào phơi nhụy đỏ, thắm thoát thiều quang trong chín chục, ngày lại qua con én đưa thoi: mơ màng điệp trướng trót năm canh, đêm xẩn bẩn tiếng gà giục thúc, rượu tiễng chúc tỉnh say say tỉnh, giọng ôn-tồn to nhỏ nhỏ to, lời riêng riêng những dặn dò, nỉ non lúc chuyện khi trò hỏi hang; Nàng ôi thức ngũ hởi nàng, lầu-tây nguyệt xế điện-vàng tảng canh.
Nàng nghe chăng? dậy, dậy, sáng rồi sao? sáng rồi, — quốc-vương sấm sữa chưa? — đả sẵn sàng hết cả, — nầy rượu Hồng-cúc đây quốc-vương uống thêm một ly, uống thêm một ly nửa nào, — nàng uống với ta cho vui, — thiếp sợ say lắm mà, — không say đâu, say rồi thì ngũ mà sợ nổi gì, — quốc-vương hãy uống đi, ừ ta uống rồi, nàng uống nghé. — Thôi đi, hai gò má thiếp đỏ lên đấy rồi, đừng ép thiếp nữa. Há, Há, Há, đẹp lắm, tốt lắm, quốc-vương đừng cười thiếp mà… — Hố, Hố, Hố, gò má nàng đõ như trái đào, ta xem ngộ lắm, — quốc vương đừng nói, thiếp mắc cở lắm mà, nầy xin quốc-vương uống thêm một ly nữa đi, — thôi, ta đi kẻo trưa, — quân ngự lâm ở đâu? — chúng nó chờ ta ngoài điện, — vậy thiếp xin chúc cho quốc-vương nhứt lộ bình yên, — ừ, ta cũng chúc cho nàng ở nhà mạnh khỏe nghé. — Thưa vâng
Nhửng lời trên đây là lời cũa một vị quốc-vương Cao man nói với một nàng vương-phi trong cung, trước khi đi săn bắn.
Vậy đây xin nói về sự vua nước Cao-man là Nặc-Tôn, có một nàng hầu rất yêu dấu, nàng nầy tên là Chất-băng-Nhả, vẩn là người Xiêm lai, thật một gái quốc sắc thiên hương, dung nhan kiều mị, nước da trắng đỏ, tóc dợn như mây, tròng mắt đen láng như huyền, mình mẩy xem rất điệu dàng yểu điệu, mặt mày đầy đặn, hai má ửng hồng, thật là một gái tuyệt sắc giai nhơn, trong hàng nử-lưu cũa nước Chơn-Lạp.[1]
Vua Nặc Tôn tánh ưa điền điệp[2] thường hay vui thú lâm tuyền, bửa nọ đem quân sĩ và chó săn lên núi Tà-lơn đi săn, nàng Chất-băng-Nhả ở trong cung một mình, bèn ra sau Ngự-viên dạo cảnh chơi hoa, xem cây cỏ cho tiêu sầu khiển muộn.
Lúc bấy giờ trong một cái đền ở gần ngự viên, là đền cũa vua em tên là Nặc-Vinh, ông Hoàng nầy trạc chừng ba mươi mấy tuỗi, diện mạo đoan trang, đương đứng trong đền ngó ra Hoa-viên, thấy nàng Chất-băng-Nhả đi thơ thẩn một mình, theo mấy vòng bông, xem rất xuê xang đẹp đẻ, liền tuốt ra cửa sau, thỉnh thoảng bước vào Hoa-viên, thấy nàng ấy đương vói tay hái một nhánh bông tường-vi, rồi nhắm nhía săm soi, vừa để lên mủi mà hưởi.
Hoàng Nặc-Vinh liền bước lại một bên, mỉn cười mà nói nhõ nhẻ rằng:
— Chào Hoàng-phi, Hoàng phi đi dạo hoa viên một mình, vậy chẵng là buồn bực lắm chăng?
Nàng Chất-băng-Nhả nghe nói liền day lại thấy Hoàng-đệ là Nặc-Vinh, thì ngạc nhiên có vẻ sượng sùng, rồi thối lui ra hai ba thước mà đáp rằng:
— Chào Hoàng-đệ, tôi nhơn hoàng-cung rảnh việc, nên ra dạo chơi kiển vật giải buồn, hoàng-đệ vào đây bao giờ, tôi mắt xem hoa, nên không thấy mà tiếp chào, vậy xin miểng lể.
Hoàng Nặc-Vinh ngó châm chỉ nàng ấy rồi mỉn cười mà nói rằng: tôi đương ỡ trong đền, thấy vương-phi đi một mình, thế cũng sầm tịch quạnh hiu, nên lật đật ra đây hầu chuyện cùng vương-phi cho giải muộn, nói rồi day lại bẽ một nhành bông tường-vi, dâng cho nàng và nói tiếp rằng:
— Xin lỗi vương-phi, tôi coi ý vương-phi thích bông tường vi nầy lắm, nhưng chẵng biết vương phi xem sắc bông ấy có đẹp chăng?
Nàng Chất-băng-Nhả nghe hõi, mỉn cười mà đáp rằng:
— Thưa tôi lấy làm thích ý, tôi xem sắc bông ấy đẹp lắm, nội hoa viên nầy muôn tía ngàn hồng, nhưng tôi xem lại thì chẵng bông nào sánh đặng.
Hoàng Nặc-Vinh liền bước xích lại, cười và nói rằng:
— Thật vương-phi nói chẳng sai lời, theo ý tôi cũng cho sắc bông ấy là đẹp lắm; nhưng mà tôi tưỡng còn một sắc nữa rất đẹp đẽ bội phần, là cái sắc của vương phi đó vậy, và mùi thơm tho bông ấy củng kém hơn cái mùi thơm cũa vương-phi đây nữa.
Nàng Chất-băng-Nhả nghe nói thì có vẻ thẹn thuồng, rồi hai má đào non, bổng chút rần rần ửng đõ và đáp lại rằng:
— Tôi là một gái tầm thường trong hàng cung phi, xin hoàng đệ chớ nên quá khen, làm cho tôi thẹn lòng e lệ.
Hoàng Nặc-Vinh ngó nàng ấy châm chỉ, rồi mỉn cười mà nói rằng:
— Tôi chẳng phải muốn đều dua mị mà quá khen vương phi vậy đâu, thật rõ ràng vương-phi là một người sắc nước hương trời, mình ngà vóc ngọc, làm cho ai thấy cũng phải mê mẩn tâm hồn, động tình ái mộ, mà nhứt là tôi đây đã mắt chứng đa tình thì không thế gì dằn đặng. Vậy nếu vương-phi đem lòng đoái lưỡng, chẵng chê tôi là kẻ lảng hạnh cuồng-sanh,[3] thì xin vương-phi bước tới Hoa đình, đặng tôi tõ ít lời tâm sự.
Nàng Chất-băng-Nhả nghe nói thì có vẽ e lệ rồi đáp rồi:
— Sự nầy là một sự rối loạn luân thường, xin Hoàng-đệ chớ làm như vậy không nên, nếu quốc-vương hay ra, thì chẵng những trong vòng anh em sanh sự cừu thù, mà tôi đây cũng chẵng khỏi phạm nhằm đại tội.
Hoàng Nặc-Vinh nói: quốc-vương người đã nhàn du điền điệp, chẵng có trong cung, chổ nầy là chổ tịch mịch cấm viên, ai dám vào đây mà hoàng-phi ái ngại, nói rồi bước lại nắm tay nưng lên và tõ cách tha thiết rằng:
— Nàng ôi! cái ái-tình tôi đối cùng nàng bấy lâu, những mảng thầm thương trộm nhớ trong lúc tịch mịch canh trường, cái tình ấy đã dồn dập trong lòng tôi, xiết bao là ngày trông tháng đợi, nay may gặp được dịp nầy, vậy xin nàng hảy vui lòng cho tôi gần đặng cái vóc ngọc mình vàng của nàng đây, mà tỏ nổi tình riêng, cho thỏa chút bình sanh sở-nguyên, thì rất vinh hạnh cho tôi biết là dường nào, nói rồi nắm tay Chất-băng-Nhả dắc vào Hoa-đình lân la trò chuyện.
Lúc ấy có một nàng công-chúa đi với hai đứa cung-phi, cũng ra dạo Hoa-viên, người xem bông, kẻ nhắm kiển, dắc nhau đi rão theo mấy còng hoa, khi chuyện chuyện, lúc trò trò, khi cười cười, lúc nói nói, quanh quanh lộn lại, ước đặng hồi lâu, khi đi gần tới hoa-đình, một nàng cung-phi bước ra khõi vòng cây, xảy thấy Hoàng-đệ với nàng Chất-băng-Nhả dắc nhau bước vào hoa-đình, thì biết hai người sanh sự gian dâm tình tệ, liền day lại nói nhỏ với Công-Chúa rằng:
— Thưa Công-Chúa chẵng biết hai người nào dắc nhau vào trong hoa-đình, tôi xem giống hình hoàng đệ là Nặc-Vinh với vương-phi là Chất-băng-Nhả.
Công-Chúa nghe nói lấy làm lạ và nói rằng:
— Chổ nầy là chổ cấm-viên của vua cha ta, chĩ có Hoàng hậu vương-phi cùng các chị em ta được vào đây mà nhàn du ngoạn cảnh vậy thôi, kỳ dư bất luận là Hoàng-thân quốc thích, bất luận là đế tử vương-tôn nào, cũng đều cấm tuyệt, không ai được vào đây mà nhàn du hết cả, nay sao Hoàng-thúc lại dám phạm cấm luật, thâm nhập vào đây, mà trò chuyện gì với vương-phi như vậy? cũng là một đều rất trái, nói rồi liền dắc hai nàng cung-phi, lén lại đứng dựa hoa-đình, rình coi một hồi, thì nghe hai người đương ngồi trò chuyện cùng nhau, nhỏ to thầm thỉ.
Công-chúa liền vội vã trở gót vào cung, đặng chờ vua cha trỡ về, sẻ đem hết sự tình tâu lại.
Kế bửa sau vua Nặc-Tôn đi điền điệp về, công-chúa liền đem hết sự tình tệ trong ngự-viên, tâu lại cho vua cha nghe.
Vua Nặc-Tôn nghe rồi liền nổi trận lôi đình, vổ bàn mắng Hoàng Nặc-Vinh là đứa mạng pháp triều đình, loạn luân ngổ nghịch, tức thì giáng chĩ đày Nặc-Vinh ra trấn thủ biên thùy, chẳng cho ở lại quốc-đô triều-điện, và đòi nàng Chất-băng-Nhả đến bắt tội và hỏi rằng:
— Chất-băng-Nhả, my là đồ thất tiết nử lưu, dâm ô xũ phụ, trong khi ta đi nhàn du điền điệp, sao mi dám ra cấm viên mà gian giếu cùng Nặc-Vinh, tội mi đả đáng phân thây, đặng để làm gương mà răng loài dâm phong ác tục.
Chất-băng-Nhả thấy vua Nặc-Tôn phừng phừng thạnh nộ, thì rung rảy khép nép mà thưa rằng:
— Tâu quốc-vương, xin quốc-vương bớt cơn thạnh nộ, lấy lượng hải hà, thẩm xét sự ấy cho thiếp nhờ, kẻo ức lòng tội nghiệp. Từ khi quốc-vương đi nhàn du điền điệp, thiếp ở một mình trong cung buồn bực, nên ra Hoa-đình hứng mát xem bông cho khuây lảng tâm thần, đặng giải cơn phiền muộn, chẵng dè Hoàng-đệ là Nặc-Vinh mong lòng tà dục. Chẳng kể cốt nhục luân-thường, thình lình lén đến cấm-viên, rồi lấy lời ghẹo nguyệt trêu hoa mà làm sự tồi phong bại tục, song thiếp chĩ giữ một lòng vàng đá cùng quốc-vương, chẳng hề dám làm đều chi trái lẻ, rồi lật đật vào cung, đặng chờ quốc-vương trở về, sẻ đem hết sự tình tệ Nặc-Vinh, tõ bày cho quốc-vương rỏ biết.
Vậy xin quốc-vương xét lại mà coi, chổ cấm viên nầy là chổ của quốc-vương lập ra, đễ cho Hoàng-hậu và chị em chúng tôi ra đó hứng mát xem hoa, ngoài ra, bất luận là quốc thích hoàng-thân, chẳng một ai được phép loạn vào Hoa-viên; mà xem nhắm kiển.
Nay Hoàng-đệ Nặc-Vinh đem lòng tà dục, lén đến bức ép thần thiếp trong chốn Hoa-đình, tội ấy là tự nơi Hoàng-đệ gây ra, chớ thần thiếp đâu dám sanh đều tình tệ.
Quốc-vương ôi! xin quốc vương suy đi xét lại, từ khi thần-thiếp mông ơn vỏ lộ, mà được quốc-vương tuyễn trạch vào cung đến nay, dẩu thần-thiếp ở cùng quốc-vương một ngày, củng là nghĩa vợ tình chồng, thiếp phải giử một lòng trinh bạch mà đối phó cùng quốc-vương, cho trọn chử luân-thường, chớ lẻ nào thiếp dám đem thói lảng hạnh bạc tình, làm cho nhục nhơ danh tiết vậy sao?
Vậy xin quốc-vương mở lượng nhơn từ, khoan dung tha thứ, nếu quốc vương ban ơn mưa móc, rưới xuống cho thân phận một gãi liều bồ, thì dầu thiếp thịt nát xương tan, cũng quyết giữ ngọn gìn vàng cùng quốc-vương, chẳng dám dời lòng đổi dạ. Nói rồi nức nở khóc lên, xem sắc mặt rất âu sầu thãm đạm.
Vua Nặc-Tôn nghe nói liền ngó nàng ấy cách nghiêm nghị và vổ bàn mà nói lớn rằng:
— Chất-băng-Nhả, mi đã làm một vị vương-phi, ăn sung mặc sướng, sao mi không biết giữ các danh giá mi cho xứng đáng một gái trung trinh liệt-nữ, một bực hoàng-hậu vương-phi, lại đem thói trắc nết lang dâm, vào giữa hoa đình; trò chuyện với Nặc-Vinh, làm cho nhục nhơ danh tiết, mà mi còn lão khẩu chối sao?
Ta nói cho mi biết, cái thứ gái lang tâm cẩu hạnh, mèo-mã gà đồng như mi vậy, ta xem như một vật thúi tha, thấy mà phãi khạt miếng nhổ đàm, thấy mà phãi chán nhớm góm ghét, nếu để mi thì chẵng những mi lây sự dơ dáy trong chốn cung đình, lại bay cái tiếng nhục nhơ ra cã triều quận.
Những gái hèn mạt như mi, dẩu cho một bực hạ lưu dân giả cũng chẳng muốn dùng, huống hồ là một bực quốc vương như ta, ngôi cao tước trọng, phú quới vinh hoa, nội trong nước nầy, lại không lựa được một bực quốc sắc thuyền quyên, trung trinh tiết hạnh hay sao? mà phải dùng một gái dâm ô như mi, cho rối loạn triều cương, cho ô danh sỉ tiết.
Chất băng Nhả hỡi mi, mi phải biết rằng: cái tội dâm ô trắc nết cũa mi ngày nay, ta không thế nào dung thứ mi đặng, cái tội mi đã đáng làm một con quỉ không đầu ở dưới lưỡi đao của ta, đặng mà răng thói dâm ô của đoàn phụ-nữ.
Chất-băng-Nhã, ta hỏi mi, nếu mi thiệt là một gái trung trinh liệt nử, tiết hạnh thuyền quyên, mi biết giữ một lòng, một dạ, như sắt như đinh, dầu Nặc-Vinh là một đứa cường bạo dâm ô, cũng chẳng thế nào gần gũi mi được mà chuyện trò gian diếu, nay cái tình tệ mi đã bại lộ ra rồi, mi còn gì mà chối từ nữa đặng. Nói rồi liền đòi công-chúa, cùng hai nàng cung-phi ra hõi chứng cớ rõ ràng, bèn truyền lịnh cho quân đao phủ đem Chất-băng-Nhã ra ngoại thành xử trảm.
Chất-băng-Nhả thất kinh liền hạ mình quì ngay trước mặt vua Nặc-Tôn, khóc lóc và kiếm lời năng nỉ nói rằng:
— Ôi quốc-vương ôi! sự nầy là tại Hoàng-đệ sanh lòng dâm loạn, làm cho tiện thiếp phải chịu hàm oan, dầu thiếp cùng quốc-vương gá nghĩa một ngày, cũng phải giữ vẹn trăm năm danh tiếc, lẻ đâu thiếp dám đem thói bạc tình, mà làm cho nhục nhơ phẩm hạnh vậy sao?
Xin quốc-vương lấy lượng nhơn từ đại độ, dung thứ cho một gái bạc mạng hàm oan nầy, đã quì dưới đây mà khóc lóc khẫn cầu cùng quốc-vương và xem trông quốc-vương như một vị phật-tổ Di-Đà, thiên-tôn Bồ-tác, nếu quốc-vương lấy lòng trời phật dung thứ cho thần-thiếp một phen; thì cũng như quốc vu tu tạo cữu cấp phù-đồ,[4] mà siêu độ kẻ trầm luân khổ hải, thần-thiếp xin thệ một lời cùng trời phật và quốc-vương; từ đây về sau, thiếp chẵng dám để cho ai làm đều chi loạn luân nghịch lý.
Vua Nặc-Tôn trầm tư mặc tưởng một hồi, rồi hạ lịnh dạy nội thị đem nàng Chất-băng-Nhả bõ vào cấm-cung một năm, chừng mảng hạng sẻ đuổi về dân giả.
Nàng Chất-băng-Nhả bị vua Nặc Tôn đày vào cấm-cung chẵng đầy hai tháng, mà giọt sầu lai láng xem tháng dường năm, đêm nọ vào khoản canh ba, thoạt nhiên trong cấm cung phát lữa cháy lên rất dử, quân nhơn lật đật vào đền báo cho vua hay, vua và các quan chạy ra thấy cung thất đã cháy tiêu, vua Nặc-Tôn day lại nói với các quan rằng:
— Cái cung nầy là chổ của nàng Chất-băng-Nhả ở, nay đã bị lữa cháy tiêu, thế thì Chất-băng-Nhả phãi chết, nói rồi liền truyền quân bươi lữa cào than, kiếm coi có thây của nàng ở trong hay chăng đặng cho mai táng.
Quân lính bươi kiếm một hồi, bổng thấy một cái thây đã nám mặt phồng da, co đầu rút cổ, bọc lộ thi hài, mình mẫy đều cháy đen như than, xem rất gớm ghê kỳ dị.
Vua Nặc-Tôn thấy vậy thì bàn nghị với các quan rằng:
— Sự nầy tại nàng Chất-băng-Nhả đem thói bạc tình lảng hạnh, tánh nết xấu xa, làm cho rối loạn luân thường, nên ngày nay phải bị lửa trời sát hại, nói rồi, vua tôi kéo nhau về cung, và truyền quân tẩn liệm thi hài, rồi đem ra ngoại thành mai-táng.
Cách ít lâu đến ngày chúc-thọ cho vua Nặc-Tôn, các quan vào triều chúc mừng cho vui xong rồi, kế thấy một người đến trước cửa đền cầu xin ra mắt.
Vua Nặc-Tôn nghe báo liền truyền lịnh cho vào, và hỏi rằng:
— Ngươi ở đâu có việc chi mà cầu xin ra mắt hảy nói cho ta nghe.
Người ấy liền quì mọp trước đền bái yết xong rồi, tâu rằng:
— Tâu quốc-vương, tôi là người ỡ Ô-đông, có qua xứ Bắc-tâm-Bang (Battambang) lập đặng một bọn hát múa gươm đánh vỏ theo cách hát Xiêm. Nay tôi nghe đến ngày làm lể chúc-thọ quốc-vương, nên đến xin quốc-vương cho chúng tôi vào đền, trước là dâng một thứ hát đặng chúc-thọ cho quốc-vương, sau là diển một tấn tuồng lạ cho quốc-vương xem chơi giải muộn.
Vua Nặc-Tôn nghe nói thì vui lòng, liền day bảo người ấy rằng:
— Vậy thì đêm mai, ngươi phải đem bọn hát vào ngự-viên, và lựa một xuất tuồng cho thiệt hay mà diển cho ta xem thữ.
Tên ấy phụng mạng lui ra, rồi trở về sắp đặt bọn hát, đặng đêm mai sẻ vào ngự-viên mà diển kịch.
Nguyên đêm đầu vua có thiết bày yến tiệc tại ngự-viên, mời hàng các quan văn vỏ đến hội-yến, khi vua và các quan yến ẩm rồi thì có các cô mái hát rầm, mỗi người đều cầm một cây đèn sáp, và nai nịch đồ sắc phục rằn rực đỏ xanh, rồi kéo ra giữa ngự-viên, tay huơi đèn, chơn rảo bước, khi cúi mọp xuống, khi nẩy ngửa ra, khi xơm tới, lúc thối lui, nhún lại xang qua, múa men cách diệu dàng uống éo, xem mấy ngọn đèn quanh quanh lộn lộn, hai bên mình các cô mái, nhán ra muôn đạo hào-quang, sáng lòa rực rở.
Khi múa đèn xong rồi, các cô mái lại lấy mỗi người một cái lục lạc, thứ lớn thứ nhỏ, tiếng kêu khác nhau, rồi ra trước ngự-đình, tay thì rung lục lạc, chơn thì rão múa, một bên sân hát, có đánh nhạc ngủ-âm, tiếng lục lạc hòa với tiếng ngủ-âm, cái thì kêu rổn rổn, cái thì giọng ken ken, in nhịp in nhàn, rập bồn rập bác, nghe rất thanh thao êm ái.
Qua đêm sau, vua và các đình thần đều ra ngự-viên xem bọn hát Bắc-tâm-Bang, thấy trước sân hát đả bài trí kiễn vật nghiêm trang, và sắp đặt cuộc hát có lớp lang thứ tự, trống chiêng inh ỏi, cờ xí rở ràng, hai bên sân hát gươm giáo đều la liệt giăng hàng, và đèn đuốt thắp lên sáng rở kế thấy trong buồng hát kéo ra mười người, đều mặc y phục theo Xiêm, xem rất hoa mỹ, đứng giửa sân hát chúc-thọ cho vua xong rồi, liền trở vào buồng, một chập thấy trong buồng kéo ra hơn hai mươi con hát, mỗi người đều mặc vỏ phục gọn gàn, và tay cầm chỉa ba, lưng dắc đãng kiếm, trước sân hát có treo một tấm bãn đề chử nói rằng: « xuất tuồng nầy là xuất diển vỏ. »
Kế thấy hai người trong buồng chạy ra, một người tay cầm trường thương, và mang một cái mặt nạ vằn vện dữ dằn, như một vị lôi-công, và một người tay cầm song đao, cũng mang một cái mặt giã, xem tướng mạo như một vị thần-nữ, đầu đội mão như mão kiêm-khôi, mình mặc vỏ-phục sát da, như một cái thiết-giáp; tướng mạo hung hăng, xem rất kỳ quan dị mục. Cả hai huơi gươm múa giáo, xốc lại xang qua, tiếng giáo dụng với tiếng gươm, nghe kêu ren rẻn.
Vua Nặn-Tôn và các quan ngồi trước ngự-đài, đương châm chỉ xem coi, thình lình bổng nghe một tiếng pháo nổ lên rất to, tức thì hai tên múa giáo ấy, chạy xốc ra nhảy lên ngự-đài, rồi lại đâm vua Nặc-Tôn một thương, vua Nặc-Tôn tránh không kịp, bị tên ấy thích một mũi giáo vô ngực, tức thì nhào xuống chết liền.
Các quan ai nấy đều thất vía kinh hồn, kế thấy ngoài ngự viên rần rần kéo vô hơn hai trăm quân lực-sỉ vỏ-đao, áp lại phủ vây chung quanh ngự-đài, mổi người đều chống giáo hươi đao, hầm hầm sát khí.
Các quan thấy vậy đều rung rẫy kinh hoàng, chẵng một ai dám ra cản ngăn chống trả.
Tên mang mặt nạ vằn vện kia, giết chết vua Nặc-Tôn rồi, liền chống giáo đứng trước ngự-đài và nói lớn lên rằng: các quan hãy nghe ta nói:
— Quốc triều nầy là sự nghiệp của vua cha ta để lại, mà Nặc-Tôn chẵng kể anh em, lại chiếm đoạt một mình, rồi đày ta ra chốn góc biển đầu non, chẵng cho chung hưởng sự vinh hoa phú quí, và xem cái Triều-đình nầy cũng như một món đồ riêng trong túi; nên ta phải giết Nặc-Tôn, đặng lên ngôi nối nghiệp tổ-tông và cấm quyền chánh trị; các quan ai thuận tình, thì ta thưởng tước phong quan, bằng nghịch mạng thì chớ trách rằng: gươm nầy là giống tàn nhẫn sát hại; nói rồi liền lấy cái mặt nạ xuống, các quan ai nấy ngó lên thấy tên ấy rõ ràng là Nặc-Vinh, là em của vua Nặc-Tôn, thì đều sững sờ kinh dị; đó rồi Nặc-Vinh bước lại lấy cái mặt giả của người kia ra, thì thấy người ấy là nàng hầu của vua Nặc-Tôn khi trước là nàng Chất-băng-Nhả, chừng ấy các quan đều ngơ ngẫn sửng sờ như giấc chiêm bao, không biết Chất-băng-Nhả nào đã bị cháy trong cấm-cung, còn Chất-băng-Nhả nào nay lại sống đó?
Nặc-Vinh giết vua anh rồi, liền kéo binh vào đền, đặng tìm kiếm Hoàng-tử mà giết cho tuyệt tộc.
Lúc bấy giờ may có một quan bảo-giá, tên là Chiêu-căng-Mu, vẫn là người trung thành nghĩa dỏng, thấy Nặc-Vinh dấy loạn giết anh soán ngôi, liền dắc vợ con vua Nặc-Tôn trốn ra ngoài thành, rồi chạy xuống Long-Xuyên mà đào nạn.
Khi Chiêu-căng-Mu cứu vợ vua Nặc-Tôn và Hoàng-Tữ là Nặc-In, với một nàng Công-Chúa ra khõi thành đô Caoman, rồi dắc nhau chạy xuống Long-Xuyên kiếm nơi trú ngụ.
Bữa nọ Hoàng-Hậu khóc nức nở và nói với quan bão-giá là Chiêu-căng-Mu rằng:
— Quan bảo-giá ngươi ôi! chồng ta đã bị Nặc-Vinh sát hại, mẹ con ta nhờ người ra tay cứu nạn, mà được sống sót ngày nay, cái ơn của người tế khổn phò nguy, mẹ con ta ngàn năm cũng còn ghi lòng tạc dạ, nếu không ngươi thì mẹ con ta cũng chẵng khõi Nặc-Vinh sát hại.
Quan bão-giá ngươi ôi! cái huyết mạch của tiền vương, bây giờ chỉ còn một Hoàng-Tữ đây thôi, vậy thì cái sanh mạng của mẹ con ta ngày nay, xin gởi gấm nơi tay ngươi, ngươi là thần-cứu-mạng của chúng ta, ngươi là kẻ bảo-hộ cho con cái ta, vậy ngươi hảy lo liệu thế nào, mà khôi phục cơ đồ, và báo oán rửa hờn cho chồng ta, là vua Nặc-Tôn, thì cái oan hồn uổng tử của chồng ta ở dưới cữu-tuyền, cũng kết cỏ ngậm vành, mà cám ơn ngươi là một đáng trung thần nghỉa sỉ.
Quan bão-giá ngươi ôi! ngươi có biết trong triều ngoài quận, bây giờ còn ai là kẻ có lòng phò nguy tế khổn, còn ai là kẻ liệt sỉ trung thần nữa không, đặng cầu cứu cùng người mà đồ mưu thiết kế thì mới đặng, nói rồi khóc lóc nỉ non, chứa chan giọt lụy.
Chiêu-căng-Mu nghe Hoàng-Hậu than thở và han hỏi mấy lời, thì ngẫm nghỉ một hồi rồi lắc đầu mà đáp rằng:
— Nặc-Vinh là một đứa loạn luân tàn bạo, lại đương lúc thế mạnh binh cường, tôi xem nội triều các quan văn vỏ thảy đều là lũ dua mị cầu vinh, tham sanh húy tử, lúc thới bình thì chúng nó là bực lộc trọng danh cao, mà cơn bát loạn thì bọn ấy là loại gà sành chó đất, chúng ta bấy giờ không còn trông mong gì đến bọn ấy nửa đặng.
Công-chúa thấy mẹ than thỉ khóc lóc với quan bão giá Chiêu-căng-Mu, thì cũng động lòng rơi lụy rồi hỏi rằng:
— Mẹ ơi! con thấy trong lúc phụ-vương sanh-tiền, mổi năm thường đem lể vật mà cống sứ vua Xiêm, nay gặp lúc nước loạn nhà nghiêng, mẹ con ta nhơn dịp nầy, sai người cầu cứu vua Xiêm, họa may người nghĩ tình cựu hảo lân ban, đem binh cứu giúp, đặng khôi phục cơ đồ và giết quân nghịch mà trã thù báo oán thì mới đặng.
Hoàng-Hậu nghe công-chúa nói, còn đương nghĩ suy lưỡng lự chưa biết quyết định lẽ nào.
Lúc bấy giờ Hoàng-tữ Nặc-In mới vừa sáu tuổi, đứng một bên mẹ thấy chị là công-chúa nói vậy, cũng rưng rưng nước mắt rồi ngó mẹ mà nói rằng:
— Mẹ ơi! con nhớ năm ngoái, quan sứ của Xiêm có cho con một cây gươm tốt quá, để con lấy gươm ấy giết chết quân nghịch mà trả thù cho cha đặng không? nói rồi chạy lại lấy cây gươm bằng cây, sơn son phết vàng, đem ra đứng trước mặt mẹ, một tay chống nạnh, một tay cầm gươm, trợn mắt phùng mang, rồi nói với chị là công-chúa rằng:
— Chị, mọi lần tôi lấy gươm nầy đánh giặc với mấy đứa bày trẽ trong cung, chúng nó thất kinh chạy hết, chị không thấy sao?
Công-chúa thấy Hoàng tử còn nhỏ, mà lời nói có khí phách hùng hào, thì mĩm cười rồi kéo hoàng-tữ lại đứng bên mình, vuốt ve và nói rằng:
— Nặc-In, em ôi! phụ-vương bị quân nghịch giết rồi, bây giờ chị em mình, còn mẹ góa con côi, thế cô sức yếu, trong triều đều là lũ tham quan ô lại, là bọn giá-áo túi-cơm, chĩ có một quan bão-giá đây là người có nghỉa-đởm trung-thành, theo phò hộ mẹ con ta đó thôi, chớ không còn biết ai mà nương nhờ tin cậy, thế thì phãi cầu cứu nước khác giúp mình, họa may mới đặng trã thù rửa hận.
Hoàng-Hậu nghe công-chúa nói, thì ngó Chiêu-căng-Mu mà hõi rằng:
— Quan bảo-giá ôi! Người có thế chi cầu cứu vua Xiêm đặng chăng?
Chiêu-căng-Mũ nghĩ nghị một chút rồi day lại đáp rằng:
— Bẩm Hoàng hậu, bên Xiêm lúc bây giờ còn đương nội loạn, trong nước chưa yên, dầu có cầu cứu nơi người, e cũng uổng công vô ích, chi bằng ta cầu cùng nước Việt-Nam là đức Nguyễn-Ánh, bây giờ người làm Đại-Nguyên-soái tại Saigòn, binh ròng tướng giõi, pháo nhạy thuyền đông, và lại cận tiện nước bước đường đi, thế cũng dể việc tấn binh cứu cấp, vậy xin Hoàng-hậu để cho kẻ hạ-thần bổn thân đi xuống tỉnh thành Saigon, đặng cầu xin Đức Nguyễn-Ánh đem binh cứu viện, thì họa may mới đặng thành công.
Hoàng-Hậu nghe Chiêu-căng-Mu bàn nghị mấy lời, rất hiệp ý bằng lòng, rồi rưng rưng nước mắt mà đáp rằng:
— Quan bão-giá người ôi! sự nầy là mẹ con ta xin phú thát cho người lo liệu, xin người ráng sức đồ mưu toan kế, mà giúp đở nước nhà, may đặng khôi phục cơ đồ, thì công ơn nhà ngươi sẻ ghi chạm nơi giữa đền vàng, mà lưu truyền hậu-thế.
Chiêu-căng-Mu liền sắp đặt hành trang, và từ giả Hoàng-Hậu rồi đi với ít tên quân nhơn, thẳng xuống Saigon, vào nhà sứ quán nghỉ ngơi, sáng bửa sau đến trước dinh môn, xin vào ra mắt.
Đức Nguyển-Ánh bữa ấy ra giữa soái phủ, hai bên có các tướng văn vỏ hội tề; kế quân hầu vào báo rằng có quan bảo-giá nước Cao-man tên là Chiêu-căng-Mu xin vào ra mắt.
Đức Nguyễn-Ánh liền hạ lịnh cho vào.
Chiêu-căng-Mu lật đật vào dinh bái yết xong rồi, Đức Nguyển-Ánh mời ngồi nơi ghế mà hõi rằng: quan bão gióa đến đây có việc quốc sự chi chăng?
Chiêu-căng-Mu khép nép thưa rằng:
— Bẫm lịnh Nguyên-soái, tôi có một việc quốc sự rất ngặt nghèo, nên bôn tẫu đến đây, cầu xin Nguyên-soái đem binh cứu trợ, trong nước tôi mới sanh ra một cuộc đại biến, quốc-vương tôi là vua Nặc-Tôn bị em là Nặc-Vinh giết chết, dành nước đoạt ngôi, làm cho cả nước Cao-man lê dân đều thán oán. Nặc-Vinh nầy là một đứa tham tàn bạo ngược, gây nên một sự rối loạn triều cương, và ỷ thế cậy oai, mà làm chuyện thương tàn cốt nhục, nên kẻ thần hạ liều sanh xả tử, phò tá Hoàng-Hậu cùng Hoàng-Tử đào nạn xuống đây, đặng cầu cứu cùng đại ban Nguyên-soái, xin Nguyên-soái niệm tình chúa tôi là lân ban tiểu quốc, thì đem binh diệt loạn phò nguy, khôi phục cơ đồ cho nước tôi và tôn Hoàng-tử Nặc-In lên ngôi, nối nghiệp tiền-vương, đặng cho quốc thới dân khương, hưởng sự thăng bình hạnh phước, chừng ấy tệ-ban sẻ xin phục tùng dưới quyền bảo-hộ của quới quốc, mạ thọ tước xưng thần, ngõ hầu nhờ chút bóng cờ Việt-Nam chỡ che, thì quốc-vương ôi và cả thãy thần dân đều cãm đội ơn đức của Nguyên-soái vô cùng, chẵng hề dám quên lời giao ước.
Đức Nguyển-Ánh nghe nói liền hỏi rằng:
— Nặc-Vinh giết anh soán ngôi như vậy, cã triều thần nước người chẳng có một ai ra mà phò nguy dẹp loạn đặng sao?
— Bẩm Nguyên-soái cã triều-thần và quốc dân thãy đều bất bình, nhưng thấy Nặc-Vinh, thế mạnh binh nhiều, nên không ai dám ra đối đương khán cự, chĩ có kẻ hạ thần với một hai người trung nghỉa, thấy vậy chẳng lẻ mặc thị điềm nhiên, song thế yếu sức cô, nên phãi phò tá Hoàng-Hậu cùng Hoàng-Tử xuống đây, ngõ cầu cứu với đại ban, đặng khử trừ quân giặc.
Chú thích
▲Chơn-Lạp là nước Cao-man.
▲điền điệp là săn bắn.
▲Lảng hạnh cuồng sanh là người hay điên vì tình, lẵng vì nết.
▲Phù đồ là chùa là tháp của phật.
HỒI THỨ MƯỜI MỘT
Đổ thanh-Nhơn chinh phục Cao-man
Hoàng-Nặc-Vinh vĩnh biệt Băng-Nhả
Đức Nguyển-Ánh nghe Chiêu-căng-Mu nói, thì day lại hõi rằng:
— Bây giờ Hoàng-Hậu và Hoàng-Tữ ở đâu?
— Bẩm đại Nguyên-soái. Hoàng-Hậu và Hoàng-Tử của tôi, còn ở tại Long-xuyên trú ngụ.
Đức Nguyển-Ánh nói: vậy thì Hoàng-Hậu và cung-quyến phãi ở tại Saigon tạm trú ít ngày, đặng chờ ta dẹp yên quân nghịch là Nặc-Vinh, rồi chừng ấy ta sẽ cho đưa về rước, nói rồi liền truyền cho quan lể-bộ, phãi sắm sửa một chổ cung viện trong thành, và bão rước Hoàng-Hậu cùng cung-quyến vào thành ngơi nghỉ, rồi hạ lịnh sai quan chưỡng-dinh là Đổ-thanh-Nhơn, Dương-công-Trừng, với Hồ-văn-Lân đem ba ngàn binh mả tấn lên Cao-man, còn Chiêu căng-Mu, lảnh một đội quân làm tiền phong dẫn lộ. Lúc nầy nằm tháng sáu năm Kỷ-hợi (1779).
Chiêu-căng-Mu thấy Đức Nguyễn-Ánh chịu cho cứu binh, và tiếp đãi Hoàng-Hậu cùng cung-quyến cách lể nghi tữ tế, thì hết lòng khâm phục rồi khấu đầu cãm ơn.
Đổ-thanh Nhơn lãnh mạng tấn binh lên Cao-man, chẳng đầy năm ngày, đả tới Nam-vang địa phận.
Nặc Vinh nghe Đổ-thanh-Nhơn lên, thì lập tức đem binh kháng cự, bị Đỗ-thanh-Nhơn đánh một trận, giết chết chẳng biết bao nhiêu, binh Cao-man đều táng đỡm kinh tâm, rồi kéo nhau chạy hoãn.
Nặc-Vinh thấy quân của Đổ-thanh-Nhơn đều là binh cường tướng dõng, ào ào lước tới như hổ như lang, thì khiếp vía kinh hồn, liền đem thân quyến và ít trăm quân nhơn, nửa đem lén ra ngoài thành rồi chạy tuốt về Ô-Đông mà trốn.
Đổ-thanh-Nhơn đem binh rược theo, khi tới Ô-Đông, bỗng thấy một tướng Cao-man, tên là Thạch-an-Non, hình thù cao lớn, vóc dạng dình dàng, trên đầu đội một cái mão lông công, rè ra hai bên mép tai như hình cây quạt, giựa ngực nịt một tấm yểm-tâm bằng thiết, có vẻ một mặt rất dử như mặt Bà-Chằn, tay cầm một cây chà-gạt rất dài, lưng vận một cái chăn vàng vén lên khõi gối, và dắc một ngọn dao sáng lòa bên vai, ngồi trên lưng voi rồi kéo binh xốc tới cự địch.
Hồ-văn-Lân liền đốc quân xốc lại hổn chiến một trận rất dử, tướng ấy ngồi trên lưng voi, hươi chà-gạt, chuyển gồng đánh với Hồ-văn-Lân một hồi, Hồ-văn-Lân liền giục ngựa chạy dang ít bước; Tướng ấy giục voi rược theo, rồi hai chơn đứng trên lưng voi, hai tay hươi chà-gạt đánh tới rất dử.
Hồ-văn-Lân quày ngựa né qua, rồi chạy thẵng ra ngoài đồng trống.
Tướng ấy lai giục voi rược theo, quyết giết Hồ-văn-Lân cho được.
Hồ-văn-Lân liền rút cây súng tiểu-thương máng bên yên ngựa, day lại nhắm tướng ấy bắn ra một mũi, té nhào xuống voi rồi chết.
Nặc-Vinh thấy Thạch-an-Non bị Hồ-văn-Lân bắn chết, tức thì vào thành dắc nàng Chất-băng-Nhả chen lộn theo quân đặng kiếm đường đào tỵ.
Kế đó Dương-công-Trừng đốc binh áp tới, lớp tên bắn, lớp thương đâm, giết quân Caoman một trận, thây nằm đầy đất, máu chãy đõ đồng, quân Cao-man thất kinh rùng rùng kéo nhau chạy hết.
Khi Nặc-Vinh dắc nàng Chất-băng-Nhả chạy ra gần khõi vòng binh, thì trời đã tối, bốn phía tiếng quân ó ré, hai bên cây cỏ lờ mờ, thình lình nghe nàng Chất-băng-Nhả la lên một tiếng châu-ôi, rồi tức thì xiểu xuống; Nặc-Vinh hoãn kinh lật đật lại đở nàng dậy, thấy một mũi tên gâm ngang bàn tang, máu ra lai láng.
Nặc Vinh thấy vậy rất thảm thiết đau lòng, liền nắm mũi tên rút ra, Chất-bang-Nhả la lên một tiếng trời ôi, rồi nhào lăng mà bất tỉnh.
Nặc-Vinh vội vả hai tay ôm nàng đở lên, và cỏng nàng trên lưng, rồi chạy tuông vào rừng kiếm chổ mà trốn lánh quân giặc; chạy đặng một đổi, nghe đã vắn tiếng binh mả rược theo, Nặc-Vinh ngó ra chung quanh, bổng thấy trên gò kia có một đống rơm khô, liền cỏng Chất-băng-Nhã chạy tuốt lên gò, rồi để nàng nằm trên đống rơm mà nghỉ, thì nàng đã mệt đúi, phần chổ thương tích làm cho nhức nhối đang đớn vô cùng.
Chất-băng-Nhã nằm xiểu trên đống rơm, rên la than khóc nghe rất thãm thiết.
Nặc-Vinh lúc bấy giờ đã rối loạn tâm thần, phần sợ quân giặc rược theo, phần thấy chổ thương của Chất-băng-Nhả rất nặng, máu chảy dầm dề, liền chạy xuống suối gần đó, lấy khăn nhúng nước, chạy lên rữa chậm chổ thương, chùi máu sạch sẻ, rồi xét vạt áo nịt lại và hỏi rằng:
Nàng ôi! chổ thương ấy có bớt nhức chăng? trong mình nàng bây giờ có khỏe chăng?
Nàng Chất-băng-Nhả nghe hõi mỡ mắt ra ngó Nặc-Vinh, rồi rưng tưng hai hàng giọt lụy và lắt đầu đáp rằng:
Chàng ôi! thế nầy thì thiếp không còn trông mong sống đặng, vậy thì chàng hảy để thiếp ở đây, đặng chàng lo mà tìm phương lánh nan đi cho kíp, nếu chàng bịn rịn theo thiếp đây, thì e chẵng khỏi vào tay quân nghịch, nói rồi liền nhắm mắt lại và vật mình xiểu trên đống rơm.
Nặc-Vinh thấy vậy liền quì một bên nàng, rồi lật đật đỡ nàng nằm trên bấp chơn, và nói rằng:
— Vương-phi nàng ôi! sự nầy là tại nơi ta làm cho nàng ngày nay phải bị nhằm thương tích, và ra thân thãm khổ đau đớn như vầy, thì ta nở lòng nào bỏ nàng lại đây một mình, mà tìm phương lánh nạn cho đặng.
Vương-phi nàng ôi! nàng ráng gượng dậy, cho ta cỏng ra khỏi rừng, mà trốn lánh quân giặc, rồi sẻ kiếm thuốc nịt cứu chổ thương; nàng ôi! ta khấn vái phật trời cho nàng mạnh giõi mà thoát khõi nạn nầy, thà ta chịu chết giữa chốn vạn nhẩn thiên đao, nhưng mà ta không nở nào đánh bỏ nàng giửa chốn cõ rậm rừng hoang nầy đâu, nàng ráng gượng dậy cho ta cõng đi, vì tại ta mà nàng phãi lâm nhằm đường tên mũi đạn, củng vì tại ta mà ngày nay nàng phải nuốt thãm ăn sầu, xin nàng hãy tha thứ tội lỗi cho ta, vì bụng ta làm thì dạ ta phải chịu, nàng ôi! nàng hảy gượng dậy cho ta cỏng đi.
Nàng Chất-băng-Nhả nằm dựa nơi gối Nặc-Vinh, lăng qua trở lại, tay ôm lấy đầu rồi mỡ mắt ngó lên, thì hai tròng thu ba, chứa chan giọt lụy mà nói rằng:
— Hoàng-đệ chàng ôi! chàng có tội chi, mà phòng xin tha thứ, cái tội lổi ấy chính là tội của thiếp đây, thiếp xin nhận lấy, vì thiếp đã mang môt tội nặng, là tội thất trinh thất tiếc cùng chồng, phận thiếp làm một người đàn bà con gái, mà không giữ đặng tiếc hạnh, không trọn đặng ân tình cùng chùng, thì nhục nhơ nào còn hơn cái nhục nhơ ấy đặng. Vì vậy nên ngày nay trời phật khiến cho thiếp phải chịu cái họa đường tên mũi đạn, thảm khổ đau đớn như vầy, đặng mà trừng phạt thiếp về tội trái luật luân thường, vậy thì thiếp xin nhận lấy tội ấy cùng phật trời, dầu thiếp chẵng may mà chết bụi nằm bờ, thì thiếp củng cam lòng, chẳng hề dám đổ tội ấy cho chàng đâu, và củng chẳng có đền chi phiền trách chàng hết, chàng hảy để thiếp nơi đây, đặng chàng mau tìm phương mà lánh nạn.
Hoàng-đệ chàng ôi! thiếp củng cầu xin cho chàng ra khõi vòng binh trận giặc, mai sau chàng có nhớ đến thiếp là kẽ nghĩa củ tình xưa, thì xin kiếm thiếp nơi chổ đống cỏ gò rơm nầy, là chỗ thiếp vùi xương gởi xác, và là chổ phần mộ của đứa gái bạc mạng hồng nhan nầy, mà chàng nhểu một giọt nước mắt xuống đây, gọi là chút tình thương nhau trong cơn tử biệt, nói rồi hai tay ôm đầu xiểu xuống.
Nặc-Vinh nghe nàng Chất-băng-Nhả than thỉ mấy lời rất thãm thiết, thì ruột héo gan xàu, và động lòng hối hận mà đáp rằng:
— Vương-phi nàng ôi! ta là một đấng nam nhi khí phách, tội ta đã làm, thì tự ta phãi nhận, ta là một đứa đã mắc bốn đều đại tội, ta phải khai ngay, không còn dấu diếm ai nữa; tội ta khi mang trời phật thánh thần, mà làm sự gian dâm tàn ngược, tội ta gây loạn cho quốc gia xã-hội, mà làm cho trong nước sanh linh đồ thán, dấy động can qua, tội ta giết anh ta mà soán ngôi, làm cho vặn-loạn cang-thường, thương tàn cốt-nhục, và ta mắt một tội với nàng, là tội ta làm cho nàng phãi thất trinh thất tiếc cùng chồng, đến đổi ngày nay nàng phải bị đường tên mũi đạn, ra thân khổ sở như vầy, thì ta còn chối gì nữa đặng.
Nàng ôi! thật ta bây giờ là một đứa đại-ác tội-nhơn, ta tự nhận tội ta với phật trời, và ta tự cáo lỗi ta cùng nàng, xin nàng tha thứ; nói tới đây thì nàng Chất-băng-Nhả té xiểu vào mình Nặc-Vinh, rồi mê mẫn tâm thần, mình nóng hừng hực như lữa.
Nàng Chất-băng-Nhả, bấy giờ lúc rên lúc khóc, cơn tỉnh cơn mê, Nặc-Vinh quì một bên, tay ôm lấy nàng, mà ruột đau đòi đoạn, một lát nàng lại rên lên, hơi thở thoi thóp, và nói tiếng thãm thiết rằng:
Chàng ôi! tội chàng thiếp đã thứ cho, mà tội thiếp thì trời không dung đặng, thế thì thiếp cùng chàng phải vỉnh biệt trong lúc bây giờ, không còn thấy nhau đặng nữa.
Chàng ôi! tội thiếp đã đáng rồi, chàng đừng buồn rầu thương tiếc chi nữa, thiếp sống thì thêm hổ thẹn lương tâm, đọa đày xát thịt. Trời phật kia ôi! tội thiếp đã đáng rồi, xin hảy bắt hồn thiếp đi, thiếp chẵng dám phàn nàn than trách chi hết; nói tới đây, thì tiếng đã khan, hơi đã đúi, cổ đã nghẹt, hồn đã mê, hai mắt trao tráo trực thị lên trời, dường như có ý trông ngài, ngó ngài, mà coi ngài xử định lẻ nào, trong cái giờ cúi cùng nầy, là giờ của nàng đã ăn-năn sấm-hối.
Nặc-Vinh lúc nầy đôi mắt nhìn nàng, mà giọt lệ thương tâm, suồi sục tràn ra, tợ hồ một lưởi thanh gươm ai đã đâm sấn vào lòng, làm cho ruột tầm đứt ra từng đoạn, bèn ôm nàng để xuống, thì tay chơn đã lần lần lạnh ngắc, rồi một mảnh tâm hồn của nàng, đã từ giả xát thịt bay đi, vởn vởn vơ vơ, phưởng phất theo lối ngọn gió đường mây, dật dờ theo chốn rừng cây cụm cỏ.
Nặc-Vinh thấy một cuộc tang thương thảm trạng hiện ra trước mắt, thì nghỉ mà động tình ly hận, xót dạ ân tình, rồi kêu nàng một tiếng mà nói rằng:
Chất-băng-Nhả nàng ôi! cũng vì ta mà nàng phải chết tức tưởi như vầy, giửa chốn cõ rậm rừng hoang nầy, ta biết lấy chi mà mai táng nàng đặng? Chất-băng-Nhả nàng ôi! ta khấn vái phật trời cho linh hồn nàng sống thì khôn thác thì thiên, đặng theo cùng phật trời mà tiêu diêu nơi miền lạc thổ, nói rồi bèn lấy rơm vấn thây nàng lại, rồi bẻ ít nhánh cây đậy lên, đó là chổ phần mộ của nàng, một giấc yêm điềm, hương tàng khói lạnh; thãm thay, từ đây chỉ thấy quạ viếng dều thăm, kiến bu ruồi đậu.
Thật là:Tới lui bịn rịn hơi ruồi kiến,
Thăm viếng lăng xăng lủ quạ dều.
Nặc-Vinh lấy rơm đấp điếm cho nàng xong rồi, liền lước bụi băng rừng, tìm đường trốn lánh quân giặc, chạy đi một hồi, đã mỏi mệt tinh thần, mà trời còn khuya khoắt, bổng thấy một cái Tha-la[1] dựa đường, Nặc-Vinh liền vào ngồi dựa bên cột mà nghỉ, tưởng tới cái cãnh ngộ khổ nảo gian truân chừng nào, thì trong lòng càng thêm buồn thãm, rồi hai mắt liêm diêm, bổng thấy một người gái mặt mày dử tợn, tóc bõ xù xụ hai bên, mình mẫy đen như thang hầm, hình trạng xem rất kỳ quái, tay cầm một cái trành vầm đứng trước Tha-la, chỉ ngay vào mặ Nặc-Vinh mà nói: Nặc-Vinh, mi là một đứa đại ác sát nhơn, ta là một kẻ vô tội, sao mi nở đem độc dược giết ta, rồi bõ ta vào cấm-cung đốt cho phồng da cháy thịt, đặng cứu nàng Chất-băng-Nhã đem đi
Mi hãy thường mạng cho ta, bằng không thì ta giết mi mà trã hận, nói rồi xốc lại, lấy trành-vầm nhắm ngay đầu Nặc-Vinh đánh xuống một cái rất mạnh.
Nặc-Vinh thất kinh la lên một tiếng, rồi giựt mình mở mắt thì chẳng thấy ai, Nặc-Vinh nhớ lại khi trước có giết một đứa tỹ-tất, đem đến bõ vô cấm-cung, đặng cứu nàng Chất-băng-Nhả, và thiêu hủy cấm-cung, làm cho con tỷ-tất nầy da phồng thịt nám; nhớ đến đó thì bắt rởn óc rùng mình, rồi dớn giác ngó quanh, thấy một bóng đen thắp thoán sau lưng, thì hoản vía kinh hồn, liền nhãy ra khỏi Tha-la rồi đâm đầu vụt chạy, vừa chạy vừa ngó lại, thấy bóng đen rược theo. Nặc-Vinh tuông bờ lước bụi, chạy chừng nào, thì sau lưng nghe tiếng thình thịch rược theo chừng nấy, chạy một hồi mắt đổ hào quang, tai bùng con ráy, thấy hai bên cây cỏ hiện lên phưởng phất như quỉ như ma, nghe phía đàng sau, bờ bụi ào ào như giông như gió, làm cho chàng ta chạy đả sảng hoần, bất kể bờ bụi chông gai, không nài nổng gò hầm hố, chạy đặng hồi lâu, kế trới rựng sáng, bao nhiêu những bóng tối tâm mờ mịt lần lần tang đi.
Nặc-Vinh lúc bấy giờ mới định tỉnh tâm-hồn, rồi ngồi dựa mé rừng, hào hễn thở dốc, ngó xuống thấy hai chơn bị gai đâm chông xóc, máu chảy dầm dề, lại thấy quần áo đều rách tả tơi, mảo văn một nơi, giày văn một ngã, và nghỉ lại khi ngồi tại Tha-la, thấy một bóng đen quái gở rược theo, thì dởn óc dùng mình, trống ngực nổi lên một trận phập phồng, đánh nghe thình thịch; cái bóng oan-hồn uổng-tử ấy cứ theo phưởng phất tưởng tượng trong trí Nặc-Vinh, làm cho Nặc-Vinh đi đâu nghe như bóng ấy rược theo bên lưng, ngó đâu như thấy hình ấy hiện ra trước mặt, đó rồi lần lần tìm đường mà đi nhưng trong ngực trái tim cứn hãy xoi xói.
Khi đi đặng một đổi, bổng tới mé sông, ngó ra thấy sóng lặng gió êm, thinh thoan một giải trường giang, nước trong trắng giả, sông nầy ỡ trên biễn-hồ chảy xuống Nam-vang, rồi nhập với sông Cửu-long chảy ra biễn lớn.
Nặc-Vinh lần xuống mé sông, hai tay bụm nước uống cho giãi khát, xảy thấy một chiếc ghe đương đi giửa sông, thì lòng rất mừng rở, bèn kêu ghe ấy xin cho quá giang, đặng qua Vủng-xà-Năn[2] rồi tuốt lên Biển-Hồ mà đào nạn.
Người đứng trên muôi ghe ấy, thấy Nặc-Vinh xin quá giang, thì châm châm mắt ngó Nặc-Vinh một hồi, rồi quày ghe vào mé.
Nặc-Vinh thấy ghe vào mé, liền mừng rở bước lại nói cách nhỏ nhẻ rằng:
— Ta đi lở đường tới đây, xin ngươi làm ơn đưa ta qua sông, tiền công bao nhiêu ta sẽ trã đủ.
Hai người dưới ghe đứng nhìn Nặc-Vinh châm chỉ từ trên tới dưới, rồi đáp rằng:
— Ghe chúng ta chẵng phải là ghe đưa hành khách qua sông, song ngươi lở bước tới đây, thì chúng ta làm ơn đưa giùm, không cần tiền bạc chi hết.
Nặc-Vinh nghe nói thì đáp rằng: nếu hai người có lòng tử tế như vậy, thì ta rất cám ơn; nói rồi liền bước xuống ghe, hai người ấy tức thì nhổ sào dang ra, rồi nhắm ngay giữa sông đi tới, khi ghe ra khõi mé một đỗi xa xa, người đứng sau lái ngó Nặc-Vinh và nghiêm sắc mặt mà nói rằng:
— Nặc-Vinh, ngươi đến đây là chỗ cùng đồ tuyệt mạng, gặp nhằm bọn ta thì ngươi phải bó tay chịu tội cho rồi, người đã lọt vào cái bẫy rạp của ta, dẩu ngươi có tài độn địa thăng thiên, củng không thế gì thoát đặng.
Nặc-Vinh nghe nói thì sững sờ, và rất nên kinh ngạc, rồi ngó sững người ấy mà hỏi rằng:
— Ngươi là ai mà dám bảo ta bó tay chịu tội?
Người kia cười gằn một tiếng và nói rằng:
— Người có mắt mà chẳng có con ngươi, ta là tướng của đại Nguyên-soái Nguyễn-Ánh, ta tên Dương-công-Trừng, vâng lịnh chủ tướng Đổ-thanh-Nhơn đặng đến đây đón ngươi mà bắt, nói rồi lấy tay chỉ người đứng một bên và nói tiếp rằng:
— Còn người nầy là Chiêu-căng Mu, ở một triều một nước cùng ngươi, mà ngươi không biết sao? Nói vừa dứt lời, thì người ấy liền lấy nón xuống, và dở khăn bao mặt ra.
Nặc-Vinh nhìn thấy rỏ ràng là Chiêu-căng-Mu, và nghe nói tướng của Đổ-thanh-Nhơn, thì ba hồn bãy vía đều bay đi, tức thì đâm đầu xuống sông cái đùng rồi lặng mất.
Dương-công-Trừng liền nhảy theo, đó rồi người lặng kẻ hụp, rược nhau ào ào dưới sông, lội như con rái, còn Chiêu-căng-Mu cũng chèo ghe rược theo tiếp bắt.
Nặc-Vinh lặng dưới nước một hồi, rồi nổi lên, thấy Dương-công-Trừng lội theo, thì lại ngấm xuống.
Dương-công-Trừng biết Nặc-Vinh muốn kiếm đường vào bờ, bèn lặng theo đón ngăn phía trong mé sông, còn Chiêu-căng-Mu chèo thuyền ngăn cản phía ngoài mà đón bắt.
Nặc-Vinh lặng một hồi nữa rồi nỗi lên, thấy Dương-công-Trừng lội tới chận đầu, Nặc-Vinh quày lại lội ra ngoài khơi, thì Chiêu-căng-Mu lại bơi thuyền rược tới, Nặc-Vinh tức thì ngấm xuống.
Dương-công-Trừng bèn kêu Chiêu-căng-Mu bão phãi coi chừng nó lặng vô bờ. Chiêu-căng Mu liền chèo ghe dọc theo mé bờ, rồi hai người đón một hồi lâu, mà không thấy tăm dạng Nặc-Vinh nỗi lên đâu hết.
Dương-công-Trừng lấy làm lạ, nói với Chiêu-căng-Mu rằng:
— Thằng khốn nầy thế nó đã chết chìm giữa sông rồi sao, mà không thây nổi lên mặt nước? Nói rồi liền leo lên ghe, hai người chèo dọc theo mé sông mà coi chừng, bổng thấy một về cỏ rất to, đương lêu bêu trôi trên mặt nước.
Dương công-Trừng bèn ngó châm chĩ về cỏ ấy một hồi, thấy chính giữa về cỏ có hơi động dạng, liền day lại nói nhỏ với Chiêu-căng-Mu rằng:
— Chắc thằng khốn nầy núp dưới về cỏ đó chẵng sai, nói rồi liền tuột xuống sông, sẻ lén lặng lại về cỏ, khi lội lại gần thấy quã thật Nặc-Vinh đương đeo theo dưới về cỏ mà núp, Dương-công-Trừng lật đật lội lại chụp nó một cái, nhưng chụp vừa tới thì nó đã vuột ra khõi rồi tức tốc lội đi.
Chiêu-căng-Mu ở trên ghe thấy Nặc-Vinh đương lặng dưới nước, bèn kêu Dương công-Trừng nói rằng:
— Thằng Nặc-Vinh thế nó muốn lặng vô bờ, tướng quân phải lội tới cho mau mà chận nó lại.
Dương-công-Trừng nghe nói tức thì lội theo, còn Chiêu-căng-Mu ỡ trên thuyền rược tới, hai người đón ví một hồi làm cho Nặc-Vinh lội lặng đả mệt sức đuối hơi, tay chơn đều bủng rủng, rồi lửng đững giửa sông, bị Dương-công-Trừng rược theo, bắt đặng đem lên trói lại để nằm dưới khoang, rồi hai người chèo ghe trở về, đem Nặc-Vinh nạp cho Đổ-thanh-Nhơn phát lạc.
Bửa sau Đỗ-thanh-Nhơn hội các văn võ bá quan Annam và Cao-man tại thành Ô-đông, nghị xữ Nặc-Vinh về tội tữ hình, rồi hạ lịnh cho đao phủ quân đem ra trước viên môn trảm thủ.
Chiêu-căng-Mu xin lấy đầu Nặc-Vinh bêu trước cữa thành và đem thây bỏ ngoài đồng nội, đó rồi tư tờ cho đức Nguyễn-Ánh hay, xin rước Hoàng-hậu và cung-quyến về, tôn Hoàng-tử Nặc-In lên ngôi, phong Chiêu-căng-Mu làm nhiếp chánh, và đễ Hồ-văn Lân ỡ tại thành đô Nam-vang mà bão hộ nước Cao-man.
Còn Đổ-thanh-Nhơn rút binh về Saigon, từ đây nước Cao-man thuộc về đức Nguyễn-Anh bão hộ.
Chú thích
▲Tha-la là cái chòi nhỏ của Cao-man cất dựa bên đường để cho hành khách nghĩ mát.
▲Vủng xà năn, là kompôngchnang.
HỒI THỨ MƯỜI HAI
Đức Nguyễn-Ánh tức vị xưng vương;
Tướng Cao-man đồn quân dấy loạn.
Qua tháng 11 năm Kỹ-Hợi năm (1779). Lúc bấy giờ Đức Nguyển-Ánh đương lo chấn chỉnh đất Nam-kỳ, định lập bản đồ phân làm ba trấn: một là Trấn-Biên, hai là Phan-Trấn, ba là Long-Hồ, và chiêu mộ dân cư, mở mang điền thổ.
Qua tháng giêng năm canh-tị (1780) các tướng văn vỏ xin tôn Đức Nguyển Ánh lên làm tước vương, ngài khiêm nhường không chịu, và nói rằng: quân nghịch chưa trừ, thù nước chưa trã, mà lên ngôi xưng vương, thì lòng ta không khứng.
Các quan xúm lại gắn vó khuyên ngài nhiều lần và nói rằng:
— Xin Nguyên-soái phãi bằng lòng tức vị quốc-vương, đặng mở rộng oai quyền trong nước, mà chiêu nạp nhơn tài, thưởng phong tướng sỉ, cho các xứ thần dân mến đức nghe oai, mới vui lòng đến mà đầu hàng qui phục, chừng ấy nước mạnh binh nhiều, thì dẹp trừ quân giặc Tây-sơn mới dể.
Đức Nguyển-Ánh thấy các quan đều khuyên nào gắn vó, mới chịu lên ngôi quốc-vương, đó rồi cất một cái Thái-hòa-Điện trong thành Saigon, bên hửu cất một tòa Văn-minh-Điện, bên tả cất một tòa Vỏ-hiển-Điện, và lập thêm dinh trại, sắp đặt lễ nghi, đâu đó cuộc tiệc hoàn thành, bửa nọ làm lễ tôn Đức Nguyển-Ánh lên ngôi quốc-vương, các quan văn vỏ đều có thứ tự lớp lang, y quang tề chỉnh, rồi ra trước triều đình, tung hô bái yết.
Đức Nguyển-Ánh lên ngôi quốc-vương rồi, liền phong cho Đổ-thanh-Nhơn làm chức “Ngoại-hửu-Phụ-chánh thượng-tướng công.” Tống-phước-Khuôn làm chức ngoại-tã. Tống-phước-Lương làm chức nội hửu. Trần-đại-Thể làm chức Tham-nghị, Hồ-Đồng làm chức lại bộ, Trần-phúc-Giai làm chức Hộ-bộ, Nguyễn-Nghị làm chức Lể-bộ, Trần-minh-Triết làm Hình-bộ, và phong các tướng sỉ mổi người đều đặng thăng quan tấn chức, rồi thiết trần đại yến trong thành vua ba ngày, đặng khao thưởng tam quân tướng sỉ.
Trong năm ấy Nguyên-phối[1] cũa Đức Nguyển-Ánh là Tống-thị Vương-phi, hạ sanh Hoàng-tử-Cãnh tại Saigon, là con đầu lòng của ngài, sau phong làm Đông-cung thái-tử.
Cách ít lâu tại Tràvinh có một tướng Cao-man tên là Ốc-nha-Suất, đồ mưu dấy loạn, bấy lâu dân Cao-man ở Tràvinh, đả thuộc về Nam-kỳ ta cai trị, còn từ Nam-vang, sắp lên, thì mới thuộc về địa phận nước Cao-man.
Lúc bấy giờ Ốc-nha-Suất xui mưu đồ loạn, xúi giục dân Cao-man sanh lòng phản nghịch, dấy động cang qua.
Đức Nguyển-Vương[2] nghe thì thạnh nộ, bèn sai Đổ-thanh-Nhơn và Dương-công-Trừng, đem binh xuống Tràvinh mà diệt trừ quân nghịch.
Tướng Cao-man là Ốc-nha-Suất nghe Đổ-thanh-Nhơn đại cử hùng binh kéo xuống, thì thất kinh rồi ngăn đồn bế lủy mà kháng cự, chung quanh đồn lũy đều là hào hố vủng bàu, bùn lầy ướt ác, quân Cao-man ỹ cậy thế hiểm, núp ẩn trong đồn, rồi lấy ná bắn ra mà cự địch, còn binh ta bị lầy áp vô không đặng.
Dương-công-Trừng thấy vậy bèn hạ lịnh bảo đóng tam bãn trẹt lường, và lấy lòi tói xuyền lại, trên tam đều có để thang leo lên hảm đồn, và bện tre làm vạt để ngăn tên bắn, rồi dắc nước ngoài sông tràn vô, làm cho chung quanh đồn lủy đều ngập.
Lúc bấy giờ binh ta chống tam bản xốc tới, quân Cao-man trong đồn bắn ra bao nhiêu, đều bị vạt tre đở hét, không trúng một ai, chừng các tam bản của binh ta lại gần dựa đồn, liền bắt thang leo lên, lớp chém lớp đâm, quân Cao-man hoãn kinh, đều bỏ đồn kéo nhau chạy hết.
Đổ-thanh-Nhơn rược theo bắt đặng tướng Cao-mên là Ốc-nha-Suất, liền chém đầu, còn bao nhiêu quân Cao-man đều xin hàng phục, quân Cao-man ở Trà-vinh từ đây chỉ lo giử phận làm ăn, an cư lạc nghiệp, mỗi năm đều nạp thế đóng sưu, chẵng dám sanh sự dấy loàn phản nghịch.
Chú thích
▲Nguyên phối là vợ chánh, vợ lớn
▲Nguyễn-vương là Đức Nguyển-Ánh, từ đây xưng là Nguyễn-vương.
HỒI THỨ MƯỜI BA
Đổ-thanh-Nhơn ỹ thế lộng quyền,
Chúa Nguyển-Ánh thi oai trừ nghịch
Từ khi Đổ-thanh-Nhơn lập quân Đông-sơn đánh thắng quân Tây-sơn Nguyển-Nhạc, sau đem binh chinh phạt Cao-man mấy trận, đều đặng dựng cờ đắc thắng, giục trống thành công, bỡi thế nên Đổ-thanh-Nhơn vi cánh càng ngày càng đông, oai quyền càng ngày càng lớn, các tướng tá tâm phúc người nào có tài năng võ dỏng, thì Đổ-thanh-Nhơn đều cho vào một họ của mình, đặng tỏ là người đồng quyến đồng thân, và tăng chức phong quan, để làm kẽ tay chơn nha-trảo.
Vua thấy vậy cũng trọng dụng nhơn tài, rồi phong cho Đỗ-thanh-Nhơn làm chức Thượng-tướng-Công, và phú thát việc binh nhung cho Thanh-Nhơn quãn suất, bởi cớ ấy Đổ-thanh-Nhơn sanh lòng kiêu căng tự đắc, rồi lần lần chẳng thèm kiên nể tới vua, đến đổi việc thủy bộ quan viên, đều muốn chuyên quyền thưởng phạt.
Bữa nọ vua Cao-man sai quan đem lể vật và hai cập bạch tượng rất tốt xuống cống sứ cho Nguyển-vương, khi tới Saigon ghé vào dinh Đổ-thanh-Nhơn ra mắt, và trình các lể vật cống sứ, đặng xin Đổ-thanh-Nhơn bảo tấu cùng vua, Đổ-thanh-Nhơn bèn bão quan sứ Cao-man trỡ về, rồi thâu nhận lễ vật ấy mà làm của riêng mình, chẳng thèm tâu lại cho vua biết, ấy là một sự lạm dụng tới lễ vật của vua.
Chẵng nhửng vậy thôi, cách ít lâu Đỗ-thanh-Nhơn sai tướng tâm phúc qua Biên Hòa, truyền bắt nhơn dân vào rừng đốn vây vở gổ, đốc suất các thợ đóng năm chục chiến-thuyền, và đóng một chiếc tàu lớn, đặt tên là Đông-sơn-chiến-hạm, trên tàu nầy thuyền-lầu phòng buồng, đều chạm trổ sơn son thép vàng, trang sức xem rất hoa mỹ, như một chiếc ngự-thuyền cũa Đức Nguyển-vương kia vậy, trên sân tàu có trí súng đại bác thần-công, sau lái có dựng một cây Huỳnh-Kỳ, đề bốn chữ « Quận-công chiến-hạm ».
Khi chiếc Đông-sơn nầy và năm chục chiến-thuyền kia hoàn-thành, Đỗ-thanh-Nhơn định ngày làm lể khánh hạ, và truyền lịnh cho quan địa-phương Biên-Hòa phãi thâu trong nhơn dân cho đủ số ba ngàn hộc-lương, rồi đem nạp trước ngày khánh thành đặng để dùng làm quân-nhụ[1] cho đạo chiến-thuyền mới lập.
Quan địa-phương nầy vẩn là người phe đảng cũa Đổ-thanh-Nhơn ỷ thế cậy oai, thừa dịp ấy mà ép buộc nhơn dân, chẵng nhửng bức sách hiến nạp quân lương mà thôi, lại còn kiếm chuyện hà lạm bạc tiền, đặng bõ cho đầy túi, bằng ai bất tuân mạng lịnh, thì phải bị khảo kẹp giam còng, và làm nhiều đều rất hà khắc thảm khổ, lại sai một đội quân đi rão các làng các xóm, coi nhà nào lúa nhiều, thì thâu năm bảy chục hộc, một đôi trăm; còn nhà nào có năm mười dạ để chi độ vợ con, thì cũng ép mở ráng dầu, mà tóm thâu sạch hết.
Xưa nay cái thói quân sai-nha, là quân lòng-sâu nọc-rắng độc ác phi thường, mượn thế trộm lịnh quan trên như cáo mượn oai hùm, tới đâu thì nhát khỉ rung cây, kiếm chuyện vu oan cho người, mà làm muôn ngàn sự thương tàn đồng-loại.
Tội nghiệp cho một đám dân nghèo, canh chẳng ngọt, cơm chẳng no, áo không lành, manh không ấm, hể ăn bửa trưa, thì phải chạy lo bửa tối, hột lúa là mạng mạch của đám bần dân, mà lúa không đủ ăn, thì lấy gì mà dưởng nuôi mạng sống, vì vậy mà phải cơ hàng đói khát, thì còn kể gì là pháp luật phãi không, bởi cớ ấy đám dân nghèo nầy, coi nhà giàu nào có lúa đống gạo bồ, thì áp tới xúc ăn, dẩu đánh đuổi củng chẵng đi, ngăn cấm củng không sợ.
Vả lại dân xứ nầy, đều là dân nghèo nàn khổ sỡ, phần bị mùa màng thất phát, không đủ nuôi dưởng vợ con, có đâu dư giã mà hiến nạp cho quân binh nhụ dụng. Vì vậy mà phải thãm khổ cơ hàn, và sanh sự bất bình dấy loạn.
Lúc bấy giờ có quan Huyện lịnh là Đặng-hửn-Tâm, vẫn là người côn bình cang trực, thấy dân bất bình, kẻ dắc vợ người dắc con, quần áo lang thang, cã lũ cã đoàn, kéo nhau tới trước nha môn, quì dưới đất mà khóc than cầu khẩn.
Quan huyện thấy vậy thì hõi rằng:
— Chúng bây nghèo thì mỗi nhà nạp đôi ba hộc lúa, lại không có nữa sao?
— Bẩm quan lớn, chúng tôi nhà đã nghèo, phần thì con đông, phần thì mùa thất, làm mãng năm rồi chỉ dư đặng một đôi giạ, thì đễ nuôi con, mà các cậu sai-nha bão nạp quân lương, thì một đám hài nhi nầy phãi chết đói, thà chúng tôi chịu chết, chớ chúng tôi không nở để cho đứa nhõ, trẽ dại con thơ nầy, mới ở trong lòng mẹ lọt ra, chưa đặng bao lâu mà phải chịu chết đói, thì thãm khổ cho kẽ làm cha mẹ biết là dường nào!
Quan lớn là cha mẹ chúng tôi, cũng như chúng tôi là cha mẹ những đứa thơ bé ấy, xin quan lớn lấy lòng ái truất, mà trần bẩm cùng quan trên, cho chúng tôi miểng nạp quân lương, đặng cứu giúp dân nghèo, cho khõi sự khão kẹp giam còng, và khõ sự cơ hàn đói khát, nếu quan thượng-ty không chịu chuẫn miểng cho bọn cùng dân, thà là chúng tôi chịu chết, chớ chẳng chịu vâng theo lịnh dạy.
Quan huyện thấy dân nghèo kéo đến kêu nài như vậy, thì cãm động lòng thương, bèn trầm tư nghĩ nghị một hồi, rồi day lại nói với chúng dân rằng:
— Chúng dân hãy lui về cứ việc làm ăn, còn việc đó để bổn huyện đích thân lên quan trần bẩm cho, không sao phòng ngại.
Chúng dân nghe quan huyện nói vậy, thì mừng rở cãm ơn, rồi kéo nhau trở về đặng chờ lịnh quan trên phát lạc.
Quan Huyện tức thì làm tờ trần bẩm cho Đỗ-thanh-Nhơn, nhưng Đổ-thanh-Nhơn bất cữ. Cách ít lâu đến kỳ nạp lương, mà không thấy quan huyện giãi nạp.
Đổ-thanh-Nhơn truyền lịnh đòi quan huyện Đặng-hữu Tâm tức tốc lên hầu về việc quân lương trể nãi.
Bữa sau quan huyện đặng tờ, liền sắm sửa khăn áo tuốt lên Trấn-Biên,(Biên-hòa) lúc nầy Đổ-thanh-Nhơn đương ở dưới chiếc thuyền Đông-sơn cùng các tướng thủ hạ.
Quan huyện bắt ghe đưa ra, rồi xin vào ra mắt.
Đỗ-thanh-Nhơn thấy quan huyện bước vào, thì nghiêm sắc mặt và thanh nộ quở rằng:
— Đặng-hữu-Tâm ngươi làm một chức huyện lịnh, sao ngươi chẵng biết thôi thúc nhơn dân nạp lương, đễ cho trễ nãi nhựt kỳ như vậy, thì tội ngươi không còn dung đặng.
Quan huyện đứng cách thong thả, sắc diện có vẻ nghiêm trang rồi bẩm rằng:
— Bẩm Quận-công, tôi làm một chức Hạ-quan, trấn nhậm biên thùy, thay mặt cho nhơn dân bá tánh, đến đây bẩm trần cho Quận-công rõ: từ khi Quận-công hạ lịnh, bão dân hiến nạp quân lương, tôi xem lòng dân cã thãy đều bất bình, và phàn nàn ta thán, vì lê dân xứ nầy đều cơ hàn cùng khô, lúa kém gạo cao, trên chẳng đủ nuôi cha mẹ; dưới chẳng đủ dưởng vợ con, nay Quận-công ra lịnh bão chúng nó phãi hiến nạp quân lương, thì chúng nó lấy gì mà hoạn dưởng thê nhi, chi độ hồ khâu. Bỡi thế mà nhơn dân trong bổn địa, đến khóc lóc kêu nài cùng tôi, vậy nên tôi phãi thay mặt cho nhơn dân, đến đây trần bẫm cùng Quận-công, xin Quận công lấy lòng ái truất, mà biễu tấu cùng vua, chuẩn miễng việc ấy cho dân nhờ, hay là xin lịnh vua đình huởn hạn kỳ, đặng cho chúng nó có đủ ngày giờ mà lo liệu, nếu có lịnh vua thì chúng nó mới chẳng dám kêu nài, bằng không thì tôi e lòng dân bất phục.
Đổ-thanh-Nhơn nghe Huyện lịnh Đặng-hữu-Tâm nói thì trợn mắt nhiếu mày, và vỗ bàn thạnh nộ mà nói rằng:
— Ngươi phải biết rằng: lịnh ta tức là lịnh vua, lịnh vua tức là lịnh ta.[2] ngươi cứ việc y lịnh thi hành, sao ngươi dám trể nải hạn kỳ, mà còn kiếm chuyện kêu nài chuẫn miển, nay ngươi đã cố ý bất tuân, thì ta phãi chém đầu ngươi mà răng he dân chúng mới đặng, nói rồi liền kêu đao phủ-quân bảo đem Đặng-hữu-Tâm trảm thủ.
Đặng-hữu Tâm nghe Đổ-thanh-Nhơn buông lời tự thị nói rằng: lịnh vua tức là lịnh ta, thì biết Đổ-thanh-Nhơn tỏ ý khinh mạng Triều-đình, và xem quốc dân như rơm rát, liền đỏ mặt phừng gan, ngó Đổ-thanh-Nhơn lườm lườm, rồi lấy lời trung ngôn mà mạ nhục và nói:
— Đổ-thanh-Nhơn hởi mi! mi làm một chức quận-công thượng-tướng là một bực cha mẹ của nhơn dân, sao mi chẵng biết bảo hộ dân nghèo, xót thương kẻ khó, nhơn dân là kẻ xích tử của Triều-đình, là cội rể của nhà nước, nếu không có dân thì mi làm quan với ai? ta đã chạy tờ trần bẩm sự cơ hàng cùng khổ của dân, mà mi chẵng có chút lòng thương mi hẵng là một đứa đại-thù đại-hận của chúng dân, và là một đứa tàn tặc thất phu, chớ chẵng phải là nhơn dân phụ mẫu.
Đỏ-thanh-Nhơn, ta tội gì mà mi lại bảo chém ta? ta nói cho mi biết, mi giết đặng cái xát thịt ta, nhưng không khi nào mi giết đặng cái tấm lòng công lý của ta, đầu ta đứt, thân ta chết, nhưng mà lòng cang trực trung thành của ta không bao giờ chết đặng, ta là người hưởng thọ tước lộc cũa nhà vua, thì ta chỉ biết vâng theo mạng lịnh nhà vua, nếu ta có phạm tội, thì Triều-đình được phép xử ta, mi không phép nào dám lấy luật riêng của mi mà xử trảm ta được, ta chẵng phãi là bọn thủ hạ của mi, và cũng chẵng phãi là kẽ hưởng thọ tước lộc của nhà mi, mi chớ quen thói khi quân hiếp chúng, ỹ thế chuyên quyền, ta nói cho mi biết, nếu đầu ta rớt, thì đầu mi cũng rớt, nói tới đây Đổ-thanh-Nhơn hét lên một tiếng, bổng thấy tướng tâm phúc của Đổ-thanh-Nhơn là Đổ-Bản tuốt gươm nhảy tới, hươi một cái, thì đầu Đặng hữu-Tâm đã rớt, rồi truyền quân quăng thây xuống nước.
Thãm thiết thay cho Đặng-hửu Tâm vẫn là người có lòng công bình, cang trực, mến nước thương dân, chẵng thèm đem thói đệ tiện tiểu-nhơn, mà dua mị cúi lòn theo một kẻ lộng quyền hiếp chế, vì vậy mà phãi hy sinh tánh mạng dưới một lưởi đao của đứa táng tận lương tâm, và phãi chôn một khối cang trực trung hồn theo dòng nước chãy.
Lúc bấy giờ nhơn-dân trong địa phương nghe Đặng-hữu-Tâm bị Đổ-thanh-Nhơn giết chết, thì bất bình, rồi cã xứ đều náo động dấy lên, không chịu phục tùng mạng lịnh.
Đổ-thanh-Nhơn liền sai một đạo binh đến dẹp, nhơn-dân thấy quan binh ỹ thế, đều nỗi trận bất bình, rồi kẻ mác người dao kéo nhau ra mà kêu nài kháng cự; quan binh bất kể phãi chẳng, cứ ỹ thế cậy oai, chém giết một hồi, rồi bắt đặng ba chục người dẩn về nạp cho Đỗ-thanh-Nhơn phát lạc.
Đỗ-thanh-Nhơn thấy thì truyền quân trói cã tay chơn, lấy lữa thang đốt cho phồng da cháy thịt mà chết.
Thảm thay cho một đám bình dân nghèo khổ, chĩ lo lam lụ làm ăn, mà bị Đỗ-thanh-Nhơn lấy một thế lực bức sách hoành hành, mà làm sự sát sanh tàn ngược.
Bửa bọ Nguyễn-vương đương ở tư dinh, bàn nghị quốc sự với một ít quan cận thần, bỗng thấy quan Chưởng-cơ là Huỳnh-Thiêm-Lộc, bước vào, xem trạng mạo có vẻ vội vàng hâm hở.
Nguyển-vương day lại ngó Huỳnh-Thiêm-Lộc mà hỏi rằng:
— Quan Chưởng-cơ có việc chi muốn tỏ cùng ta chăng?
— Bẩm[3] chúa thượng có việc bí-mật hạ thần muốn tỏ cho chúa-thượng rõ.
Nguyển-vương nghe nói liền đứng dậy ngó Thiêm-Lộc và bảo rằng:
Quan Chưởng-cơ, ngươi hãy vào Cơ-mật-Viện với ta, nói rồi cả hai đều vội vàng đi tới Cơ-mật-Viện, bước vào đóng cữa lại rồi, Nguyển-vương ngó Thiêm-Lộc mà hỏi rằng:
— Người nói việc bí-mật ấy là việc chi? hảy nói cho ta nghe thữ.
— Bẩm chúa-thượng, trước khi chúa-thượng muốn rỏ việc bí-mật ấy, xin chúa-thượng nói cho Hạ-thần biết rằng: trong Nam-kỳ nầy lúc bây giờ, có một vua hay là hai vua?
Đức Nguyển-Ánh nghe hỏi lấy làm lạ, ngó sửng quan Chưởng cơ Huỳnh-thiêm-Lộc và nói rằng:
Tại Nam-kỳ nầy có một ta là vua đấy thôi, ngươi muốn nói gì ta không hiểu đặng.
Bẩm chúa-thượng, xin lổi cùng chúa-thượng, tôi tưởng trong Nam-kỳ nầy hiện nay đả có hai vau.
Đức Nguyễn-vương nghe nói liền nheo mày trợn mắt, ngó châm chĩ Thiêm-Lộc lấy làm lạ mà hỏi tiếp rằng:
— Ngươi nói tằng tại Nam-kỳ nầy, hiện nay đã có hai vua mà hai vua ấy là ai?
Huỳnh-thiêm-Lộc đứng cách tề chỉnh và đáp rằng:
— Bẩm chúa-thượng, vua thứ nhứt là chúa-thượng đây, cã thãy thần dân ai ai cũng biết, song nay có một vua thứ hai nữa là Đổ-thanh-Nhơn, thì tôi mới biết đây, nên phãi đến tõ cho chúa-thượng rõ.
Đức Nguyễn-vương nghe nói rất rối trí, liền kéo ghế cái rột đứng dậy và hõi rằng:
— Quan chưởng-cơ, sao ngươi gọi Đỗ-thanh-Nhơn là vua thứ hai, là nghĩa lý gì vậy? hãy nói ta nghe.
— Bẩm chúa-thượng, nếu Đổ-thanh-Nhơn chẵng phãi là vua thứ hai, mà sao hắn dám đại ngôn nói với một quan Huyện lịnh kia, câu rằng: « lịnh vua tức là lịnh ta, lịnh ta tức là lịnh vua » như vậy chẵng phải Đổ-thanh-Nhơn là một bực vua nữa sao? và chẵng phải là một người địch thể với chúa-thượng đó sao?
Đưc Nguyễn-vương, nghe nói câu ấy, thì phừng phừng sắc mặt và hỏi rằng:
— Lời ấy Đỗ-thanh Nhơn đã nói tại đâu? và sao nhà ngươi biết đặng?
Huỳnh-thiêm-Lộc liền lấy một cái mật thơ trong áo ra, trao cho Nguyễn-vương và nói rằng:
— Bẩm chúa-thượng, Đỗ-thanh-Nhơn nói câu ấy trong khi làm lễ khánh thành đạo chiến thuyền tại Trấn-Biên, người tâm phúc tôi là Triệu-Hùng có qua dự khán cuộc ấy của Đổ-thanh-Nhơn, thấy vậy nên gởi mật thơ nầy cho tôi hay, đặng bẩm trần lại chúa-thượng rõ.
Đức Nguyễn-vương liền dỡ thơ ra xem, trong thơ đại lược nói như vầy.
« Kính gởi mật thơ nầy cho quan chưởng-cơ Huỳnh-đại-Nhơn rõ, ngày lễ khánh thành đạo chiến thuyền của Đỗ-thanh-Nhơn Quận-công, có quan huyện là Đặng-hữu-Tâm kêu nài xin lịnh vua miểng việc giãi nạp quân lương, Đổ-thanh-Nhơn thạnh nộ và nói rằng: lịnh vua tức là lịnh ta, lịnh ta tức là lịnh vua, rồi truyền đao phủ quân xử trãm quan huyện, vì vậy nên nhơn dân trong địa phương đều bất bình dấy loạn, rồi Đổ-thanh-Nhơn đem binh đánh giết, bắt đặng ba chục lương dân, dụng khổ hình lấy lữa than mà đốt cho phồng da cháy thịt, thật là Đổ-thanh-Nhơn ỷ quyền làm nhiều sự hoành hành bạo ngược, xem Triều-đình như không ai, coi mạng dân như rơm rát, nên hạ thần phải mật thơ cho đại nhơn rỏ biết. »
TRIỆU-HÙNG đốn thủ
Nguyển-vương xem thơ rồi sắc mặt thạnh nộ, và nói: Đổ-thanh-Nhơn dám tự lịnh chuyên quyền vậy sao?
Quan chưởng-cơ Huỳnh-thiêm-Lộc bước tới bẩm rằng:
— Bẩm chúa thượng, Đổ-thanh-Nhơn cậy thế binh cường tướng dỏng mà sanh lòng mạng pháp khi quân, nếu chúa-thượng dung dưởng một kẻ quyền-thần, thì chẵng khác chi nuôi một ghẽ ung độc trong tim gan, ngày kia lớn ra, thì không thuốc nào trị đặng. Nay hạ-thần xem ý Đổ-thanh-Nhơn, đã gấm ghé mong lòng Tháo, Mảng,[4] ắc ngày sau chẵng khõi gây họa cho nước nhà, vậy xin chúa-thượng phải sớm lo ngắc ngọn dứt chồi, nếu để cội lớn vừng to, tàng cao nhánh rậm, chừng ấy dẫu có búa bén rìu hay, cũng chẵng khõi tổn công mệt sức, mà lại e khó nỗi tuyệt hoạn trừ căng, đào cây bứng gốc cho đặng.
Nguyễn-vương nghe quan chưởng-cơ Huỳnh-thiêm-Lộc nghị luận mấy lời, thì nghiêm sắc mặt mà nói rằng:
— Ta chẵng phải nhu nhược như Hiến-đế, hôn mụi như Bình-Đế, thì ta có sợ gì Đổ-thanh-Nhơn sanh lòng Tháo, Mãng. Kế Tôn-thất-Thiện ngoài cửa bước vô, Nguyễn-vương liền đưa cái mật thơ của Triệu-Hùng cho Tôn-thất-Thiện xem.
Tôn-thất-Thiện xem rồi, bẫm rằng:
— Bẩm chúa-thượng, thật Đỗ-thanh-Nhơn nay đã chuyên quyền ỷ thế, đến đổi lương tiền trong kho đều lấy ra dùng về việc riêng của va, không chịu cấp phát cho quân cơ lính tráng trong cung viện.
Đức Nguyễn-vương nghe nói thì lữa giận phừng gan rồi nói rằng:
Ta dòm thấy Đổ-thanh-Nhơn mấy tháng nay, đã lộ ra cái mòi khinh thị ta, vậy để ta dụng một thế lực thủ đoạn cho hắn biết chừng, nói rồi đòi các tướng tâm phúc là Lê-văn-Quân, Tống-phước-Khuông, Tống-phướng-Lương Vỏ-giãng-Triêm đến Cơ-mật-Viện, và bảo các tướng ấy cứ việc thi hành như vầy như vầy……
Các tướng lảnh mạng lui về, Nguyễn-vương liền sai thị vệ đòi quan lễ-bộ thượng-thơ là Nguyển-Nghi, đến và dặn rằng:
— Quan lể-bộ ngươi phải về sắm sửa một tiệc cho long trọng, mời các tướng tâm phúc của Đỗ-thanh-Nhơn đến dự tiệc tại tư dinh cũa ngươi, và tiếp đải các tướng ấy cho tử tế, chờ chừng nào có lịnh ta, thì sẽ bải tiệc.
Quan lể-bộ Nguyển-Nghi vâng lịnh rồi khấu đầu lui ra.
Nguyển-vương liền kêu thị vệ đòi quan chưởng-dinh là Nguyển-huỳnh-Đức và Nguyển-hữu-Thoại vào rồi truyền mật lịnh cho hai người ấy mà nói rằng:
— Hai ngươi phải về sắp đặt các việc cho sẵn sàng, rồi y lịnh thi hành, chẵng nên sơ suất.
Nguyển-huỳnh-Đức và Nguyễn-hữu-Thoại lãnh mang rồi, bái từ lui về, cách ba ngày sau, Nguyển-vương sai quan thị-giảng là Châu-Lâm qua dinh mời Đỗ-thanh-Nhơn định ngày mai phải vào đền đặng bàn nghị quốc sự.
Đặng lịnh, sáng bữa sau Đỗ-thanh-Nhơn sắm sửa y giáp trang hoàn rồi lên ngựa đi với hai mươi quân nhơn thẵng vào thành vua, liền xuống ngựa, để các quân nhơn đứng trước Ngọ môn, bèn đi vòng theo sân rồi bước vào nguyệt-đài, thẳng tới kim-môn, tấn lên Thái-hòa-Điện là chổ vua thường khi triều-ngự, ngó vào đền thì thấy vắng vẽ yêm liềm, chỉ có quan đô-soát với quan lảnh-binh, hai người đương đứng trò chuyện cùng nhau bên cạnh đền.
Đổ-thanh-Nhơn bước tới, quan đô-soát với quan lảnh-binh thấy liền vội vả chạy lại tiếp chào.
Đổ-thanh-Nhơn đáp lể rồi hỏi rằng:
— Hai ông đến đây bao giờ, còn chúa-thượng ở đâu, mà chưa ra triều ngự?
Quan đô-soát nghe hỏi liền đáp rằng:
— Thưa quận-công, chúa-thượng hôm giờ cãm hàn, quới thể bất yên, nên người ở tại hậu dinh, không ra triều ngự, và chúa-thượng có dặn hai tôi ở đây đặng nghinh tiếp quận-công, vậy xin quận-công thẳng vào hậu dinh ra mắt chúa thượng.
Đỗ-thanh-Nhơn liền đi ra khỏi Thái-hòa-Điện, thấy bên hữu một tòa Văn-minh-Điện, bên tả một tòa Vỏ-hiển-Điện, chính giữa có một khoãn rộng để nhiều chậu bông, và một hòn giả sơn cao lên chớn chở, kế thấy cách sân bên kia, chừng trăm thước, có một tòa Trung-ương-Điện, trước sân có thạch trụ lang cang, và để hình kỳ-lân sư-tử.
Khi Đỗ-thanh-Nhơn đi khỏi sân, bước lên chín cấp thạch đầu, rồi vòng theo song ly bước qua tả môn, vào tới Trung-ương-Điện, ngó vô giửa đền, thấy màng bay phưỡng phất, trướng xủ yêm liềm, xem trước ngó sau, mà chẳng thấy vua ra triều ngự.
Đỗ-thanh-Nhơn lấy làm lạ, đứng trước đền ngó xem một hồi, rồi rảo lại đi qua, mà chẳng thấy ai hết, bỗng thấy quan Chưỡng-cơ Nguyễn-hữu-Thoại sau điện bước ra, chào Đổ-thanh-Nhơn và nói:
Thưa quận-công, chúa thượng đương ở hậu-cung, chờ quận-công nghị sự.
Đỗ-thanh-Nhơn hỏi: chúa-thượng khỏe chăng?
— Thưa quận-công, chúa-thượng bị cãm phong sương nên sanh chứng đầu đông,[5] chớ không chi trọng bịnh, nói rồi Nguyển-hửu-Thoại dắc Đỗ-thanh-Nhơn đi tới một sân rộng, hai bên có hai dãy thị-vệ quân-dinh, và một dãy ngự-lâm pháo-thủ, còn bên nam có cất một tòa Cơ-mật-Viện, bên bắc cất một Nguyệt-thanh-Cung, thảy đều rộng rãi nguy nga, cữa tía lầu son, phân biệt đường qua ngả lại rồi Nguyễn-hữu-Thoại đi vòng ra sau.
Khi Đỗ-thanh-Nhơn qua khỏi sân, rồi bước vào hậu điện, thấy trên cửa có để một tấm biểu vàng, đề ba chữ: Cần-chánh-Điện.
Đỗ-thanh-Nhơn liền bước vào, ngó lên long án, củng chẳng thấy vua, thì lấy làm lạ mà tự nghỉ rằng:
Nãy giờ ta đã vào ba điện rồi, chỗ nầy là chỗ hậu điện, sao chúa-thượng ở đâu mà không ra triều ngự? bèn rão lại đi qua một hồi, kiếm coi có tên thị-vệ nào đặng hỏi, kế thấy Nguyển-huỳnh Đức phía sau bước ra tiếp chào.
Đổ-thanh-Nhơn hỏi rằng: chúa-thượng có ngự đây chăng?
Nguyển-huỳnh-Đức đáp rằng:
— Chúa-thượng còn ở hậu-cung, vậy xin Quận-công chờ đây một chút, để tôi vào bẩm cho người hay, rồi sẽ tấn vào ra mắt.
Đổ-thanh-Nhơn gặt đầu, rồi đứng trước ngự đình chờ lịnh, một lát thấy bên cửa đền kéo ra hơn hai mươi đao-phủ quân, đều rút gươm dàn hầu, kế thấy Nguyễn-vương ở trong hậu-cung bước ra, một bên thì Nguyễn-huỳnh-Đức, một bên thì Nguyển-hửu-Thoại và bốn tướng hộ vệ theo sau.
Đổ-thanh-Nhơn thấy Nguyễn-vương ra ngực giữa Kim-quang-điện, bên tả có Nguyển-văn-Thành, bên hữu có Trịnh-hoài-Đức hai bên hộ vệ đứng hầu tề chỉnh khác hơn mọi khi, và xem các tướng sỉ người người đều có vẻ hùng hào oai võ, thình lình nghe trên Trung-ương-điện đánh lên ba tiếng trống, kế thấy hai đội ngự-lâm-quân ở hai bên Trung-ương-điện, kéo vòng ra ngự-đình, giăng ngay hai hàng và rút gươm bồng súng, đứng cách nghiêm chỉnh; Đỗ-thanh-Nhơn rất nên kinh ngạt, và nghĩ thằm rằng: Thế có việc chi quang trọng đây, mà sao lại có hai đội ngự-lâm pháo-thủ dàn hầu củng lạ? Bình nhựt Nguyễn-vương lâm triều nào có quân gia nghiêm nghị như vậy, sao nay lại có quân ngự-lâm dàn hầu tước diện, quân đao phủ chầu chực bên màng, nghĩ rồi liền bước tới yết kiến Nguyễn-vương mà nói rằng:
— Bẫm chúa thượng, hạ thần hôm nay đến viến chúa thượng, xin chúc chúa thượng quới thể bình yên.
Nguyển-vương ngồi cách tề chỉnh oai nghi, rồi nghiêm sắc mặt ngó Đổ-thanh-Nhơn mà hõi rằng:
— Ta nghe nói Đỗ-thanh-Nhơn đã làm tước vương rồi phãi chăng? hãy nói đặng quã nhơn làm lể cung nghinh cho xứng đáng một bực vương hầu thể diện?
Đổ-thanh-Nhơn nghe câu hỏi ấy, thình lình trúng ngay vào tâm, làm cho trái tim nhãy lên một cái rất dử dội, và trán đỗ mồ hôi, nghĩ thầm trong trí rằng: cuốn sách phương lược của mình đã sắp đặt giấu diếm trong lòng, mà sao Nguyễn-vương lại biết được, rồi đứng sững sờ một chút và nói rằng:
— Bẫm chúa thượng, sự ấy hạ thần đâu dám vược phẫm triều đình, mà làm sự nghịch lý.
Nguyển-vương liền vỗ trên long án cái bốp, rồi hai mắt phóng xạ hào quang, lườm lườm ngó ngay vào mặt Đổ-thanh-Nhơn một cách oai khí và nói rằng:
— Ngươi không dám, mà Đỗ-thanh-Nhơn kia dám, nếu ngươi chẵng phãi tước vương sao ngươi dám đại ngôn nói rằng: lịnh vua tức là lịnh ta, lịnh ta tức là lịnh vua, và nếu ngươi không phải tước vương, sao vua Caomman đem lễ vật cống sứ ta, mà ngươi dám nhận lãnh, ngươi không ý ỷ thế lộng quyền, sao ngươi dám tự lịnh chém một quan huyện ở Trấn-Biên, là một vị viên quan của Triều-đình mà chẵng cho ta biết? ngươi lại dụng độc hình sanh sát lương dân, tàn ngược lê thứ, cái sách Tào-Tháo Vương-Mãng của ngươi, ta đã nắm chặt trong tay, không sao chối đặng, cái tội ngươi chuyên quyền tự lịnh, nghịch quốc khi quân, nay đã hiễn hiện ra trước mắt muôn người, không thế gì trốn tránh đâu đặng. Vậy thì ngươi hãy đem một sanh mạng của ngươi mà chuộc cái tội nghịch quốc khi quân ấy đi, nói rồi liền kêu vỏ đao quân một tiếng, tức thì hai bên điện, quân vỏ đao rút gươm áp lại.
Lúc bấy giờ Đỗ-thanh-Nhơn như cọp kia phãi rọ, chim nọ mắc lồng, dẫu có nạnh vút cánh vi, cũng khó bề bay nhảy, liền trợn hai tròng mắt tròn như viên đạn, ngó quân vỏ đao mà nói cách nghiêm nghị rằng:
— Khoan, chúng bây hãy dang ra, ta làm một chức thượng tướng của Triều-đình, dưới tay ta có chiến tướng dư trăm, hùng binh quá vạn. Ta đối với quân Tây-sơn giữa chốn kịch-liệt chiến-trường thiên đao vạn nhẩn, ta còn thị tữ như qui, chẵng hề để vào lòng chút chi gọi rằng sợ hãi.
Vậy chúng bây hãy đứng yên, để ta bẫm cùng chúa-thượng ít lời, nếu thật ta là người hửu tội, thì ta sẽ nạp mình ta giữa chốn pháp trường, chúng bây không cần chạo rạo.
Quân võ-đao, thấy Đổ-thanh-Nhơn nói cách khẳng khái như vậy, thì đứng yên một bên.
Đổ-thanh-Nhơn liền cung tay trước Nguyển-vương và nói rằng: Bẩm chúa-thượng, chúa-thượng buộc tội cho hạ thần rằng: chuyên quyền sanh sát, nghịch quốc khi quân, mà hạ lịnh xử tử Đổ-thanh-Nhơn nầy, thì hạ-thần xin bẫm lại một lời rằng tội ấy chưa đúng công lý.
Nguyển-vương nghe nói thì thạnh nộ hõi rằng:
— Ngươi nói tội ấy chưa đúng công lý à? vậy thì thế nào ngươi mới gọi rằng đúng nhằm công lý, hữ?
— Bẩm chúa-thượng, xin chúa-thượng xét lại cho kẽ hạ thần, vì có người chuyên quyền sanh sát kia nữa, mà chúa-thượng không hề buộc tội, chĩ buộc tội cho Thanh-Nhơn nầy mà thôi, thì sao rằng công lý?
Nguyễn-vương ngó châm chĩ Thanh-Nhơn và hõi rằng:
— Người nào chuyên quyền sanh sát, ngươi hãy nói đi, nói đi.
— Bẫm chúa-thượng, người chuyên quyền sanh sát ấy là người đương ngồi trên long án kia, mà hạ lịnh cho quân vỏ-đao xử tử Đổ-thanh-Nhơn nầy, người ấy tức là chúa-thượng đó? người ấy chính là người chuyên quyền, sanh sát một kẽ phụ quốc công thần là tôi đây, chớ tôi chưa tội chi gọi rằng đáng tội xử tử.
Nguyễn-vương nghe Thanh-Nhơn nói vậy thì cười gằn một tiếng rất gay gắc, tiếng cười nầy nghe chua như dấm, mà bén như dao, và hỏi rằng:
Thanh-Nhơn, ngươi chuyên quyền sanh sát, chém một quan huyện lịnh, giết hại một đám lương dân, và mạng pháp khi quân, mà ngươi còn cượng từ gọi rằng chưa đáng, vậy thì tội chi ngươi mới gọi là đáng tội xử tử?
— « Bẩm chúa-thượng, quan huyện lịnh với một đám nhơn dân kia là kẻ bất tuân mạng lịnh, tôi làm một viên thượng-tướng, lại không quyền pháp mà giết chết quân nghịch ấy sao? vã lại tên huyện lịnh Đặng-hữu-Tâm là người của Triều-đình đặt ra để trị dân giúp nước, nay hắn chẵng vâng lịnh trừng trị nhơn dân, mà lại xúi giục nhơn dân phản đối cùng Hạ-thần, là một tôi phụ quốc của chúa-thượng, thì tức nhiên nó phản đối với chúa-thượng, vậy thì không nên giết nó cho rảnh, còn để làm gì?
« Còn tội đáng xử tử một kẽ đại-thần là tội đồ mưu soán nghịch cùng vua, dãy loạn cang qua trong nước, nếu có bằng cớ rỏ ràng, dẫu cho chúa-thượng muốn dụng nghiêm hình mà tru di tam tộc cũng đáng, song nay Hạ-thần, chẵng phải là kẻ đồ mưu dấy loạn, cũng chẵng phải là kẻ soán nghịch Triều-đình, như Vương-mảng khi xưa, như Tào-Tháo thuở nọ.
« Nay chúa-thượng lại hạ lịnh xử tử Đổ-thanh-Nhơn nầy, về tội sát hại lương dân, khi quân mạng pháp? tôi xin hõi chúa thượng, sao chúa-thượng không suy đi nghĩ lại mà xét cho thằng Đổ-thanh-Nhơn nầy, là thằng đã ra giúp chúa Nguyễn vua Duệ-Tôn là chú ruột của chúa-thượng khi trước, mà đối địch với Nguyễn-Nhạc Tây-sơn mấy trận tại Qui-nhơn, sau vua Duệ-Tôn chạy vào Giađinh nầy, quân Tây-sơn rược theo bắt đặng giết đi. Lúc ấy chúa-thượng chạy ra cù-lao Thổ-Châu, tôi ở Bình-Thuận nghe quân Tây-sơn truy tầm chúa-thượng mà bắt, tôi liền đem binh vào Nam-kỳ cứu giúp chúa-thượng, đánh đổ quân giặc Tây-sơn, giết chết tướng Tây-sơn là Tư-khấu-Oai và thâu phục Saigon lại đặng, rồi tôi đem binh xuống Bếnlức nghinh tiếp chúa-thượng và cung-quyến trở về Saigon, tôn chúa-thượng lên làm Đại Nguyên-soái.
« Ấy vậy chẳng những thằng Đổ-thanh-Nhơn nầy có công nghiệp với tiền vương của chúa-thượng là vua Duệ-Tôn mà thôi; lại cũng có công nghiệp lớn lao nhọc nhằn với chúa-thượng bây giờ đây nữa, chẳng nhửng vậy thôi, sau tôi lại đem binh chinh phạt Chơn-Lạp là nước cao-man, giết Nặc-Vinh tại thành Ô-đông, rồi tôn Hoàng-tử là Nặc-In lên ngôi, và bắt vua Cao-man phải thọ tước xưng thần, phục tùng dưới quyền bão-hộ của chúa-thượng, ấy chẵng phãi là một sự công lao hạn-mã cũa thằng Đổ-thanh-Nhơn nầy sao?
« Kế đó tại Tràvinh quân Cao-man dấy loạn, tôi đem binh dẹp yên quân giặc, rồi bắt đặng tướng Cao-man là Ốc-nha-Suất mà giết chết tại Tràvinh, từ đó đến giờ, quân Cao-man ở Tràvinh không dám dấy động cang qua, đâu đó đều an cư lạc nghiệp.
« Lúc bấy giờ tôi thấy toàn cõi Nam kỳ đả yên, Cao-man đả phục, thế phải có một vị quốc-vương đặng cầm quyền chánh-trị, chiêu nạp nhơn tài, tôi bèn công đồng hội nghị cùng các hàng vỏ-tướng văn-quan, xin tôn chúa-thượng lên ngôi quốc-vương, đặng mở mang bờ cỏi.
« Vậy xin hỏi chúa thượng, thằng Thanh-Nhơn nầy chẳng phải là thằng chinh Nam phạt Bắc, tế khổn phò nguy, cho chúa-thượng đó sao? nay chúa-thượng lại buộc cái tội mạng pháp khi quân, lộng quyền sanh sát, mà hạ lịnh xử tử thằng Thanh-Nhơn nầy, thật tôi lấy làm cãm tạ cái lòng nhơn từ đại độ, cái lượng ân đức hải-hà của chúa-thượng lắm đó.
« Trong thế chúa-thượng ngày nay muốn bắt chước Hán-bái-công khi trước, hể cao điểu tận, lương cung tàng giảo thố lữ, tẩu cẩu phanh, tôi biết chúa-thượng rồi, hể đặng chim rồi thì bẻ ná, đặng cá rồi thì quên nôm; nên ngày nay chúa-thượng lấy cái luật hình xử tử nầy mà ban thưỡng cho tôi đó hê.
« Vậy xin chúa-thượng hảy hỏi lại lương tâm của chúa-thượng mà coi: Đổ-thanh-Nhơn nầy là một tướng phụ quốc công-thần của chúa-thượng ngày nay, chớ chẳng phãi bọn Tào-Tháo, Vương-Mảng của nhà Hán khi trước, đó đâu. Nếu chúa-thượng muốn, thì tôi sẻ cho chúa-thượng cái đầu tôi đây, song tôi xin chúa-thượng một đều là đừng mạ nhục tôi là đồ, Tháo, Mảng. »
Nguyển-vương nghe rồi, nheo mày trợn mắt, nổi trận lôi-đình, vổ trên Long-án một cái và nói rằng:
Ta đả dòm thấy trong khối óc ngươi giấu diếm một con ma chọc trời khuấy nước, trong tim đen ngươi chứa chẫm một lủ quỉ thế-lực quyền-hành, bây giờ tuy còn núp mặt ẩn danh, mà sau đây sẻ hiện hình lố dạng. Cái thói lộng quyền khi chúa đó, là hai tên quân hướng-đạo, để dẩn nẻo đem đường cho kẻ nghịch thần; và củng là hai tướng tiên-phong của quân tặc tử.
Ngày nay ngươi là Đổ-thanh-Nhơn, mà ngày mai ngươi là Tháo, Mảng, ngươi phải biết rằng: ta có hai Đổ-thanh-Nhơn, Đổ-thanh-Nhơn khi trước là người phò vua vực nước, đở vạt nưng thành, giử một lòng trung nghỉa với ta, thì ta kỉnh trọng và cảm ơn; còn Đổ-thanh-Nhơn ngày nay đây là đứa mạng pháp khi quân, lộng quyền nghịch quốc, thì ta không thế gì dung thứ hắn đặng, nói rồi kêu Vỏ-đao-Quân một tiếng. quân Vỏ đao liền áp lại.
Đổ-thanh-Nhơn ngảnh mặt vào đền, thoản qua một cập mắt tự thị ngó chúa Nguyển mà hỏi rằng:
— Vậy thì chúa-thượng chỉ quyết hạ một lịnh xử tử Đổ-thanh-Nhơn nầy mà thôi sao?
— Ta chỉ có một lịnh mà thôi, không bao giờ có hai lịnh đâu mà ngươi phải hỏi.
Đổ-thanh Nhơn liền nhích hai môi, tỏ ra một dấu mỉn cười rất thảm buồn, rồi day lại nói với quân võ đao rằng:
— Chúng bây chẳng cần gì bắt buộc, nói rồi đi chẩm hẩm ra giữa ngự đình, vạch ngực ra, rồi hai tay chống nạnh đứng trơ như một hình đồng, và kêu quân vỏ-đao mà bão rằng: Bây hãy y lịnh thi hành ta đi.
Kế thấy Nguyển-huỳnh-Đức ra đứng trước điện nói lớn rằng:
— Chúa-thượng truyền lịnh cho quan giám-sát, lập tức thi hành, nói vừa dứt lời, bổng nghe trước điện đánh ba tiếng chiên, kế hai đội ngự-lâm kéo tới, thì thấy ba mũi súng của ba tên Ngự-lâm-pháo-thủ, phát ra một lược đùng đùng, bắn vào ngực Đổ-thanh-Nhơn, tức thì thấy một vòi máu nóng trong tiêm vọt ra đỏ điều, và một đường nhiệc khí bay lên ngun ngút.
Đổ-thanh-Nhơn lúc bấy giờ hai mắt ngó vào đền lườm lườm, và đưa chơn bước tới ba bước, rồi mới chịu riu ríu ngã xuống.
Đổ-thanh-Nhơn bị tội xử tử nhằm ngày tháng ba năm Tân-sữu (1781).
Vậy có thi rằng:
Soi gương kiêm cổ hởi nầy ai.
Chớ cậy quyền cao chớ ỷ tài.
Mê tỉnh huỳnh lương trong một giấc.
Cuộc đời vinh nhục chẳng bao dai.
Đổ-thanh-Nhơn chết rồi, đức Nguyển-vương liền truyền cho thị vệ đem thây ra ngoại-thành để nơi hữu dinh sứ quán mà tẩn liệm, rồi hạ một đạo chỉ-dụ bão thị vệ đem qua dinh quan lể bộ Nguyễn-Nghi đặng truyền cho các tướng Đổ-thanh-Nhơn hay biết.
Lúc bấy giờ các tướng của Đổ-thanh-Nhơn đương dự tiệc tại dinh quan lể bộ Nguyển-Nghi, bổng có quân thị-vệ đem chỉ-dụ của vua, Nguyển-Nghi bèn lấy chỉ dụ đọc cho các tướng ấy nghe, trong chĩ dụ đại lược nói như vầy:
« Ta là Nguyễn-vương truyền chĩ dụ cho các tướng rỏ Đổ-thanh-Nhơn có phạm mấy điều đại tội, nghịch quốc khi quân, chuyên quyền sanh sát, vì vậy luật nước không dung, nên phãi bị hành hình tru lục, còn các tướng là người vô cang, nên quả-nhơn đều rộng tình tha thứ. »
Các tướng đương ăn uống chơi bời, bổng nghe Đổ-thanh-Nhơn là chủ tướng, bị vua xử tử, thì cả thảy đều sảng sốt kinh hoàn, liền rùng rùng kéo nhau về dinh, đặng cho các đạo binh hay rằng: chủ tướng đã bị vua xử tử.
Khi về tới dinh thấy các tướng của Nguyển-vương, là Lê-văn-Quân, Tống-phước-Lương, Vỏ-giãn-Triêm và Trương-văn-Bác, đả đem binh đến giữ các dinh trại quân thủy và quân bộ của Đổ-thanh-Nhơn và nói với các tướng của Đổ-thanh-Nhơn rằng:
Chúng ta vâng lịnh chúa-thượng đến đây quản xuất các đạo quân dinh, còn các ngươi xin hãy lui về tư dinh, đặng chờ lịnh vua xử trí.
Các tướng tâm phúc của Đổ thanh-Nhơn thấy vậy đều bất bình, nhưng chẳng biết tính sao, rồi kéo nhau tới dinh cũa Đỗ-thanh-Nhơn báo tin cho vợ Đỗ-thanh-Nhơn là Mai-yến-Ngọc hay.
Lúc bấy giờ Mai-yến-Ngọc đương ở nơi hậu đường, bổng có thế nữ vào báo rằng: có các tướng ở tiền dinh, cầu xin ra mắt.
Mai-yến-Ngọc nghe nói, lật đật bước ra thấy Vỏ-Nhà Đổ-Bãn và chư tướng thì hõi rằng:
— Các tướng-quân đến đây có chuyện chi cẫn cấp chăng?
Đổ-Bản đáp rằng:
— Bẫm phu-nhơn, Đổ-tướng-công đả bị Nguyễn-vương xữ tữ tại Cần-chánh-điện rồi, nên chúng tôi vội vàng về đây báo tin cho phu-nhơn rõ.
Mai-yến-Ngọc nghe báo tin ấy, thì sốt mặt bưng đầu, dường như sét nổ bên tai, trời nghiêng đất sụp, rồi mặt mày thất sắc, rất nên kinh hải mà hõi rằng:
— Phu-tướng ta có tội gì mà lại bị Nguyễn-vương xử tử?
Võ-Nhàn bẫm rằng:
— Bẫm phu-nhơn, khi chúng tôi đương dự tiệc tại dinh quan lễ bộ Nguyển-Nghi, thì có chỉ dụ của Nguyễn-vương nói rằng: Đổ-tướng-công bị tội khi quân nghịch quốc, nên Nguyễn-vương xử tữ tướng công tại giữa Ngự-đình kia rồi.
Mai-yến-Ngọc nghe rồi thì tâm thần rối loạn, bủng rủng tay chơn, mắt đổ hào quang, té xiễu nơi ghế mà bất tỉnh. các thể nử xúm lại kêu đở một hồi, khi Mai-yến-Ngọc tỉnh lại, thì giọt lụy dầm dề, xiết bao là gan xầu ruột đứt, rồi day lại hõi các tướng rằng:
— Nay chồng ta đã bị Nguyễn-vương xử tử như vậy, thì các tướng quân tính liệu thế nào?
— Bẩm phu-nhơn, chúng tôi thấy tướng công bị giết vô cớ như vậy thì cã thảy đều bất bình, quyết về đem binh phản đối, nhưng chẵng dè các đạo binh bộ của tướng-công, đã bị các tướng của Nguyển-vương là Lê-văn-Quân, Tống-phước-Lương đem binh giữ gìn hết cả, nên chúng tôi bây giờ chưa biết toan liệu thế nào.
Mai-yến-Ngọc nghe các tướng nói vậy, thì sững sốt nheo mày mà hõi rằng:
— Các ngươi nói rằng, các dinh trại binh bộ của chồng ta đả bị các tướng của Nguyễn-vương thâu phục hết rồi, còn các đạo binh thủy bây giờ làm sao?
— Bẩm phu-nhơn, các đạo binh thủy lại bị tướng của Nguyễn-vương là Vỏ-giảm-Triêm, Trương-văn-Bác đem binh phòng thủ hết cả.
Mai-yến-Ngọc nghe nói liền rưng rưng nước mắt và nói rằng:
— Nếu vậy bây giờ binh bộ và binh thủy của chồng ta, đã bị Nguyễn-vương thâu đoạt hết rồi, nói tới đây thì rủng liệt tâm thần, ngồi xiễu nơi ghế, hai tay bụm mặt mà khóc một hồi rất thãm thiết ai bi, rồi đứng dậy lấy khăn lau nước mắt và nói với các tướng rằng:
— Các tướng quân ôi! vậy xin các tướng hãy lui về dinh trại, đặng ta vào thành tìm chồng ta mà tẫn liệm thi hài, dẩu Nguyển-vương có nói rằng, ta đồng tội cùng chồng ta mà giết đi, thì ta cũng cam lòng, miễng là ta gặp đặng thi hài của chồng ta, dầu sanh tử thế nào ta cũng liều cho thấy mặt.
Các tướng nghe Mai-yến Ngọc nói vậy, đều động lòng rơi lụy rồi khấu đầu từ giã lui ra.
Mai-yến-Ngọc liền bão quân-nhơn thắng ngựa gát xe, rồi đi với hai tên thể nữ, thẳng tới thành vua, thì trời đã tối, thấy hai tên quân-nhơn đứng nhựt hai bên cửa thành, Mai yến-Ngọc liền bước xuống xe, lại hỏi hai tên quân ấy rằng:
— Hai ngươi có biết tướng-công Đổ-thanh-Nhơn đã bị vua xữ tử, bây giờ thi hai ở đâu không?
Tên quân thấy hõi thì đáp rằng:
— Thưa bà tôi không biết việc ấy. Xin bà qua phía đông-môn mà hỏi thử coi, ở đây chúng tôi không rõ.
Mai-yến-Ngọc nghe tên quân-nhơn nói vậy, liền lật đật trở ra, rồi đi với hai đứa thể nữ, lần qua phía cửa thành đông, lúc bấy giờ trời đã tối rồi, hai bên đường đèo chong leo-lét, cây cỏ lờ-mờ, ngó vào trong thành, thấy mấy trại quân đều lẳng lặng yêm liềm, bổng nghe vẳn-vẳn bên mé thành đông, mấy tiếng trống canh, mấy hồi canh nhịp, thỉnh thoãng lọt vào trong tai, giọng nghe thùng-hùng rắc rắc.
Cái tiếng trống canh, tiếng sanh nhịp ấy, dường như kêu gọi nàng mà thôi thúc rằng: « cữa thành đông-môn ở đấy, nàng hãy trỗi bước cho mau. » Nàng Mai-yến Ngọc nghe tiếng trống ấy rền rỉ chừng nào, thì trong lòng lại càng thêm đau đớn xót xa mà bâng khuân chừng nấy.
Mai-yến-Ngọc vừa đi vừa nghĩ: cái thân phận của chồng, bấy lâu quyền cao tước trọng, phú quí vinh hoa, mà ngày nay phãi chết tức tưởi như vầy, chẳng biết thi hài thất lạc vào đâu, nghĩ tới chừng nào, thì hai tròng thu ba, lại dầm dề hột lụy, rồi day lại nói với hai đứa thể nữ rằng:
— Hai đứa bây hãy vịn giùm lấy ta, đặng đi tới cho mau, kẽo để đêm vắng canh khuya, cửa thành đóng đi, thì biết đâu mà tìm kiếm thi hài chồng ta cho đặng, nói rồi cập tay hai đứa thể nữ lần hồi đi tới.
Đi một hồi, bỗng nghe trong một cái nhà ở dựa mé đường, có người đàn bà đưa em, hát nghe văn vẳn như vầy.
« Cuôc đời dâu biển, biển dâu,
Công danh phú quí phong hầu mà chi ».
Nàng Mai-yến-Ngọc đương lúc ly-sầu biệt-hận, buồn bã vì chồng, thoạt nhiên nghe câu hát nầy, như ai khêu đoạn thãm, ai nhắc cơn sầu, thì xiết bao là ruột tầm khô héo, kế đó lại nghe hát thêm một câu nữa rằng:
« Trách ai bẻ gánh cang-thường,
Để cho phận thiếp giửa đường bơ vơ ».
Trong lúc đêm thanh canh vắng, mà nghe tiếng hát thảnh thót nỉ non như vầy, làm cho khách chung tình nghĩ tới chừng nào, càng thêm ruột héo gan xàu, mày châu mặt ủ.
Mai-yến Ngọc đi với hai thể nữ một hồi nữa, đã tới cửa thành đông, trông lên vọng đài, ngó trước xem sau, thấy hai tên quân đứng nhựt trước cửa, thì bước lại hỏi rằng:
— Ngươi có biết Đổ-tướng-Công bị vua xử tử, bây giờ thi-hài còn để tại đâu không?
Tên quân-nhơn nhìn Mai-yến-Ngọc một hồi rồi hỏi rằng:
— Thưa nàng là ai, mà hỏi Đổ-tướng-Công. Xin tỏ tánh danh cho tôi rõ.
— Ta là Mai-yến-Ngọc là chánh-thất của Đổ-tướng-Công.
Tên quân-nhơn nghe nói thì đáp rằng:
— Bẩm phu-nhơn, thi-hài của Tướng-công, không có trong thành, vua dạy đem để ngoài thành, tại dinh sứ-quán.
— Dinh sứ-quán ở chỗ nào, ngươi hãy chỉ cho ta đi.
— Bẩm phu-nhơn, dinh sứ-quán ở phía hữu thành nầy, xin phu nhơn hảy đi chút nữa thì tới.
Mai-yến-Ngọc nghe rồi vội vàng đi với hai tên thể nữ vừa đi được ít bước, kế gặp hai tên gia-thần chạy lại bẫm rằng:
— Bẫm phu-nhơn nảy giờ chúng tôi đi kiếm phu-nhơn cùng hết, mà chẳng biết phu-nhơn ở đâu, còn thi-hài của Tướng-công bây giờ, còn để tại nhà sứ-quán, vậy xin phu-nhơn đi với chúng tôi lại đó thử coi.
Mai-yến-Ngọc nghe nói liền lật đật đi theo hai tên gia-thần, khi đi tới nhà sứ-quán, thấy một đội ngự lâm-quân, cầm giáo mang gươm, đương đứng nhựt canh trước ngỏ.
Mai yến-Ngọc liền bước tới, kế có một quan thiếu-húy ở trong bước ra, thấy Mai-yến Ngọc thì hỏi rằng:
— Nàng ở đâu mà đêm khuya đến đây, có việc chi xin nói cho biết.
Mai-yến-Ngọc đáp rằng:
— Ta là chánh-thất của Đổ-thanh-Nhơn Tướng-công, nghe chồng ta bị xử tử hình, nên đến tìm thi hài, đặng cho thấy mặt nhau trong cơn tử biệt.
Quan thiếu-húy nghe nói thì đáp rằng:
— Bẫm phu-nhơn, thi-hài của Đổ-tướng-Công còn để tại trong nhà sứ-quán nầy, vậy xin phu-nhơn theo tôi vào trong thì thấy.
Mai-yến-Ngọc với hai tên thể-nữ liền bước theo quan thiếu-húy vào trong, thấy hai bên cửa đều đóng chặc, chỉ có cửa giữa thính đường mở ra mà thôi.
Mai-yến-Ngọc lật đật bước ngay lên thềm ngó vào, thấy màng treo giả dượi, đèn thắp lờ mờ, và thấy một hương án để giửa thính đường, phía trong thì một tấm màng trắng bỏ xuống.
Quan Thiếu-húy lấy tay chỉ vào màng trắng ấy và day lại nói với Mai-yến Ngọc rằng:
— Bẫm phu-nhơn, thi hài của Đổ-tướng-công nằm trong tấm màng nầy, xin phu-nhơn vào đó thì thấy.
Mai-yến-Ngọc lật đật bước lại, hai tay vói tới, vén tấm màng ra, thì thấy Đổ-thanh-Nhơn nằm trên một bàn dài, có lót một tấm khãm xanh, và trên mặt đấp một khăn nhiểu đỏ, trên đầu có chong hai ngọn đèn bạch lạp, đương cháy nhắp nhán lờ mờ, xem ra một cãnh tình rất quạnh hiu thê thãm.
Mai-yến-Ngọc liền chạy lại bên chồng, dỡ khăn đấp mặt ra, thấy Đổ-thanh-Nhơn hai mắt còn trợn lên lườm lườm như sống, và hai môi miếm lại, sắc mặt tỏ ra một vẻ thạnh nộ bất bình.
Mai-yến-Ngọc thấy vậy thì hai tay ôm lấy chồng, rồi quì một bên bàn mà khóc cách bi ai thãm thiết rằng:
Phu-tướng ôi! Phu-tướng trong lúc sanh tiền, lao công hạn mã, đông phạt tây chinh, quyết một lòng vực nước phò vua, bao nài sự xông tên đột pháo, khi thì chống với Tây-sơn Nguyển-Nhạc, lúc thì đánh cùng Chơn-Lạp Caoman, cái công nghiệp phu tướng tế khổn phò nguy, công thành đoạt trại trong mấy năm nay, củng tưỡng là ngày sau được quyền cao lộc trọng, phu quí thê vinh, đặng vợ chồng an hưỡng sự chung đãnh vinh hoa, cùng nhau cho được nhứt tràng cọng lạc.
Nào có dè đâu ngày nay phu tướng lại bị tang xương nát thịt nơi dưới mấy mủi súng vô tình kia, mà chết cách tức tưỡi như vầy, làm cho vợ chồng ta phải gương bể bình rơi, keo tang hồ rã.
Phu-tướng ôi! thiếp nghĩ chừng nào thì càng đứt ruột đau lòng cho vợ chồng ta, đương lúc tình nồng nghĩa nặng, phận đẹp duyên ưa, sum hiệp cùng nhau chưa đặng mấy hồi, chẵng dè ngày nay nước chảy công danh, hoa tàng sự nghiệp, làm cho đôi ta phãi anh én lạc bầy, kẻ còn người mất như vầy, thì dẫu cho ai thiết thạch tâm-trường, mà gặp cái tình cãnh thê thãm nầy, thì cũng gan bầm ruột héo.
Mai-yến-Ngọc than khóc nỉ non một hồi rồi day lại ngó vào mặt Đỗ-thanh-Nhơn, thì thấy trong khóe mắt, chãy ra hai hàng máu đõ, liền lấy khăn chậm đi, rồi khóc và nói tiếp rằng:
— Phu-tướng ôi! ngày nay phu-tướng bị Nguyễn-vương xử tử thình lình như vầy, thế thì cái oan hồn uổng tữ của phu-tướng còn vương vấn một mối ức uất bất bình nơi lòng, nên không hề nhắm mắt lại đặng, nay vợ chồng ta đả thấy mặt nhau rồi, vậy thiếp xin quì xuống bên đây, mà cầu khẫn cùng phu-tướng một đều, là xin cho linh hồn Phu-tướng sanh ký tử qui, bỏ sạch cái kiếp khốn nạn ở trần giang nầy, và xin nhắm mắt lại, đặng xuống chốn tuyền đài, cho yên bề mạng vận.
Phu-tướng ôi! thiếp cũng cầu xin phu-tướng phò hộ cho thiếp thễ tráng thân cường, thì thiếp nhứt nguyện cùng phu tướng một lời rằng: Ngày kia thiếp sẽ hiệp cùng các tướng tâm phúc mà toán kế đồ mưu, đặng trã oán rữa hờn cho phu tướng được yên lòng nơi chín suối.
Mai-yến-Ngọc nói tới đây rồi ngước mặt lên xem chồng, thì thấy hai mắt của Đổ-thanh-Nhơn đã nhắm khít lại.
Kế thấy các tướng tâm phúc Đổ-thanh-Nhơn là Võ-Nhàn, Đổ-Sãng và mấy tướng khác, ngoài cữa bước vô, lại quì một bên thi hài của Đổ-thanh-Nhơn rồi cả thãy đều rưng rưng hàng soái lụy.
Chú thích
▲Quân nhụ là lương thực vật dụng của quân.
▲Đổ-thanh-Nhơn nói câu nầy cũng giống như câu của vua Louis thứ 14 bên nước Pháp nói: l’Etat, c’est moi, moi c’est l’état, nghĩa là nhà nước tức là ta, ta tức là nhà nước, ấy cũng là một sự oai quyền chuyên chế.
▲Nguyễn-vương có ra cho quần thần bảo phải dùng tiếng bẫm mà thôi, không cho dùng tiếng tâu
▲Tháo, Mảng là Tào-Tháo với Vương-Mảng là hai người lộng quyền soán ngôi đoạt nước trong đời Hán, vua Hiến-đế bị Tào-Tháo chuyên quyền, vua Bình-đế bị Vương-Mảng giết chết.
▲đầu đông, là chứng nhức đầu
HỒI THỨ MƯỜI BỐN
Bá-đa-Lộc dự bàn quốc sự,
Đức Nguyển-vương diển dượt chiến thuyền.
Lúc bấy giờ có một vị Giám mục của nước Pháp kêu là Ê vết-đa-trăng (Evêque d’Adran)[1] lấy theo tên của vua cho, gọi là Bá-đa-Lộc, người qua nước ta giãng đạo thiên chúa, gặp lúc Hoàng-triều biến loạn, chúa thượng lưu ly, người thấy đức Nguyển-Ánh là một vua thông minh, biết nạp sỉ chiêu hiền, thì theo giúp đở tay chơn, và cũng hết sức hết lòng cùng vua, trong cơn hoạn nạn.
Khi Giám mục Bá-đa-Lộc đương ở giáo đường tại Thủ-Thiêm, bổng nghe Đỗ-thanh-Nhơn bị Nguyển-vương xử tữ, tức thì lật đật chống gậy vào triều yết kiến.
Nguyển-vương thấy người đến, thì mừng rở rước vào, và mời ngồi bên ngài mà hỏi rằng:
— Giám mục hỗm rày cách mặt, quã-nhơn có ý đợi trông, nay Giám mục đến viếng quả-nhơn, và có việc chi ích quốc lợi dân, xin Giám mục chĩ giáo.
— Bẩm chúa-thượng, hạ thần đương ở giáo đường thuyết pháp, bổng nghe Đỗ-thanh-Nhơn bị xữ tữ hình, song chẳng rỏ tội chi, nên vội vã đến đây, thăm hõi duyên do, xin chúa-thượng nói cho hạ thần rỏ chút.
Nguyễn-vương nghe hõi thì mặt có vẻ buồn rồi đáp rằng:
— Đỗ-thanh-Nhơn là một người phạm tội ỹ thế chuyên quyền, khi quân nghịch quốc, vậy mà Giám mục chưa rỏ hay sao?
— Bẫm chúa-thượng, hạ thần chưa rõ chi hết.
Nguyển-vương liền thuật đầu đuôi các việc của Đỗ-thanh-Nhơn phạm tội đã nói trước kia cho Giám mục nghe, và hõi rằng:
— Tội Đỗ-thanh-Nhơn như vậy, Giám mục nghỉ có đáng chăng?
Giám mục Bá-đa-Lộc nghe rồi nghĩ nghị một chút day lại nói với Nguyễn-vương rằng:
— Bẫm chúa-thượng, lấy theo các đều của Đỗ-thanh-Nhơn ỹ thế khi quân, chuyên quyền sanh sát, thì tội ấy đả ưng; nhưng mà nghĩ cho Đỗ-thanh-Nhơn giúp chúa cũng có lập đặng nhiều trận công lao, nay chẵng may mà phạm tội tữ hình, thì phận đó đã ưng, tội kia đã đáng, song e một đều là các tướng tâm phúc của Thanh-Nhơn thấy vậy bất bình, mà sanh lòng đồ mưu giấy loạn.
Vậy xin chúa-thượng lấy chút nhơn tình, xét cho Đỗ-thanh-Nhơn cũng là một tôi phụ quốc công thần ngày xưa, mà cho dùng theo tước phẫm quận công, đặng làm lễ tống chung cho rở ràng trong cơn tữ biệt. Vậy trước là tỏ rằng chúa-thượng có lượng đại độ khoan hồng, còn đoái tưởng đến kẽ công thần cựu nghĩa, sau là tỏ cho các tướng của Đỗ thanh-Nhơn thấy vậy mà đẹp ý bằng lòng, cho khõi ngày kia sanh sự bất bình thán oán.
Nguyễn-vương nghe Giám mục Bá-đa-Lộc bàn luận mấy lời, rất ý hiệp tâm đầu, thì đáp lại rằng:
— Quả nhơn sẽ y như lời Giám mục chỉ khuyến, nói rồi liền truyền lịnh cho quan Lễ-bộ-thượng-thơ phải sắp đặt nghi tiết trang hoàn, mà hậu táng Đỗ-thanh-Nhơn theo lễ quận-công thượng-tướng, và hạ chỉ khuyến dụ các tướng tâm phúc của Đổ-thanh-Nhơn.
Nhưng có hai tướng của Đỗ-thanh-Nhơn là Đỗ-Bãng với Vỏ-Nhàn, không chịu qui thuận Triều-đình, rồi kéo nhau trốn xuống Ba-giồng mà đồ mưu dấy loạn, dặng báo thù cho Đỗ-thanh-Nhơn, sau bị Nguyển-vương bắt đặng đem về Saigon xử tữ.
Khi làm lễ táng Đỗ-thanh-Nhơn rồi, Nguyển-vương liền hạ lịnh phân binh của Đỗ-thanh-Nhơn ra làm bốn đạo, rồi sai Đô-đốc-Quãng thống lãnh về các đạo binh bộ. Huỳnh-thiêm-Lộc làm Đại-đề-đóc về các đạo chiến thuyền binh thủy. Lê-văn-Quân lãnh làm tiền quân, Trương-văn-Bác lãnh làm hậu quân, Vỏ-giãng-Triêm lãnh làm hữu quân, các tướng đều nhứt nhứt thi hành mạng lịnh.
Trong năm Tân-sửu (1781) nhằm khoản ba xuân cuối tiếc, chín hạ giửa mùa; bữa nọ vừa lúc bóng ác rựng hồng, trời mai mát mẻ, ngó ra non sông bốn mặt, kiển vật có sắc đẹp đẽ tươi cười, gió lặng sóng êm, thảy đều hiện ra một màu cây xanh nước bích.
Lúc bấy giờ tại ngã ba sông Nhà bè, thấy hai đạo-chiến-thuyền của Nguyễn-vương, đậu dọc hai bên mé sông, cả thảy hơn tám chục chiếc, mỗi chiếc đều có cột bườm vòi vọi cao lên, đối với ngọn bần hai bên mé sông, như một đám rừng cây, mọc lên lố xố, trên cột bườm đều có treo cờ đỏ vàng xanh trắng, xem rất oai nghi, một đạo bốn chục chiếc đậu theo phía tả; và một đạo bốn chục chiếc đậu theo phía hữu, lại có ba chiếc đại chiến-thuyền đóng theo kiểu ta rất to, trên tàu có thuyền-lầu, trước mũi sau lái, có trí mấy vị súng đại-bát thần-công rất lớn.
Từng dưới để quân thủy thủ trạo phu, từng trên để bài binh liệt trận, sau lái thuyền có dựng một cây đại-kỳ sắc vàng, trên chót cột bườm giửa tàu, có treo một lá cờ chưn rít, phất lại đưa qua để làm hiệu lịnh.
Hai bên be thuyền, đều liệt bài khí giới, hàng ngủ nghiêm trang, xem rất oai nghi thứ tự.
Ba chiếc đại-chiến-thuyền nầy, một chiếc để cho Huỳnh-thiên-Lộc làm thũy sư đại Đề-đốc; còn hai chiếc kia, thì để cho Nguyễn-hữu-Thoại và Dương-công-Trừng làm phó Đề-đốc.
Lại có hai chiếc đại-chiến-thuyền đóng theo kiểu phương tây, trên mỗi chiếc đều có vọng đài,[2] và súng ống khí giới bài trí tề chỉnh.
Một chiếc thì Tôn-thất-Thiện làm phó Đề-đốc, một chiếc thì quan Chưởng-Cơ là Mạng-Hòe, (Manuel)[3] lãnh làm phó thũy sư Đề-đốc, ông nầy là người nước Pháp ở bên Bông-đi xê-ri (Pondichéry) nhờ ông Giám-mục Bá-đa-Lộc tiến dẫn cho Nguyễn-vương, để giúp việc chiến-thuyền và tập luyện binh thũy.
Khi hai đạo chiến-thuyền bài liệt hai bên tề chỉnh rồi kế một lát, thấy trong sông Saigon, một chiếc tàu lớn, cột cao bườm rộng, bọc gió phăn phăn chạy ra, sau lái cậm một cây đại-kỳ sắc vàng, trên lá cờ nầy có thêu một con rồng xanh rất to, bọc gió phất phơ, xem như con rồng ấy xung xăng bay múa, chiếc thuyền nầy quanh qua lộn lại, uốn éo theo mấy khúc sông, rẻ nước làm hai, từ từ lước tới.
Khi lại gần thấy trước vọng-đài có một tấm bản sơn on thếp vàng, đề bốn chữ: « Nguyển-vương Ngự-thuyền » thì biết là chiếc Ngự-thuyền của vua Nguyễn…
Khi thuyền nầy ra tới Nhà bè, bổng thấy trên chiếc chiến-thuyền của quan Đề-đốc Huỳnh-thiêm-Lộc, nhán lên một ánh hào quang và xẹt ra một lằng khói trắng, kế phát lên một tiếng súng thần-công, rền cả trời nước, tức thì hai đạo chiến-thuyền hai bên mé sông, cả thảy tám chục chiếc, đều kéo cờ hoan nghinh, và chào rước Nguyễn-vương một cách nghiêm chỉnh.
Khi chiếc Ngự-thuyền của Nguyển-vương tới giửa sông Nhà bè, thì hạ bườm xuống neo, rồi đậu giửa trường giang xem rất xuê xang oai thể.
Lúc bấy giờ Nguyễn-vương mình mặc một áo nhung y, đầu đội một nón chiến-lịp,[4] đứng trên vọng-đài với các tướng, ngó ra hai đạo chiến-thuyền, rồi hạ lịnh cho các quan thũy diển bài trận thế.
Bổng thấy trên chiếc thiến-thuyền của đại Đề-đốc Huỳnh-thiêm-Lộc phất cờ lịnh lên, thì đạo tả dực, trường bườm chạy ra, rồi đạo hữu dực cũng kéo nhau xáp lại, khi dang ra, lúc xáp lại, khi chạy tới, lúc trở lui, cách vận động tấn thối lẹ làn, và binh thũy chiến đều tập rèn thuần thục.
Nguyễn-vương xem hai đạo chiến-thuyền diển dượt một hồi, rồi hạ lịnh cho nghĩ, và truyền lịnh cho các quan thũy, hạng ba ngày thì phải diển dượt chiến-thuyền một lần.
Từ đấy các đạo binh bộ, và binh thũy của Nguyễn-vương ở tai Saigon đã đặng thắng số hơn ba chục ngàn, còn một đạo binh bộ của quan Khâm-sai Đô-đốc Châu-văn-Tiếp cũng hơn ba ngàn, đương trấn tại Khánh-Hòa và Bình-Thuận.
Chú thích
▲Evêque d’Adran tục ta có người kêu là cha cả, lăng người bây giờ còn tại làng Tân-sơn-Nhứt (Giadinh) sau đức Gia-long phong tước là Quận-công.
▲Vọng-đài là cái lầu nhỏ mà cao ỡ trên tàu, để cho quan thủy sư ở đó mà coi 4 phía và đốc suất ban truyền hiệu lịnh.
▲Mạng-Hòe, chính tên tây là Manuel, theo lời sữ Histoire-d’Annam của Charles Maybon, nói Manuel là lính thủy của nước Pháp ơ bên Pondichéry, nhờ Bá-đa-Lộc đem qua tiến dẫn cho Nguyễn-vương, sau vua phong làm chức Khâm-sai Chưởng-Cơ.
▲Nhung y, chiến-lịp là áo và nón để mặc và đội trong khi đánh giặc.
HỒI THỨ MƯỜI LĂM
Cơn lưu lạc gái kia thọ khỗ,
Lúc ngặc nghèo cha lại ly trần.
Lai láng biển sầu, chứa chan giọt thảm,
Phận bạch phát giang hồ lưu lạc,
Biết bao lần khổ khổ tâng tâng,
Mãnh hồng nhan khách địa bơ vơ,
Thương vì nổi thời thời vận vận.
Đây nhắc lại khi cô Ngọc-Sương nhờ Châu-văn-Tiếp giết chết tướng giặc là Bùi khắc-Phú mà cứu cô và cha cô khỏi nạn, rồi gá nghỉa nhơn duyên cùng nhau, kế hai đàng phân tay tự biệt. Châu-văn-Tiếp thì bôn ba theo chúa là đức Nguyễn-Ánh, còn Ngọc-Sương với cha cô là ông Cữ-Khôi, thì bõ hết cửa nhà sự sản, lật đật tìm phương lánh nạn, qua ở Long-Hồ (Vinh-Long) rồi mua một cái nhà lá ba căng, cha con cùng nhau tạm đở, ông thì tuổi càng ngày càng già, sức càng ngày càng yếu; lúc nầy là lúc các thứ bịnh hoạn mon men áp tới núp ở bên lưng, làm cho ông nay đau chứng nầy, mai đau chứng khác, lần lần huyết nhụt tiêu ma, thảng mảng lây lất theo tháng ngày, mà coi lại mình đã gầy, vóc đả ốm; hai mé tóc phất phơ trên đầu ông, lần lựa đua nhau đã phê phê bạc trắng, đó là cái biễu hiện cũa tạo hóa đễ thôi thúc con người cho biết đến chừng ấy là cái chừng đả gần đất xa trời, khác nào cãnh chiều bóng xế.
Thật chẵng chi buồn bực hơn là cái cãnh phong chúc tàng niên, tang du mộ ảnh, cái cãnh ấy như đèn tàn dưới gió, bọt nỗi ngoài sông, đả vậy lại bị con ma nghèo cứ theo lân la dòm hành trước cửa, thằng quỉ bịnh rủ nhau áp tới xẫn bẫn bên mình, nó nhơn cái hồi vận bỉ thời quai mà làm cho con người phãi ra tĩnh tĩnh mê mê, điên điên đảo đảo.
Cô Ngọc-Sương thấy nhà đã nghèo, cha lại yếu, thì ngày như đêm, năm như tháng, cô vẩn lo lắng chống cự với cái hồi vận quỉ thời ma.
Cô vẫn là người có tánh chất thông minh, mà lại có tinh thần học thức, nhưng gặp cái đời chiến tranh bát loạn, chỗ nào cũng xăng văn chiêu binh khởi nghĩa, trúc lũy lập đồn, tập luyện theo nghề mũi đạn đường tên, chớ nào có ai cần gì đến việc trường văn trận bút.
Vì vây cực chẳng đã, cô phải dẹp cái tài văn chương chữ nghĩa, mà dùng theo nghề nhõ mọn nử công, lấy việc thêu tiểu vá may, đường kim mối chỉ, gọi rằng đấp đổi tháng ngày trong cơn nghèo ngặc.
Bửa nọ cô lo cơm nước cho ông thân cô xong rồi, cô ngồi dựa song cửa với một ngọn đèn dầu, mà thêu một cập hoang-ương, đặng sáng đem bán cho các nhà giàu có trong làng mà tiêu xài độ nhựt.
Cô thêu một hồi rồi ngừng kim ngó mong ra cửa, thầm suy lặng nghỉ, nhớ tới quê xưa cảnh củ, trong lúc ở tại Long-Xuyên, bây giờ sự sản tan tành, cửa nhà xiêu lạc, cô nghỉ tới đó thì tơ tình cuộng cuộng, nét mặt dàu dàu, nghỉ quơ nghỉ quẫn một hồi lại thở dài than vắn, rồi day qua khêu đèn lên thêu, vừa thêu vừa ngâm một bài tự thán như vầy:
Hôm sớm thêm buồn việc nữ công,
Cha già nhà khó cậy ai cùng,
Bơ vơ thẹn nỗi thân bồ liểu,
Dang ruổi thương người phận kiếm cung.
Nhợ thảm vấn vương hồn xứ sở,
Gánh sầu hoằng hoại thệ non sông,
Bỡi đâu khuấy đục trời Nam-Việt,
Nên khiến phanh phuôi sợi chỉ hồng.
Trong lúc canh khuya đêm vắng, nghe cô ngâm giọng cao giọng thấp, tiếng nhỏ tiếng to, hòa với tiếng dế rủ rỉ bên thềm, nghe rất thâm trằm êm ái.
Cái nghề thêu thùa mua vá của cô Ngọc-Sương cũng là một nghề tuyệt xảo, nhờ vậy mà được đắp đổi tháng ngày, và cô là người tề gia nội trợ rất giõi, mỗi việc chi cô đều ăn cần ỡ kiệm, xem sóc kỷ cang, việc đáng xài thì xài, còn việc chẳng đáng xài, dầu một đồng tiền kẻm cô cũng không hề chịu tốn, cô nghỉ cho đồng tiền bạc phải biết cách sử dụng nó, thì nó mới giúp đở mình, nếu chẳng biết cách dùng nó, thì nó vào cửa trước rồi tuốt ra ngõ sau mà đi ngay, nó tới tay mình rồi tức thì qua tay người khác, nên cô rất dè dặc cẫn thận trong việc bạc tiền, nhưng mà gặp cái hồi họa dập tai dồn, cũng chẳng biết sao mà chống cự lại nổi.
Từ khi qua ở Long-Hồ (Vinhlong) chẳng được bao lâu, kế ông thân cô thọ bịnh, cô Ngọc-Sương một mình ngày đêm lo lắng, sớm tối thuốc thang, song bịnh ông càng ngày càng nặng, bao nhiêu tiền bạc cắp củm đem theo, từ ấy đến nay, ngày lụn tháng qua, lớp ăn uống, lớp thuốc thang, lần lần tiêu xài sạch hết.
Còn cô Ngọc-Sương thì phận gái thân cô sức yếu, biết làm sao mà chống cự với cái hồi vận bỉ thời quai. Bữa nọ ông thân cô bịnh trở, nằm liệc nơi giường, mà tiền bạc không còn, đặng đi kiếm thầy chạy thuốc, cô bèn nói với ông rằng:
Thưa cha, cha ráng ở nhà, để con ra chợ, coi có ai mướn may vá chút đỉnh gì, đặng lấy tiền hốt thuốc cho cha, bây giờ một đồng một chữ, không có trong nhà, chẳng lẻ ngồi đó khoanh tay mà chịu.
Ông thấy cô nói vậy, thì rưng rưng nước mắt mà nói rằng:
— Con ôi! con có đi thì con nhớ về cho sớm, kẻo cha trông đợi; cô giạ, bèn lấy khăn choàn hầu, rồi lật đật ra đi, cô tới mấy người bán hàng ngoài chợ, hỏi hàng nầy qua hàng kia, mà không ai mướn may chi hết, tội nghiệp cho cô đi hơn một buổi, tưởng lảnh đặng mối nào mà may, đặng lấy tiền chạy thuốc cho cha, chẳng dè tới đâu, người nói bán ế, kẻ nói không may, chẳng ai mướn hết.
Cô Ngọc-Sương thấy việc không thành, thì sắc mặt buồn dàu, kế mặt trời chen lặng, thì sợ cha ở nhà một mình không ai cơm nước, liền lật đật trở về, tới nhà bèn bước vô giường, thấy ông đường nằm nhắm mắt, ông nghe cô về thì mở mắt hỏi rằng:
— Con, con kiếm chổ may vá gì được không?
Cô Ngọc-Sương nghe ông hõi, thì bước lại bên giường mà hai tròng rưng rưng ứa lụy mà nói rằng:
— Cha ôi! con kiếm hết sức mà chưa có chỗ nào mướn may, đễ sáng mai con sẻ đi kiếm chỗ khác thử coi, có lẽ cũng được, xin cha chớ lo, để mặc con toan liệu; trong mình cha bây giờ có khỏe không cha? để con nấu miếng cháo cho cha ăn nghe.
— Nãy giờ trong bụng nóng nảy xót xa, vậy con coi còn gạo nấu cho cha miếng cháo.
Cô Ngọc-Sương nghe cha nói vậy, lật đật ra xách nồi vô hủ lấy gạo đặng nấu cháo cho cha, và nấu một nồi cơm mà ăn luôn thể, kẻo hồi mai đến giờ trong bụng chưa có cơm nước chi hết, chẳng dè vô thấy hủ gạo sạch trơn, không còn một hột, cô sửng sờ rồi ngồi rưng rưng nước mắt, vì cô mắt lớp lo chạy bạc tiền, lớp lo kiếm may vá, phần thì lo chạy thuốc thang cho ông thân cô, nên trong lòng cô lúc bấy giờ lăng xăng trăm mối tơ vò; lớp lo thang thuốc lớp lo bạc tiền. Vì vậy mà cô không dè sự ở nhà gạo hết mà đề phòng, thật nghĩ mà thãm thay cho cái hồi ngặc nghèo, tiền không, gạo hết, đến đỗi một bữa cháo cũng chẳng no, một nồi cơm cũng không có.
Cô đương ngồi suy nghỉ đến phận nghèo khỗ, thì vẻ mặt buồn xo, bổng thấy một con chó mực lưởng thưởng dưới nhà bếp đi lên, bụng đói xếp xe, lại đứng bên cô, hai mắt ngó lom lom vào nồi, và ngước lên nhìn cô một hồi, rồi nguích đuôi thểng thoãng lại góc nằm khoanh, mắt nhắm liêm diêm, và thỡ ra một cái nghe rất buồn bực, dường như nó thấy trong nồi không gạo, dưới bếp lạnh tanh, và thấy chủ thảm sầu, thì thơ thẫn bõ đi rồi nằm khoanh xó góc mà chịu, thật là:
Chó chực bửa ăn rơi nước mắt,
Mèo rình hủ gạo rụng lông nheo.
Cô Ngọc-Sương thấy trong hủ hết gạo, thì để nồi trên bếp suy nghỉ một hồi, rồi chạy lại nhà chị hai Bé ở lối xóm và nói:
Chị hai, chị còn gạo làm ơn cho tôi mượn đở một nồi, đặng nấu miếng cháo cho ông già tôi ăn, mai giờ tôi mắc ra chợ mới về, chẵng dè gạo hết, chị làm ơn cho tôi mượn đở, rồi mai tôi mua trả lại cho chị, chẳng dám sai đâu.
Chị hai Bé thấy cô nói vậy, lật đật bước vào nhà trong một hồi, rồi trỡ ra nói: cơ khỗ tôi tưởng còn gạo trắng, thì cho cô mượn đỡ một nồi, chẳng dè trong hũ cũng sạch trơn, bây giờ chỉ có một mủng gạo lức đó thôi, cô dùng đặng lấy về mà dùng đỡ.
Cô Ngọc-Sương nghe nói thì sửng sờ rổi nghỉ thầm rằng: Trong cơn thốn thiếu, một nồi gạo chạy củng không ra, bây giờ tối rồi, biết chạy đâu cho đặng, cha thì già yếu, mà trong cơn đau ốm, thì nhờ có miếng cháo hột cơm, mà cháo cơm chẵng có, thang thuốc cũng không, thì chịu sao cho nổi, cô nghĩ như vậy thì nói với chị hai Bé rằng:
— Thôi! chị làm ơn cho tôi mượn đở một nồi gạo lức cũng được, chớ bây giờ không có gạo giã, thì biết chạy đi đâu.
Chị hai Bé nghe nói lật đật vô xúc một chén gạo lức đem ra, cô Ngọc-Sương bưng về vo gạo sạch sẻ rồi nấu, một lát cháo chín cô múc một chén đem lên cho ông thân cô, và nói rằng:
— Cha ôi! để con đở cha dậy húp đỡ vài muổng cháo cho khỏe.
Ông Cử-Khôi lồm cồm cượng dậy, húp hết nữa chén, rồi cô rót nước cho ông uống và nói rằng:
— Thôi cha nằm xuống nghĩ một chút cho khỏe, rồi sáng con sẻ chạy tiền hốt thuốc cho cha.
Ông nghe nói thì lắc đầu rồi ứa nước mắt mà rằng:
— Con ôi! cha biết trong mình cha đả lâm trọng bịnh, không thuốc nào cứu đặng, cha cũng vang vái phật trời, như phải đến phần số thì cho cha nhắm mắt cho rồi, để đau trầm trệ lâu ngày, thì cực khổ cho con, con là phận gái thân cô sức yếu, làm gì mà chống cự nỗi cái cãnh ngộ thãm khổ ngặc nghèo nầy, cha mạnh thì chẵng nói chi, nếu một mai cha có đều gì, thì tội nghiệp cho con lắm, chồng con thì mắc lo việc phò vua giúp nước, còn con thì bơ vơ xứ sở, côi cúc một mình, rủi gặp cơn nắng lữa mưa dầu, thì biết ai mà náu nương nhờ cậy, nói rồi thì hai hàng nước mắt ròng ròng chảy xuống.
Cô Ngọc-Sương bưng chén cháo để xuống đất rồi quì mọp bên giường khóc và nói rằng:
— Cha ôi! Con vái trời cho cha mạnh giỏi mà qua khỏi nạn nầy, dầu con giải nắng dằm sương, cực khỗ thế nào thì con củng lo chạy thuốc thang cho cha, gọi đền chút ơn sâu dưởng dục, công nặng sanh thành, xin cha chớ ưu phiền, mà sanh thêm bịnh hoạn, con tuy thân cô sức yếu, quần vận yếm mang, song từ nhỏ đến giờ, nhờ cha dạy dổ học hành, củng đả nếm được chút ít cái mùi thánh kinh hiền truyện, con củng biết giử cái tư-cách của một gái, thế nào gọi rằng trung trinh hiếu hạnh, thế nào gọi rằng hiền đức nử công. Cha ôi! Con tuy còn thơ bé, song con củng có đủ trí khôn, mà đối với việc trong gia đình, cùng người ngoài xả hội, xin cha ráng tịnh dưởng tâm thần, đặng con lo chạy thuốc thang cho cha, họa may trời còn lòng thương, thì bịnh căng củng lần lần thuyên giảm.
Cô nói rồi lấy khăn lau nước mắt, xuống bếp múc cháo ra ăn sơ sịa ít muổng đở lòng, rồi day qua thấy con chó mực nằm khoanh dưới váng yêm liềm, mắt ngó chừng cô, mà không dám léo lại, cô thấy vậy bèn lấy miếng cháo dư, đem lại và kêu và nói rằng:
Mực mực, cờn chút cháo dư đây nầy mi dậy mà ăn đi, con mực nghe cô kêu thì chờn vờn đứng dậy, ngoắc đuôi lia lịa, còn hai mắt ngó cô châm châm, và le lưởi liếm mép hai ba cái, tội nghiệp cho con súc vật nầy là một giống trung tín khôn ngoan, thấy chủ buồn thì củng buồn, rồi kiếm chổ nằm khoanh thiêm thiếp, kế nghe chủ kêu cho ăn, thì chạy loại ngoắc đuôi lia lịa, ra bộ băng xăng mừng quýnh.
Cô Ngọc-Sương dọn dẹp đóng cửa trước sau xong rồi vào giường thăm cha, thấy cha đã ngũ, cô bèn lại váng nằm rồi suy tới nghĩ lui, chẳng biết châu-văn-Tiếp là người đả gá nghĩa nhơn duyên cùng cô, bây giờ ở đâu, mà biệt tín biệt dạng. Chẳng biết người có giử lời ước hẹn khi xưa, cho bằng lòng kẽ sớm trưa đợi chờ, từ khi người theo đức Nguyển Ánh mà phò vua giúp nước, xông pha giửa chốn mủi đạn đường tên, chẳng biết người có bình yên vô dạng, mạnh giõi thế nào, mà vắng bặc âm hao, làm cho cô mong-mõi ngày trông đêm đợi, thật là:
Cánh-Hồng bổng cất tuyệt vời.
Đã mòn con mắt phương trời đâm đâm.
Còn ông thân cô thì bịnh càng ngày càng thêm, sức càng ngày càng yếu, tuổi già thắc thẽo, như trái chín trên cây, chẳng may gặp một luồng gió trận mưa thế cũng ghe ngày phẵi rụng, rồi cô nghĩ đến cuộc nhà gặp lúc thời nguy, phải cơn nghèo ngặc, mà thãm thay trong túi vắng hoe, rủi có đều gì, thì biết cậy ai giùm giúp, rồi cô nghĩ lại phận cô, quê người chiếc bóng, thân gái một mình, thì lã chã giọt sầu, chẵng biết ai xuôi nên nổi.
Cô mảng một mình trằn trọc, tư tư tưởng tưởng, nghỉ nghỉ suy suy, mà đêm lụn canh tàn, nằm không yên giấc.
Kế trời vừa rựng sáng, cô lật đật chổi dậy xuống bếp, nấu cháo và nước, rồi bưng lên cho ông thân cô và nói rằng:
— Cha, cha dậy ăn miếng cháo, con mới nấu đây cha, đặng con tính ra chợ cho sớm, kiếm coi có ai mướn may, thì lấy tiền mua gạo và hốt thuốc cho cha uống.
Ông nghe cô nói thì thở ra một cái, rồi gượng dậy húp ít muổng cháo, và nói rằng:
— Con ôi! con tính đi kiếm chổ may, song cha tưởng người ta có mướn, cũng chẵng kiếm được tiền bạc bao nhiêu, và họ thấy mình năn nỉ chiều lòn, họ lại éo náy mướn rẻ, thì lấy gì mà chi độ cho đủ trong cơn thắc ngặc ốm đau, phần cha ở nhà một mình, vắng trước quạnh sau, không ai nước nôi săn sóc.
Vậy cha có quen với một chú Hương-Bích ở xóm trên đây, cũng là anh em thân thiết với cha thuở nay, con lên nói cha đau, hỏi đở ít nhiều mà thuốc thang chi độ trong cơn túng rối, rồi thũng thẵng con sẻ kiếm chổ may vá mà trả lại cho người ta.
Cô Ngọc-Sương nghe cha nói vậy thì vâng lời, liền sắm sửa mặc áo lấy khăn ra đi.
Khi cô lên tới nhà chú Hương-Bích, thấy thiếm Hương đương ngồi trên váng, sửa soạn ô-trầu, còn chú Hương thì đứng trước hàng ba, xem cây nhắm kiển.
Chú Hương thấy cô Ngọc-Sương ngoài ngõ xâm xâm đi vô, thì hõi rằng:
— Ủa hai, em đi đâu trên nầy, có việc chi không?
Cô Ngọc-Sương bước lại chào hai vợ chồng chú Hương và nói rằng:
— Thưa chú thiếm, cha tôi hỗm rày có bịnh, bảo tôi lên thưa cùng chú thiếm, làm ơn cho cha tôi mượn đở ít quang tiền đặng uống thuốc men, rồi tôi kiếm chỗ may, sẽ lấy tiền trả lại cho chú thiếm, nếu chú thiếm rộng lòng làm ơn giúp giùm cho cha tôi trong cơn thắc ngặc, thì cha tôi và tôi đội ơn chú thiếm ngàn ngày.
Thiếm Hương nghe cô Ngọc-Sương nói vậy, thì ngó chú Hương một cái và nói rằng:
— Con hai nó nói vậy, mà ba nó tính sao?
Chú Hương ngồi nghĩ thầm rằng:
— Ông Cử-Khôi là anh em quen biết, nếu giúp ông thì không lẻ ăn lời, và không biết ông trã đặn không? nếu để lâu ngày thì mình thất lợi, chi bằn mình không cho thì hay hơn, nghĩ vậy rồi day lại nói với cô Ngọc-Sương rằng:
— Cha chã rũi quá, không mấy thuở ông Cữ sai em lên hỏi, mà ngặc vì lúc nầy, tiền qua mới cho người ta vay, hể một trăm thì mỗi tháng trả lời ba phân, còn như hỏi ít, thì tiền lời mắc hơn hội nhị, mà hể hỏi tiền thì phải cầm thế vật chi mới được, nếu mà kỳ mà không trả, thì qua bán đồ ấy mà lấy tiền, qua nghỉ cho để tiền ở nhà đã không lời, mà lại mất công cất giữ, vì vậy nên qua cho người ta vay hết, bây giờ trong nhà còn để đủ xài mà thôi, nếu cho em mượn, thì lấy gì mà chi dụng, thôi em chịu phiền về thưa lại cho ông Cử rỏ, và kiếm chổ khác mà hõi đỡ, chớ chi sẳn tiền thì qua cũng giúp cho ông Cữ uống thuốc kẽo tội nghiệp: còn như em chờ được thì chờ tới tháng sau đây họ trã tiền, chừng đó qua sẽ giúp em mới được.
Cô Ngọc-Sương là một gái thông minh mẫn thiệp, thấy chú Hương-Bích nói vậy, thì biết là một tay chỉ lo chặt đầu lột da người ta mà làm giàu, chớ chẳng biết trọng nghỉa thi ân, mà giúp đở ai trong cơn nghèo ngặc, cô liền ngồi ghé nơi váng va huỡn đãi nói rằng:
— Thưa chú, đêm hôm qua, khi tôi săn sóc cho cha tôi rồi, thì canh đả khuya, tôi vừa lại váng nằm nghỉ mơ màng, bỗng thấy một điềm chiêm bao rất lạ, tôi thấy tôi đi vào một cái cù lao, kiếm thuốc cho cha tôi, xảy gặp một con cá voi nhỏ, nằm trên trãng cát và nói chuyện với một tên phường chài, tôi lấy làm lạ và nghĩ thầm rằng: Cá gì mà biết nói tiếng người ta, tức thì tôi lần lại lóng tai để nghe, thì nghe cá voi ấy nói rằng:
« Ta là Thái tử của Nam-hải Long-vương, đi dạo chơi phong cảnh, rủi mắc cạn nơi đống cát nầy, đả hai ngày rày, ngươi có nước làm ơn cho ta một gáo đở khát.
« Tên phường chài kia, ngẫm nghĩ một hồi rồi trả lời rằng:
— « Tôi bây giờ chỉ có một bầu nước đem theo đủ uống mà thôi, nếu cho ngài thì tôi lấy chi mà dùng trong cơn khao khát vậy ngài chịu phiền nằm đây, chờ tôi ra biển nam-hãi, lấy nước đem về mà cứu ngài đặng không?
« Cá voi nhõ kia, nghe nói thì phùng hai mang lên, quay đầu ngó lại, rồi trong lỗ mũi xịch hơi ra một cái và nói rằng:
— « Ta cùng mi chẳng phải xa lạ, khi thuyền mi gặp lúc cuồng phong nộ lãng, sóng gió hiểm nguy, thì có ta ở một bên ghe mi mà chở che phò hộ, bây giờ ta gặp lúc gian nan như vầy, mà mi đành mặt ngơ tai điếc.
« Mi là người đại ác, một gáo nước mà mi không chịu giúp ta trong cơn khao khát; bây giờ, nếu chờ mi ra biển nam-hãi đem nước về đây, thì chừng ấy ta đã chết khô trên trảng cát nầy, còn gì mà cứu đặng », nói rồi cá voi ấy đập đuôi một cái, cát bay mù mịt, tôi bèn giựt mình thức dậy thì là một giấc chiêm bao.
Cô Ngọc-Sương lại nói tiếp thêm rằng:
— Điềm chiêm bao ấy chẳng biết hung kiết lẻ nào, song tôi nghĩ lại bịnh của cha tôi đương lúc ngặc nghèo nầy, nếu chờ qua tháng sau như lời chú nói với tôi khi nảy, thì chừng ấy chắc là cha tôi sẽ chết khô như cá voi kia vậy, cô nói rồi lấy khăn lau nước mắt và cáo từ ra về; hai vợ chồng chú Hương-Bích nghe những lời cô Ngọc-Sương nói đó, thì trong lòng dường như có vật chi cắng rức lương tâm, thấm thía nghĩ thầm mà hỗ thẹn, rồi thiếm Hương day lại nói với chồng rằng:
— Con Ngọc-Sương nó nói vậy, mình nghe hiểu không?
Chú Hương-Bích ngồi nhịp nhịp chơn và nói: nó nói nó thấy điều chiêm bao như vậy, thì sợ cha nó chết chớ gì, cái tánh đàn bà con gái, hễ thấy điềm gì lạ, thì nghi nan sợ hãi, chớ có gì lạ đâu.
Thiếm Hương ngó chú Hương nửa con mắt rồi cười một cái lạt lẻo mà nói rằng:
— Thật cái lổ tai mình dày quá, con Ngọc-Sương nó thấy mình không cho nó mượn tiền, nó bày đặt chiêm bao chiêm bị, nói vậy mà biếm nhẻ kiêu ngạo mình, mà mình không hiểu hay sao?
Chú Hương-Bích đương ngồi vé quần gải bấp vế xạt xạt, nghe vợ nó vậy thì vổ trên bấp vế cái bép, rồi trợn mắt nheo mày mà nói rằng:
— Trời ôi! con Ngọc-Sương nó đặt chuyện mà biếm nhẽ mình sao? Sao hồi nảy má nó không nói cho tôi hỏi nó, để bây giờ nó đi về rồi, thì nói gì cho đặng, con nhõ nầy quá quắc dử chưa, để tôi xuống mắng vốn với ông già nó, và nói cho nó biết.
Thiếm-Hương nói: thôi đi, cái mặt mình dốt nát đó, xuống nói chót choét đây, nó kiếm chuyện mắng nữa mà thêm xấu.
Khi cô Ngọc-Sương trở về dọc đàng, vừa đi vừa nghĩ, nghĩ mà ngán ngẩm cho tình người lạt lẽo, cuộc thế đão điên, hễ khi rượu trà lành mạnh, thì anh em thân thiết chơi bời, còn lúc hoạn nạn ngặc nghèo, thì giã làm mặt ngơ tai điếc, hèn chi sách có câu rằng:
Ân nghĩa tận tùng bần xứ đoạn.[1]
Thế tình thiên khán hửu tiền gia.[2]
Chờ chi cha tôi giàu có, thì chúng nó thưa thưa giạ giạ, đỡ đỡ nưng nưng, tới lui theo khi chén rượu chung trà, anh em theo lúc đồng tiền túi bạc, còn lâm cơn bịnh hoạn gặp lúc nghèo nàn, dầu cho tới nó mà năn nĩ ỹ ôi, thì cũng chẳng ngó ngàn giúp đỡ; có nghĩ vậy thì mặt hoa ũ dột, mày nguyệt nhăn nho, thật ghê gớm thay cho cái lũ tham phú phụ bần, chĩ biết say mê theo mùi kẽm hơi đồng, mà chẳng kể đến thân bằng cố hữu, ngán thay cho đám nhơn tình thế thới, điên điên đão đão, tĩnh tĩnh mê mê, chẵng biết kẽ phải người không, chĩ bo bo theo thói tham lam khổ khắc, nay mình gặp cơn nghèo ngặc, nào ai là người tế nhơn lợi vật, nào ai là kẽ truất khổ lân bần, ngó vào bàng gia lân lý, trông ra xã hội nhơn quần, xét lại thì mấy ai ở đăng hảo tâm; nắng toan giúp nón, mưa dùm áo tơi.
Cô Ngọc-Sương đương đi thơ thơ thẩn thẩn, nghĩ nghĩ suy suy, bổng có một bàng tay thình lình vổ ngay trên vai cô một cái, và cất tiếng hõi rằng.
— Em hai, em đi đâu đây, mà xem bộ lơ là buồn bực như vậy?
Cô Ngọc-Sương dựt mình ngó lại, thấy bà chủ Mai là người ỡ lối xóm với cô, thì vội vả thưa rằng:
— Thưa bà, tôi đi xuống dưới chú Hương-Bích về.
— Qua nghe nói ông già em đau, nay đã mạnh chưa?
— Thưa bà, cha tôi hổm nay đau nặng, một ngày một yếu, phần thì thuốc thang không có, phần thì thiếu thốn bạc tiền, nên cha tôi bão tôi xuống chú Hương-Bích mượn đở ít nhiều, đặng lo mà chạy thầy hốt thuốc, nhưng mà…
Bà chủ nghe cô nói tới đó rồi nín đi, thì hỏi tiếp rằng:
— Nhưng mà rồi sao? em có mượn được chăng, sao em nói tới đó rồi lại không nói cho dứt?
— Thưa bà, nhưng mà chú hương-Bích nói tiền mắc cho người ta vay hết, nên không cho mượn, vì vậy nên tôi phải về không, bây giờ tôi chưa biết tính sao mà mượn ai cho đặng. Cha tôi cũng tưởng chú là anh em quen biết thuở nay, lẽ nào trong cơn đau đớn như vầy, mà chú không giúp đở chút đĩnh, nên mới sai tôi xuống hõi, nhưng mà sự tưởng cũa cha tôi đó, là để cho người biết thi ân trọng nghĩa, truất khổ lân bần kìa, chớ như chú hương Bích nầy, thì dẩu cho cốt nhục đồng bào, chú cũng không nới cái túi tham của chú ra đặng.
Bà chủ Mai nghe cô nỉ non nói vậy, thì cãm động lòng thương rồi nói rằng:
— Ác nghiệp dữ không? sao hổm nay em không nói, để chạy hõi người ta làm chi, cho trễ nãi công việc, thôi em lại nhà, qua cho mượn chút đĩnh đặng lo chạy thuốc men cho ông già.
Qua tuy không giàu có gì, song thấy việc phải nghỉa thì cũng biết làm ơn, vì em út cũng là người ỡ lân cận xóm riềng, rủi gặp lúc ngặc cơn nghèo, nếu qua không hay thì thôi, còn hay biết lẽ nào làm mặt ngơ tai điếc sao đặng.
Qua đây tuy đàn bà góa bụa mặc dầu, song cũng biết làm sự nghĩa, chẵng phải như bọn nhà giàu bất nhơn kia, coi đồng tiền bằng bánh xe, ỷ lấy cái thế lực kim tiền, rồi kiếm chước chặt đầu lột da người một giống một nòi mà thủ lợi vậy đâu. Thôi em đi theo qua, qua giúp cho không sao phòng ngại.
Cô Ngọc-Sương lặng nghe mấy lời bà chủ Mai nói, thì trong lòng phới phở, nở mặt tươi mày, rồi đáp rằng:
— Thưa Bà, nếu bà có lòng đại độ, ra ơn giúp đở em út trong lúc túng cùng, thì ơn bà tôi ghi chạm vào lòng, không bao giờ quên đặng.
Nói rồi cô theo bà về nhà, bà lật đật vào buồng lấy hai đính bạc và ít quan tiền, đem ra đưa cho cô Ngọc-Sương và nói: đây Hai, em lấy bạc tiền nầy về, lo chạy thuốc cho ông già em, chừng nào hết, thì em lại lấy thêm chút đỉnh nữa mà dùng, em đừng ái ngại chi hết.
Cô Ngọc-Sương thấy bà thật là một người hão tâm hào-hiệp, thì cúi đầu cãm ơn, rồi lật đật trở về bước vào buồng thăm cha.
Ông thấy cô về thì hỏi rằng:
— Sao con xuống chú Hương-Bích mượn đặng nhiều ít gì không?
— Thưa cha, con xuống hỏi, chú nói tiền mắc cho người ta vay hết, nên không cho mượn.
Nguyên chú Hương-Bích là người trí thức cũa ông, nên ông có lòng trông cậy dầu nhiều không có, thì chút đĩnh có lẽ chú cũng giúp cho, chẵng dè cô Ngọc-Sương nói vậy, thì trong lòng ông đã thất-kỳ-sở-vọng, rồi ngước mặt thở dài một cái, xem rất thãm sầu, và không nói chi hết.
Cô Ngọc-Sương thấy ông thất-vọng mà buồn rầu thì nói với ông rằng:
— Những cũng một diệp may cho nhà mình lắm cha, khì con hỏi chú Hương-Bích không đặng, trỡ về dọc đàng, con gặp bà chủ-Mai, thấy con buồn bực thơ thẩn bên đàng, thì chạy lại hỏi con, con thuật công việc cho bà nghe, Bà thấy vậy bão con lại nhà, rồi cho mượn hai đính bạc với ít quang tiền, bà lại dặn con rằng chừng nào thiếu dùng, thì lại bà giúp nữa cho, không sao phòng ngại, thật bà là một người rất hão tâm hào hiệp, trọng nghĩa lân bần, chẳng phãi như chú Hương-Bích, chĩ biết tiếc trọng đồng tiền, mà chẳng biết tới anh em nhơn nghĩa chi hết.
Cô nói rồi lấy hai đính bạc trong túi đưa cho ông xem.
Ông tỏ ra có vẽ vui mừng cám cảnh rồi nói rằng:
— Con ôi! bạc tiền là một giống quí báu cũa người, song dùng nó phãi cách, thì nó làm cho người ta khen ngợi kính vì, còn dùng nó không nhằm cách, thì nó giết chết linh hồn, phá hại lương tâm, làm cho người ta chê cười khinh bỉ là vậy đó đa con, nên phương ngôn có nói câu rằng: tiền bạc giết chết linh hồn người, nhiều hơn là gươm dao giết chết xát thịt.
Cô nghe ông nói rồi, thì vội vã trở ra, lo rước thầy chạy thuốc cho ông, và mua gạo thóc vật thực, để dành mà dùng trong cơn bi yếu.
Song bịnh ông càng ngày càng nặng, đến đỗi cơm cháo không ăn, cô lo chạy thuốc thang, thầy nầy qua thầy kia, mà không thấy dấu gì là công hiệu.
Bữa nọ, bịnh ông trầm trọng, bức rức không yên, ông bèn kêu cô mà nói rằng:
— Con ôi! cha thế nào cũng không sống đặng, thôi con đừng thuốc thang chi nữa, mà uổng phí bạc tiền, vì cha biết trong mình cha thế nào rồi, cha đến tuổi nầy dầu nhắm mắt cũng yên bề phận mạng, cái đường đời cũa cha tới đây đã cùng, con chớ thấy vậy mà ưu sầu khóc lóc.
Con ôi! cái cảnh trần thế nầy là một cái quán để cho người tạm ở ít lâu mà thôi, còn miền địa-phủ kia, mới thật là chổ quê hương xứ sở, cha bây giờ tuổi đã cao, tác đã yếu, tinh thần liệt nhược, cốt nhục tiêu ma, đó là cái hạn kỳ thôi thúc cha phải từ biệt dương trần, mà trở về quê kiển.
Đã biết rằng cái xuất tuồng ly sầu biệt hận nầy, ai xem đến cũng phải xót dạ đau lòng, huống hồ cha con mình là phụ tử tình thâm, thì bao xiết là gan xàu ruột héo.
Nhưng mà cha khuyên con một đều là phải lấy một tinh thần mạnh mẽ, mà đối với cái cảnh thế-cuộc-tan-thương, chẵng nên học theo thói nhi nử thường tình, mà làm hư danh giá con nhà thế-phiệt.
Con ôi! Châu-văn-Tiếp là người đã gá nghĩa tóc tơ cùng con, vẫn là một người hào-hiệp trượng-phu, anh hùng khí-phách, mai sau may mà vợ chồng sum hiệp, gặp gở lương duyên, thì con phải làm sao cho đáng mặt thuyền-quyên, xứng trang thục nử, mà đối đãi cùng người, được vậy dầu cha thát xuống tuyền-đài, cũng đặng chút vui lòng sở-nguyện.
Ông nói tới đây thì tiếng đả khang, hơi đã mỏn; rồi nhắm mắt nằm yêm, mà mê mệt tâm thần, không nói chi đặng nữa.
Cô Ngọc-Sương thấy ông thần sắc biến đổi, bức rức không yên, thì ứa lụy đôi tròng, rồi lấy tay để trên ngực ông đặng coi trái tim còn nhãy mạnh yếu thế nào, thì nghe bộ mạch thần-kinh của ông chỉ còn thoi thóp, nhãy pháy pháy như sợi tơ, và hơi thỡ phưởng phất yếu như mành chỉ.
Cô lật đật lấy mền đấp điếm cho ông, rồi ngó lại quanh mình, bà con chẵng có, thân thích củng không, chỉ có một cha một con, mà gặp cái tình cảnh tử biệt sanh ly, thãm thiết như vầy, thì cô nghỉ càng đứt ruột đau lòng, biết bao là dầm dề giọt lệ. Dây lâu cô ngó lại, thì ông đã tắc hơi, cô bèn gục đầu bên giường mà khóc thôi nức nở.
Khi ông mấy rồi những chị em cô bác ở lối xóm hay, chạy lại viếng thăm, rồi người lo việc nầy, kẻ dùm chuyện khác, kẽ giúp công, người giúp của, đặng lo sự tẩn liệm cùng cô, vì cô là người tánh tình hòa-nhã, ăn nói phải đều, bình nhựt cô lấy một sự tình nghĩa mà đối đãi với cô bác chị em, giao thiệp với xóm riềng lân lý, đều là nhỏ nhoi tử tế, người trong xóm có đều chi hoạn nạn, thì cô đến chia thãm phân phiền, chị em có việc gì bất hòa, thì cô lại khuyên lơn bàn giãi, nên khi cô hữu sự, ai nấy đều vì nể thương yêu cà hết sức hết lòng mà dùm giúp cô trong cơn mai táng.
Khi cất táng ông xong rồi, cô bán cái nhà đặng làm phần mộ cho ông, còn dư thì trã tiền thốn thiếu người ta, rồi tính qua Mỷ-tho, trước là thăm người dì, sau là hõi hang tin tức Châu-văn-Tiếp luôn thể.
Vì nghe đức Nguyễn-Ánh đánh đuỗi quân Tây-sơn thâu phục Saigon lại rồi, nhưng mà người tình nghĩa của cô là Châu-văn-Tiếp chưa biết trấn thủ nơi nào, nên cô tính qua Mỷ tho cho tiện bề dọ thăm tin tức.
Bửa nọ cô đến từ giã và cãm ơn bà chủ Mai và chị em quen biết lối xóm, rồi mướn một chiếc ghe đưa cô qua nhà người dì ở Mỷtho mà trú ngụ.
Chú thích
▲Cái ơn nghĩa đều bị chổ nghèo mà dứt.
▲Cái tình đời cứ coi nhà nào có tiền thì hơn.
HỒI THỨ MƯỜI SÁU
Lập vọng-đài phòng việc chiến binh,
Nhớ thệ ước tìm người nghĩa cũ.
Đây nhắc lại khi Châu văn Tiếp từ biệt cô Ngọc-Sương, theo phò Đức Nguyển-Ánh, dẹp Tây Sơn, thâu phục Saigon đặng rồi, thì Nguyễn-Vương phong làm khâm-Sai-Đô-đốc, sai ra trấn Bình-thuận, Khánh-Hòa, chổ nầy là một chỗ quang phòng yếu địa, nên Châu-văn-Tiếp ngày đêm lo chấn chỉnh binh nhung, luyện tập quân sỉ, trên bộ thì lo bồi thành đấp lủy, bố trại lập đồn, dưới thủy thì lo chế tạo chiến-thuyền, đặng phòng ngự quân giặc Tây-Sơn, trong khi đem binh xâm lược, nhứt diện lại cho người ra Khánh-Hòa Phú-Yên, chiêu mộ nhơn dân, đem về tập rèn, đặng lập thêm quân ngũ, nhứt diện thì sai các tướng bộ hạ, vào rừng chiêu dụ mấy máng mọi, bão vở gỗ đốn cây, đặng dùng làm công vụ, và cất một cái vọng-đài trên một hòn núi rất cao, để trông ra bốn phía mà coi chừng quân giặc.
Từ dưới chơn núi lên tới vọng đài, bề cao độ chừng hai trăm trượng, có làm đường thông hành quanh qua lộn lại, để cho quân lính xuống lên, còn các nơi hiễm yếu, cùng các chổ biên thùy, thì có cất phong-hỏa-đài, trong các phong-hỏa-đài nầy, có chứa củi khô và rơm bỗi để khi có giặc đốt lên mà làm hiệu lịnh, còn dưới thủy có đặt chiến-thuyền, ngày đêm tuần phòng dọc theo mé biển.
Châu-văn-Tiếp lại đặt một đạo binh tuần phòng dọc theo mé rừng, từ Bình-Thuận ra tới địa phận Phú-Yên, đặng ngăn ngừa quân giặc Tây sơn, và thám thính binh tình động tịnh, đâu đó sắp đặt chỉnh tề, và ngày đêm phòng nghiêm-nhặc.
Các sắc binh của Đô-đốc Châu-văn-Tiếp trấn tại Bình-Thuận kể ra dưới đây.
1·— Một ngàn binh bộ đều dùng cung nổ và trường thương.
2·— Hai trăm binh pháo-thủ coi các vị súng lớn trí chung quanh thành lũy.
3·— Năm trăm binh mã-kỵ để làm 5 đội binh Du-kích.
4·— Ba chục chiến tượng (voi đánh giặc) mỗi thớt có 4 tên quân ở trên bành voi đều dùng trường thương và Hõa-hỗ trong khi xuất trận.
5·— Một ngàn binh thủy và 20 chiến thuyền lớn, mổi chiếc có 50 thủy binh, và 30 chiến-thuyền nhõ, mổi chiếc có 20 binh thủy. Cả thãy các sắc binh cọng hơn 3000 người, thảy đều tập luyện tinh thục.
Bữa nọ cái vọng-đài cất trên núi hoàn thành rồi, Châu-văn-Tiếp và các tướng bộ hạ kéo nhau lên xem, khi lên tới vọng-đài thấy phía hậu có một sơn động rất to, phía tiền có một thạch bàn rộng rãi.
Châu-văn-Tiếp và các tướng liền leo lên vọng đài, ngó quanh bốn mặt, trông qua hướng tây, thấy minh mông biển bạc, trời nước một màu, nhìn qua hướng bắc thấy chớn chở non cao. Cỏ cây xanh mịt, ấy là:
Non mặc áo cây xanh mịt mịt,
Biển trùm mền nước trắng phao phao.
Ngó xuống biển thì thấy sóng bồi bải cát, trông lên đảnh lại thấy núi đội vừng mây, xem ra như tuồng:
Biển lo đất thiếu bồi thêm cát,
Núi sợ trời nghiên đở lấy mây.
Kìa là ráng hồng ững ững, nọ là gió thổi hiu hiu, thật là một cãnh trời chiều, xem ra như ai thêu ai vẻ.
Đó rồi Châu-văn-Tiếp lại đứng bên góc vọng-đài, trông vào Nam-kỳ, thấy ngàn trùng vân thọ, thinh thang đất rộng trời cao, muôn dậm quang hà[1] thâm thẫm non xanh nước biết, bổng chúc vì đâu nổng nổi, khiến cho nhắm cãnh rồi chạnh lòng, dường như có một mối cãm tình, ai đem vấn vương vào ruột.
Châu-văn-Tiếp đương đứng trầm-tư mặc-tưởng, bổng thấy một người thắp thoán hiện ra trước mắt, hình dung yễu-điệu, cốt cách dịu-dàng, đẹp thay một gái hồng nhan, rỏ ràng là người giai-nhơn tuyệt-sắc, nào là chơn mày nét mặt, nào là vóc liểu hình mai, diện mạo nghiểm nhiên hiện ra trước mắt Châu-văn-Tiếp, ấy là một nàng tình xưa nghĩa củ cũa người là cô Ngọc-Sương khi trước.
Cô Ngọc-Sương nào đây? cô Ngọc-Sương ở đâu sao lại hiện ra trước mắt?
Vì trong khi Châu-văn-Tiếp đứng trên vọng-đài, ngó vào Giadinh, đương lúc đối cảnh sanh tình, nhớ lại cô Ngọc-Sương trong lúc gặp gở tại Long-xuyên, nên làm cho người tưởng tượng nơi lòng, mơ màng trong trí, nhớ khi gặp hội tao phùng, nhớ lúc trao lời tiển biệt, rồi bao nhiêu mặt mày hình trạng, dường như thấy cô hiện ra trước mắt, nên người đứng ngó sửng sờ vào Nam, rồi lẵng lặng làm thinh chẳng nói chi hết.
Bỗng có quan Tham-tá là Đặng-đình-Huy thấy người đứng sửng yêm liềm, thì bước tới và hõi rằng:
Bẫm Đô-đốc, Đô-đốc ngó vào Nam-kỳ xem địa cuộc phong cãnh thế nào? dường như có ý nghĩa nghị đều chi, mà Đô-đốc lặng thinh chẳng nói?
Châu-văn-Tiếp nghe hỏi liền day lại nói trớ đi rằng:
— Ta xem vào Nam-kỳ thật là một xứ điền phì địa quãng, vật thạnh dân phong,[2] nếu ngày kia chúa-thượng dẹp yên quân giặc Tây-sơn và khôi phục sang hà nầy rồi, thì xứ Nam-kỳ đó là một kho vàng rất to của Nam-việt.
Quan Tham-tá Đặng-đình-Huy nói: Thật xứ Nam-kỳ ẫy là một kho vàng rất to, và cũng là một vựa lúa rất lớn. Vì vậy mà quân giặc Tây-sơn Nguyễn-Nhạc không thế nào chịu đễ kho vàng vựa lúa ấy lại cho ai, bởi vậy ghe ngày chúng nó sẻ đem binh xông vào mà chiếm đoạt, vậy nếu trong khi có giặc, thì xứ Bình-Thuận nầy là chổ địa đầu, để chịu mủi đạn lằng tên, và là một nẽo đường để cho quân giặc xông vào Giadinh.
Châu-văn-Tiếp nói: nếu ta còn trấn thủ xứ nầy, thì chẵng hề để cho quân giặc đến đây mà xông vào Giadinh, nói rồi liền dắc nhau xuống núi trở về, và các tướng sỉ cáo từ, rồi ai về dinh nấy.
Đêm ấy Châu-văn-Tiếp nghỉ lại khi tri ngộ cô Ngọc-Sương tại Long-xuyên, và gá nghỉa tóc tơ cùng cô, từ ấy đến nay, mảng lo bôn ba việc nước, nên không cơ hội nào rãnh mà hiệp mặt cùng nàng, tội nghiệp thay cho nàng, phận gái linh-đinh, cha già yếu đuối chẳng biết nàng cùng ông thân nàng bây giờ lưu lạc xứ nào.
Nghĩ vậy thì chạnh lòng ly biệt, xót dạ ân tình, tức thì sáng bữa ấy, Châu-văn-Tiếp ra trước văn phòng, viết một tâm thơ, phong niêm tữ tế, rồi bão quân hầu đòi hai tướng bộ hạ tâm-phúc của ngươi là Hồ-công với Lý-Viễn, và dặn rằng:
— Hai người lập tức sắm sửa hành trang, rồi vào Nam-kỳ đến tại Long xuyên, hỏi thăm nhà ông Cử-Khôi, và con gái ông tên là Hồng-ngọc-Sương, như gặp thì trao thơ nầy cho cô xem, nếu ông và cô gái nầy không có ở Long-xuyên, thì hai ngươi phải qua Long-hồ mà tìm kiếm cho được, như gặp thì hai ngươi phải tiếp rước về đây cho tữ tế; nói rồi lấy bạc tiền đưa cho hai tướng ấy đặng làm lộ-phí mà lên đường.
Hai tướng bộ hạ liền cúi đầu phụng mạng ra đi, tuốt vào Nam-kỳ mà tìm kiếm.
Chú thích
▲Quang hà là mấy cái quang ải và sông suối.
▲Vật thạnh dân phong là vật thực nhiều và dân giàu có đông đảo.
HỒI THỨ MƯỜI BÃY
Cứu chơn-lạp Hữu-Thoại hòa Xiêm
Bải binh nhung Chất-Tri nghị ước.
Nói về nước Xiêm-La với nước Cao-man thuở nay hai nước giáp giới lân ban cùng nhau, nên nước Xiêm nhiều khi muốn xâm lược bờ cỏi Cao-man, và bức ép nước Cao-man thần phục, nhưng nước Cao-man cứ giử quyền độc lập, chẵng chịu thuận tùng, chỉ lấy sự tình nghĩa lân ban, mà đối đãi giao-thiệp.
Từ khi vua Xiêm-La là Trịnh quốc-Anh,[1] thấy vua Cao-man thọ tước xưng thần cùng Nguyễn-vương và phục tùng dưới quyền bão hộ của nước Nam ta, nên đem lòng ganh ghét, sợ nước ta ngày sau chiếm đoạt Cao-man, và di dọa tới nước hắn, vì thấy Nam kỳ nầy ngày xưa là địa phận của Cao-man, mà ngày nay nước ta đã chiếm cứ cả thãy: và ngủ-quãng kia ngày xưa là đất nước của Chiêm-Thành, mà ngày nay cũng bị nước Nam ta xâm lăng mà phải diệt quốc, nên quân Xiêm-La gọi ta là một con rắn hổ-mang rất to, nằm dọc theo mé biển mà ăn hết một nước Chiêm-Thành, nuốt hết nữa nước Chơn-Lạp; bây giờ lại còn cất mỏ quay đầu vào đất Nam-Vang, muốn nuốc cả và nước Cao-man luôn thể.
Bởi thế nên bửa nọ vua Xiêm-La hội các quan văn võ lại bàn nghị, quyết đem binh đánh nước Cao-man một trận, đặng đặt quyền bảo hộ của nước hắn, và kiếm thế dứt dây liên lạc của ta đã buộc vào nước Cao-man, đặng làm cho rời rã nhau ra, cho khỏi bề hậu hoạn.
Lúc bấy giờ có một vị đại thần Xiêm, tên là Lang-cốc-xi-Ma tâu rằng:
Muôn tâu bệ hạ, vua Cao-man nhờ Nguyễn-vương dẹp giặc và tôn lên làm vua, nay đã thọ sắc xưng thần cùng Nguyễn-vương nước Nam, và chịu cho nước Nam bão hộ, nếu bệ-hạ bây giờ đề binh khiển tướng qua đánh Cao-man, thế nào Nguyễn-vương cũng cử binh cứu viện, mà đối địch cùng ta, thì binh ta khó bề thắng nỗi.
Vậy xin bệ hạ phải tuyển luyện binh ròng tướng giỏi, rồi thình lình vượt qua biên thùy nước Cao-man, mà tấn tới cho mau, nội mười ngày thì phải đoạt thủ kinh-đô Nam-vang, bắt vua Cao-man cho được, rồi phân binh ngăn ngừa mấy nơi hiểm yếu và mấy ngã đàng sông, đừng cho binh Annam tấn tới, như vậy thì họa may có thủ thắng đặng chăng, nếu bê trể ngày giờ, ắc binh của Annam tấn lên cứu viện Cao-man, thì binh ta không thế gì thắng nỗi.
Vua Xiêm là Trịnh-quốc-Anh nghe tâu liền hạ lịnh sai hai tướng là Chất-Tri với Sô-Xi, mỗi người lãnh một đạo binh ba ngàn và sai Hoàng-tử xiêm lãnh một đạo binh vận tải lương thão theo sau, rồi một đạo kéo qua ngã Đế-thiên dựa phía biển Hồ, còn một đạo kéo qua ngã Com-bông-sơ-năn (Kompongchnan.) Ngày đêm băng rừng vượt núi, lước ải xông đèo, kéo tới như sóng dập gió dùa, tới trấn này thì đánh rạp trấn nấy, quân Cao man chống cự không nổi, bèn kéo nhau chạy lui, rồi chạy tờ cáo cấp về triều xin binh tiếp cứu.
Vua Cao-man là Nặc-In nghe các biên trấn gởi tờ cáo cấp, thì thất kinh, bèn nhóm các quần thần hội nghị, rồi sai Chiêu-căng-Mu tức tốc đem binh kháng cự, nhứt diện xin quan bão-hộ là Hồ-văn-Lân báo tin cho Nguyển-vương ở Saigon hay, đặng đem binh cứu cấp.
Hồ-văn-Lân liền tư tờ về báo cho Nguyển-vương, rồi đem binh ra tiếp với binh Cao-man. Lúc bấy giờ binh Cao-man kéo lên cự chiến cùng binh Xiêm tại Đế-Thiên một trận, song binh Xiêm đông như kiến cỏ, tràn tới như nước bẻ bờ, quân Cao-man cảng cự không lại, phải rút chạy thối lui, quân Xiêm rược theo một đạo gần tới Ô-đông, và một đạo đả vượt khỏi Đế-Thiên địa phận, gặp đạo binh Annam của Hồ-văn-Lân chận lại, xáp chiến với binh Xiêm một trận rất kịch liệt, đánh trọn một đêm, tướng Xiêm liền dừng binh thối hậu.
Tướng Cao-man là Chiêu-căng-Mu, bèn rút binh các tỉnh hội lại Ô-đông mà chống cự, và sai quan tốc xuống Saigon, xin Nguyển-vương đem binh cứu viện.
Lúc bấy giờ nhằm tháng Giêng năm nhâm dần (1782) Nguyễn-vương đặng tờ của Hồ-văn-Lân cáo cấp, liền hội các quan Văn-Vỏ bàn nghị và hõi rằng:
Nay nước Xiêm đem binh xâm phạt Cao-man là nước của ta bão hộ, vậy các quan ai có ý kiến thế nào, hảy trần bẫm cho quã-nhơn nghe thử?
Có quan Hộ-bộ là Trần-phước-Giai tâu rằng:
— Tâu chúa-thượng, hạ thần xét lại việc vua Xiêm-La là Trịnh-quốc-Anh đem binh đánh nước Cao-man, là chủ ý muốn dành quyền bão hộ của ta tại nước ấy. Vì sợ vua Cao-man thần phục nước ta, thì ngày sau sanh đều hậu hoạn cho nước hắn, còn nước ta hiện thời bấy giờ có giặc Tây-sơn Nguyễn-Nhạc là một mối giặc đại thù đại nghịch cùng ta, chưa biết lúc vào hắn cử binh vào Nam mà xâm lăng chinh phạt, nếu bấy giờ ta đem binh cứu viện Cao man, mà đối địch cùng quân Xiêm, chưa biết thắng bại lẻ nào, như may được thắng trận thành công, thì chẵng nói gì, còn nếu bị tranh chiến lâu ngày, e quân Tây-sơn thừa cơ đem binh xông vào, thì ta lấy gì mà ngăn đở trong cơn nguy cấp?
Vậy theo ý hạ thần, thì xin chúa-thượng sai sứ giao hòa cùng Xiêm, để nước Caoman độc lập, ta không bảo hộ Caoman, mà Xiêm củng chẳng đặng quyền bảo hộ nước ấy, như vậy vua Xiêm không còn lo sợ nước Caoman thuộc về tay ta, thì tự nhiên bải binh hết giặc.
Thế ấy đặng ta có ngày giờ dưởng binh súc nhuệ, mà phòng ngự quân giặc Tây-sơn, và thừa dịp mà khôi phục san-hà xả-tắc, đó là một đều cần nhứt của chúng ta phải lo trước hết.
Kế có quan Tham-mưu là Trần-đại-Thể bước ra tâu rằng:
— Tâu chúa-thượng theo lời quan hộ bộ trần tấu như vậy thì thần hạ e chưa đúng lý, vả chăng nước Caoman là một nước đả tùng phục dưới quyền bão hộ nước ta, thọ tước xưng thần, từ ấy đến nay. Nếu bây giờ ta thấy quân Xiêm chinh phạt Caoman, mà ta chẵng đem binh cứu viện, đặng bảo thủ lợi quyền, lại thinh không bỏ quyền bảo hộ ta đi, và xin nghị hòa cùng Xiêm quốc, thì tức nhiên hắn tự đắc kiêu căng, chê ta rằng khiếp sợ binh oai của hắn, ắc hắn khinh thị cả nước ta không có tướng dỏng binh cường, nếu hắn đem lòng khi thị ta như vậy, thì chẳng hề khi nào hắn chịu nghị hòa, mà không lập quyền bảo hộ của hắn nơi nước Caoman ấy đâu. Còn như hắn chịu nghị hòa, thế nào hắn cũng chiếm dành sự quyền lợi cho hắn, như vậy chẳng phãi là thất thể diện oai quyền của nước ta mà thôi, lại còn mất một nước Caoman, là nước đả thuộc về tay ta nắm chặc.
Chí như sự phòng bị quân giặc Tây-sơn thì binh ta cũng đũ, song hạ thần biết chắc quân Tây-sơn lúc bấy giờ, còn đương lo phòng binh cũa chúa Trịnh ngoài Bắc-hà, (Hà-nội) nên chưa dám đường đột cữ binh mà xong vào Giadinh đây đâu.
Vậy xin chúa-thượng phải sai một đạo binh tức tốc kéo lên Nam-vang, hiệp với Hồ-văn-Lân, đặng chống cự quân Xiêm, mà giử quyền bảo-hộ, nhứt diện truyền cho vua Caomman, và quan nhiếp-chánh là Chiêu-căng-Mu, bảo phải hội tập binh mả Cao-man, tấn lên Ô-đông và Đế-Thiên Đế-Thích, mà cự địch với binh Xiêm, nhứt diện lại truyền lịnh bố cáo cho tướng sỉ và cả nước Caoman biết rằng: Ta đả đem đại binh cứu viện nước nó, đặng cho binh sỉ dân Caoman ỷ có thế ta, thì tráng kiện tâm thần, và nống sức vững lòng mà cự chiến với giặc, còn binh ta thì cứ việc theo sau cầm quyền giám đốc cho chúng nó thì đủ. Như thế thì có sợ gì là không thắng đặng quân Xiêm, và sợ gì là chẳng đặng bảo tồn quyền lợi ta trong nước Chơn-Lạp, hà tất phải bỏ quyền bảo hộ mà cầu hòa cùng Xiêm, cho hắn khinh khi tự đắc.
Các quan nghe Trần-đại-Thể nghị luận mấy đều, thì cã thãy đều ý hiệp tâm đầu, và cho là hữu lý.
Nguyển vương nghe rồi liền phán rằng:
— Thế nào ta cũng phãi cứu viện Caoman cho gấp, đặng giữ gìn quyền bão hộ ta mới đặng, nếu chậm trể thì quân Xiêm kéo đến đoạt thủ thành đô Nam-vang (Phompenh) và bắt vua Caoman đặng rồi, thì khó bề tranh dành lại được, vả lại nước Caoman là một miếng ngon, ta đả nắm đặng vào tay, ngậm đặng vào miệng. lẽ nào ta lại điên gì nhã ra quăng lại cho ai sao?
Nói rồi, liền hạ lịnh cho quan chưỡng cơ Nguyển-hữu-Thoại đem một trăm chiến thuyền và ba ngàn binh mả, ngày đêm trực chỉ Nam-vang đặng hiệp binh cùng Hồ-văn-Lân là quan bão hộ ở nước Cao-man mà cự chiến với quân giặc.
Lúc bấy giờ hai tướng Xiêm là Chất-Tri với Sô-Xi, vẫn là hai anh em ruột cùng nhau, một người đả kéo binh vượt qua tới xứ Com bông sơ-năn, còn một người gần tới Ô-đông địa phận. Bổng nghe Nguyễn-hửu-Thoại đã tấn lên Nam-vang hiệp với đạo binh Hồ-văn-Lân và binh Caoman, cã thảy độ hơn năm ngàn binh bộ, hai ngàn binh thủy, rồi liệt hàng bố trận, giăng ngang trước vòng binh Xiêm, dài hơn ba chục dậm, và chắc như một cái trường-thành, mà che đậy cả và thành đô Caoman, như một cái màng từ Nam chí Bắc.
Hai tướng Xiêm liệu thế tấn tới không nỗi, liền truyền lịnh đồn binh lập trại tại địa phận Ô-đông, đặng chỉnh đốn quân lương, và dọ thám binh tình, rồi sẽ xáp chiến cùng ta một trận.
Bửa nọ, Sô-Xi đương hội tập các tướng, bàn nghị chiến sự, bổng có một tên gia thần ở bên thành Vọng-cát (Bangkok) nước Xiêm qua báo tin rằng:
— Bẩm chủ tướng, vua Xiêm là Trịnh-quốc-Anh nghe lời nịnh thần sàm tấu nói rằng: nhị vị chủ tướng không chịu tấn binh, nên vua bắt cã thãy gia quyến vợ con cũa hai ngài mà hạ ngục.
Sô-Xi nghe tin báo như vậy, thì sãng sốt tâm thần, dường nghe sét nổ bên tai, đất bằng dậy sóng, chẳng biết cớ gì vua Xiêm lại bắt hết vợ con mà hạ ngục, liền tuốt qua dinh Anh là Chất-Tri hội nghị cùng nhau mà rằng:
— Anh em chùng ta thuở nay vào sanh ra tử, trục bắc bôn nam, giáp chẵng hở lưng, đao không rời cánh, lập công nghiệp cho nhà Vua, chẵng biết bao nhiêu lao tâm hạn-mã, nay vua đã chẵng xét đến công lao cũa anh em chúng ta, lại nghe lời sàm tấu cũa lủ nịnh thần, bắt vợ con ta mà hạ ngục, thế thì dầu ta có hết lòng hết sức, xông tên đột pháo, giửa chốn chiến trường, cũng chẳng ai biết cho, thì nhọc công vô ích, chi bằng ta cầu hòa cùng annam, để làm ngoại-viện giúp mình, rồi chúng ta kéo binh về triều giết quách Vua điên ấy đi, mà trã thù rửa hận.
Chất-Tri nghe rồi cũng hiệp ý cùng em là Sô-Xi và đồ mưu toán kế, nhứt định cầu hòa với nước ta, sáng bữa sau Chất-Tri viết một văn thơ, rồi sai một tướng tâm phúc với hai tướng bộ hạ, đem qua dinh Nguyển-Hửu-Thoại, xin vào ra mắt.
Khi ba tướng Xiêm qua tới vòng binh annam ta, thấy binh trại liên lạc cùng nhau chẳng biết bao nhiêu, cờ xí quân ngũ nghiêm trang, xem rất lớp lang thứ tự.
Bổng có quân nhơn vào báo cùng Nuyển-Hửu-Thoại rằng:
— Có sứ Xiêm xin vào ra mắt.
Nguyển-Hửu-Thoại liền hội chư tướng lại, và truyền lịnh mở vòng binh ra, các vỏ tướng đều mang gươm mặc giáp, chỉnh chỉnh tề tề, kéo vào đứng trước viên môn, kế đó thấy phía tả kéo ra một đội quân kỳ-bài, phía hửu một đội quân pháo thủ, đứng dàng hai bên, một lát nghe nhạc linh đánh lên hai chập, kế thấy Nguyển Hửu-Thoại trong Hổ-trướng bước ra, mình mặc áo vỏ bào xanh, trước ngực có thêu một mặt sư-tử bằng kim tuyến, phía dưới thêu một lớp thủy ba, lưng đai một thanh bửu kiếm. Oai nghi lẩm liệt, khí vỏ đường hoàn.
Kế Hồ-văn-Lân ở bên tây dinh, cởi một con ngựa sắc hồng, mình mặc một bộ võ phục sắc xanh, có thêu kim ngân rực rở, hai bên có một đội mã-kỵ dàng hầu chạy theo; vó ngựa rần rần, ngọn gươm chỡm chởm, khi tới viên môn, Hồ-văn-Lân xuống ngựa bước vào nghị đường ngồi một bên Nguyển-hữu-Thoại, còn các tướng tá đứng hầu hai bên, xem rất nghiêm trang oai võ.
Nguyển-hữu-Thoại bèn truyền cho kỳ bài quan ra mời sứ Xiêm vào dinh yết kiến.
Khi sứ Xiêm vô tới viên môn, thấy hai bên quân sỉ đều tuốt gươm đứng cách nghiêm chỉnh, và ngó vào nghị đường thấy một đội pháo thủ bồng súng dàng hầu, và các tướng tá thảy đều mang đoãn đao, người người xem bộ oai nghi vỏ dõng:
Tướng Xiêm thấy vậy có ý khủng khiếp, rồi day lại nói nhỏ với hai tên phó sứ kia rằng:
— Lần nầy là lần thứ nhứt, ta mới thấy binh sỉ Annam, thật xem rất nghiêm trang oai võ hơn binh của nước ta nhiều lắm, nói rồi bước lên nghị đường yết kiến.
Nguyển hữu-Thoại đáp lể rồi mời ngồi nơi cẫm đôn, và dùng tiếng Xiêm mà hõi rằng:
— Quan sứ đến đây có việc chi, xin nói cho ta rõ.
Tướng sứ thấy Nguyển-hữu-Thoại khí võ Đường-Hoàng, phong tư tuấn dật, lại biết nói tiếng Xiêm, thì lấy làm lạ và đáp rằng:
— Bẫm tướng-công! chủ tướng tôi là Chất-Tri sai tôi đến kính mời tướng-công qua dinh hội nghị quốc sự.
Nguyển-hữu-Thoại nghe tướng sứ Xiêm nói vậy, thì ngạc nhiên và nghỉ rằng:
— Hai nước đương tranh chiến cùng nhau, mà cớ gì lại sai sứ mời qua hội nghị, rồi day lại hỏi tướng sứ rằng:
— Chủ tướng của ngươi là Chất-Tri với Sô-Xi phải chăng?
— Bẫm phải. Hai chủ tướng tôi có việc mật sự cẩn cấp, nên mời tướng-công qua dinh đặng hội nghị cầu hòa về việc chiến tranh.
Nguyển-hữu-Thoại lấy làm lạ, ngó sứ Xiêm châm chỉ và hỏi rằng:
— Chủ tướng của ngươi mời ta qua nghị hòa về việc chiến tranh, nhưng binh ta cùng binh Xiêm, chưa giao chiến lần nào, và chưa phân thắng bại; sao ngươi gọi rằng: chủ tướng ngươi xin hội nghị cầu hòa?
— Bẫm tướng-công, vì nhị vị chủ tướng tôi có việc đại cừu trong nước mới vừa xãy ra, bây giờ nhứt định thối binh về triều, nên xin mời tướng-công qua dinh, đặng hai nước giao hòa, và thối binh bải chiến, chớ không việc gì khác hết.
— Mà ngươi có văn thơ chi của chủ tướng đó không?
— Bẫm có; nói rồi liền lấy một phong văn thơ trao cho Nguyễn-hữu-Thoại,
Nguyễn-hữu-Thoại liền dở văn thơ ra xem thấy nói như vầy:
« Xiêm-la Chánh-Tổng-binh Chất-Tri và Phó-Tổng binh là Sô-Xi. Kính trình cùng Việt-Nam Tướng quân tưởng lảm.
« Anh em chúng tôi vâng lịnh vua xiêm, đem binh chinh phạt Cao-man, chẳng dè vua tôi là Trịnh-quốc-Anh nghe lời nịnh thần sàm tấu, chẳng xét công nghiệp cũa kẻ phụ quốc trung thành, vô cớ lại bắt vợ con gia quyến cũa chúng tôi mà hạ ngục. »
« Vì vậy chúng tôi đều ức uất bất bình, nhứt định bãi việc chiến tranh, quyết đem binh hồi triều đặng giết lủ nịnh thần mà rửa hận. Vậy xin Tướng-Quân ngự mã thân-lâm, đặng hai nước nghị hòa, kết nghỉa đồng-minh, và xin tướng quân bằng lòng giúp làm ngoại-viện.
« Kính lời thành thật, chẳng dám trả giá sai ngoa, nếu tướng-quân vì nghỉa quang lâm, thì anh em chúng tôi, sẽ tỏ hết sự tình, và thiết tiệc dàng hầu, mà hoan nghinh tôn giá. »
Xiêm La Tổng binh Chất-Tri và Sô-Xi
Kỉnh đốn.
Nguyển-Hửu-Thoại xem văn thơ rồi, ngó tướng sứ Xiêm và hỏi rằng:
— Binh cũa nhị vị Tổng-binh độ được bao nhiêu?
Tướng sứ Xiêm đáp rằng:
— Bẩm tướng công, hai đạo binh cũa nhị vị Tổng binh tôi, cã thãy là sáu ngàn, trong đó có năm chục tượng binh (voi) và năm trăm mả-kỵ.
— Còn binh số tại Xiêm, hiện thời bây giờ hết thảy chừng bao nhiêu? ngươi có biết chăng?
Bẩm tướng công, tôi chĩ biết số binh hiện tại thành đô Vọng-Các (Bangkok) bây giờ độ chừng một muôn, còn ngoài các trấn, thì tôi chưa kể tới nếu kể các trấn thì cũng được ngoài ba muôn là ít.
Nguyển-Hửu-Thoại nghe rồi, ngẩm nghĩ một chút và mỉm cười rồi nói rằng:
— Số binh trong nước ngươi, ta đả biết chắc rồi, Hiện thời bây giờ cả thảy chẳng đầy hai muôn, chĩ có một muôn sáu ngàn binh bộ, và hai ngàn binh thủy đó thôi, tổng cọng lại thì là một muôn tám ngàn binh cả thảy. Lúc bấy giờ chủ tướng ngươi đem hết sáu ngàn binh bộ qua đây và một ngàn binh vận-tải nửa, thì còn tại nước Xiêm chỉ có mười một ngàn mà thôi, chớ chưa tới số ba muôn như lời ngươi nói đó.
Tướng sứ Xiêm nghe Nguyển-hữu-Thoại nói vậy, thì cả kinh mà nghĩ thầm rằng: Làm sao Nguyễn-hửu-Thoại biết binh tình của nước ta rõ ràng như thế, rồi day lại bẫm rằng:
— Thật tướng-công biết rõ lắm, lúc thái bình thì trong nước tôi chỉ có hai muôn, nhưng lúc bây giờ đây thì mộ thêm, cũng được ba muôn như lời tôi nói vậy.
Nguyễn-hữu Thoại nói:
— Thôi, ngươi hảy trở về bẫm cùng nhị vị Tổng-binh hay rằng: Ngày mai ta sẽ qua dinh mà hội nghị quốc sự.
Tướng sứ Xiêm vâng lịnh lui ra, rồi trở về dinh Xiêm phục mạng.
Hồ-văn-Lân thấy Nguyển-hữu-Thoại hứa với sứ Xiêm ngày mai sẻ qua dinh Xiêm hội nghị, thì thất kinh mà nói với Nguyển-hữu-Thoại rằng:
Tướng quân chẳng nên quá tin Xiêm sứ, mà khinh suất ra đi, vì e chúng nó giả danh cầu hòa, rồi đồ mưu ám hại, ấy là một cái quyệt kế của chúng nó đó chăng?
Vậy xin tướng quân chớ đem cái thân ngàn vàng, vào nơi hổ-huyệt, rủi có đều chi nguy biến, thì tướng-quân biết liệu làm sao?
Nguyễn-hửu-Thoại cười và đáp rằng:
— Tướng-quân không nhớ thuỡ xưa Quan vân-Trường đơn đạo phó hội, Hán-bái-Công dự yến Hồng-môn, đó chẵng phãi là hổ-huyệt long-đàm hay sao? Nhưng hai ông ấy yên như bàn thạch, huống chi tôi đã hứa cùng Xiêm sứ, thì chẳng lẻ thất ngôn, mình là một đứng khí phách anh-hùng, thì sợ gì chổ lửa giặc đao binh, mà không ra thân mạo hiễm, song xem lời văn thơ của hắn, thì tôi đã rõ biết chơn tình, vì vua Xiêm là Trịnh-quốc-Anh, bắt gia-quyến hắn mà hạ ngục. Nên hắn đem lòng thù hận, quyết toan mưu trã oán rửa hờn, song sợ sức yếu thế cô, muốn cầu hòa cùng ta, đặng mượn thế ta để làm ngoại-viện, chớ chẳng phải giả trá chi đâu, vậy ta củng nên thừa dịp ấy mà giao hòa cùng tướng Xiêm, đặng ngày sau có việc gì, viện cầu cho dễ, ấy cũng là một sự may mắn cho nước ta, đã chẵng hao binh tỗn tướng, mà củng không thất chút lợi quyền nào trong việc bảo hộ nước Caoman, bây giờ tuy thấy đó là chỗ ổ giặc hang hùm, nhưng ta tới đó yên như thái-san bình-địa, không sao mà tướng-quân phòng ngại.
Hồ-văn-Lân thấy Nguyển-hữu-Thoại quã quyết ra đi, tuy chẳng nói ra, mà trong lòng vẫn còn bồi hồi nghi ngại.
Sáng bửa sau Nguyển-hữu-Thoại bảo mười tên quân nhơn tùy tùng cùng người, rồi lên ngựa chẩm hẫm ra đi, không chút chi nghi ngờ lo sợ.
Em ruột Nguyển-hữu-Thoại là Nguyển-Hựu, thấy anh đi đơn thân độc mã, chẳng có tướng tá hộ-tùng, đem theo chĩ có mười tên quân nhơn, nếu gặp sự hiểm nguy, thì lấy ai đở gạt, liền đem theo hai đội mã kỵ và một đội pháo thủ lục thục theo sau, rồi đóng binh tại mé rừng, cách dinh quân Xiêm độ chừng năm dậm, để phòng có việc chi tiếp ứng cho lẹ.
Khi Nguyễn-hữu-Thoại đi với mười tên quân nhơn qua tới dinh Xiêm, thấy tướng Xiêm là Chất-Tri, với Sô-Xi cùng các tướng tá đã dàng hầu trước dinh, quân Xiêm thấy Nguyển-hữu-Thoại qua chỉ có mười tên quân nhơn tùy tùng, chớ chẵng có binh gia tướng tá chi hết, thì khen cho Nguyển-hữu-Thoại là một người gan đởm phi thường, rồi kéo ra tiếp rước cách lể nghi kính trọng.
Nguyển-hửu-Thoại liền xuống ngựa thẵng vào viên môn, thì hai em Chất-Tri đã vội vả bước ra chào mừng nghinh tiếp, rồi dắc vào đại dinh, bày tiệc thiết đãi rất ân cần tử tế.
Kế Chất-Tri lấy lời hòa nhả, nói với Nguyển-hửu-Thoại rằng:
— Thưa tướng-quân, thuở nay quí quốc với tệ ban, vẩn giử một cuộc hòa bình giao hão, chẵng phải hiểm khích chi nhau, song lúc bấy giờ vua tôi là Trịnh-quốc-Anh, sanh lòng tàng ngược, mà gây cuộc chiến tranh, làm cho quí quốc nhọc lòng dấy động cang qua, đem binh cứu viện Chơn-Lạp. Ngày nay tướng-quân đem lòng cố cập, chẵng chút hiềm nghi, và giá lâm đến đây, làm cho anh em chúng tôi được tiếp kiến tôn nhan, thì chúng tôi chẵng xiết vui lòng cãm phục.
Số là vua Trịnh-quốc-Anh chẵng biết tín nhặm trung thần, lại nghe lời sàm tấu, bắt cả gia quyến chúng tôi, mà nhốt vào hắc ngục, chẵng biết chết sống ngày nào, nếu nay mai tiếng nịnh lời dèm tâu vô, ắc là chúng tôi cũng chẵng khõi toàn gia tru lục.
Vì vậy nên anh em chúng tôi quyết đem binh về triều giết quách vua tàn bạo ấy đi, đặng trả oán rửa hờn, và cầm quyền chánh trị trong nước, nhưng chúng tôi trước khi về triều, xin kết nghĩa đồng minh cùng tướng-quân, và xin tướng-quân giúp làm ngoại viện, nếu việc của chúng tôi đựoc thành, thì từ đây về sau, hai nước giao hòa, và giúp đở nhau trong cơn hửu sự, như vậy chẳng biết tướng quân bằng lòng cùng chăng? Như tướng quân bằng lòng theo lời tôi xin, thì nội ba ngày đây, chúng tôi sẽ rút binh về nước.
Nguyễn-Hữu-Thoại nghe nói thì vui sắc mặt và trã lời rằng: mấy điều quan Tổng-binh nói đó, tôi sẻ sẳng lòng, vậy nếu quan Tổng-binh muốn hai nước giao hòa, thì xin tỏ một lời tín thệ giửa đây, đặng hai ta kết nghĩa đồng-minh, mà cứu giúp nhau trong cơn nguy cấp, chừng nào đại sự hoàng thành, nghĩa là khi Tổng-binh được lên ngôi quốc-vương, cầm quyền chánh trị, thì chừng ấy hai nước sẻ lập tờ hòa ước cùng nhau cho rỏ ràng điều lệ.
Vả lại vua Trịnh-quốc-Anh nay đả phạm hai điều tội ác: một là nước Xiêm cùng nước Cao-man, thuở nay vẩn là hữu-ban lân-quốc, nay vua Trịnh-quấc-Anh vô cớ mà đem binh chinh phạt Cao-man làm cho mất cuộc hòa bình, sanh điều chiến họa; hai là vua Trịnh-quấc-Anh chẳng biết trọng dụng công thần. Nghe lời sàm tấu, bắt vợ con quí quyến mà cầm tù, làm thiệt hại cho người trung lương vô tội, ấy là một vua hôn quân bạo-ngược, chẳng biết trọng sĩ thân hiền, dẩu quan Tổng-binh có hết sức hết lòng, củng chẳng ai kể đến, nên lời xưa có nói rằng, hể vua xem tôi như loài thảo giới, thì tôi xem vua như kẻ nghịch thù.
Nay quới quan muốn đem binh về triều mà vấn tội vua Trịnh-quốc-Anh là vua tàn nhẩn điên cuồng, thì tôi một lòng cầu chúc cho quới quan mau được rửa oán trã hờn và xin quới quan chớ quên ngày nay là ngày hai ta đã giao lời thệ ước.
Chất-Tri nghe bấy nhiêu lời rồi, liền nắm tay Nguyển-hửu-Thoại dắc ra trước sân, và lấy một mũi tên chĩ trời gạch đất mà thệ nguyện rằng:
— Tôi là Chất-Tri nếu quên lời giao ước, bội nghĩa đồng minh, thì tôi sẽ như mũi tên nầy, và phãi bị luật trời hành phạt, nói rồi liền bẽ mũi tên gãy ngang, đặng chứng lời thệ nguyện.
Nguyển-hửu-Thoại thấy Chất-Tri bẽ tên thệ nguyện thì biết người đã thiệt tình, bèn lấy một cây cờ và một thanh bửu kiếm, trao cho Chất-Tri để làm kỷ-niệm, rồi cáo từ trở về, còn Chất-Tri với Sô-Xi và ba mươi võ tướng đều kéo theo đưa ra khỏi dinh, rồi mới phân tay tự biệt, liền truyền cho tướng sỉ tam quân nhổ trại kéo binh về nước.
Khi Nguyển-hựu-Thoại ra khõi dinh Xiêm ước chừng 5 dậm, bổng thấy một đạo quân mã đóng nơi mé rừng, kế thấy em là Nguyển-Hựu cởi ngựa chạy tới tiếp rước, rồi hai anh em mừng rở kéo nhau về dinh một lược.
Lúc bấy giờ Nguyển-hửu-Thoại còn đóng binh ở tại Caoman, đặng thăm nghe binh Xiêm động tịnh thế nào, rồi sau sẽ rút binh về Saigon, và đem hết sự tình hòa ước với Xiêm mà tâu cùng Nguyển-vương tường tất.
Chú thích
▲Theo sử thiệt lục chánh Biên thì kêu vua Xiêm là Trịnh-quốc-Anh, còn sử Histoire d’annam cua Charles maybon thì kêu vua Xiêm là Phya-Tak. Hai tên khác nhau, không biết tên nào là trúng.
HỒI THỨ MƯỜI TÁM
Viếng Đế-Thiên hành lương bái Phật,
Giết Quốc-Anh soán vị xưng vương.
Khi hai tướng Xiêm về tới địa phận Đế-Thiên, thì trời vừa xế bóng, Chất-Tri liền hạ lịnh đồn binh lại nghỉ, rồi cởi ngựa đi dạo xem phong cãnh sơn xuyên, khi đi tới đám rừng kia, bổng thấy một con bạch hầu (khĩ trắng) rất to, lông lá trắng nỏn, đương ngồi trên cây hái trái mà ăn.
Chất Tri liền lấy ná ráp tên, nhắm ngay con bạch hầu, bắn ra một mủi, con bạch hầu thấy Chất-Tri dương ná bắn lên, thì đưa tay bắt phức mũi tên, và cắn ngang nơi miệng, rồi chuyền nhánh nầy qua nhánh kia, chạy coi thắm thoát trên ngọn cây, lẹ như nháy mắt.
Chất Tri thấy vậy lấy làm lạ, bèn giục ngựa rược theo, chạy quanh lộn trong đường rừng một hồi rất xa, bổng thấy con bạch hầu trên ngọn cậy nhảy xuống một cái, rồi chạy qua hướng tây.
Chất-Tri giục ngựa chạy theo, nhưng con bạch hầu đã chạy mất hướng nào, tìm kiếm không đặng. Bổng ngó qua phía tây thấy một cãnh đền đài rất nguy nga đồ sộ, tợ hồ một chổ chùa tiên kiển phật, hay là một chổ cung điện của đế-vương nào đây, thình thình vọi vọi, chím ở bên rừng, điệp điệp trùng trùng, hiện ra trước mắt.
Chất-Tri lấy làm lạ, liền giục ngựa bước tới xem coi, khi bước lên thềm, thấy hai vị phật bằng đá rất to, ngồi hai bên cạnh đền, mỗi vị lớn bằng căng nhà, mặt mày tay chơn chạm trỗ rất khéo, trên thềm thì phân làm ba từng, cẫn đá liền liền, cao hơn mấy chục nấc.
Chất Tri liền xuống ngựa thỉnh thoãn đi lên, khi lên khỏi thềm, bước vào phía trong thì thấy trùng-môn họa-đống, khéo léo tuyệt vời, tượng Phật hình thần, toàn làm bằng đá. Thật là một cảnh rất kỳ quang dị mục, thanh tịnh u nhàn, nhưng nhắm trước xem sau, thật là một cảnh đền viện bỏ hoang, để cho cỏ mọc rều phong, trải qua chẳng biết bao nhiêu gió táp mưa sa, không rõ đời nào sáng tạo.
Chất-Tri xem rồi ngẩm nghĩ, thì nhớ lại, thuở nay có nghe thiên hạ, đồn rằng: Tại nước Caoman có một cảnh cổ tích phật tòa, gọi là Đế-Thiên, Đế-Thích, lòng đả ao ước bấy lâu, nhưng chưa thấy được, thế thì ngày nay trời phật khiến cho ta gặp con bạch-hầu nó dẩn nẻo đem đường, nên mới được vào đây mà quang chiêm cảnh phật.
Chất-Tri đương trầm tư nghỉ nghị như vậy, bổng có một sải già mình mặc áo vàng, như áo cà-sa, chơn đi một đôi thão hài, lưng vận một cái chăn vàng dài xuống khõi gối, đầu đội một mũ đen, tướng mạo giống người Xiêm-La, hai bên có hai tên sải nhỏ, một tên bưng lư trầm-hương, một tên bưng bình bông sứ, ở bên đền phía tả bước ra, chắp tay cúi đầu, chào tiếp Chất-Tri và nói:
Tâu quốc-vương, bần tăng ở chỗ tịch mịch sơn lâm, náu nương cảnh phật, nay được thấy quốc-vương giá lâm vào đây, cũng là một sự hân hạnh cho kẻ bần tăng, vậy bần tăng xin cung nghinh bái yến, nói rồi liền mọp xuống đất.
Chất-Tri nghe nói thì ngạc nhiên sửng sờ, ngó sải ấy châm chĩ và nói rằng:
Tôi không phải quốc-vương, thế thì thoàn-sư nhìn lầm đó chăng? tôi tên Chất-Tri là tướng của vua Xiêm, đem binh chinh phạt Cao-man về đây, nghe nói chỗ nầy là chỗ thắng cảnh danh sơn, nên ghé bước vào đây, đặng dạo xem phong cảnh, chớ tôi chẳng phải quốc-vương, thoàn-sư chẳng nên tưỡng lầm mà xưng hô như vậy.
Sải ấy mĩn cười và đáp rằng:
Tâu quốc-vương, số là đêm hôm qua tôi ngũ, thấy một vị phật kim cang bồ tác, đứng trước tòa tháp kêu tôi mà mách bão rằng: « ngày mai nầy có quốc-vương nước Xiêm là Chất-Tri, đến đây dạo xem phong cảnh, phải tiếp rước cho tử tế », khi tôi thức dậy còn nhớ rỏ ràng, tôi nghĩ và lấy làm lạ; quốc-vương-Xiêm sao lại tới đây làm gì, tôi nghĩ rồi bán tín bán nghi, chưa biết lẻ nào là chắc, nên tôi có ý để chờ thữ coi, có thật như lời ứng mộng của tôi đã thấy đó không, nhưng sự ứng mộng ấy không sai, quả thật ngày nay quốc-vương đến đây, và tự xưng đại danh như thế, thì chính là tên của phật bồ tác đã mách bão cùng tôi rỏ ràng, chẳng phải tôi tưởng lộn nhìn lầm, xin quốc-vương chớ ngại.
Vậy xin quốc-vương quá bước vào chùa, đặng xem chơi cho biết.
Chất-Tri lấy làm lạ, rồi tự nghĩ rằng: sự ta tính về triều giết trừ quân nghịch đặng lên ngôi quốc-vương, song việc ấy chưa làm, mà sao sãi nầy lại xưng hô ta là quốc-vương như vậy, thế thì việc nầy chắc có trời phật giúp đỡ cho ta, nên mách bão sải nầy nói cho ta biết trước đó chăng?
Nghĩ vậy rồi vẻ mặt hân hoan, bước theo sãi ấy vào trong, thấy tường cao cửa rộng, thạch trụ lang cang, đá liển chặp chồng, liền lạc như tô như vẻ.
Chính giữa đền, có xây một tòa phật đài bốn mặt, một mặt ngó ra phía tiền, một mặt ngó ra phía hậu, một mặt day qua phía tả và một mặt day quá phía hửu, cả thảy bốn mặt đều có để tượng phật hình thần, toàn làm bằng đá, và chạm trỗ rất khéo.
Bên tả điện có xây một tháp cao lên mấy từng, và bên hửu điện cũng xây một tháp như bên tã điện, mỗi thạch trụ có hình như hình sư-tử, kỳ-lân, xem rất kỳ quang dị mục. Thật là:
Một nền cơ xảo đoạt thiên công,
Lầu tháp xây nên đá chập chồng.
Trường trải xuân thu ai biết mấy,
Đền đài vọi vọi tột trên không.
Cái cổ tích đền đài nầy, chẵng biết đời nào sáng tạo, mà lưu truyền lại trong nước Caoman, ngày nay đặng một chổ thắng cảnh danh-sơn như vầy, thì chẳng biết dường nào là quí báu.
Khi Chất-Tri lần lần ra tới hậu điện, thấy một tòa-tháp nguy nga, cách xa chừng vài trăm thước, chung quanh có cây cao tàng rậm, cõ lạ hoa thơm, chính giữa có thờ một vị phật rất to, và các phật nhỏ chẳng biết bao nhiêu mà kễ.
Khi Chất-Tri theo sải ấy đi gần tới tháp, bổng thấy trên cây nhảy xuống cái thích, rồi chạy lóc khóc trước tháp lăng xăng hình như một đứa con nít chừng sáu bãy tuổi, mình mẩy trắng phau từ trên tới dưới, như mặc một cái áo lông chiên; mắt đỏ lóng lánh như hột quã châu, chiếu ra nhắp nhán, răng trắng như hột bầu, mặt mũi hồng hồng dường thoa son đỏ.
Kế nghe sãi ấy kêu lên một tiếng: Phi-Phi, ngó lại thấy đứa nhõ ấy chạy tới chắp tay đứng bên sãi già, hai môi chóp chép, mắt ngó tròn vo, kêu tiếng khè khè, coi bộ mặt mày giáo giác, Chất-Tri nhìn coi rỏ ràng, là một con bạch-hầu, mà Chất-Tri đã bắn một mũi tên và rược theo mé rừng kia khi nãy.
Chất-Tri lấy làm kỳ quái, day lại hỏi sãi ấy rằng:
— Ủa, con bạch hầu nào đây, phải là con tôi đả rược nơi mé rừng khi nãy đó không?
— Tâu quốc-vương, nội đây chỉ có một con bạch-hầu nầy mà thôi, chớ chẳng có con nào khác nữa, khi nãy nó đi ăn trái cây nơi rừng, bổng gặp quốc-vương bắn nó, nó bèn cắn tên đem về, nên tôi mới biết quốc-vương đả tới.
Chất-Tri nghe rồi sửng sờ và hỏi rằng:
— Vậy thì con bạch-hầu nầy của thoàn-sư nuôi nó phãi chăng?
— Tâu quốc-vương, con bạch-hầu nầy ở đâu không biết, song mấy năm trước thường thường mỗi đêm tới đứng trước tháp nghe kinh, tôi thấy vậy cho ăn uống và nuôi dưởng từ ấy đến nay, bây giờ mỗi khi tôi tụng kinh, thì nó biết đốt hương lạy phật, gỏ mỏ dộng chuông, và biết nghe tiếng người, song không biết nói. Sãi già ấy nói rồi, day lại ngó con bạch-hầu và lấy tay vỗ trên đầu hai ba cái mà bảo rằng:
— Phi-Phi, mi hãy lại lạy mừng quốc-vương đó đi.
Con bạch-hầu nghe bão, liền lại đứng trước Chất-Tri mọp đầu xuống đất một cái, rồi nhãy phóc lên cây đại thọ trước tháp mà ngồi, lấy tay quào tai lia lịa nhăn răng trắng xát, và hầm hừ khọt khẹt ít tiếng, dường như nó lẫm bẩm cằng nhằn mà nói rằng:
— Người ấy là người thù của ta, đả bắn ta một mũi, nếu ta không lẹ tay bắt đặng mũi tên, thì ta đả phèo gan đổ ruột đi rồi, bây giờ lại bắt ta lạy mừng, thật là ức quá! chớ chi ta không tu tâm luyện tánh, thọ-phái qui-y, thì ta cắn một miếng cho dập xương mà trả thù mũi tên khi nãy.
Chất-Tri thấy con bạch-hầu hình thù tốt đẹp, lông lá trắng tinh, lại biết nghe hiểu tiếng người, và theo ý vâng lời chìu lỵ, thì nói với sãi-già ấy rằng:
— Tôi thấy con bạch-hầu nầy, tôi lấy làm bằng lòng đẹp ý lắm, vậy xin thoàn-sư vui lòng để lại tôi nuôi, tôi sẽ huờn tiền công-quả lại cho, ước có được chăng?
Sãi ấy đáp rằng: nếu quốc-vương muốn dùng nó, mà bão vậy, thì lẻ nào tôi chẳng vâng lời, nhưng khi quốc-vương đem nó về Xiêm, tôi xin cùng quốc-vương một đều, là phải cho nó mỗi bữa lạy phật nghe kinh, nếu chẳng vậy, thì tôi e nó không chịu ở, vì nó tuy rằng bề ngoài là hình thù thú vật, nhưng mà bề trong là lòng dạ phật thần, chớ chẳng phải như nhiều kẻ ở thế-dang nầy, bề ngoài thì diện mạo người ta, mà bề trong là ruột gan cầm-thú.
Chất-Tri nghe rồi gặt đầu và nói rằng:
— Lời của thoàn-sư nói đó. tôi nghe có ý vị thăm trằm, và dòm thấy tình đời đích xát. Vậy tôi xin hứa cùng thoàn sư rằng: tôi sẻ y lời thoàn-sư dặn bão, nói rồi Chất-Tri xin vào tháp hành lương bái phật.
Khi Chất-Tri vào tháp đứng trước phật đài hành hương thì thằm thỉ khấn rằng:
— Tôi là Chất-Tri đem binh về triều, quyết trừ đãng nghịch, xin phật trời phò hộ cho tôi được thắng trận thành công, và được lên ngôi quốc-vương, cầm quyền chánh trị, thì tôi nhứt nguyện tu tạo các chùa trong nước Xiêm, và sùng bái theo đạo từ bi, mà qui y thọ phái, và tôi sẻ tu bổ tháp nầy lại cho tữ tế trang hoàn, khấn rồi lui ra nói với sãi ấy rằng:
— Tôi rất cám ơn thoàn sư có lòng hoan hĩ mà để con bạch-hầu nầy lại cho tôi, vậy tôi xin hứa với thoàn-sư rằng: khi tôi về tới Xiêm lo lắng công việc thành rồi, tôi sẻ cho người đến đây huờn tiền công-quả cho lão-sư, và tu bổ tháp nầy tữ tế, nói rồi liền từ giã sãi già, và dắc con bạch-hầu về trại.
Khi Chất Tri ra khõi Đế-Thiên một đỗi, bỗng thấy một đội quân mã rần rần chạy tới, người cởi ngựa đi đầu là Sô-Xi, thấy anh là Chất-Tri thì gò cương ngừng ngựa và hỏi rằng:
— Anh đi đâu mà hồi xế đến giờ, làm cho em kiếm tìm hết sức như vậy?
Chất-Tri bèn thuật công chuyện từ khi gặp con bạch hầu nơi mé rừng, bắn nó thế nào, đến lúc vào xem cãnh phật và sự phật mách bảo cho sải già tiếp rước thế nào, nhứt nhứt đều thuật lại cặng kẻ cho Sô-Xi nghe hết.
Sô-Xi nghe thì cho là một sự rất ly kỳ, rồi ngó lại thấy con bạch hầu đứng một bên anh bèn hõi rằng:
— Con nầy phải là con bạch hầu anh nói đó chăng?
— Phải, con bạch hầu nầy ở trong chùa tháp với lão sải già, nó biết nghe kinh lạy phật, và biết nghe hiểu tiếng người, qua thấy nó có tánh khôn ngoan, lại biết vâng lời dạy bão, nên qua xin sãi ấy đem nó về đây, thật là một con bạch hầu rất khôn, trên đời ít có, nói rồi hai anh em hớn hở vui mừng, dắc nhau trở về dinh trại.
Bữa nọ Chất-Tri đương ngồi trong dinh, bổng có quan chưỡng-ấn bên Xiêm qua báo tin rằng: Tại Cổ-lạc-Thành có một tướng Xiêm tên là Phi-nha-oan-Sãng dấy loạn, đem binh về triều bắt vua Trịnh-quốc-Anh hạ ngục.
Chất-Tri nghe tin ấy lấy làm lạ, liền hỏi quan chưởng-ấn rằng:
— Cớ sao Phi-nha-oan-Sãng lại cử binh về triều, bắt vua mà hạ ngục, ngươi có rõ chăng?
— Bẩm quan Tổng-binh, nguyên em của Phi-nha-oan-Sãng dấy loạn, vua Trịnh-quốc-Anh sai Phi-nha-oan-Sãng đem binh ra dẹp, chẳng dè anh em chúng nó đồng tâm hiệp ý cùng nhau, rồi kéo binh về triều bắt vua mà hạ ngục.
Chất-Tri nghe rồi liền bão quan chưởng-ấn về trước, rồi truyền lịnh cho chư tướng tức tốc kéo binh về Xiêm.
Khi về gần tới thành đô Vọng-các, truyền lịnh hạ trại đình binh, và đòi em là Sô-Xi cùng chư tướng hội nghị mà nói rằng:
— Nay Phi-nha-oan-Sãng bắt vua Trịnh-quốc-Anh mà hạ ngục, là ý muốn đoạt nước soán ngôi, nhưng mà sợ anh em ta, nên chúng nó để chờ ta về mà dọ thám tình ý, vậy ta nhơn dịp nầy cho người lén vào ngục thất, giết chết vua Trịnh-quốc-Anh, rồi đổ tội cho anh em Phi nha-oan Sãng, mà tuyên bố cho cã thãy thần dân trong nước biết rằng: Anh em Phi-nha-oan-Sãng đồ mưu toán kế, giết vua mà đoạt ngôi; chừng đó ta lấy cớ ấy hưng binh vấn tội,[1] và bắt anh em chúng nó mà giết đi, thì tự nhiên thần dân trong nước đều bằng lòng, rồi ngôi quốc-vương sẽ về tạy ta, chớ ai dám mà tranh dành cùng ta được, như vậy ta đã khỏi mang tiếng giết vua, mà lại được danh trừ thù dẹp loạn.
Sô-Xi và các tướng nghe Chất-Tri bàn nghị như vậy, và cả thảy chư tướng đều khen mà nói rằng: thật Tổng-binh đồ mưu thiết kế, như vậy rất hay, chúng tôi đều hết lòng khâm phục.
— Bữa sau, Chất-Tri kêu hai tướng tâm phúc vào dinh và bão rằng:
Hai ngươi đêm nay phải tới ngục đường giết vua Trịnh quốc-Anh cho đặng. Việc nầy là một việc bí mật ta phú-thác cho hai ngươi, vậy hai ngươi phải sắp đặt mưu thế mà thi hành, và cẩn thận tử tế, chẵng nên sơ thất, mà bại lộ cơ quang cũa ta, thì hai ngươi phãi mang trọng tội.
Hai tướng vâng lịnh trở về, sắp đặt công việc, rồi nữa đêm chừng lối trời khuya canh tịnh, hai tướng liền dắc nhau đồng đi. Khi gần tới ngục đường, bèn nhảy qua tường thành, rồi dở ngói cưa ruôi, lén vào trong ngục.
Mấy hôm nay Trịnh-quốc-Anh ở trong ngục, bị lo buồn sợ hải, nên không ngũ đặng, bửa ấy mệt mỏi tâm thần, mới vừa nhắm mắt thì đả mê mang bất tỉnh.
Hai tướng ấy thấy vua đả ngũ mê, liền xốc lại bên giường, kê dao vào cổ, rồi một đứa sấn xuống một dao, làm cho vua Trịnh-Quốc-Anh đương lúc mơ màng gối mộng, năm canh chưa ngớt giọt sầu bi; bỗng chúc vơ vở hồn mê, một phút hóa ra người tử liệt.
Khi Chất-Tri sai hai tướng nầy giết vua Trịnh-quốc-Anh chết rồi, liền kéo binh mã vào thành, đánh bắt hai anh em Phi Nha-Oan-Sảng. Va đem ra pháp trường xử tử, rồi truyền lịnh làm tờ bố cáo khắp cả thành đô cho thần dân trong nước hay. « nói rằng: anh em Phi-Nha-Oan-Sảng sai người ám sát vua « Trịnh-quốc-Anh nơi ngục, đặng soán quốc đoạt ngôi, nên ta « phải đem binh về, diệt trừ đảng nghịch » lập tờ bố cáo xong rồi, liền vào ngục cứu vợ con gia quyến ra, đó rồi Chất-Tri lên ngôi quốc-vương, phong em là Sô-Si làm vua thứ nhì, và cháu là Ma-Lặc làm vua thứ ba.
Còn Chất-Tri thì làm vua thứ nhứt, tự xưng là Phật-Vương, là vua cũa đạo phật, rồi lập một kiển chùa tại thành đô rất nguy nga tráng lệ, và rước các thoàn sư người nào đạo cao đức trọng, để ở nơi chùa, đặng tới lui hành hương bái phật cho dể. Và truyền cho các tỉnh phải tu bỗ các chùa chiền tử tế. Còn nhơn dân từ nhỏ chí lớn, ai ai cũng phải sùng bái tín ngưởng đạo phật luôn luôn.
Mỗi khi Phật-Vương là Chất-Tri đi hành hương nơi chùa, thì đều dắc con bạch hầu theo nghe kinh bái phật, như lời cũa lảo sư ở Đế-thiên dặn bảo. Và sai quan đem tiền bạc lể vật qua Đế-thiên cúng cắp, như lời đã tự nguyện khẩn cầu.
ÍT LỜI PHÊ BÌNH CỦA TÁC GIẢ
« Con bạch hầu nầy chưa biết phải là cháu chắt nòi giống chi của Tề thiên Đại-thánh khi trước không? nhưng mà coi bộ thật thà, có lòng hiền hậu, chẳng biết náo loạn thiên đình, mà củng chẳng biết ăn cắp thuốc của Lão-quân, ăn trộm đào của Vương-mẫu như ông Đại-thánh hồi trước, vậy củng đáng khen cho một loại mang lông, mà biết bái phật hành hương, tu tâm luyện tánh.
« Còn vua Xiêm là Chất-Tri nầy, không biết phãi là người giòng giỏi của Lương-vỏ đế bên Tàu hồi xưa hay chăng? mà sao củng tôn sùng phật đạo, tín ngưởng phù đồ, nhưng chưa biết ngày sau, linh hồn có được trực vãng Tây-phương, mà hưỡng phước thanh nhàn nơi miền cực lạc thế giới hay không? hay là chết đối như vua Lương-vỏ-đế ỡ nơi đài thành, thì sự ấy tôi chưa dám đoán. »
Đây nói lại khi Chất-Tri dẹp yên đảng nghịch, lên ngôi quốc-vương rồi, sai sứ qua báo tin mừng cho Nguyễn-hữu-Thoại hay, và sai đem lễ vật cảm tạ.
Nguyển-hữu-Thoại được tin, liền rút binh trở về Saigon, rồi đem các sự tình giao hòa cùng Xiêm, tâu lại cho đức Nguyển-vương rỏ.
Nguyển-vương cũng bằng lòng đẹp ý, rồi sai sứ đem lễ vật qua Xiêm mà tặng mừng cho Chất-Tri lên ngôi tân-quân, mà tỏ rằng hai nước đã kết tình hòa hảo.
Chú thích
▲Hưng binh vấn tội là đem binh về mà bắt tội
HỒI THỨ MƯỜI CHÍN
Tây-sơn đem binh xông vào Giadinh,
Nguyển-vương bại trận thất thủ Saigon.
Đây nói về từ khi đức Nguyển-Ánh đánh dẹp quân giặc Tây-sơn, mà thâu phục Nam-kỳ lại, rồi lên ngôi quốc-vương mà trấn thủ đất Giadinh[1]
Lúc bấy giờ ngài lo chiêu binh mải mả, tích thão dồn lương, dưới thủy thì lo chế tạo chiến thuyền, trên bộ thì lo tập rèn binh sĩ, đặng phòng ngự quân giặc Tây-sơn trong khi tranh chiến.
Còn vua Tây-sơn là Nguyển-Nhạc thì chiếm cứ Qui-Nhơn đễ làm thành đô, và sai em là Nguyển-Huệ, trấn thủ tại Phú-Xuân là Huế, đặng ngăn ngừa binh cũa chúa Trịnh ngoài Bắc.
Nước Nam ta lúc bấy giờ phân tranh ra làm ba nước, cũng như đời Tam-Quốc bên Tàu khi trước vậy.
Ngoài Bắc thì Trịnh-Sum xưng chúa, chĩ đễ cho vua Triều-Lê một biểu hiệu đó thôi, còn bao nhiêu quyền hành chánh trị, thì một tay chúa Trịnh đoạt thâu dành hết, cũng như Tào-Tháo đoạt quyền vua Hiến-đế thuỡ nọ vậy.
Mấy tĩnh Trung-kỳ thì Tây-sơn Nguyển-Nhạc xưng vương, mà chiếm cứ từ Huế sắp về Bình-định.
Còn trong Nam-kỳ thì đức Nguyển-Ánh xưng vương, mà chiếm cứ từ Bình-Thuận trở về lục tĩnh, ấy vậy chẳng phải nước ta lúc bấy giờ đã tam phân đãnh túc, và các cứ xưng hùng như đời Tam-Quốc đó sao?
Thật là: Nhản trung chiến quốc thành tranh tộc,[2]
Nhưng mà: Hải nội nhơn tài thục Ngọa-long.[3]
Khi Nguyễn-Nhạc xưng vương và sữa soạn kinh dinh thành đô tại Qui-Nhơn xong rồi, kế nghe tin Đỗ-thanh-Nhơn là một viên kiện tướng cũa đức Nguyển-Ánh, đã bị xữ tữ, thì vổ tay mừng và nói với các tướng rằng:
— Đổ-thanh-Nhơn chết rồi, thì ta không còn lo sợ gì nữa, liền truyền lịnh cho tam quân tướng sỉ, sắp sửa chiến thuyền, vận tải lương thão, và trạch ngày đặng đại cử hùng binh, mà xông vào Giađịnh, và hội chư tướng lại bàn nghị.
Lúc bấy giờ có quan Tư-khấu là Nguyễn-Kiêm tâu rằng:
Tâu Bệ hạ, Bệ hạ muốn thâu phục Nam kỳ cho mau, thì xin bệ hạ nhứt diện đem chiến thuyền đi đường biển, vào cửa Cần-giờ mà đánh lấy Saigon, còn nhứt diện thì sai một đạo binh đi đường bộ, đánh lấy Khánh-Hòa, Bình-thuận, rồi thẳng vào Biên-Hòa và tấn vô Gia-định, đặng binh thủy binh bộ hai đạo hiệp lực cùng nhau, mà đoạt trại phá đồn, thì mới mau được thành công thắng trận.
Vua Tây-sơn Nguyễn-Nhạc nghe tâu thì lắc đầu và nói rằng:
— Nguyễn-Ánh có hai viên kiện tướng là Đổ-thanh-Nhơn với Châu-văn-Tiếp, nay Đổ-thanh-Nhơn đả chết rồi, còn Châu-văn-Tiếp cũng là một tướng có đủ mưu mô đãm lược, lại thêm vỏ dõng siêu quần, bây giờ đương trấn thủ Bình-thuần và Khánh-Hòa, là một chỗ đường sá gay go, núi non hiểm trở, mà Châu-văn-Tiếp hắn trấn thủ đó, thì chắc như một cái vạn-lý trường-thành, dẩu có mấy vạng binh ròng tướng giỏi, cũng không thế gì qua nổi.
Chi bằng ta đem thủy binh chiến thuyền nhắm ngay chỗ trung tim mà đánh vào, là chỗ Saigon. Nếu ta thâu phục đặng Saigon và các trấn ở miền hạ-du kia rồi, thì Châu-văn-Tiếp mất thế ỹ y, mất đường cứu viện, chừng ấy ta sẻ đem binh đánh ngay một trận, thì tự nhiên Bình-thuận, Khánh-Hòa sẻ thuộc về tay ta, bấy giờ cần gì đem binh đánh phá, cho tổn tướng hao quân, lại e không bề thắng nổi.
Nói rồi truyền lịnh cho các tướng sắp đặt chiến thuyền, qua tháng ba năm nhâm dần (1782) bữa nọ nhằm lúc ban mai, trời vừa rựng sáng, trống đã tàng canh, bổng thấy dưới trại thũy binh, xẹt ra một ánh hào quang chớp nhán, rồi phun lên một lằng khói mịt mù, kết nghe ba tiếng đại bác thần công, nổ lên đùng đùng dường như trời gầm sấm dậy, tức thì ba đạo chiến thuyền cã thảy hơn một trăm năm chục chiếc đều trương bườm bọc gió, chạy bổng ra khơi. Nguyển-Huệ lãnh năm chục chiếc đi tiền đạo làm tiên phong, Nguyển-Nhạc lãnh năm chục chiếc làm chĩ huy tư-lịnh. Còn năm chục chiếc thì Nguyển-Kim lãnh làm hậu đạo để theo tiếp ứng.
Khi ba đạo chiến thuyền ra Qui-nhơn, thì chỉ thấy trời cao lộng lộng, biển rộng thinh thinh, mấy trăm lá bườm đua nhau bọc gió phùng ra, kéo ba đạo chiến thuyền, trường trên ngọn sóng mà đi, dường như một con trường xà, uống éo quanh co, xem rất xuê xoang oai vỏ.
Lúc ra ngoài xa, ngó lại thành đô Qui-nhơn, thì thấy non xanh nước biếc, cây cỏ mù mù, thẵng rẳng liền với chơn mây, như một lằng mực đen của thợ trời dăng theo mé đất, còn ngó ra ba đạo chiến thuyền, lại thấy một đám cạnh bườm trắng nỏn, phất phất phơ phơ, xem như một bầy cò, trải cánh sè lông, bay trên mặt biển.
Khi ba đạo chiến thuyền của Tây-Sơn gần tới cửa biển Cần-giờ, thì có mấy chiếc chiến thuyền của Đức Nguyển-Vương đi tuần dương, dọc theo mé biển, thấy liền lập tức trở về, báo tin cho quan thủy sư Đô-đốc Huỳnh-thiên-Lộc hay, đặng tâu cùng chúa thượng.
Huỳnh-thiên-Lộc liền lật đật vào triều xin ra mắt Đức Nguyễn-vương và tâu cho ngài hay rằng, thuyền giặc Tây-Sơn đã gần tới Cần-giờ hãi khẫu.
Đức Nguyễn-vương nghe báo tin giặc, thì ngó châm chỉ Huỳnh-thiên-Lộc mà hỏi rằng:
— Quan Đô-đốc hay tin ấy đã bao giờ?
— Tâu chúa thượng, đội quân tuần phòng dọc theo mé biển, mới về báo tin ấy cho tôi hay đây, nên tôi vội vã vào tâu cho Chúa-thượng rõ.
— Số chiến thuyền của Tây-Sơn được bao nhiêu, Đô-đốc có rỏ chăng?
— Tâu Chúa-thượng, theo lời đội quân tuần thám nói cã thảy ba đạo chiến thuyền, độ chừng gần hai trăm chiếc.
— Trong ba đạo chiến thuyền ấy, có thuyền lớn mấy chiếc, và thuyền nhỏ bao nhiêu?
— Tâu Chúa-thượng, trong ba đạo chiến thuyền ấy, có sáu chiếc đại chiến hạm[4], còn bao nhiêu thì thuyền nhỏ.
Đức Nguyển-vương ngẩm nghĩ một chút rồi hỏi rằng:
— Trong ba đạo chiến thuyền ấy cã thảy độ binh ước được bao nhiêu?
Huỳnh-thiên-Lộc ngó xuống đất suy nghỉ một chút rồi đáp rằng:
— Tâu Chúa-thượng, sáu chiếc chiến hạm ấy, mổi chiếc độ chừng hai trăm binh, còn chiến thuyền nhỏ thì mổi chiếc độ chừng một trăm binh, cọng cả thảy chừng hai vạn binh bộ và binh thủy.
Đức Nguyển-vương nghe rồi liền hạ lịnh truyền cho quan thủy-sư Đô-đốc là Huỳnh-thiêm-Lộc phải hội chiến thuyền lại sông Nhà-bè và sắp đặt trận đồ mà cự chiến.
Huỳnh-thiêm-Lộc vâng lịnh tức thì lui về, rồi truyền các đạo chiến thuyền cả thảy là một trăm hai chục chiếc, kéo ra sông Tam-kỳ tại ngã ba Nhà-bè Sắp hàng hai bên mé sông, mổi bên sáu chục chiếc, trong đó có năm chiếc đại chiến hạm, một chiếc cũa Đức Nguyển-vương, một chiếc cũa Đô-đốc Huỳnh-thiêm-Lộc, một chiếc của Mạng-Hòe[5] là người nước Pháp, lảnh làm Phó Đề-đốc, một chiếc thì Dương-công-Trừng lãnh làm trung Húy và một chiếc của Tôn-thất-Thiện lảnh làm Thủy-sư Đô-húy, còn năm chục chiếc phong-hỏa-thuyền, thì núp theo mấy ngọn sông nhõ, đều cụ bị rơm khô củi đuốt sẳng sàng, để phòng khi có dụng hỏa-công mà đốt thuyền quân giặc. Đâu đó bài binh liệt trận xong rồi, Nguyễn-vương bèn sai một đội tiểu-khoái-thuyền (là ghe nhỏ) ra tại Cần-giờ, thám dọ thuyền giặc hành động thế nào, đặng về báo tin cho lẹ.
Khi ba đạo chiến thuyền của Tây-sơn tới cửa Cần-giờ, bèn truyền lịnh cho các thuyền phãi đi mỗi hàng mười chiếc ngang nhau, rồi lần lần kéo tới, chừng vô gần Nhà-bè, thì hạ lịnh bủa ra mổi hàng năm chiếc lấn tới.
Lúc bây giờ ba chiếc đại-chiến-hạm của Đức Nguyễn-vương đậu giăng ngang nhau một hàng giửa sông Nhà-bè, chiếc của Nguyễn-vương ở giửa, chiếc của Đề-đốc Huỳnh-thiêm-Lộc ở phía hửu, và chiếc của Tôn-thất-Thiên ở phía tã.
Còn hai chiếc chiến hạm nửa, một chiếc của Dương-công-Trừng, coi đạo chiến thuyền mé sông bên tã, và một chiếc của Mạng-Hòe, thì coi đạo chiến thuyền mé sông phía hửu.
Đức Nguyễn-vương và các tướng đứng trên chiếc chiến hạm của ngài, thấy thuyền Tây-Sơn bườm giăng trắng lốt, cột dựng như rừng, đã phăn phăn vô tới Nhà-bè, ngài liền kéo cờ lịnh lên, truyền cho hai đạo chiến thuyền hai bên mé sông, xông vào xáp trận, và năm chiếc đại-chiến-hạm đều phát súng thần công đùng đùng, bắn qua thuyền giặc.
Thuyền giặc thuận bườm xui gió, ùng ùng lước tới như bay, tướng giặc là Nguyển-Huệ liền truyền quân phát súng thần-công bắn lại một cách rất dữ dội, nghe thôi dậy đất long trời, khói bay mù mịt, và phân ra làm hai đạo, một đạo đánh phía tả, và một đạo đánh phía hửu.
Còn hai đạo chiến thuyền của Nguyễn-vương, lớp vụt hỏa hổ, lớp bắn tên ra như mưa, cã hai bên hổn chiến một trận rất dữ, độ hơn vài giờ, song đạo chiến thuyền của Nguyễn-vương, cự địch không nổi, lần lần kéo nhau thối lui.
Còn ba đạo chiến thuyền của Tây-Sơn, bây giờ đả vào hết cã trong sông Nhà-bè, và ùng ùng lước tới. Trận thế xem như một con lưởng-đầu-xà, hai đạo đi đầu bét ra hai bên, còn đạo chiến thuyền phía sau thì kéo dài một dọc, như hình con rắng hai đầu, đương xung xăng lội tới.
Đề-đốc Huỳnh-thiêm-Lộc thấy thuyền Tây-Sơn ào ào tấn tới như giông, thì truyền cho các chiến thuyền, đều giăng một hàng ngang sông mà đón ngăng thuyền giặc, bấy giờ trận thế lại đổi ra một hàng « chữ-nhứt » mà chống lại với thuyền giặc rất dử dằn. Nào là lằng-tên, nào là mũi đạn, nào là hõa hổ, nào là thần công, hai bên bắn ra như mưa. Mặt trận chiến thuyền cũa Tây-Sơn cũng đổi lại, như hình « chử nhơn » rồi xông vào hãm trận một cách rất mảnh liệt. Cả hai hỗn chiến cùng nhau hơn trót giờ.
Đạo chiến thuyền của Nguyển-vương lúc nầy, chỉ có vừa đánh vừa lui, từ từ trở lại.
Lúc bây giờ Quan Phó-Đề-đốc Mạng-Hòe (Manuel) là người nước Pháp, ở trên chiếc chiến-hạm, đốc quân xốc tới xáp trận với thuyền giặc hơn trót giờ, bị thuyền Tây-Sơn phũ vây bốn phía, nhưng Mạng-Hòe không nao núng chút nào, cứ đốc suất thủy binh cự chiến rất kịch-liệt, chừng thấy thuyền mình đã hãm vào một cảnh ngộ nguy cấp, không thế cự nổi, quân sỉ trên thuyền lớp bị thương lớp bị tên, lần lần chết mất rất nhiều, còn binh thuyền của giặc, thì áp tới ào ào như sôi, phủ vây chặc cứng.
Mạng-Hòe nghĩ rằng: nếu để cho quân giặc lấy thuyền mà dùng, thì càng thêm ích lợi cho nó, thà là đốt thuyền mà tự-tử thì hay hơn. Nghĩ như vậy rồi vào trong lấy một bao thuốc súng, châm lữa bừng lên, đốt tàu cháy lên rần rần, rồi nhảy vào mà tự tử, chớ chẳng để quân giặc bắt mình và lấy tàu mà dùng làm lợi khí của nó.
Đức Nguyển-Vương đứng trên thuyền thấy lửa cháy rần rần, khói bay mịt mịt, kế nghe báo Đề-đốc Mạng-Hòe đốt tàu tự-tử và thấy tàu giặc lướt tới như giông, thì ngài đốc suất binh thuyền xốc ra tiếp chiến.
Đạo chiến-thuyền của Huỳnh-thiêm-Lộc và Tôn-thất-Thiện đánh không lại thuyền giặc Tây-Sơn, lớp chạy tảng lạc trong sông, lớp bị chúng nó đoạt thủ.
Lúc bấy giờ đức Nguyển-Vương mình mặc áo nhung-y,[6] đầu đội nón chiến lịp,[7] đứng trên thuyền lầu, đốc quân hỗn chiến, bỗng có một viên đạn bên thuyền giặc bắn qua, trúng cây cột bườm gãy xuống, rớt một bên ngài, các bình sỉ đều thất kinh.
Nhưng đức Nguyển-vương đứng trước thuyền nghiểm nhiên, không chút chi nao lòng động ý, tay cầm súng ô-thương bắn qua thuyền giăc, chết hết năm viên chiến tướng, thuyền giặc không dám xốc vào, rồi ngài truyền lịnh binh sĩ vừa đánh vừa thối lui mà chạy.
Khi thuyền của Nguyển-vương về tới sông Saigon, thì thuyền giặc ào ào lướt tới, không thế cự nỗi.
Đức Nguyễn-vương và các tướng liền lên bờ rồi kéo binh vào thành Saigon mà cự chiến, kế binh Tây-sơn kéo tới công thành rất dử, Nguyển-huỳnh-Đức và Nguyển-kim-Phẩm, đem binh lên mặt thành cự chiến, và các khẫu súng thần-công trong thành lúc bấy giờ cũng diệu võ dương oai, phun khói khạt đạn ra đùng đùng và gầm hét nghe đã long trời đội đất.
Nhưng binh Tây-sơn áp đến như kiến, lớp bắt thang leo thành, lớp lấy búa phá cửa, tràn tới ào ào như ngọn sóng hãi triều.
Nguyển-huỳnh-Đức đứng trên mặt thành, truyền quân bắn tên và lấy đá quăng xuống ào ào như mưa, hai đàng cự nhau hơn mấy ngày.
Bữa nọ Nguyễn-Huệ là tướng giặc Tây-sơn truyền cho đạo binh thần cơ đào lỗ dưới chơn thành, rồi đem thuốc súng đặt làm Hỏa-lôi-phục, đốt vở thành ra, và tấn binh lước tới; quân trong thành ngăn cự không lại, thế phãi lần lần rút lui.
Đức Nguyển-vương thấy thế nguy cấp, ngài liền rút gươm cởi ngựa xốc ra, đốc sức tướng sĩ cự chiến, nhứt diện truyền cho Tôn-thất-Thiện và các tướng tâm phúc đem cung quyến cũa ngài chạy trước về Mỷ-tho, rồi ngài và các tướng rút binh thối lui, vừa chạy vừa đánh, cách lui binh đều có hàng ngủ thứ tự.
Thành Saigon bây giờ đã thuộc về quân Tây-sơn chiếm cứ, và các đạo binh cũa Nguyển-vương, trong lúc nguy cấp, đều thối về các nơi, đạo thì trở lên Biên-hòa, đạo thì kéo về Bến-lức, còn theo ngài không đầy một ngàn binh bộ, rồi lần lần chạy xuống Mỷ-tho đặng tránh đở binh giặc.
Châu-văn-Tiếp đương trấn thủ Bình-Thuận nghe tin đức Nguyễn-vương thất thũ Saigon, liền hội các tướng văn võ bàn nghị, và nói rằng:
Giặc Tây-sơn ta xem có Nguyễn-Huệ là một tay vỏ công đệ nhứt, chiến lược phi thường, cách dụng binh khiển tướng rất tài, ít người đối địch lại nỗi, chớ chi ta không mắt trấn thũ chỗ nầy, thì ta đem binh vào mà cứu viện Saigon họa may mới đặng.
Quan Tiếc-chế là Tôn-thất-Dũ nghe Châu-văn-Tiếp nói, thì nhướng mắt nheo mày mà đáp rằng:
— Tướng-quân nói vậy là khi bọn tôi vô dụng hết sao? vậy để tôi đem một đạo binh vào Saigon đối địch cùng Nguyển-Huệ mà tiếp cứu đức Nguyển-vương cho.
Châu-văn-Tiếp thấy Tôn-thất-Dũ khẵn khái đòi đi, thì nói rằng:
— Nếu quan Tiếc-chế tình nguyện đem binh cứu ứng, thì tôi mới yên lòng, song quan Tiếc-chế có gặp đạo binh Nguyển-Huệ thì phải cẫn thận đề phòng, chẵng nên khinh suất mà hư việc, nói rồi hạ lịnh sai hai tướng là Trần-xuân-Trạch và Trần-công-Chương mỗi người lảnh một ngàn binh theo Tôn-thất-Dũ mà tiếp ứng, còn Tôn-thất-Dũ đem một ngàn binh đi tiên phong, rồi cã ba đạo tức tốc tấn vào Giadinh.
Khi Tôn-thất-Dũ kéo binh tới Giadinh, gặp một đạo binh của tướng giặc Tây-sơn là Phạm-Ngạn làm chức hộ giá cho Nguyển-Nhạc, Hai đàng liền xáp binh hỗn chiến một trận.
Tôn-thất-Dũ cởi ngựa tới trước mặt trận, đốc suất quân sĩ nỗ lực đánh giết binh giặc chẵng biết bao nhiêu, kế đạo binh của Trần-xuân-Trạch và Trần-công-Chương củng rần rần kéo tới tiếp ứng.
Tướng giặc là Phạm-Ngạn đánh không lại, liền thối quân chạy về, Tôn-thất-Dữ đắt thế rượt theo, khi chạy tới cầu Tham-lương,[8] con ngựa của Phạm-Ngạn thấy sông sâu cầu nhỏ, nên nhút nhát chẳng dám chạy qua, kế Tôn-thất-Dũ chạy tới chém Phạm-Ngạn một đao té nhào xuống ngựa mà chết, khi Nguyển-Nhạc nghe tin báo rằng: Quan hộ giá là Phạm-Ngạn bị tướng của đức Nguyển-vương là Tôn-thất-Dũ giết chết thì dậm chơn mà than rằng:
— Ta mất một tướng tâm phúc là Phạm-Ngạn, củng như gãy hết một cánh tay. Kế nghe quân báo nói rằng, có quân chệt Hòa-nghĩa-đạo theo phụ tá vơi binh Tôn-thất-Dủ rất đông, quân ấy toàn là thanh nhơn, trước đã qui hàng chúa Nguyễn, bây giờ nhập vơi đạo binh Tôn-thất-Dủ, mà cự chiến cùng binh ta.
Nguyễn-Nhạc nghe tin báo vậy, thì thạnh nộ nói rằng:
— Ta quyết bắt quân chệt khốn nầy mà giết hết không chừa một đứa, nói rồi sai Nguyễn-Huệ đem binh đánh với Tôn-thất-Dủ một trận rất dữ tại Cầu-Tham-Lương.
Tôn-thất-Dủ cự địch không nổi, liền rút binh chạy về Mỷ-tho, tuốt theo Nguyễn-Vương mà Hộ-giá.
Còn quân chệt Hòa-nghĩa-Đạo bị binh của Nguyễn-Huệ vây bắt được mấy trăm dẫn về Saigon, còn bao nhiêu thì chạy tãng lạc các chỗ.
Nguyễn-Nhạc liền sai một đạo binh đi truy tầm các xứ mà bắt, bất luận là chệt binh lính hay là chệt bán buôn, đều bắt luôn hết, cã thảy gần trót ngàn người, rồi truyện lịnh chém đầu quăng thây xuống nước, làm cho cã sông Nhà-Bè, thây nổi lêu bêu, hơn trót tháng trời, không ai dám vào sông mà câu tôm đánh cá chi hết, thật là một cuộc thãm trạng của người thanh khách rất ghê gớm biết là dường nào.
Lúc bấy giờ Đức Nguyễn-Vương và cung quyến chạy về Mỹ-tho, các tướng tùy tùng theo ngài là Nguyễn-huỳnh-Đức, Nguyển-Hữu-Thoại, Trần-xuân-Trạch, Tôn-thất-Dủ, Nguyễn-kim-Phẫm, và Dương-công-Trừng còn quân sỉ cả thãy chẳng đầy năm trăm.
Khi lấy được thành Saigon rồi, Nguyễn-Huệ liền đem binh rược theo Nguyển-Vương; Huỳnh-thiêm-Lộc bèn tụ tập các quân sỉ đem ra căng cự một trận tại Bến-Lức, nhưng binh của Nguyển-Huệ đông như kiến cỏ, còn binh của Huỳnh-thiêm-Lộc thì chĩ có ít trăm, nên bị Nguyễn-Huệ bắt đặng giết chết tại trận, rồi kéo binh rược theo đức Nguyễn-Vương. May gặp một đội quân của Lưu-thủ-Thăng, ở trấn Long-Hồ đem chiến thuyền qua đón rước Nguyễn-Vương rồi cã thảy chúa tôi chạy vào Rạch-giá.
Chú thích
▲Người ngoài hay kêu Nam kỳ ta là đất Giadinh, nghĩa là kễ chung cả và Lục-tỉnh.
▲Trước mắt các nước đánh nhau dành một con Hưu đời Tàu
▲Nhưng mà ai giỏi được như Ngọa-long Khỗng-Minh đời Tam-Quốc?
▲Đại chiến hạm là tàu lớn.
▲Mạng Hòe theo tên tây là Manuel theo sử của Charles Maybon.
▲Nhung y là áo để mặc mà đánh giặc.
▲Chiến lịp là nón lớn để đội trong khi ra trận.
▲Cầu Tham-lương ở trên Bà-quẹo thuộc về tĩnh Giadinh bây giờ.
HỒI THỨ HAI MƯƠI
Đức-nguyễn-vương cầu xiêm cứu viện,
Nguyễn-hữu-thoại gặp đãng cường đồ
Đức Nguyễn-Vương lúc bấy giờ đã thế cùng binh nhược, không sức chống nổi với quân giặc Tây-sơn, các tướng thủ hạ còn chẳng đầy mười người, còn kẻ tùy tùng chĩ có ít trăm binh sỉ, nếu Nguyễn-Huệ rược theo, thì lấy gì mà ngăn đở.
Đức Nguyễn-Vương đương ngồi trầm tư mặc tưởng, liệu lượng cơ binh, kế vương-mẩu và hậu-phi với công chúa Ngọc-Du ở nhà sau bước ra.
Nguyễn-Vương liền đứng dậy cúi đầu chào Vương-Mẫu, rồi để ghế cho Vương-Mẫu ngồi, còn ngài và Hậu-phi ngồi lại một bên.
Vương-Mẫu ngó Nguyễn-Vương và nói rằng:
Vương nhi con ôi! mẹ xem quân giặc Tây-sơn thật là binh cường tướng dỏng, lại thêm pháo lẹ thuyền đông, một trận thủy chiến tại Nhà-Bè rất dử dằn như vậy, mà binh ta phải thua, thuyền ta phải hết, ngở là nhờ các đạo binh-bộ mà gìn giữ thành trì, chẳng dè binh bộ cũa ta cũng thất thủ Saigon kia rồi; quân Tây-Sơn lại đem binh truy tầm mẹ con ta rất nên nguy cấp, như vậy thì con lo liệu làm sao?
Vương-nhi con ôi! mẹ nghĩ mà thương hại cho Mạng-Hòe (Manuel) phải đốt tàu mà tự tữ, còn Huỳnh-thiêm-Lộc lại bị bại trận mà mạng vong. Các tướng tùy tùng thì ai ai cũng tận trung kiệt lực mà phò tá mẹ con ta đến đây, nhưng mà binh sỉ của ta bây giờ chẵng đầy năm trăm, còn chiến thuyền chẳng đầy ba chục, thì có thế gì mà đối địch cùng quân Tây-Sơn cho nổi, vậy thì con phải liệu kiếm nơi nào, mà tàng binh lánh nạn thì mới được.
Nguyển-Vương day lại huỡn đãi thưa rằng:
— Thưa vương-mẩu, thuở nay việc thắng bại là binh gia thường sự, nào có chi lạ mà Vương-mẩu phải buồn bực âu sầu; tuy bây giờ ngoài việc binh-thuyền chiến-trận ta thất bại, nhưng mà trong lòng ta đừng cho thất bại, thì có ngày ta cũng được rửa hận báo thù, e là e cho bề ngoài thế lực chưa thua, mà trong lòng đã hồn tiêu phách lạc, như vậy thì không thế gì thắng đặng.
Vương-Mẩu chẳng nhớ thuở xưa, Sở-Hạnh-Võ bá chiến bá thắng, nhưng bị bại một trận mà đến đỗi mạng vong; còn Hán-Bái-công, trăm trận đều thua, nhưng thắng một trận thì được thành đế nghiệp, ngày nay binh ta dầu thất bại, mà nếu ta bền lòng gắng sức, thì ngày sau có lẽ cũng đặng thành công.
Vã lại quân Tây-Sơn bây giờ tuy là chiếm cứ được Nam-Kỳ mặc dầu, nhưng chúng nó không thế gì bão thủ lâu đặng, vì Nguyển-Nhạc chẳng lẽ bõ thành-đô Qui-Nhơn mà ở đây, và Nguyển-Huệ thì còn lo một mũi giặc của Trịnh-Sum ngoài Bắc, nên anh em chúng nó thế nào cũng phải trở về Qui-Nhơn mà bão thủ thành trì, chừng ấy con đem binh phục thâu Saigon như nháy mắt, xin Vương-mẩu yên lòng, để mặc con toan liệu.
Hậu-phi nghe Nguyển-Vương bàn nghị mấy đều, tuy là chưa biết thắng bại lẽ nào, nhưng cũng được bớt lòng lo buồn một ít, rồi day lại thưa cùng Nguyển-Vương rằng:
Thưa phu quân, chỗ Rạch-giá nầy chẵng phải là một chổ của chúng ta đình binh tị-nạn, nếu nay mai Nguyển-Huệ đem binh rược theo, thì chúng ta biết liệu làm sao? vậy xin phu quân nhứt định tìm kiếm nơi nào, đặng mà ký túc thê thân, và chiêu tập tướng sỉ của ta tãng lạc các nơi, rồi chờ ngày sẻ cử binh mà phục thâu bờ cỏi mới đặng.
Nguyển-vương nghe Hậu-phi nói thì đáp rằng:
— Ta sẽ nhứt định sai người qua Xiêm cầu binh cứu cấp, và định nội đêm nay, thì chúng ta sẽ xuống thuyền, chạy lên Ha-tien, rồi vượt qua cù-lap Phú-quốc mà tị nạn, đặng chờ coi tin tức binh Xiêm thế nào, rồi sẽ liệu toan phương khác.
Ngọc-Du công-chúa nghe Nguyển-vương nói vậy thì thưa rằng:
Thưa vương-huynh, năm ngoái em có nghe rằng: khi phò-mã Nguyễn-hữu-Thoại đem binh cứu trợ Caoman, có hòa ước cùng tướng Xiêm là Chất-Tri, nay Chất-Tri đã lên ngôi quốc-vương, thế cũng còn nhớ những sự hòa ước khi trước cùng Nguyễn-hữu-Thoại.[1] Vậy nếu vương-huynh muốn cầu binh Xiêm, thì xin sai phò-mã Nguyển-hửu-Thoại thì có lẻ xong việc.
Nguyển-vương nghe công-chúa nói liền gặt đầu và đáp rằng: Lời hiền-mụi nói rất hữu lý, ta cũng tính phãi sai Nguyển-hữu-Thoại mới xong.
Nói rồi liền sai quân đòi Nguyển-hữu-Thoại đến và bão rằng:
— Ta nhứt định đêm nay phãi vượt biển sang qua cù lao Phú-quốc, mà tránh đở quân giặc, và ý muốn cầu cứu nước Xiêm giúp ta trong lúc thế cùng binh nhược. Vậy tướng quân là người đả có hòa ước cùng Xiêm khi trước, thì tướng quân phải lảnh cái trách nhậm nầy, đặng qua Xiêm xin binh cứu viện, nếu vua Xiêm còn nhớ lời ước thệ cùng tướng quân ngày xưa, thế thì củng có lẽ đem binh giúp đở chúng ta trong cơn nguy cấp.
Vậy thì tướng quân ráng lãnh cái trách nhậm ấy cho hoàn toàn, quã nhơn cùng các tướng tạm trú tại cù lao Phú-quốc mà đợi tin tướng quân. Nói rồi Nguyển-vương viết một phong thơ, đóng ấn tử tế, giao cho Nguyển-hữu-Thoại đem qua cho vua Xiêm, và sai hai tướng là Trần-xuân-Trạch và Cao-phước-Trí đi cùng Nguyển-hửu-Thoại sang Xiêm cầu cứu.
Nguyển-hữu-Thoại vâng lịnh, lãnh quốc thơ rồi sắm sữa hành trang, đi với hai tướng tùy tùng, và ba tên quân nhơn đễ theo sai khiến, rồi nói với hai tướng là Trần-xuân-Trạch và Cao-phước-Trí rằng:
— Chúng ta bây giờ phải lên Nam-vang: mượn đường Caoman mà thẳng qua Băng-côc (Bangkok) cho mau, nếu đễ trễ nãi ngày giờ, ắc quân Tây-sơn tấn lên Nam-vang thì chúng ta hành trình không tiện.
Trần-xuân-Trạch nói: Vậy thì chúng ta sáng mai phãi đi, chẳng nên trễ nãi, Cao-phước-Trí nói;
— Không lẽ quân Tây-sơn tấn binh lên Caoman lẹ vậy, vì trên Caoman có quân binh cũa Hồ-văn-Lân ngăn giữ.
Vậy đễ tôi bão quân sắm sữa rượu thịt và vật thực đem theo đặng có cần dùng trong lúc hành trình cho tiện.
Nói rồi cã thãy sáu người đều lên ngựa, băng ngang vào nước Caoman mà sang qua Xiêm quốc.
Đoạn Nguyển-vương với cung quyến dắc nhau xuống thuyền chạy ra cù lao Phú-quốc trú ngụ. Lúc bấy giờ toàn cỏi Nam-kỳ đều bị quân Tây-sơn chím cứ hết cã, còn Nguyển-hữu-Thoại với mấy anh em phụng mạng qua Xiêm cầu binh cứu viện
Khi lên khỏi Châudoc một đổi, xãy thấy một đội quân trong rừng xốc ra, Nguyển-hữu-Thoại xem thấy y phục thì biết là đội quân Annam, bèn lấy làm lạ liền ngừng ngựa đễ coi, bỗng có một tên đội thấy Nguyển-hửu-Thoại, thì lật đật chạy lại cúi đầu thi lễ.
Nguyễn-hữu-Thoại ngó tên ấy châm chỉ rồi hỏi rằng:
— Ngươi ở về đạo binh nào đến đây?
Tên đội trưởng đứng lại một bên rồi vòng tay thưa rằng:
— Bẫm quan lớn, tôi ở về đạo binh của quan bão hộ tại Caoman là Hồ-văn-Lân.
Nguyễn-hữu-Thoại nghe nói thì sửng sờ rồi hỏi tiếp rằng:
Ngươi ở về đạo binh của quan bảo hộ là Hồ-văn-Lân, mà ngươi đem quân sĩ đi đâu đây? sao ta xem không có hàng ngủ thứ tự chi hết?
— Bẫm quan lớn, chủ tướng tôi là Hồ-văn-Lân nghe tin giặc Tây-sơn vào đánh Giadinh, và đức Nguyển-vương thất trận thũy chiến chạy về Mỹ-tho, nên chủ tướng tôi lật đật đem binh tuốt về tiếp cứu, nhưng khi xuống tới Châudoc, bổng gặp đạo binh Tây-sơn kéo lên, hai bên hỗn chiến một trận rất dử, song binh giặc thì đông, binh ta thì ít, nên đánh không lại, vì vậy chúng tôi phải thất lạc vào đây, còn binh Tây-sơn bây giờ nghe nói đả kéo lên Nam-vang, mà lập quyền bảo hộ nơi xứ ấy.
Nguyễn-hữu-Thoại nghe nói thì vẽ mặt có sắc kinh nghi liền vội vã hỏi rằng:
— Còn ngươi có biết quan bảo hộ Hồ-văn-Lân bây giờ ở đâu không?
— Bẩm quan lớn, trong khi binh cũa chũ tướng tôi bại trận, thì nghe nói chạy về hướng đông, còn bọn tôi bị quân Tây-Sơn rược nà, nên phải chạy lạc vào đây, đặng tính trở về Rạch-giá.
Trần-xuân-Trạch nói: nếu quân Tây Sơn đả tấn lên chím cứ Cao-man rồi, thì đường bộ từ Cao-man qua Xiêm đã thuộc về chúng nó tuần phòng tế-soát, như vậy thì việc hành trình của chúng ta rất nguy hiểm lắm.
Nguyển-hửu-Thoại ngẫm nghỉ một chút rồi nói rằng:
— Khi ta đem binh cứu viện Cao-man mà kháng cự cùng Xiêm, thì ta có thông thuộc các nẻo đường trong nước Cao-man một ít, bây giờ chúng ta chẳng nên noi theo đường đại lộ mà đi, e gặp binh Tây-Sơn ngăn đón.
Vậy chúng ta cứ băng theo đường rừng núi mà đi, thì chúng nó không thế làm gì ta được.
Cao-phước-Trí nghe Nguyển-hữu-Thoại nói vậy thì thưa rằng:
— Thưa Hiền-Huynh, nếu chúng ta bằng theo đường rừng mà đi, thì lại e quân cường-đạo Cao-man tàng ẫn trong núi rất nhiều, hắn thấy chúng ta chẳng có quân gia, ắc kéo ra cướp giết mà đoạt của, thì cũng một sự nguy hiểm cho chúng ta lắm chăng; vã lại quân Cao-man bây giờ tùng phục theo Tây-Sơn Nguyển-Nhạc, thì chắc phải phản đối cùng ta, nếu hằn biết ta là phe của Đức Nguyển-Vương, ắt kiếm chuyện làm hại ta đặng lập công cùng Tây-Sơn mà lãnh thưởng, như vậy thì chúng ta phải cẩn thận trong lúc hành trình mới được.
Nguyển-hữu-Thoại gặt đầu và nói rằng:
— Ta không sợ quân Cường-đạo ở chốn lục lâm, mà ta phải đề phòng lũ chó-săn của bọn Tây-Sơn hơn hết; bọn Tây-Sơn chĩ thí ra mỗi tháng một ít trăm bạc, thì đủ mua đức linh hồn cũa nước Cao-man, đặng dùng làm chó-săn để đem mồi cho chúng nó, sự ấy cũng chẳng lạ gì, như thế thì dẩu cho người một nòi giống cũa chúng nó, nó cũng moi móc mà chĩ ngay, huống hồ mình là người tha ban, thì nó dung gì mà không làm thật bại, còn phận sự chúng ta, thì phải hết lòng vì nước, dầu cho hi sanh tánh mạng, vạn khổ thiên lao thế nào, thì chúng ta cũng phải ra thân mạo hiểm phò nguy, bao nài khó nhọc, từ đây qua kinh đô nước Xiêm, chẳng biết bao nhiêu giang quang cách trở, lội suối trèo non. Vậy chúng ta phải khắn khích một lòng cùng nhau, mà lảnh cái trách nhặm nầy cho hoàn toàn, đặng đi cho tới nơi, về cho tới chốn, nếu rủi mà tôi gặp cơn nguy hiểm, bỏ mạng giữa đường, thì anh em phải lấy cái thơ trong túi tôi đây, là một cái quốc thơ của Nguyễn-Vương, mà đem đi; còn hai anh em rủi có trắc trở đều chi, thì tôi cũng phải hết lòng cứu giúp, nói rồi ngó lại tên đội trưởng đương đứng một bên và bão rằng:
Ngươi hẩy đem toán quân nầy về hiệp cùng binh quan bão-hộ Hồ-văn-Lân, chờ khi Nguyển-Vương trở lại khôi phục Nam-kỳ, sẽ ra tiếp ứng. Tên đội thưa vâng và lui về, rồi cả ba anh em với ba tên bộ hạ, dắc nhau băng đồng lước bụi, kiếm ngã đàng rừng mà đi. Thật là:
Bao nài vạn thũy thiên san.
Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng băng.
Khi Nguyển-Hửu-Thoại và mấy tướng tùy tùng lên tới Tà-Keo, thì thấy một đám rừng cây mù mịt, triền núi thấp cao, bèn tách theo đường mòn trong rừng lần lần đi tới, khi ra khõi rừng, có một khoãn đồng trống, ngó qua hướng tây thấy bóng tà dương đã lần lần xuống khõi ngọn cây, và một ánh sáng hồng dọi vào dãnh núi, xem ra nữa đõ nữa đen, Nguyển-Hửu-Thoại với Trần-Xuân-Trạch liền gò cương ngừng ngựa, rảo mắt ngó ra chung quanh chơn rừng, chẵng thấy nhà cữa dân cư, chĩ thấy một lùm đại thọ trên gò, nhánh lá sùm sề, tàng cây mát mẽ, thì nói với Trần-Xuân-Trạch rằng:
— Trời đã gần tối, chúng ta phải lên tạm đở gò nầy, đặng ăn uống nghĩ ngơi, rồi sáng mai sẻ lên đường cho sớm, nói rồi cả thảy mấy người đều kéo nhau lên gò, và bão ba tên quân lấy chiếu trải dưới gốc cây, và lấy lương phạn ra ăn, khi ăn uống thì trời đã tối mịt.
Nguyển-Hửu-Thoại bèn bão ba tên quân phải thay phiên canh giử đồ hành trang và sáu con ngựa, còn Nguyển-Hữu-Thoại, Trần-Xuân-Trạch với Cao-phước-Trí, đều nạp súng đai gươm bên mình, đặng đề phòng trong khi đem hôm tăm tối, Trần-Xuân-Trạch nói:
— Khi nảy tôi thấy hai thằng Caoman đứng trong rừng, thấy chúng ta thì lấy tay chĩ chõ và nói chi nhõ nhõ cùng nhau rồi vào rừng đi mất.
Cao phước-Trí thấy nói thì tiếp rằng: đó là quân Caoman đi đốn cũi, hay là đi kiếm bắt thịt rừng chớ gì, anh rối quá, sai không hỏi nó có thịt rừng đặng mua ăn uống rượu chơi.
Nguyễn-Hửu Thoại nói:
— Chúng ta đi đường xa xứ lạ, không nên uống rượu, để trí tỉnh mà đề phòng, và đêm hôm phải ngũ cho sảy thức mới đặng; mấy anh em đàm đạo một hồi cùng nhau rồi vào trong ngơi nghĩ, chĩ còn một tên quân ngồi dựa gốc cây thức canh, song trong lúc trời khuya canh vắng, chẳng nghe chi lạ hơn là nghe những giọng, re re dế gáy, dường như khúc đờn lưu-thủy khảy bên tai, tích tích sành kêu, tợ hồ tiếng búa tiều-phu vang kẹt núi.
Kế đó con ma ngũ lần lần áp lại, làm cho tên quân canh mê mẩn tâm thần, mở mắt không ra, rồi ngồi dựa vào cây mà ngũ gục.
Lúc bấy giờ bên cạnh rừng, ló ra mấy cái bóng thấp thoáng đen thui, rồi lần lần đi tới, và sẽ lén leo lên gò cây, là chổ của ba tên quân nhơn đương ngũ, bỗng con ngựa cũa Nguyển-Hửu-Thoại dậm cẳng dưới đất và hầm hừ la lên. Nguyển-Hửu-Thoại dực mình mở mắt, thấy ba người bộ tướng vậm vở, đầu trọc mình trần, nước da đen trạy mổi thằng có dắc một con dao bên lưng, bộ coi hung ác, đương lò mò mở dây cột ngựa, rồi nhảy lên cỡi đi.
Nguyển-hữu-Thoại thấy liền hô lên một tiếng lớn và nói rằng:
— Quân cướp bắt ngựa; Trần-xuân-Trạch và Cao-phước-Trí, với ba tên quân nhơn, đương ngủ mê mang, dực mình chổi dậy, thì ba tên cường đạo liền quức ngựa chạy giông vào rừng.
Nguyển-hữu-Thoại Trần-xuân-Trạch và Cao-phước-Trí cã ba liền lấy súng rồi nhẫy phóc lên ngựa, và quức ngựa sải theo như bay.
Ba tên cường đạo kia cởi ngựa chạy dọc theo mé rừng, rồi tuốc lên triền núi.
Nguyễn-hữu-Thoại rược theo gần kịp, thì quân cướp quức ngựa chạy quanh lộn theo mấy bụi cây thấp thấp dựa triền.
Ba anh em Nguyển-hữu-Thoại bị mấy bụi cây cản trỡ, phần sợ hầm hố hiểm nguy, nên không dám giục ngựa chạy mau, còn quân cướp thấy ba anh em Nguyễn-hữu-Thoại rược theo, không ngừng vó ngựa, hễ chúng nó chạy quanh, thì Nguyễn-hữu-Thọ cũng quanh, còn chạy thẳng thì lại rược theo mau lắm. Kế đó một thằng trong bọn ấy quức ngựa tẻ vào mé rừng, muốn kiếm đường đặng chun vô mà trốn.
Nguyển-hữu-Thoại thấy thì nghĩ thầm rằng: nếu nó chun vô đường rừng, thì như cá xuống nước cọp vào non, không thế gì theo đặng, liền giục ngựa chạy mau, đặng chận không cho nó chạy vô rừng mà trốn tránh, khi theo gần kịp, Nguyễn-hửu-Thoại liền rường súng bắn ra một phát, thằng cường đạo ấy bị bắn trúng vai, la lên một tiếng, thì té nhào xuống đất, rồi chun tuốt vào rừng mà trốn mất.
Nguyển-hữu-Thoại liền chạy tới bắt ngựa lại, rồi kêu Cao-phước-Trí bão rằng: chú mầy phải ở lại giữ con ngựa ấy, để ta rược theo chúng nó cho mau. Nguyễn-hữu-Thoại nói rồi thì hiệp với Trần-xuân-Trạch quức ngựa sải theo hai tên cướp kia như bay và kêu lớn lên rằng:
— Quân cường đạo kia, bây phải trả ngựa lại cho ta, bằng không, thì ta theo giết bây chẵng chừa một đứa.
Nguyễn-hữu-Thoại vừa rược theo vừa ré lên, vang dội cả rừng, nhưng quân cướp cứ chạy quanh lộn dưới triền, không chịu bỏ ngựa mà trã lại.
Trần-xuân-Trạch kêu Nguyển-hữu-Thoại và nói:
— Anh chạy phía tả đón nó, kẻo nó chạy vô đường rừng, để phía nầy tôi chận nó cho, không sao phòng sợ.
Nguyển-hữu-Thoại nổi xung, hai chơn dang ra thúc vào hông ngựa một cái rất mạnh, con ngựa cũa Nguyễn-hữu-Thoại là ngựa tuấn mã hùng cu, liền cất bốn vó, phóng qua mấy bụi cây, rồi sải tới như bay, trong nháy mắt thì đã theo kịp quân cướp, liền huơi gươm chém tên cướp ấy một cái, nhào ngay xuống ngựa mà chết, tên kia thấy vậy thất kinh bèn quức ngựa chạy quanh lộn theo mấy bụi cây, kế Trần-xuân-Trạch rược tới lấy súng bắn ra một mũi, nhưng súng vừa bắn ra, thì tên cướp ấy đả nhảy ngay xuống bụi, nghe kêu cái sạt, rồi lủi vào bụi mà trốn mất.
Nguyển-hửu-Thoại và Trần-xuân-Trạch thấy quân cướp đã bỏ ngựa nhãy trốn vào bụi, thì tức tốc nhảy xuống bắt ngựa cột nơi gốc cây, rồi hai anh em chạy lại bao vây chung quanh, và càng cây ra mà kiếm bắt quân cướp, song kiếm một hồi không thấy chi hết, ngó ra chung quanh thì đất trống, chẳng có bụi nào, nhưng chẳng biết nó núp vào đâu, mà kiếm cùng không được.
Trần-xuân-Trạch lãy làm quái dị, và nói rằng: thằng cướp nầy cốt nó là ma sao, nó mới nhảy vào đây, mà đả biến đi đâu mất.
Nguyễn-hửu-Thoại cũng lấy làm lạ quá, và nghĩ rằng: chung quanh đất trống không lẻ nó chạy qua bụi khác mà ta không thấy sao.
Trần-xuân-Trạch liền lại cây đại thọ bên đó, rồi ngó lên kiếm coi, thì thấy cậu ta đương ngồi xo rỏ trên nhánh cây, hai mắt châm châm ngó xuống, mà lẵng lặng làm thinh, Trần-xuân-Trạch liền la lên, nó đây, nó đây.
Nguyễn-hữu-Thoại nghe la chay lại, quả thật cậu ta ngồi núp trên cây,một đống đen thui, thì nói rằng:
— Thật thằng khốn nầy cốt nó là loại khỉ hay sao? hồi nảy mới nhảy vào bui đây, sao đả leo tọt lên cây bao giờ mà ngồi đó?
Nguyễn-bữu-Thoại và Trần-xuân-Trạch muốn lấy súng ra bắn, song coi lại thì thuốc đạn không có đem theo, súng bị bắn khi nảy đả hết rồi, bây giờ không có thuốc đạn mà nạp nửa.
Trần-xuân-Trạch nói: thôi Hiền-Huynh đứng dưới nầy coi chừng, để tôi leo lên bắt nó mới đặng, nói rồi xăng tay vén chơn lại ôm gốc cây phăn phăn leo lên, khi lên tới chán hai, thì thằng khốn ấy đả bò ra ngoài, rồi hai tay vói nắm nhánh cây bên kia, de ngang qua đó, và hai chơn đạp ra rất mạnh, xích một cái như xích đu, tức thì nhánh cây vục qua một cái rất xa, ngó lại thì thằng khốn ấy đã nhãy vot xuống bụi phía kia nghe kêu cái sạt, rồi chạy lủi vào trong trốn mất. Nguyễn-hữu-Thoại la lên và nói, nó nhảy xuống rồi, nó nhãy xuống rồi, Trần-xuân-Trạch thấy vậy, trên cây tuột xuống lẹ nhu con sóc, còn Nguyễn-hữu-Thoại lật đật chạy theo, và nói lớn rằng: thằng cường đạo kia, mi đứng lại không? nếu mi chạy thì ta bắn mi chết, nhưng thằng khốn ấy đã lũi vào bụi cây rồi chun mất, hai anh em Nguyễn-hữu-Thoại lúc bấy giờ lửa giận phừng gan, liền lấy gươm chặt sã bụi cây và đáo soát kiếm cùng, nhưng không thấy chi hết, liền chạy lại bụi cây kế đó kiếm coi, bổng thấy thằng khốn ấy thình lình trong bụi ló ra, rồi đâm đầu chạy lại chổ đất cao kia, co giò nhãy xuống một cái rồi biến mất.
Nguyển-hửu-Thoại và Trần-xuân-Trạch lật đật rược theo tới đó, thấy một miệng hầm lớn bằng căng nhà, chung quanh cây cối rậm rì, ngó xuống dưới hầm sâu chừng 5, 6 thuớc, phía bên miệng hầm có một cái hang, ăn luồn vô trong ngó vào tối thui như mực.
Trần-xuân-Trạch ngó coi một hồi rồi day lại nói với Nguyễn-hữu-Thoại rằng:
— Chắc thằng khốn nầy nhãy xuống hầm rồi chun tuốt vào hang đó mà trốn, vậy để tôi nhãy xuống thử coi.
Nguyển-hửu-Thoại nói:
— Không được đâu, đừng nhãy bất tử, chắc cái hầm nầy là chỗ sào-huyệt của chúng nó, đễ mà tàng tụ tai đay, thế thì chúng nó đào hang trỗ ngách ở dưới, chẳng biết bao nhiêu. Nếu mình nhảy xuống thì nó núp trong hang tối hại mình, chớ mình không thấy nó đâu mà bắt, đừng xuống bất tử không nên, thôi thây kệ nó, chúng ta chẵng cần theo nó làm chi, miển là mình bắt ngựa lại được thì đủ, nói rồi hai anh em trở ra dắc ngựa chạy về.
Dọc đường gặp Cao-phước-Trí dắc ngựa chạy tới, thấy Nguyễn-hửu-Thoại và Trần-xuân-Trạch thì hõi rằng:
— Sao hai anh có bắt được quân cướp không?
Nguyển-hữu-Thoại nói: ta đã chém chết một đứa, còn một đứa chạy thoát vào hầm rồi trốn mất, nên không bắt được.
Cao-phước-Trí nói: Thôi hiền huynh để tôi vào hầm bắt nó mà giết quách cho rãnh, ba thằng Caoman chết bầm, để nó báo hại mình ngů không yên giấc.
Nguyển-hửu-Thoại nói: Không được đâu, nó đã chun mất vào hầm rồi, biết đâu mà kiếm, nói rồi ba anh em cùng nhau đề huề trở lại chô củ.
Khi về tới gò đất, thấy ba tên quân nhơn mổi đứa tay cầm giáo dài, đương đứng hơ hãi ngóng trông, thấy ba anh em dắc ngựa về, thì mừng rở chạy ra nói rằng:
Bẫm chủ tướng, khi ba chủ tướng rược theo quân cướp, thì có năm sáu đứa cướp khác ào tới, muốn cướp dực đồ hành trang, chúng tôi liền lấy trường thương chống cự với chúng nó một trận rất dữ. Chúng nó đánh không lại, rồi kéo nhau chạy tuông vào rừng, chúng tôi muốn rượt theo giết nó, nhưng đồ hành trang sợ không ai giử.
Nguyển-hửu-Thoại nói: Thôi, chúng bây hẫy ra dắc ngựa lên cột nơi mấy gốc cây, và thức mà canh giử cùng nhau, không nên ngủ nửa.
Chú thích
▲Nguyễn-vương đưa công-chúa Ngọc-Duệ cho Nguyễn-hữu-Thoại, trong khi chạy ra cù lao Tho-châu, công-chúa Ngọc-Duệ là em thứ ba của ngài.
HỒI THỨ HAI MƯƠI MỐT
Giữa truông vắng ra oai đánh cọp,
Lên đèo cao xúc cãnh ngâm thi.
Đó rồi các anh em kéo nhau lên gò, bàn soạn công việc một hồi, thì thấy phía đông đã hừng hừng bóng ác, rựng rựng chơn trời, Nguyễn-hửu-Thoại bèn biểu quân nhơn sắp sửa hành trang, và cho ngựa ăn uống, rồi cùng nhau đồng đi lên đường một lược.
Khi lên khỏi Tà-keo một đổi, thì cứ lần lần dọc theo núi Tượng (chaine de l’éléphant) thẵng tới, ngó ra hai bên chỉ thấy rừng cây mù mịt, đường sá quạnh hiu, chớn chở một dảy non xanh, chổ thì động đá, chổ thì khe tòng, nước chãy ro re, nghe như tiếng nhạc cung đờn, ai đem khãy chơi dưới suối.
Anh em Nguyễn-hửu-Thoại đi được chín mười dậm, thì ra tới ngã ba đại lộ, thấy hai ba người Cao-man, một người đàn ông, một người đàn bà, và một người con gái, đương ngồi bên đường, dường như có ý đợi chờ ai vậy.
Cao-phước-Trí có tánh hay lục lạo, và biết nói một ít tiếng Cao-man, liền bước lại trước mấy tên ấy mà hỏi rằng:
— Mấy đứa bây ngồi đây làm gì?
Tên Cao-man thấy hỏi thì đứng dậy đáp rằng:
— Chúng tôi đi về bên làng Ô-lắc, nhưng không dám đi, nên ngồi đây chờ có đông người, rồi sẻ kết đoàn mà đi một lược.
Cao-phước-Trí nghe nói lấy làm lạ, và hỏi tiếp rằng:
— Bởi cớ sao mà chúng bây phải chờ có đông người, mới dám đi? phải là chúng bây sợ quân cướp không?
— Chúng tôi không có bạc tiền trong lưng, không phải chúng tôi sợ quân cướp dực, mà chúng tôi rất sợ ông ăn thịt người ta đó mà.
— Ông nào ăn thịt người ta, mà ông ấy ở đâu?
— Chao ôi! tôi không dám nói tên, ông ấy ở đâu không biết, mà hay tới lui đường qua truông Đèo Ô-lắc, còn bà lại dử lắm, thuở nay ông với bà ăn thịt người ta chẳng biết bao nhiêu, nên chúng tôi phải đợi có đông người, rồi mới dám đi đường đó.
Cao-phước-Trí nghe nói quái gở, liền trợn mắt nheo mày, và hỏi lớn rằng:
— Mà ông đó bà đó hình trạng ra sao? mi không dám nói tên, thì mi nói hình trạng ra cho ta biết.
— Thưa cậu, ông ấy thì lông lá bạc trắng, còn bà thì mình mẫy vàng khè, mà có vằn đen đen cùng cã lưng cổ.
Cao-phước-Trí nghe nói thì biết liền, rồi hỏi lớn rằng: mi nói vậy, thì là con cop phải không?
Tên Cao-man nghe nói thì oãn hồn, thối lui lại một bước và nói lập bập rằng:
— Trời phật ôi! cậu nói tới tên ông, thì ông vật cậu chết.
Nguyễn-hửu-Thoại và Trần-xuân-Trạch gò cương ngừng ngựa, đứng ngó một hồi, mà không hiểu nói gì, chừng thấy tên Cao-man ra bộ sợ sệt, và nghe Cao-phước-Trí nói lớn tiếng rồi trợn mắt nheo mày, thì lấy làm lạ, liền kêu Cao-phước-Trí hỏi rằng:
Cao-hiền-đệ nói gì với tên Caoman đó vậy?
Cao-phước-Trí day lại cuoi ha hã và nói rằng:
— Thằng Caoman nầy nói ở gần đèo Ô-lắc có hai con cọp, một con long trắng, một con long vàng, thuở nay ăn thịt người ta chẵng biết bao nhiêu, nên chúng nó không dám đi, để chờ có đông người, mới dám đi ngang qua đó.
Nguyển-Hửu-Thoại nghe rồi, thì bão Cao-phước-Trí rằng:
— Thôi, chúng nó có sợ vậy, thì cho chúng nó đi theo cùng ta.
Cao-phước-Trí day lại nói với tên Caoman rằng:
— Thôi, chúng bây hảy đi theo anh em chúng ta, không sao đâu mà sợ.
Hai vợ chồng tên Cao-man nghe nói thì le lưởi ngó nhau rồi nói rằng:
— Mèn ôi! trời phật ôi! không được đâu, thường thường phải có ít nữa là hai ba mươi người mới dám qua truông ấy: bây giờ đây cả thảy không đầy mười người, mà mấy cậu thì cởi ngựa, còn chúng tôi thì đi chơn, nếu gặp ông-bạc bà vàng, thì chắc là nhai đầu vợ chồng chúng tôi hết cả.
Cao-phước-Trí mỉn cuoi và nói: không sao đâu mi đi theo ta, chúng ta có súng ống khí giới sẳn sàng, nếu gặp hắn thì chúng ta đánh cho, không sao mà sợ.
Tên Caoman ấy ngẩm nghĩ một chút rồi nói rằng:
— Thôi các cậu đi trước đi, để chúng tôi chờ người ta một lát nửa, roi sẽ đi sau cũng được.
Nguyển-Hữu-Thoại thấy nó không chịu đi, thì nói rằng:
Thôi, để anh em chúng ta đi cho mau, nếu nó đi theo thì chúng ta mất công chờ đợi, rồi trể nãi việc hành trình, nói rồi mấy anh em và ba đứa quân nhơn đều kéo nhau giục ngựa thẳng tới.
Đi dọc đàng Trần-Xuân-Trạch kêu Cao-phước-Trí mà nói chơi rằng: — Tội nghiệp cho ba tên Caoman khi nãy, nó cũng bà con một họ với chú mầy, tại chú mầy không chịu nhìn, nên chúng nó tưởng người lạ mà không dám đi cùng chú mầy một lược chớ gì.
Cao-phước-Trí nghe nói thì cười và đáp lại rằng:
— Thật bà con tôi rất đông mà lại rân rát lắm. Cao-hoài-Đức và Cao-tôn-Bão bên Tàu hồi xưa cũng là bà con cùng tôi, còn nói gì cả nước Caoman nầy hơn một triệu người, cũng là một họ cùng tôi hết cả, ấy vậy không phải tôi bà con đông đão lắm sao?
Trần-Xuân-Trạch day lại nói chơi rằng:
— Nếu vậy mấy thằng Caoman cướp ngựa hồi hôm đó, củng là bà con với chú mầy nữa sao! vì nó cũng họ Cao như chú mầy đó vậy.
Quảng cáo
IFrame
Cài đặt chế độ riêng tư
Nói rồi cả mấy anh em đều cười rân trong đường rừng nghe thôi inh ỏi.
Nguyển-Hửu-Thoại nói: mấy anh em, khúc đường nầy ta xem núi non vắng vẽ, cây cối mịt mù, các anh em phãi giục ngựa chạy mau, và ghé mắt coi chừng hai bên rừng bụi, chẵng nên ơ hờ lơ lảng, mà ông bạc bà vàng nhảy ra thình lình, thì chúng ta không làm gì kịp.
Nguyển-Hửu-Thoại nói vừa dứt lời, bỗng nghe một luồn gió ở đâu ùng ùng thổi tới hơi khét mà vôi, ngó lại thấy hai con cọp rất to, một con vằn vện hàng khè, một con lòng lá trắng nõn, dường như hai vợ chồng của Chúa-Sơn-lâm đi thơ thẩn nơi mé rừng, mà nhàn du ngoạn cảnh.
Hai con cọp thấy mấy anh em Nguyển-Hửu-Thoại cởi ngựa đi tới, thì nhảy ra đứng chận giửa đường, bốn mắt long lanh. phóng xạ hào quang, ngó ra lườm lừom như bốn ngọn lữa đõ, rồi xừng lông dửng gáy, hã miêng nhăn nanh, bộ mặt hầm hầm, như muốn ra oai ăn tươi nuốt sống.
Nguyễn-Hửu-Thoại day lại nói với Trần-Xuân-Trạch và Cao-phước-Trí rằng:
— Hai con đại-trùng ác-thú nầy, coi thế muốn gây gổ hung hăng, vậy thì chúng ta phải xuống ngựa cho mau, mà đánh nó mới được, nói rồi ba anh em đồng nhảy xuống giao ngựa lại cho mấy tên quân giử coi, rồi Nguyển-Hữu-Thoại một tay rút gươm, một tay cầm búa, hai chơn thì đứng cách chữ đinh, còn hai mắt ngó cọp lườm lườm, không hề chớp mi.
Con cọp vàng thấy Nguyển-Hửu-Thoại xuống ngựa, tức thì nhãy lại, sè vấu nhăn nanh, hộc lên một tiếng dậy rừng, rồi a vào mà chụp. Nguyển-Hửu-Thoại liền tràn qua phía tã, hét lên một tiếng rất to, và huơi gươm đâm cọp mot cái, song con cọp lẹ như chớp nhán, ngọn gươm của Hửu-Thoại vừa tới, thì đã nhảy vọt qua phía kia, rồi lấy tay vớ Nguyển-Hửu-Thoại một cái ngang lưng, thì Hửu-Thoại đã tràn qua phía khác.
Kế con cọp lông trắng chờn vờn nhảy tới, Trần-Xuân-Trạch và Cao-phước-Trí nhãy ra tiếp đánh với cọp ấy một cách dữ dằn. Kẽ chận trước, người ngăn sau, kẻ đâm ngang, người chém ngược, cọp trắng ấy mắt chống cự với hai người nầy, nên không thế nhảy lại mà giùm giúp cọp vàng kia đặng.
Còn Nguyển-Hửu-Thoại một mình cự địch với cọp vàng rất hung hăng, cọp thì gầm hộc hầm hừ dậy cã đường rừng, Hữu-Thoại thì hét la nộ nạt inh ỏi.
Cọp vàng nầy chụp Nguyển-hửu-Thoại hai ba cái không trúng, thì giận đỗ thần hung, bèn dụm hai chưn trước, túm hai cẳng sau, và cúi đầu xuống đất, « thế nầy kêu là thế phục địa đằng không cũa mấy con cop dử » rồi hai cẳng sau búng ra, nhảy phóng lên một cái rất cao, quyết chụp trên đầu Hửu-Thoại mà vật xuống.
Nguyển-hửu-Thoại liền nhảy trái qua, rồi huơi gươm đâm ngang hông một gươm lũng vào tới ruột, cọp hộc lên một tiếng dội đất vang rừng, rồi lấy tay vấu Hửu-Thoại một cái đứt hết một ống quần, còn tay kia bạt cây guơm ra, và nhãy tới táp đại.
Nguvễn-hửu-Thoại liền nhảy ra đứng mà thủ thế.
Quảng cáo
IFrame
Cài đặt chế độ riêng tư
Lúc bấy giờ cọp đã mệt, lại bị một thương ngang hông rất đau, liền nhãy vọt lên hòn đá mặt bằng, ở dựa bên đường, đứng thở pho pho đặng lấy hơi lại, hai mắt ngó Hữu-Thoại châm châm, và bên hông máu chãy ròng ròng xuống đá. Còn Hữu-Thoại đứng dưới đất thủ thế, mắt cũng ngó cọp lườm lườm, không dám chớp nháy chi hết, còn mình thì mồ hôi đổ xuống như tắm.
Nguyễn-hửu-Thoại chẳng dám xốc lên, mà cọp vàng cũng chẳng dám nhảy xuống, hai đàng chĩ có thũ thế đứng sửng nhìn nhau, một người thì xem tướng mạo mạnh mẻ như một vị Hộ pháp thiên thần, còn một cọp thì xem bộ tịch dữ dằn như một con Hà đông sư tử.
Cọp ấy tuy bị một mũi thương rất sâu, nhưng không chịu chạy, quyết liều sống chết ở lại mà báo thù, đó rồi sè mười vấu chơn ra nhọn vắt, như mười ngọn dao, và nhăn hai nanh ra chôm chỗm như hai lưỡi dáo, rồi co giò nhảy xuống chụp Hửu-Thoại một cái, đặng móc họng nhai xương mà trả thù
Hửu-Thoại thấy cọp nhảy xuống, quyết lừa thế đâm nó một gươm cho tuyệt mạng, nhưng sức cọp còn hung hăng, hễ gươm đâm qua thì bị cọp gạt ra, nên không trúng đặng.
Hửu-Thoại nghĩ rằng: nếu mình không lấy miếng độc thủ mà đánh cho trúng chổ nhược của nó, thì không thế gì giết chết nó đặng, nghĩ vậy rồi lần lần sụt lại, và lấy gươm đâm đùa một cái, cọp liền nhãy ra, Hửu-Thoại thừa dịp ấy nhảy phức lên hòn đá, đứng nghỉ xả hơi mà tay thì thũ thế, đặng chờ nó nhãy lên, sẽ dùng miếng độc thũ xáng nó một búa cho tuyệt mạng.
Còn cọp đứng dưới ngó lên lườm lườm, quyết nhảy chụp Hửu-Thoại mà nhai xương, bèn túm bốn cẵng lại phóng mình nhảy lên.
Hửu-Thoại liền trớ qua lẹ làn, rồi chuyển hết thần lực bình sanh, tay hửu đánh cọp ấy một búa trúng ngang bàng tang, còn tay tả huơi gươm thích ngang yết hầu một mũi rất mạnh, cọp ấy rống lên một tiếng dội cã và rừng, rồi nhào lăng xuống đất cái thịch, Hửu-Thoại nhãy xuống tiếp thêm một búa chính giửa kháp sanh, cọp ấy dảy dảy ít cái rồi chết liền, không còn cục cựa chi hết.
Trần-xuân-Trạch với Cao-phước-Trí nảy giờ cự với con cop bạc lông, cọp nầy tuy già mà sức còn mạnh lắm, cự với hai người ấy một cách rất hung hăng, lúc tràn qua, khi nhảy lại, lúc xốc tới khi nhãy lui, cọp thì gầm rống hự hẹ om sòm, người thì nộ nạt hét la in õi, như một trận giặc cọp hổn chiến với người ta, xem rất oanh oanh liệt liệt.
Khi Trần-xuân-Trạch thích nhằm cọp ấy một gươm trên mặt, thì cọp liền hộc lên vang rừng, và đập đuôi quức Trần-xuân-Trạch một cái, rồi nhảy phóc vào rừg mà chạy.
Hai anh em thấy cọp ấy đã nhãy vào rừng, thì chạy giông lại đặng tiếp cùng Hữu-Thoại, nhưng khi chạy tới thì thấy Hữu-Thoại đả giết chết cọp vàng đó rồi, cã ba anh em liền mừng rở và lấy làm đắc ý, rồi day lại kiếm ba tên quân nhơn với ba con ngựa của mình, song chẳng thấy chi hết.
Ba anh em lấy làm lạ, lật đật chạy ra mé rừng kia kiếm coi, thấy sáu con ngựa cột dựa mé rừng, còn ba tên quân nhơn, đứng một bên cầm cương nắm khớp mà tay rung bây bẩy.
Quảng cáo
IFrame
Cài đặt chế độ riêng tư
Nguyển-hữu-Thoại với hai anh em chạy lại và hỏi rằng:
——Sao bây dắc ngựa đi đâu đàng nầy, làm cho tao kiếm cùng không thấy?
Một tên quân đứng lại bẩm rằng:
— Bẩm chủ tướng, khi ba chủ tướng đánh giặc, với cọp, bị cọp rống lên om sòm, nên mấy con ngựa nầy hoản kinh, rồi tuông nhau vụt chạy, chúng tôi gò cương trì lại, mà nó cũng nhãy ngược lôi đi, chừng hết nghe tiếng cọp gầm la, mới chịu dừng chơn đứng lại.
Thật là oai cọp rất dử dằn, hèn chi người ta cho nó là vua loài thú vật, anh em chúng tôi thấy nó chút nửa cũng phải đái són trong quần, còn mấy con ngựa thì đã hoãn vía kinh hồn, đến đỗi chạy thôi té cức.
Mấy anh em nghe nói đều tức cười, đó rồi dắc nhau trở lại chổ con cọp vàng bị thương mà chết đó.
Nguyễn-hửu-Thoại day lại nói với hai anh em kia rằng:
— Hổm rày anh em ta di đuờng rừng núi, đã chịu nhiều sự cực khổ đắng cay, thế thì ngày nay con cọp nay đến đây mà nạp thịt cho anh em ta đặng ăn chơi một bữa cho khoái khẩu, nói rồi, bão ba tên quân nhơn phân thây xẻ thịt con cọp ra, lấy hai khúc đùi, rồi đem lên một chổ thạch bàn gần đó, đốt lữa nướng trui mà ăn, và uống rượu cùng nhau thật là khoái khẫu.
Nguyễn-hửu-Thoại vừa ăn vừa nói với mấy anh em kia rằng:
Ở trong cái thế giới cạnh tranh nầy, bất luận là loại người hay là loại thú vật, hể mạnh thì ăn yếu, lớn thì hiếp nhỏ, giỏi thì được thắng, dở thì phải thua, ấy là một lẽ tự nhiên của hóa công tạo vật, nếu nó mạnh thì nó ăn thịt ta, còn ta mạnh thì ta ăn thịt nó, nói vừa dứt, bổng thấy một con bạch hổ trong bụi nhãy ra, hai mắt lườm lườm và chạy xốc lại, Nguyễn-hữu-Thoại và các anh em tức thì đứng dậy rút gươm, thì thấy con bạch hổ ấy nhãy lại cắn thây con cọp kia, tha tuốt vào rừng mà chạy, mấy anh em nhìn quã là con cọp đã gặp khi nãy, trên trán hảy còn mot vít máu đỏ lòm, thì hầm hầm muốn rược theo mà giết chết.
Nguyễn-hửu-Thoại cãn lại mà rằng:
— Ta xem con thú nầy là một con vật có tánh khôn ngoan, mà lại có tình biết thương nhau trong cơn tử sanh hoạn nạn, nó theo chúng ta đến dây, một là quyết báo oán trả thù, hai là tìm thây con bạn nó đặng tha về mà giấu, ấy là loại vật mà còn có tình nghỉa thương nhau, huống hồ loài người lẽ nào không bằng thú vật, vậy thì chúng ta chẳng nên rược theo hại nó làm chi. Các anh em nghe nói vậy, thì cũng cảm động lòng thương, rồi kéo nhau trở lại.
Khi ăn uống rồi các anh em đồng lên ngựa đi ngang qua một cái đèo núi rất cao, Nguyển-hửu-Thoại đương lúc xình xàng, ngừng ngựa đứng xem phong cảnh, ngó lên thay núi cao chớn chở, mây phủ là đà, thì xúc cãnh sanh tình, bèn ngâm chơi ít vận cho tiêu khiển, liền lấy gươm nhịp nhịp trên yên ngựa và ngâm một bài thi như vầy:
Nhạc suối ken ve giọng quyển huyền,
Đèo cao vọi vọi giống non tiên,
Sớm trưa đỏng đãnh mây giăng gọp,
Ngày tháng bơ vơ khách dựa triền,
Truông vắng cọp làm vua hổn-thế,
Rừng hoan khĩ múa gậy Tề-Thiên.
Ngàn mai đội liểu oanh ăn nói,
Thỏ thẻ chào ai mé thạch tuyền.
Trần-xuân-Trạch nghe Nguyễn-hửu-Thoại ngâm bài thi rất hay, mà nhứt là cặp luận, thì có ý vị thâm trầm hơn hết, bèn ngứa nghề nói với Cao-phước-Trí rằng:
Quảng cáo
IFrame
Cài đặt chế độ riêng tư
— Nguyển-huynh đả xúc cảnh sanh tình, mà ngâm thi giải muộn như vậy, còn hai anh em mình thuở nay không tập luyện nghề làm thi, nhưng chẳng lẻ cứ nhiêm nhiễm lặng thinh, thì xem rất một thú. Vậy đễ tôi cũng học đòi ngâm chơi cho giãi muộn trong lúc hành trình, nói rồi tằng hắn một tiếng cho thông đàm, và uốn miệng sửa mồm, ngước cổ nhướng hầu lên, lấy tay vổ bép bép trên
bấp vế rồi rống tiếng ngâm rằng:
Đéo hỏa đèo cao dử vậy cà,
Tuông bờ lước bụi đã trầy da,
Nhai khô uống rượu là thường sự,
Ăn cọp ngâm thi mới lạ mà,
Cao-phước-Trí thấy vậy cũng muốn bắt chước ngâm chơi, nhưng mà cái nghề cầm gươm múa giáo, thì thuở nay vốn đã quen tay, còn nghề vịnh cú ngâm thi, thì vẩn chưa từng biết.
Trần-xuân-Trạch day lại nói với Cao-phước-Trí rằng:
— Chú mầy ráng nghĩ một ít câu gì ngâm chơi cho rậm đám, người ta giỏi thì làm thi ông thi bà, anh em mình dở thì làm thi con thi cháu, hay dở gì thây kệ, miễng có ngâm cho vui thì thôi.
Cao-phước-Trí nghe nói bèn ngẫm nghĩ một hồi, mà nghĩ không ra, bỗng đâu có một con chồn cáo vằng, thình lình trong bụi nhảy ra, ngồi dựa bên đường, anh ta ngó châm chĩ một hồi, rồi vổ tay bốp bốp mà nói rằng: được rồi, được rồi.
Nguyễn-Hữu-Thoại day lại hỏi rằng: Cao-hiền-dệ nói gì mà được rồi được rồi?
— Thưa hiền-huynh, tôi nghĩ một bài thi được rồi, để tôi ngâm cho hai anh nghe thử, nói rồi nhướng cổ hã miệng lấy hơi, và trợn mắt rùn vai, rống lên cái giọng ồ-ề như giọng ngổng đực mà ngâm rằng:
Con chi kỳ lạ giống con mèo,
Bộ mặt vùng vằn tợ mặt beo,
Nếu chẳng phải chồn thì loại khĩ,
Ũa, mà coi lại thật con cheo.
Ai nấy nghe rồi đều vổ tay bốp bốp mà cười rộ lên trong đường rừng om sòm, còn Cao-phước-Trí ngâm được thi rồi thì lấy làm đắc ý.
HỒI THỨ HAI MƯƠI HAI
Ghé phật tháp anh em ký túc,
Gặp tiền cừu trộm cướp hành hung.
Khi mấy anh em Nguyển-Hửu-Thoại qua khõi Đèo Ô-lặc một đổi, thì mặt trời đã vừa khuất núi, bỗng thấy phía trước có một cái quán nhõ, dựa đường.
Nguyển-Hửu-Thoại day lại nói với mấy anh em rằng:
— Trời đã gần tối, vậy chúng ta phải vào quán nầy cơm nước và kiếm chổ nghĩ đỡ một đêm, rồi sáng mai sẽ đi cho sớm, vì đường này nhiều chổ non cao truông vắng, rừng bụi quạnh hi, chúng ta chẵng nên trổi buớc trong lúc ban đêm, e gặp loài độc trùng ác thú, nói rồi các anh em liền dắt nhau vào quán, trong quán chẵng thấy chi la, chĩ có ít đùi thịt rừng, và ít ve rượu trắng, kế thấy một người đàn bà Cao-man phía sau bước ra, bộ tướng dình dàng, tay chơn kịch cợm, tóc hớt cụt cụt, nước da ngâm ngâm, môi trớt đầu quăng, cặp mắt có huầng như hai cái khoen, hai vú nhẩy lên vun xũn, mặt mày hung ác, mũi rộng răng hô, xem như một quĩ dạ xa, ở đâu hiện đến, rồi bước tới rão mắt ngó hết mấy người châm châm, và nói chi láp giáp không hiểu.
Cao-phước-Trí bèn bước lại dùng tiếng Caoman mà hỏi rằng: ở đây có bán đồ gì ăn không?
Người đàn bà cười và nói, ở đây là chổ núi non rừng bụi, không có chi lạ, chĩ có thịt nai thịt chồn, cái nướng cái kho, thứ thì phơi khô, thứ thì xẽ mấm, ngon lắm, mấy ông muốn ăn thứ nào thì tôi dọn ra cho các ông dùng đở.
Cao-phước-Trí bảo dọn ra ít món thữ coi, và đem rượu ra uống.
Người đàn bà ấy lật đật bão hai đứa ở, xúm lại phụ sự, rồi dọn ra một mâm đồ ăn.
Nguyễn-hửu-Thoại với mấy anh em ngồi lại nơi ghế, bão quân lấy lạp-xưởng thịt-khô của mình đem theo phụ vô, rồi cả thảy ba anh em với ba tên quân nhơn, đều ngồi lại ăn uống một lược.
Nguyễn-hửu-Thoại bảo Cao-phước-Trí hỏi người đàn bà chủ quán, có chổ nà nghĩ ngơi chăng?
Cao-phước-Tri liền kêu chủ quán lại hỏi rằng:
— Ở đây có chỗ nào rộng rãi, để cho anh em chúng ta nghĩ đở một đêm, rồi tính tiền bao nhiêu chúng ta sẽ trã.
Người đàn bà ấy nói:
— Ở quán đây chật hẹp lắm, không có chổ nghỉ, nhưng phía trong đây có một cái chùa tháp rộng rãi, nếu mấy ông muốn nghỉ thì vào dó nghĩ đở một đêm, không cần tiền bạc chi hết.
Cao-phước-Trí hõi:
— Chùa ấy có ai ở đó đông không?
Người đàn bà nói:
— Không có ai đông, chĩ có một ông già cất chòi ở sau tháp đó mà thôi, cho không ai nữa hết.
Nguyển-hửu-Thoại day lại hõi rằng:
— Tháp ấy người ta mới tạo lập ra đây, hay là có tự lập thuở nay?
Người đàn bà nói:
— Tháp ấy có hồi nào tôi không biết được, song mấy năm trước bỏ hoang, không ai ở hết, mới hai năm nay tôi cho ông già ấy vô ỡ, sửa soạn sạch sẽ, mấy ông cơm nước xong rồi, tôi sẻ dắt vào coi thử.
Trần-xuân-Trạch hõi:
— Còn thiếm ở đây một mình, hay là có chồng con chi không?
Người đàn bà nói:
— Tôi có chồng, mà chồng tôi mắc vào rừng đốn củi chưa về, nói rồi hối trẻ đem nước cho mấy ông uống.
Khi mấy anh em ăn uống rồi, người đàn bà liền dắt vào tháp, thì thấy tháp ở giữa gò cao, chung quanh có mấy cây đại thọ, tàng de lá rậm, đá liển tường xây, thật là một chỗ cổ tích thâm niên, chẳng biết đời nào sáng tao, dưới thềm trên nóc, ngổn ngang cỏ mọc bìm leo, trước ngỏ quanh tường, lờ mờ rêu phong bụi đóng, còn bốn phía nền toàn làm bằng đá, cao lên khỏi đầu, và hai bên thềm đều có thạch trụ lang cang, tuy là bị gió tạc mua xoi, tường hư đá lở, nhưng mà một tòa đống võ qui mô, xem ra cũng còn nguy nga đồ sộ.
Người đàn bà ấy dắt mấy người lên thềm, rồi bước vô mở cửa, Nguyễn-hửu-Thoại và các anh em đều bước theo, thì thấy chính giửa có một phậ tượng bằng đá, ngồi trên một thạch bàn, dưới thạch bàn ấy có xây một cửa nguyệt cung nho nhỏ, cao chừng ba thuớc, còn chung quanh bốn phía thì rộng rãi trống trơn, không có bàn ghế chi hết, trên mặt nền đều có lót gạch, nhuw gạch da qui, và dọn dẹp quét tước sạch sẽ.
Người đàn bà ấy hối trẻ lấy chiếu trải trên gạch, rồi day lại cười và nói rằng:
Ỡ đây không có ván giường chi hết, mấy ông chịu phiền nằm trên chiếu nghĩ đở một đêm.
Nguyển-hửu-Thoại thấy trong tháp sạch sẻ, tuy không có giường ván, phòng buồng, song phía trước phía sau đều cò cữa nẽo chắc chắn, thì nói với người đàn bà ấy rằng:
Cám ơn thím, không cần ván giường, chúng tôi nghĩ đở dưới gạch một đêm cũng được, nói rồi bảo quân nhơn đem đồ hành lý vô trong, còn mấy con ngựa thì cột nơi mấy cây đại thọ trước tháp, và bão mấy tên quân nhơn thay phiên mà canh giử, còn Nguyển-hửu-Thoại với hai anh em đóng cửa trước cửa sau chắc chắn rồi nghĩ.
Nằm một lát đã nghe Trần-xuân-Trạch và Cao-phước-Trí hai người ngủ ngáy pho pho, mot lát lại nghe Cao-phước-Trí ngủ mớ và la cọp cọp om sòm, rồi lại nghiến răng trèo trẹo.
Nguyển-hửu-Thoại ngủ không đặng, phần lo đêm khuya tâm tối, phần sợ ba tên quân nhơn ở trước không biết có thức mà canh giử mấy con ngựa không, trong lòng mảng hồ nghi lo sợ như vậy, mà không hề ngủ đặng, kế nghe con ngựa ở trước dậm cẳng hầm hừ.
Nguyển-hữu-Thoại liền kêu Trần-xuân-Trạch và Cao-phước-Trí dậy, rồi cùng nhau lén lén mở cữa ra xem, núp dựa vách tường ngó ra, thì trời tối như mực, mấy anh em rình coi một hồi rất lâu, nhưng không thấy chi hết.
Nguyển-hữu-Thoại liền sẻ lén bước lại chỗ tên quân canh, đặng coi hắn thức hay ngũ.
Tên quân canh day qua thấy một bóng đen đi tới, liền rút gươm nhãy ra muốn đâm.
Nguyễn-hữu-Thoại liền thối lui lại, lấy tay khoát khoát và nói nhỏ nhỏ với tên ấy rằng:
Tao đây, tao đây, không phải quân cướp đâu.
Tên quân coi lại, thấy chũ tướng là Nguyển-hửu-Thoại, thì hỏi rằng:
— Bẩm chủ tuớng đi đâu đây?
Nguyển-hửu-Thoại lại hỏi rằng:
— Nãy giờ mầy có thấy chi không?
— Bẩm chủ tướng nảy giờ tôi ngồi canh đây, không thấy chi lạ.
— Nãy giờ mầy thức hay ngủ?
— Bẩm chủ tướng hôm giờ tôi thức luôn luôn, nếu tôi ngũ thì khi chủ tướng bước lại, tôi thấy đâu mà nhảy ra…
Nguyển-hửu-Thoại vổ vai tên quân ấy một cái và nói rằng: như vậy cũng được đa, nhưng mi phải biết rằng: thức mà canh trong lúc đêm khuya, thì chẳng nên ngồi im một chỗ, vì nếu mi ngồi im một chổ, thì mi không thấy đặng chổ nọ chỗ kia, mà con ma ngũ lại áp tới rù quến mi, và vuốt hai mi con mắt mi sập xuống, chừng ấy thì mi ngồi như một cái bù nhìn, mà không thấy chi hết, nói rồi Nguyễn hửu-Thoại bảo tên quân ấy lại kêu hai đứa quân kia thức dậy.
Tên quân ấy thưa vâng, rồi bước lại kêu nhõ nhõ.
Song hai tên kia ngũ đả mê mang, không nghe chi cã.
Tên quân ấy liền lấy tay đánh trên mặt một cái, tên quân kia đương ngũ hồn bất phụ thể không biết là ai, bèn giang tay thoi đùa, chẳng dè thoi nhằm mặt tên quân đương ngũ một bên, tên nầy dựt mình tưởng là ai đánh, liền co giò đạp tên ấy một đạp rất mạnh, rồi cã hai đều thức dậy, ngó lên thấy Nguyễn-hửu-Thoại đứng đó, thì lật đật xá lia, và nói rằng:
— Bẩm chủ tướng có việc chi cần dùng tới hai con, hai con ngũ quên, không dè có chủ tuởng đến.
Nguyễn-hữu-Thoại bước lại dặn nhỏ rằng:
— Ba đứa bây phải thức coi chừng mấy con ngựa, và đồ hành lý, đặng ba anh em tao đi ra ngoài kia một chút rồi trở lại liền, và day lại nói với hai anh em kia rằng: chúng ta phãi đi do thám con chũ quán một chút mới đặng.
Ba tên quân ấy vâng lịnh, rồi mỗi đứa lại đứng một góc mà canh.
Lúc bấy giờ Nguyễn-hửu-Thoai với Trần-xuân-Trạch và Cao-phước-Trí liền sẻ lén bước ra khỏi tháp, rồi ẩn theo mấy bóng tối mà đi, kẻ ngó trước người ngó sau, coi chừng hai bên bụi bờ, cách rất đề phòng cần thận, khi ba anh em ra tới cái quán của người đàn bà, thấy trong quán có một ánh đèn leo lét lòn theo kẹt cửa dọi ra, lại nghe tiếng nói lào xào rầm rỉ trong quán.
Nguyển-hửu-Thoại bảo Trần-xuân-Trạch đứng núp nơi gốc cây coi chừng, rồi đi với Cao-phước-Trí ẩn theo bóng tối, lần tới kẹt cữa, ghé mắt dòm vô, thấy người đàn bà chủ quán ngồi một bên, còn bên nây hai người đàn ông, bộ tướng vậm vở, một người mặc áo xanh cụt, vận chăn vén lên chi gối. một người mình trần, trên vai có nịt một cái băng, vải đen, vấn ra tới ngoài cánh chỏ, và thấy mấy lằng đen đen, chãy xuống chung quanh cái băng như hình vít máu, kế thấy người đàn bà day lại ngó tên ấy và hỏi rằng:
Còn mình làm sao mà nịt trên vai đó vậy?
Tên ấy nheo mày mà đáp rằng:
— Mày đừng hỏi, may không chút nửa tao củng phải chết mất bên mé rừng kia rồi, khi tao muốn cởi ngựa vào rừng, thì bị nó bắn tao một mũi trúng vai, tao nhắm thế không xong, liền bỏ ngựa nhãy xuống, chun tuốt vào rừng mà trốn, rồi bọn nó chạy lai giết chết thằng Nặc-Thôm, và rược theo anh Sốc-cà-Mung nầy mà bắt ngựa nó lại.
Người đàn bà nghe nói liền ngó qua người mặc áo xanh cụt là Sốc-cà-Mung mà hỏi rằng:
— Còn anh Sốc-cà-Mung, anh làm sao mà thoát khỏi bọn nó?
Tên mặc áo xanh day lại nói rằng:
— Thật quân An-Nam nó dử quá, khi chúng nó rược theo bắn tôi, thi tôi bỏ ngựa mau chơn nhãy phức xuống bụi mà trốn, chẳng dè bon nó theo kiếm, tôi bèn leo phức trên cây, chúng nó leo theo bắt tôi, tôi liền chuyền qua cây kia rồi nhãy xuống hầm đá, chun tuốt vô bang, núp đó chờ nó xuống, sẻ đâm nó một dao đặng cáp-duồng[1] cho rãnh, nhưng bọn nó không xuống, rồi dắt ngựa trở về, nên tôi mới thoát về đây được.
Cao-phước-Trí với Nguyển-hửu-Thoại đứng ngoài cữa nghe chúng nó nói vậy, thì biết là bọn cướp ngựa hôm qua, và chổ nầy chắc là chỗ nhà cửa vợ con chi của nó.
Kế nghe người đàn bà hỏi rằng:
— Bọn nó đông lắm sao mà mấy anh đánh không lại?
— Bọn nó không đông, chỉ có sáu người với sáu con ngựa mà thôi, nhưng nó có vỏ nghệ, và có súng, nên đánh nó không lại.
Người đàn bà nghe nói thì vội vã đứng dậy hỏi rằng:
— Mà bọn nó là người nước nào?
Tên mặc áo xanh nói:
— Bọn nó toàn là người An-Nam hết cả, mà trong đó có ba người bộ tướng như người quan, còn ba tên kia là người quân lính chi đó.
Người đàn bà nghe nói, coi bộ hơ hải và nói rằng:
— Nếu vậy thì là bọn An-Nam ở trong chùa tháp đây chăng? Hai tên kia liền trợn mắt nheo mày ngó người đàn bà ấy chăm chĩ và hỏi rằng:
— Bọn Annam nào ở trong chùa tháp?
— Bọn nầy cũng sáu người cởi sáu con ngựa, và nói đi qua Xiêm, mới ghé quán ăn uống hồi tối nầy, bây giờ đương ở trong tháp.
Hai người kia nghe nói, liền đứng dậy ra bộ chẩm hẩm và nói rằng:
— Nếu vậy thì chúng nó đã vào chỗ hỗ huyệt cũa chúng ta rồi đấy, vậy chúng ta đêm nay quyết giết bọn nó cho được mà báo thù cho thằng Nặc-Thôm.
— Anh muốn báo thù chúng nó sao?
— Dịp nầy không báo thù còn đợi chừng nào?
Người dàn bà ấy nói: vậy thì anh và mình phải đi kêu mấy người kia cho đông, rồi sẻ khởi sự, chớ tôi coi bọn nó giỏi lắm, nếu làm không được việc thì mang hại chớ chẳng chơi đâu.
Hai tên kia gặc đầu và nói rằng:
— Đừng lo, để ta kêu mấy anh em kia phụ lực cùng ta, đặng cáp duồng chúng nó một trận thì xong việc, còn mầy ở nhà phải sắp sữa dao mát sẳn sàng, hai đứa tao đi một chút rồi trở lại, rồi cùng nhau vào tháp mà giết nó.
Cao-phước-Trí đứng ngoài nghe chúng nó bàn soạn như vậy, thì day lại kê miệng vào tai nói nhỏ với Nguyển-hửu-Thoại rằng:
Phải nó rồi, phải nó rồi, mấy thằng nầy là bọn cướp ngựa của mình hôm qua.
Nguyển-hửu-Thoại nghe rồi lấy tay khoát khoát bảo đừng nói đừng nói, rồi hai người sẻ lén bước ra và tức tốc trở về chùa tháp.
Khi về tới tháp, Nguyển-hữu-Thoại kêu ba tên quân nhơn và bảo rằng:
— Chúng bay phải sẻ lén, đem sáu con ngựa vô giấu trong rừng gần đây, rồi ở đó mà giữ đừng cho ai biết, chừng nào nghe tao kêu thì chúng bây sẻ ra tiếp ứng.
Ba tên quân vâng lịnh, liền dắt ngựa lén lén vào rừng, còn Nguyển-hửu-Thoại với hai anh em kia đều vào trong tháp, đóng chặc cữa lại và nói rằng:
Quân cường-đạo ấy đêm nay chắc kéo đến đông, quyết giết chúng ta mà báo thù, vậy chúng ta phải đóng cữa tháp lại cho chắc, rồi ở trong thủ thế, nếu chúng nó tới sao cũng phá cửa xông vô, chừng đó chúng ta núp phía trong cửa mà giết nó mới tiện, nếu ra ngoài cự địch với nó thì e chúng nó đông, còn chúng ta thì ít, lại sợ một nỗi nó ẫn núp theo chỗ tối tâm mà hại mình, chi bằng ba anh em ta muợn thế cái tháp nầy làm chỗ cứ hiểm, chờ chúng nó xông vào, sẻ giết nó một trận cho dữ, nói rồi ba anh em sữa soạn súng ống gươm giáo sẳn sàng, chờ quân cướp tới mà cự chiến.
Ba anh em núp trong tháp, đợi một hồi rất lâu, nhưng không thấy tâm dạng chi hết.
Trần-xuân-Trạch bước lại nói nhỏ với Nguyển-Hửu-Thoại rằng:
— Chắc là chúng nó không tới, nãy giờ đã lâu, mà sao chưa thấy chi hết.
Nguyển-Hửu-Thoại nói: chúng nó chắc còn vầy đoàn hiệp lũ, tụ tập cho đông, rồi sẽ kéo tới, thế nào bọn nó cũng quyết giết chúng ta, nội một đêm nay, chúng ta chẳng nên ơ hờ mà mang hại, đó rồi ba anh em mỗi người đứng núp một góc mà coi chừng, và lóng tai đặng nghe động tịnh.
Canh khuya đêm vắng, lặng lẻ ba bề, rừng rậm cây cao, tối đen bốn mặt, khi nghe dơi bay rẹt rẹt, lúc nghe lá đổ lào xào, kế nghe một tiếng chim ục kêu lên nơi phía rừng sau, bỗng nghe một tiếng ục khác đáp lại nơi phía rừng trước.
Nguyển-Hữu-Thoại liền buớc lại kêu Trần-xuân-Trạch và Cao-phước-Trí mà nói nhõ rằng:
Hai anh em có nghe tiếng chi kêu đó chăng?
Cao-phước-Tri nói: chim ục nó kêu ngoài rừng, chớ có tiếng chi đâu lạ.
Nguyển-hửu-Thoại nói:
— Tiếng chim ục kêu đó là hiệu của quân cường đạo, kêu nhau trong rừng, chớ chẵng phải chim thiệt. chắc một chút đây chúng se tới, chú mầy phải dòm theo mấy lổ vách mà coi chừng, còn tôi thì coi chừng phía trước.
Hai người liền gặt đầu, rồi mỗi người lại đứng một góc, ngó chừng quân cướp.
Mấy anh em rình coi một hồi rất lâu, nhưng không thấy chi hết, kế thấy một ánh sáng nhán qua trên mấy bụi cây, và xẹt qua trước tháp một cái rồi mất, còn bốn phía lặng lẽ yêm liềm, không nghe không thấy chi nửa.
Giây lâu, Nguyển-Hửu-Thoại nghe khua một cái như tiếng đá tiếng gạch đụng nhau, liền bước lại kêu Trần-xuân-Trạch và nói: chú mầy có nghe tiếng gì mới khua đâu đó không? hay là nó lén cạy vách tường chăng?
Trần-xuân-Trạch nói: Phải đa, tôi cũng có nghe khua một tiếng như tiếng đá miễn, mà không biết ở đâu.
Lúc bấy giờ anh em ai nấy đứng rình đã mõi mê, và đêm đã khuya lắm, mà không thấy tin tức quân cường-đạo ở đâu, mấy anh em bèn lại ngồi xuống chiếu đặng nghĩ một chút.
Thình lình bổng nghe một cái ầm rất to, vang dội cả tháp.
Ba anh em liền lật đật đứng dậy, kế thấy một ánh sáng lòa ở dưới tuợng phật dọi lên, làm cho cã tháp đều sáng.
Ba anh em đều rút gươm rồi nhảy lại núp một bên mấy cây cột tháp để coi, thì thấy dưới thạch bàn ở chổ tượng phật, ló lên hai ngọn đèn như ngọn đèn chai và rần-rần nhảy vọt lên hơn mười mấy tên cường đạo, mổi thằng đều vận một cái khố vằng sát da, đầu trọc, mình trần, và có một người đàn bà là người chủ quán khi nãy, cả thảy đều cầm dao xách mát, bộ mặt hầm hầm, chạy tới rần rần, kiếm ba anh em Nguyển-Hửu-Thoại mà giết.
Trong lúc nguy cấp ấy, không kịp rường súng mà bắn, ba anh em liền huơi gươm đánh nhầu vớ chúng nó một trận rất dử, bao nhiêu dao mát chúng nó chém tới, Nguyển-Hửu-Thoại đều gạt ra, tiếng gươm dao đụng nhau nghe kêu ken kẽn, còn Trần-xuân-Trạch và Cao-phước-Trí cũng xốc tới chém sã quân cuờng đạo một hồi. Ba anh em tràn qua, nhảy lại, xốc tới, chạy lui, bộ tịch rất lẹ làn hung hăng như ba con mảnh hổ.
Đánh một hồi, quân cường đạo đứa thì bị đâm nhào xuống, đứa thì bị chém ngã lăng, rồi rùng rùng kéo nhau chun vào lổ dưới thạch bàn mà chạy hết.
Trong lúc bất cập, người đàn bà cường dạo nầy mới vừa lại lổ ấy, đặng chun xuống mà trốn theo lũ kia, thì Cao-phước-Trí đã nhảy lại, ôm ngang eo ếch, vật xuống một cái té nhào, người đàn bà ấy hai tay xô Cao-phước-Trí ra rất mạnh rồi chờn vờn chổi dậy, nhưng mới vừa chổi dậy thì Cao-phước Trí nhảy lại đè lên, người đàn bà nầy lửa giận phừng gan, liền hả miệng nhăn răng, như một con cọp cái hung hăng, day lại cắn ngang bắp tay Cao-phước-Trí một cái. Cao-phước-Trí liền dục tay ra, rồi nhảy ngồi trên bụng người đàn bà ấy và hai chơn thúc vô hai bên hông, kẹp lại chặc cứng, còn hai tay thì nắm hai cánh tay của con ác phụ mà đè xuống.
Người đàn bà cường đạo nầy bị Cao-phước-Trí đè một hồi mệt quá, không còn vùng vẩy gì đặng, lúc bấy giờ chĩ có nằm dưới, trợn mắt nghiến răng la hét om sòm, thuở nghe è ạch, còn Cao-phước-Trí ngồi trên, bậm môi gầm mặt, chơn thúc tay kềm, xem như một con cọp đực với một con cọp cái dành ăn, hầm hừ dử tợn, Cao-phước-Trí ngồi trên bụng đắc thế, sẳn trớn nhún xuống một cái rất mạnh, con mẹ nọ la lên một tiếng rồi chổng đích ngóc đầu, muốn lật Cao-phước-Trí xuống đất, anh ta rất lẹ liền rút cây đoãn đao bên lưng ra và lấy sợi dây trong túi, rồi nghiêm sắc mặt mà nói lớn rằng:
Mi hảy nằm yên, đưa hai tay lên cho ta trói, nếu mi còn vùng vẫy chống cự, thì ta cho mi một mũi đao vào yết hầu, chừng ấy mi đừng oán trách, nói rồi lấy cây đoãn đao, kê ngay nơi cô, và mắt ngó lườm lườm vào mặt con ác phụ mà bão cách oai thế rằng: mi hảy đưa tay ra cho mau đi, không thì, ta khai đao mi lập tức.
Con đàn bà nầy thấy Cao-phước-Trí mạnh mẽ phi thường, không thế gì chống nổi, liền ríu ríu đưa tay.
Cao-phước-Trí tức thì lấy dây trói lại, và bão đứng dậy rồi nói rằng:
Mi muốn tánh mạng mi còn, thi mi phải ở đây cho tới khi chúng ta đi khõi tháp nầy, rồi ta sẽ tha mi, mà nếu mi để cho mấy thằng cường-đạo kia còn kiếm chước ám hại chúng ta, hay là còn làm đều chi cướp đoạt của ta, thì ta sẽ rẳng đầu mi trước, rồi sẽ giết cã bọn mi không chừa một đứa.
Trong khi Cao-phước-Trí đánh vật với con đàn bà cường đạo này, thì Nguyển-hửu-Thoại bão Trần-xuân-Trạch lại đứng giử chổ miệng hầm, còn Hửu-Thoại xách súng ra mở cửa sau, đặng coi quân cường-đạo chạy ra chổ nào, nhưng không thấy chi hết.
Nguyễn-hửu-Thoại liền day mặt qua phía rừng, chổ mấy tên quân giử ngựa, rồi bụm tay nơi miệng, kêu lớn một tiếng, tức thì mấy tên quân, mổi đứa tay cầm trường thương, cởi ngựa rần rần chạy tới như giông.
Nguyễn-hửu-Thoại bèn nhảy lên ngựa mình, rồi dắt mấy đứa quân nhơn chạy một vòng chung quanh tháp ấy, đặng kiếm coi quân cường đạo đi đâu, nhưng kiếm cùng mà không thấy chi hết.
Nguyễn-hửu-Thoại liền dắt quân trở lại cữa sau buớc vô, thấy Cao-phước-Trí và Trần-xuân-Trạch còn đứng giử lom lom một bên miệng hầm, phía dưới bàn phật, và thấy con đàn bà cường-dạo đã bị trói lại, cũng đứng một bên, thì trợn mắt ngó con đàn bà một cách nghiêm nghị và hỏi rằng:
Mi hảy nói cho ta biết, tên đầu đãng bọn cướp nầy là thằng nào, và ở đâu?
Con mẹ nầy nghe hỏi thì đáp rằng:
— Chánh đãng cướp nầy là chồng cũa tôi, là người bị bắn trúng vai hôm qua, còn tôi đây là phó-đãng.
Cao-phuớc-Trí làm thông ngôn nói lại, Nguyển-hửu-Thoại nghe rồi gặt dầu và hỏi tiếp rằng:
— Bây giờ chồng mi và mấy thằng cường đạo còn tàng ẩn ở dưới hầm nầy phải không? mi hảy nói ngay, bằng không, thì ta giết mi tức tốc.
Con đàn bà nầy liếc cập mắt độc ác ngó Hửu-Thoại một cái rồi nói rằng:
— Chúng nó đã đi rồi, không còn ở dưới.
Nguyển-hửu-Thoại hỏi:
— Chúng nó đi ngả nào, sao ta không thấy? hõi vừa dứt, bổng thấy một hình quái gở, ở dưới lổ hầm ló lên, nhờ có ánh sáng một ngọn đèn chai của bọn cường đạo bỏ lại còn cháy lờ mờ, nên thấy cái hình ấy hiện lên một đống đen thui, cao lớn sầm sầm, không đầu, không tay, không mặt không mũi chi hết.
Nguyển-hửu-Thoại vừa rút guơm ra, thì Trần-xuân-Trạch đã nhảy lại đâm hình ấy một gươm, nghe kêu cái bịch, nhưng hình ấy chĩ đứng trơ trơ, Cao-phước-Trí thấy vậy cũng nhãy lại huơi gươm muốn đâm, kế con đàn bà ấy la lên và nói:
— Dục-căng-Then, mi hảy đi đi, nếu mi còn léo hánh đến đây, thì ta phải bị chúng nó giết chết, Dục-căng-Then mi hảy đi đi cho mau, và đừng sanh sự gì nữa, mà ta phải chết bây giờ, con đàn bà nói rồi, thì hình ấy liền nhảy xuống hầm một cái rồi mất.
Nguyển-hửu-Thoại day lại ngó con đàn bà ấy lườm lườm và nói rằng:
— Bọn nó còn đó sao mi dám dối ta?
Con đàn bà cường đạo ấy nói:
— Người đó là chồng tôi, nó không thấy tôi nên phải mặc lốt da voi trở lên kiếm tôi, tôi đả nói cho nó biết rồi, bây giờ nó không dám làm sự chi hãm hại mấy ông nữa hết.
Nguyễn-hửu-Thoại hõi:
— Còn cái hầm dưới tháp nầy trỗ ngách ra đâu?
Con đàn bà nói:
— Cái hầm ấy có một đường hang đi dưới đất, trỗ ra ngoài rừng, còn một đường trỗ ra phía sau nền tháp.
Nguyển-hữu-Thoại nghe rồi kêu Cao-phước-Trí bảo rằng:
— Cao hiền-đệ phải giử con nầy cho kỷ, để cầm nó đó mà hâm dọa bọn cường đạo kia, đặng bọn nó không dám sanh sự hại mình, chừng nào ra khõi chỗ hỗ huyệt nầy rồi, chúng ta sẻ phóng sanh con ác phụ ấy mới được.
Nói rồi, thấy trời đã gần sáng, Nguyển-hửu-Thoại liền bão mấy đứa quân nhơn sắp sữa hành lý, và bảo Cao-phước-Trí dắc con đàn bà cường đạo nầy theo, còn mấy tên quân cầm gươm đi cập hai bên, rồi các anh em đồng lên ngựa kéo nhau ra đi, thì trời đả sáng trắng.
Kế thấy trong rừng hai ba người cầm dao xách mát lấp ló đi theo, người đàn bà ấy thấy thì kêu và nói:
Dục căng-Then, ta bão mi đi đi, đừng sanh sự mà ta phãi bị chúng nó giết chết, mấy tên kia nghe nói liền lần lần đi mất.
Khi ra khỏi tháp một đổi xa xa, Nguyễn-hữu-Thoại thấy không có việc chi xãy đến, bèn day lại nói với Cao-phước-Trí rằng:
Chúng ta bây giờ đã ra khỏi chổ hiểm nguy cường đạo ấy rồi, vậy thì chúng ta tha con đàn bà nầy về cho rãnh, đặng lo giục ngựa buông cương, nếu để diêng trì ngày giờ, thì biết chừng nào chúng ta mới qua tới nuớc Xiêm mà xin binh cứu viện.
Trần-xuân-Trạch nói:
— Thôi, chúng ta giết phức con ác phụ nầy đi, cho bớt một quân cường đạo, để nó làm gì mà báo hại thiên hạ.
Nguyển-hửu-Thoại nói:
— Chúng ta là một bọn tu mi nam-tử, hào hiệp trượng-phu, sá gì một con đàn bà quần vận yếm mang, mà ta không lấy lượng hải hà, dung thứ cho nó, vả lại chúng ta đã hứa với nó rằng: nếu quân cường đạo không sanh sự nghịch thù cùng ta nữa, thì chúng ta sẽ tha nó. Vậy thì chúng ta chẳng nên thất ngôn, nói rồi liền bảo quân mở trói thả đi.
Đó rồi các anh em với ba tên quân nhơn, dơ roi giục ngựa, dậm quang sang, bương bả bước anh hùng; giải nắng dầm sương, cuơng tuấn mả, thẵng xông đường hiểm trở. Còn con đàn bà ấy nhờ Nguyển-hữu-Thoại thả ra thì lật đật trở về, bổng gặp một bọn cường đạo trong rừng nhảy ra, đón rước mừng rở một hồi, rồi kéo nhau đi mất.
Chú thích
▲Cáp duồng là giết người Annam, tiếng Caoman kêu là Cáp duồng.
HỒI THỨ HAI MƯƠI BA
Tướng Tây-sơn đem binh cãn lộ,
Nguyễn-hửu-Thoại rủi bước mang tai.
Đây nói qua chuyện một quan Caoman trấn tại địa phận gần núi Tà-lơn, nghe tin báo rằng: bọn Nguyển-hữu-Thoại băng theo đường rừng đi qua Xiêm-quốc, thì muốn kiếm thế lập công với giặc Tây-sơn, liền sai người thông tin cho quan Tây-sơn ở tại Nam-vang (Pnompenh) hay mà nói rằng:
Quảng cáo
IFrame
Cài đặt chế độ riêng tư
— « Nguyển-hửu-Thoại là tướng của Nguyển-Ánh, khi trước có đem binh lên Caoman mà kháng cự cùng binh Xiêm, rồi giao hòa cùng tướng Xiêm là Chất-Tri, nên bây giờ qua Xiêm đặng xin binh cứu viện. »
Quan Tây-sơn là Huỳnh-công-Thiệu liền hạ lịnh sai một tướng lên hiệp với quân Caoman, tại địa phận Tà-Lơn, rồi đem quân theo đường qua Xiêm, đặng truy tầm Nguyển-hửu-Thoại mà nả-tróc.
Lúc bấy giờ anh em Nguyển-hửu-Thoại, chỉ lo giục ngựa buông cương, nhắm đường qua Thành-đô Vọng-các thẵng tới, ban ngày thì băng rừng lước buội, xuống trãng lên đèo, giải nắng dầm mưa mà đi, chẳng biết bao nhiêu là thiên lao vạn khổ, ban đêm thì kiếm mấy chổ gò cao đồng rộng, hoặc mấy nơi sơn-tự thạch-bàn, đặng mà đình trú nghĩ ngơi, chớ chẳng dám lân la với xóm làng của quân Caoman cho lắm, thật là cái thân xung nguy mạo hiểm, bề ngoài đã cực khổ chẳng biết bao nhiêu, lại còn bề trong thì đeo mang một tấm lòng ái-quốc ưu-quân, ngày như đêm, năm như tháng, những mãng xăn xăn xít xít trong trí khôn, không có cơn nào ngớt được. Thật là:
Ngổn ngang trăm mối tơ vò,
Nổi thương vì nước nỗi lo dậm trường.
Từ khi các anh em Nguyển-hửu-Thoại phụng mạng Nguyển-Vương, lảnh cái trách nhậm rất nặng nề, rất ngay hiềm nầy, mà sang qua Xiêm-quốc, đi chưa đặng hai phần đường, mà đã gặp nhiều cảnh ngộ rất dử dằn, rất gian nan khổ sở, lại nhiều khi phải đói cơm khát nước, bõ ngủ quên ăn, nhưng một cái khí phách anh hùng với cái tinh thần nghị lực, cũng cứ chắc như đá, vững như đồng, không bao giờ để cho nguôi lòng rủng chí, dẫu mà hi-sanh tánh mạng, cũng đành dạ cam lòng, miển là lo gánh vát cái trách-nhậm, mỗi người cho hoàn toàn, đó là một phận sự đối với nước nhà, đối với vua chúa.
Nguyển-hửu-Thoại vừa đi vừa nghĩ, chẳng biết lúc bấy giờ đức Nguyển-Vương chạy ra cù lao Phú-quốc có được bình yên vô sự chăng? thật là quang hà cách trở, tôi chúa lạc lài, muôn dậm hồn quê, vơi vơi cố quốc, rồi nhớ tới vợ là công chúa Ngọc-Duệ trấn thủ đồn Bình Hóa tại Biên-hòa, chẳng biết lành dử thế nào trong lúc chiến tranh ly loạn? thế thì công chúa ở nhà cũng ngày đêm trông đợi, mỏi mắt phương trời, thơ Nhạn tin Hồng, biết ai nhắn nhủ, thật là một lòng vì nước, quản bao sương-tuyết dậm trường, nghảnh mặt trông chừng, biết đâu là quê hương xứ sở.
Khi mấy anh em của Nguyển-hửu-Thoại lên khỏi địa phận núi Tà-Lơn một đổi, kế tới ngã ba, Nguyển-hửu-Thoại bèn gò cương ngừng ngựa, day lại nói với Trần-xuân-Trạch và Cao-phước-Trí rằng:
— Chúng ta đến đây, đường phân hai ngã, một ngã đi lên miệt Biển-Hồ, rồi đổ qua Bắt-tâm-Băng, ngả ấy thì xa mà dể di, còn một ngã lên Đèo-xuyên-bù-nốc, rồi đi tắc qua Xiêm thì gần, nhưng mà đường đi núi non hiểm trở, đèo ải gay go, vậy hai anh em liệu coi phải đi ngã nào phương tiện.
Trần-xuân-Trạch ngẫm nghĩ một hồi rồi nói rằng:
— Vậy thì anh em ta noi theo con đường lên Biển-Hồ mà đi, tuy xa một chút, mà đường sá dể đi.
Cao-phước-Trí nói:
— Đường lên Biển-Hồ thật là bằng thẳng dể đi, nhưng mà đường đó sợ có quân Tây-sơn tuần phòng tế soát, theo ý tôi tưỡng; Chi bằng chúng ta noi theo đường đèo Xuyên-bù-nốc mà đi, tuy núi non hiểm trở, nhưng mà khỏi sợ ai tế soát tuần phòng, ban ngày chúng ta vượt núi trèo đèo, ban đêm chúng ta chịu khó nằm bờ ngủ bụi, như vậy mà yên hơn là làm bia cho quân Tây-sơn truy tầm cản trở.
Nguyển-hữu-Thoại suy nghỉ rồi day lại nói rằng:
— Cao-hiền-đệ nói vậy rất hiệp ý ta. Vậy thì chúng ta cứ theo đuờng đèo Xuyên-bù-Nốc mà đi cho tiện. Nói rồi các anh em đều quày ngựa qua đường ấy bôn-ba thẳng tới.
Đây nhắc lại khi quan Tây-sơn là Huỳnh công-Thiệu sai tướng lên hiệp với quân Caoman, rồi dẫn một đội quân hơn năm chục, gươm giáo súng ống đều đủ, và phân làm hai tốp, mot tốp thì ngăn đón đường lên Biển-Hồ, còn một tốp thì tuần phòng theo đèo Xuyên-bù-Nốc.
Khi anh em Nguyển-hửu-Thoại lên tới đèo Xuyên-bù-Nốc, ngó lên thấy cao san tuấn lãnh, dòm xuống thấy vực thẳm khe sâu, gộp đá cheo leo, sường non dựng ngược, xem lại con đường uốn éo quanh co, hình như một con rắn rất dài, nằm dựa theo bên hông núi.
Lúc bấy giờ Trần-xuân-Trạch bước lại đứng bên lề đường, dòm xuống thấy một vực sâu thăm thẳm, hơn mấy mươi trượng, thi giựt mình thối lại, rồi kêu mấy anh em mà nói rằng: Cái đèo nầy nguy hiễm lắm, các anh em chẳng nên giục ngựa chạy mau, và day lại kêu quân mà dặn rằng:
— Chúng bay phãi đễ ý đề phòng, từ từ mà tới, chẳng nên chạy mau, nếu rủi sẩy bước sa chơn xuống chổ vực nầy, thì ắc là thịt nát xương tan không còn một miếng.
Đó rồi các anh em đều gò ngựa kềm cương, từ từ di tới.
Kế thấy một tốp quân Caoman hơn ba chục đứa, trong núi rần rần kéo ra, rồi chận đường cãn lại, trong đó lại thấy một tướng Tây-sơn và hai tướng Caoman đều cởi ngựa đứng trước.
Nguyễn-hữu-Thoại thấy thì biết tướng Tây-sơn hiệp với tướng Caoman tìm mình mà bắt. Ba anh em liền rút gươm ngừng ngựa, đễ coi chúng nó làm gì.
Tướng Tây-sơn thấy Nguyển-hữu-Thoại thì biết mặt, bèn kêu lớn mà nói rằng:
— Nguyễn-hữu-Thoại ngươi muốn băng theo ngã nầy qua Xiêm mà cầu binh cứu viện, song sự ấy chúng ta đã biết rồi, vậy thì ngươi chẵng cần nhọc công vô ích, vì ngươi không thế gì qua khỏi đèo nầy. Vậy ta khuyên ngươi hãy về đầu chúa ta là Tây-sơn Nguyễn-Nhạc, thì ngươi sẽ đặng lộc trọng quyền cao, và cái chức tướng quân ngươi sẻ có trong tay, nếu ngươi là người thức thế tri thời, thì lựa chúa mà thờ, ta không cần nói nhiều, xin ngươi tự liệu, còn như ngươi chẳng chịu nghe lời ta, thì dầu ngươi có tài độn địa thăng thiên, cũng không thế gì qua khõi cái đèo nầy cho được.
Nguyễn-hữu-Thoại nghe rồi liền trã lời cách khẵn khái rằng:
— Những lời người khuyến dụ đó, đễ mà khuyến dụ những đứa đê tiện tiểu nhơn, và những bọn tham ô tướng sỉ thì được, chớ như ta chẳng phải là kẽ tham phú phụ bần, và cũng chẳng phải người đồ danh háo lợi, lỗ tai ta không thèm nghe những lời phi lý, lương tâm ta chẳng hề ưa những tiếng phi ân ấy đâu, một hòn máu đõ trong trái tim ta, đối với chúa ta, vẩn hừng hực như mặt trời phía đông, chẵng hề phai lợt, dẩu mà tan xuơng nát thịt, ta cũng chẳng đổi dạ dời lòng, và ngươi phải biết rằng một đứng liệt sỉ trung thần, xưa nay chẵng khi nào chịu thờ hai chúa.
Vậy nếu ngươi là một người có gan đởm anh hùng, thì nguơi hảy mở đường thong thã cho ta đi, bằng ngươi là kẽ nhát gan, thì cây gươm nầy sẽ thay mặt cho ta mà đối đáp cùng ngươi, còn ta thì không cần nói một lời chi nữa với một người không anh hùng khí phách.
Tướng Tây-sơn nghe nói thì lửa giận phừng gan, liền truyền cho hai tuớng Cao-man và quân nhơn áp lại nã tróc Nguyển-hữu-Thoại.
Nguyển-hữu-Thoại, Trần-xuân-Trạch và Cao-phước-Trí đều tuốt gươm cự chiến một trận rất dử, còn quân Cao-man ba phía áp tới phũ vây.
Nguyển-hữu-Thoại một tay cầm trường thương, một tay cắp đoãn kiếm, tã xông hữu đột, lớp thương đâm, lớp dao chém, xung xăng như một con sư tữ vùng vẩy ở giửa trùng vây.
Hai tướng Cao-man xốc lại đâm nhầu Nguyển-hửu-Thoại, Nguyễn-hữu-Thoại một tay cầm thương thích tên tướng Cao-man một cái, té nhào xuống ngựa, còn một tay hươi gươm chém sã tướng kia một gươm ngang vai, máu ra lai láng, tướng nầy thất kinh giục ngựa chạy liền, Nguyễn hữu-Thoại rược theo bồi thêm một thương chết tươi, rồi giục ngựa lước tới, đặng chạy thoát qua đèo, chẵng dè tướng Tây-sơn núp bên gộp đá, thấy Nguyển-hữu-Thoại chạy qua, liền rường súng bắn ra một phát, trúng đùi con ngựa của Hữu-Thoại.
Ngựa nầy bị một mũi súng rất đau, hoãn kinh vụt cất bốn vò nhảy ra lề đường, Nguyển-hữu-Thoại thấy ngựa nhảy ra ngoài vực sâu, liền hai tay gò cương giựt lại một cái, nhưng rũi thay hai cẳng trước con ngựa đã sụp vào mé vực, rồi nhũi đầu xuống, chỗng đít lên, tức thì Nguyển-hữu-Thoại vừa người vừa ngựa, đều nhào lăng xuống một cái vực sâu thâm thẩm hơn mười mấy trượng.
Cao-phuớc-Trí thấy liền la lên một tiếng trời ôi! Nguyển-Huynh đã bị sa xuống vực sâu kia rồi.
Trần-xuân-Trạch nghe liền thôi đánh, nhảy ra đặng lại cứu Nguyển-hữu-Thoại, nhưng không thấy Nguyển-hữu-Thoại ở đâu, chĩ thấy đá đơm chởm chởm, vực thẩm mù mù, dầu cho mình sắt da đồng, mà sẩy bước vào đây, thì cũng phải xương tàn cốt rụi, kế thấy dưới xa, thây nằm một đống, người ngựa ngổn ngang, thì biết Nguyển-hữu-Thoại đã chết rồi, không thế cứu đặng, ôi! thãm thay cho Nguyển-hữu-Thoại, mạng xuống suối vàng, hồn theo mây bạc, trong lúc vận nước gian nan, mà mất một tướng tài thì biết bao là uổng.
Tướng Tây-sơn với hết thảy quân Caoman, thấy Nguyển-hửu-Thoại, vừa người vừa ngựa, nhào xuống vực sâu, thì đều ngó sững sờ, còn Trần-xuân-Trạch với Cao-phước-Trí thấy cái cãnh ngộ hung ác như vậy, thì xiết bao là ruột héo gan xàu, rồi đứng mà ngẫn ngơ hồn phách.
Thảm thay cho Nguyễn-hữu-Thoại là một viên kiện tướng cũa đức Nguyển-vương, trí dỏng gồm tài, côn quyền đủ sức, rủi thay cho gặp lúc thời nguy vận kiễn, hoa chí tai lâm, sa cơ một phút mà phải tuyệt mạng nơi chổ vực thẩm khe sau nầy, thì nghĩ mà đau đớn mà thảm buồn, cho sự sống thác của con người như bọt nước ngoài sông, ngọn đèn dưới gió.
Đó rồi Trần-xuân-Trạch với Cao-phước-Trí dục ngựa lước tới đánh với quân Caoman một trận rất dữ, nhưng họa vô đơn chí, phước bất trùng lai, kế Cao-phước-Trí lại bị quân Caoman thích nhằm một thương té nhào xuống ngựa, Trần-xuân-Trạch thấy Cao-phước-Trí thác rồi, còn quân Caoman thì đông, lại có tướng Tây-sơn đốc suất, nên không thế thắng nỗi, rồi phải quày ngựa chạy lui, quân Caoman được trớn rần rần rược theo, quyết bắt cho đặng.
Trần-xuân Trạch thấy tướng Tây-sơn đem binh Caoman rược theo rất gấp, không thế chống nỗi thì tự nghỉ rằng:
Nguyển-huynh bây giờ đã bị rũi ro mà giữa đường tuyệt mạng, còn binh Caoman thì truy cãn theo sau, không thế gì đi được. Vậy ta phải trở về báo tin ấy cho đức Nguyễn-vương hay, đặng liệu định thế nào, kẻo người nhọc lòng trông đợi, đó rồi đi với ba tên quân ngày dêm băng rừng lướt bụi trở về Hà-tiên rồi vượt qua Phú-quốc đặng tìm theo đức Nguyển-vuơng mà phục mạng.
Lúc bấy giờ Nguyển-vuong với cung quyến và các tướng tùy tùng, đương ở tại cù-lao Phú-quốc đặng chờ coi Nguyển hữu-Thoại đi viện binh Xiêm thế nào.
Bữa nọ ngài đương ngồi bàn nghị quốc sự với các tướng, bổng thấy Trần-xuân-Trạch bước vào ra mắt.
Nguyễn-vương liền đứng dậy bước tới vội vã hõi rằng:
— Sao ngươi đi cùng Nguyển-hửu Thoại qua Xiêm xin binh cứu viện, đắc thất thế nào? còn Nguyễn-hữu-Thoại với Cao-phước-Trí ở đâu, cớ sao chẳng thấy.
Trần-xuân-Trạch tâu rằng:
— Tâu chúa-thượng, Nguyển-hữu-Thoại và hai tôi khi vâng lịnh chúa-thượng lên tới Caoman, bổng gặp một đội quân Annam, nói rằng quân Tây-sơn đã đem binh đánh với Hồ-văn-Lân một trận phía trên Châudoc, nhưng Hồ-văn-Lân thất trận, rồi quân Tây-sơn kéo lên mà bảo hộ Caoman.
Nguyển-Vuơng nghe nói thì sẩu mặt ngó Trần-xuân-Trạch và hỏi cách nóng nảy rằng:
— Hồ-văn-Lân đã bại trận, quân Tây-sơn đã lên bảo hộ Cao-man rồi sao?
— Tâu chúa-thượng, quân Tây-sơn đã bảo hộ Caoman rồi, và vua Cao-man đã phục tùng theo nó. Không dám chống cự chi hết.
— Rồi sao nữa? các ngươi đã qua Xiêm chưa?
Quảng cáo
IFrame
Cài đặt chế độ riêng tư
— Tâu chúa-thượng, chúng tôi đi mới đặng hai phần đường mà thôi.
— Sao lại đi mới đặng hai phần đường mà thôi?
— Tâu chúa thượng, chúng tôi đi mới khỏi núi Tà-lơn một đổi, vừa qua đèo Xuyên-bù-nốc, xảy gặp tướng Tây-sơn hiệp với Caoman đem binh ngăn cản.
— Vậy thì các ngươi phải trở về, không đi đặng sao?
— Tâu chúa-thượng, chúng tôi phải cự chiến cùng nó một trận tại đèo Xuyên-bù-nốc.
— Nguyển-Vuơng nghe nói liền nheo mày mà trong lòng hồi hộp rồi hỏi tiếp rằng:
— Các ngươi cự chiến thắng bại thể nào? hảy nói mau cho ta rỏ.
Trần-xuân-Trạch rưng rưng nước mắt và nói rằng:
— Tâu chúa-thượng, quan Chưỡng-dinh Nguyễn-hửu-Thoại cự chiến cùng nó, giết chết hai tướng Caoman, chẳng dè tướng Tây-sơn núp trong kẹt đá bắn trúng con ngựa của Nguyễn-hửu-Thoại một mủi súng, ngựa ấy thất kinh, liền nhảy một cái trợt cẳng ra ngoài lề đường, rồi vừa người vừa ngựa sa vào vực sâu mà thác.
Đức Nguyễn-Vương nghe nói tới đây, dường như một tiếng sấm sét nổi chạt vào tay, làm cho cả tòa lương tâm đều phập phồng rúng động và rất kinh ngạt rồi hỏi lớn rằng:
— Nguyễn-hửu-Thoại sa vào vực thẩm mà thác rồi sao?
Trần-xuân-Trạch lấy khăn lau nước mắt và nói:
Tâu chúa-thượng, Nguyển-hửu-Thoại đã táng mạng nơi chổ vực sâu đó rồi! Lúc bấy giờ Cao-phước-Trí và tôi thấy vậy quyết liều sống thác, liền xốc lại đánh nhầu với quân Caoman một trận đặng trả thù cho quan chưởng dinh, nhưng quân Cao-man áp tới rất đông. Kế Cao-phước-Trí lại bị thương mà thác, vì vậy nên tôi phải lật đật trở về đặng báo tin cho chúa-thượng rõ.
Đức Nguyển-Vương nghe rồi bèn dậm chơn một cái, và trong lòng dường như bị một vít thương rất nặng làm cho ngài phải đau đớn cả vừa gan ruột, bủng rủng cả vừa tay chơn, tức thì ngồi xiểu nơi ghế, rồi rưng rưng giọt lệ mà than rằng:
— Thãm thương thay cho Nguyển-hửu-Thoại, – — và Cao-phước-Trí cũng vì ta gặp lúc quốc bộ gian nan, vận thời điên đảo, làm cho liên lụy đến hai tướng trung thành vỏ dỏng nầy, ngày nay phải bỏ mạng nơi chổ vực thẩm khe sâu, biết đâu là phách hồn xiêu lạc! đó rồi ngài truyền cho quan Ngự-sữ phải đem tên Nguyển-hửu-Thoại, Huỳnh-thiên-Lộc và Mạng-Hoè là người nước Pháp với các tướng tử trận đều chép nghi vào sử, đặng ngày sau lập miểu công-thần mà lửa hương thờ phượng, còn các văn-quan vỏ-tướng nghe tin Nguyển-hửu-Thoại chết, thì ai ai cũng đều cãm cảnh động tình và đem lòng thương tiếc cả thảy.
Tướng Tây-sơn thấy Nguyển-hửu-Thoại là một người anh hùng khí phách, vỏ dỏng siêu quần, sa cơ rủi bước mà phải táng mạng nơi dưới vực thẳm khe sâu, thì cũng đem lòng kính vì thương xót, bèn truyền cho quân nhơn xuống khe đem Nguyển-hữu-Thoại lên, thâu liệm thi hài, rồi dùng lể thượng-tướng mà mai táng.
Trước khi táng Nguyển-hữu-Thoại, và Cao-phước-Trí, tướng Tây-Sơn tư tờ về cho quan Bảo-hộ Cao man là Huỳnh-công-Thiệu hay.
Huỳnh-công-Thiệu truyền cho các tướng Tay-Sơn và các quan Caoman ở địa phận Tà-Lơn đều đưa đón tử tế.
Sau khi Nguyển-vuơng thâu phục Saigon lại đặng, thì có cho quan lên Caoman tìm kiếm phần mộ của Nguyển-hửu-Thoại với Cao-phước-Trí và lấy hài cốt đem về mà an táng.
Vậy có thi rằng:
Đại tướng vong thân giửa trận tiền,
Ngàn thu danh tiếc sử xanh biên,
Tấm lòng trung nghĩa đền ơn chúa,
Vận nước nhơn vì lúc đảo điên.
Phụng sứ sang qua Vọng-Các thành,
Quang-hà rủi gặp bước chung chinh,
Hồn trung một khối vì non nước,
Nguy hiểm bao nài cuộc tử sanh.
Lúc bấy giờ Vương-mẩu và công-chúa Ngoc-Du ở tại cù lao Phú quốc, đương ngồi trong một cái nhà lá nhỏ, trông ra mặt biển, chỉ thấy trời nước mênh-mông, một màu trắng nỏn, xa xa lại thấy một vài chiếc thuyền chài phưởng phất, vơ vẩn ngoài khơi, đối với một cảnh hoàng-hôn, xem ra mù mù mịt mịt, kìa là chiêu chít đoàn chim về ổ, nọ là lao xao tiếng sóng vổ gành, rồi ngó vào Hà-tiên chỉ thấy một dảy núi xanh xanh, nhấp nhán liền với chơn mây, xem đã tuyệt mù con mắt. Thật là đoái trông muôn dậm quang hà, bơ vơ xứ sở biết nhà là đâu.
Kế đức Nguyển-vương buớc vào, cúi đầu chào mẹ, Vương mẩu thấy Nguyển-vương sắc mặt có vẻ buồn rầu, thì hõi rằng:
— Vương-nhi có việc chi lạ chăng? mà mẹ xem Vương-nhi có vẻ sầu dung, lộ ra nét mặt như vậy?
Nguyễn-vương thưa rằng: thưa mẹ, số là con mới được tin Trần-xuân-Trạch về báo cho con hay rằng: Phò-mả Nguyễn-hửu-Thoại phụng mạng qua Xiêm, cầu binh cứu trợ, giữa đường gặp quân Tây-sơn và Cao-man ngăn trở, Nguyễn-hửu-Thoại cự chiến với chúng nó, chẳng dè rủi bước sa xuống vực sâu mà thác rồi, và Cao-phước-Trí cũng bị tữ trận, nên con vào thưa cho mẹ hay.
Vương-mẩu nghe nói thì bủng rũng tay chơn, mặt liền biến sắc, và Ngọc-Du công chúa nghe vậy cũng sửng sờ, rồi Vương-mẫu ứa lụy mà than rằng:
Vương-nhi con ôi! thật là cuộc đời trắc trở, vận nước đão điên, cũng tưởng sai Nguyển-hửu-Thoại qua Xiêm cầu binh cứu trợ, chẳng dè lòng người muốn vậy, mà trời chẳng khứng cho, khiến cho Nguyển-hữu-Thoại gặp sự rủi ro, mà phải giữa đường bõ mạng, thật thảm thương thay cho Nguyển-hửu-Thoại là một tướng tâm phúc của nhà ta, nay đã thác rồi, thì con ta là Ngọc-Duệ ở đồn Bình-Hóa, thế cô sức yếu, thân gái một mình, nếu quân giặc Tây-sơn đem binh xông lên thì chưa biết lành dữ thế nào đây nữa.
Quảng cáo
IFrame
Cài đặt chế độ riêng tư
Nguyển vương nghe Vương-mẫu nói, thì vòng tay thưa rằng:
— Thưa lịnh mẹ em con là Ngọc-Duệ tuy là liểu-bồ phận gái, song con xem nó có tánh khẳng khái cang cường, nếu nó nghe chồng nó là Nguyễn-hửu-Thoại bị thác về tay quân Tây-sơn, ắc là nó lo báo oán rữa hờn mà đem binh đối địch cùng giặc, mẹ nghĩ mà coi, một trận thủy chiến tại Saigon, ta có hùng binh mấy vạn, chiến tướng dư trăm, mà còn không thắng đặng quân giặc Tây-sơn kia thay, huống hồ một sức gái yếu đuối như em con, một đồn nhỏ mọn như đồn Bình-Hóa, thì có thế gì mà cự đương cho nổi.
Vương-mẫu nghe nói thì than thở và nghĩ ngợi một hồi, rồi day lại ngó Nguyển-Vuơng mà rằng:
Vương-nhi con ôi ! vậy thì con phải mau mau viết một phong thơ sai người qua Biên-Hòa tìm em con là Ngọc-Duệ mà báo tin cho nó biết, chồng nó là Nguyễn-hữu-Thoai nay đã thát rồi, đặng rước nó về đây cho mẹ con anh em đoàn tụ một nhà, kẻo lòng mẹ không yên, những mãng ngày lo đêm đợi.
Nguyển-Vương nghe mẹ dạy liền trở về văn phòng viết một tâm thơ, và sai một tên nội thị với vài đứa quân nhơn xuống thuyền vượt biển thẵng vào Hà-Tiên, rồi tìm qua Biên-hòa đặng trao thơ cho công chúa.
Tiếng chèo trạo phu xạt xạt, lượng sóng Xiêm-Hải ào ào, trông ra chỉ thấy một cánh bườm phất phất pho phơ, phăn phăn thẵng vào Hà-Tiên rồi mất.
HỒI THỨ HAI MƯƠI BỐN
Diển trận thế công-chúa thi oai,
Náo miểu đường Đại-vương rớt mão.
Đây nói về chuyện vợ cũa Nguyễn-hửu-Thoại là công-chúa Ngọc-Duệ là con thứ ba của vua Hưng-Tổ và là em ruột của đức Nguyễn-Ánh, công-chúa nầy tuy là hình mai vóc liểu, nhưng mà lực tráng thân cường, mặt trắng môi hồng, cặp mắt sáng như sao nháy, thật là một gái quốc sắc thiên hương, dung nhan đẹp đẽ, mà có tánh tình khẳng khái, lại thêm thông thuộc việc vỏ nghệ binh cơ.
Cong-chúa bình nhựt có tuyển lựa các vợ cũa lính tráng, và chiêu mộ các gái trong thôn hương, từ 20 tuổi sắp lên, mỗi đứa đều vóc dạng mạnh mẽ, rồi lập một đội nử binh, hơn năm mươi người, đề theo hầu việc sai khiến.
Khi Nguyển-hửu-Thoại trấn tại Biên-hòa có hơn trót ngàn binh mã, kế nghe tin Nguyển-vương thất thủ Saigon, và chạy về Mỷ-tho, thì Nguyển-hửu-Thoại bão công-chúa ở thủ đồn Bình-Hóa cũng thuộc tĩnh Biên-Hòa, rồi đem vài trăm quân tuốt theo hộ vệ đức Nguyển-vurơng chạy vào Rạch giá.
Đến lúc Nguyễn-hữu-Thoại phụng mạng Nguyển-vương qua Xiêm đặng cầu binh cứu viện, thì có viết một phong thơ, rồi sai quân tâm phúc đem qua Biên-Hòa mà giao lại cho công-chúa khai khán.
Công-chúa liền dở thơ ra xem thấy trong thơ nói như vầy:
« Trước khi sang qua Xiêm quốc, ta vội vàng cất bút tả bức thơ nầy, gởi lại hương khuê,[1] cho phu-nhơn tường lảm.
« Khi chúa-thượng thất thủ Saigon, thối binh chạy vào Rạch-giá, trong lúc đồ cùng thế nhược, khó bề đối lủy giao phong, các đạo cần-vương,[2] cũng đều lạc lài thất bại.
« Thật là hạc kêu tiếng gió, năm canh vía sỉ mơ màng, lũy sập thành tan, mấy trận hồn binh lạnh lẽo.
« Bởi thế, nên ta phãi phụng mạng sang Xiêm, cầu binh cứu viện, nắng mưa đất khách, non nước dậm trường, dẫu rằng vạn khỗ thiên lao, ta cũng chẳng nài khó nhoc, vậy xin phu-nhơn ở nhà, gìn giữ thành trì, và bão toàn thân thể.
« Quân Tây-sơn đương lúc binh cường tướng dỏng, còn binh ta thì sức yếu thế cô, nếu chúng nó đem binh xâm lược Biên Hòa, thì phu-nhơn phãi kiếm nơi tỵ nạn đồn binh, chẳng nên cùng chúng nó tranh phong giao chiến.
« Hai ta tuy là xa cách nhau, kẽ phương trời người góc biển; nhưng mà tấm lòng vẫn gần nhau, như khi truớc ngỏ lúc bên phòng.
« Xin phu-nhơn trầm tư thẫm đoán, liệu lượng mà ứng biến tùy cơ, cho yên lòng kẽ trỗi bước quang hà, ngàn trùng diệu vợi. »
Tiện phu NGUYỂN-HỮU-THOẠI cẩn ký
Công-chúa xem thơ rồi lại văn phòng lấy bút nghiên viết một phong thơ trã lời cho Nguyển-hữu-Thoại như vầy:
« Thiếp đặng tin phu-tướng phụng mạng sang Xiêm, cầu binh cứu viện, cái tin ấy thiếp mới xem qua, thì chẳng xiết lo buồn, nhưng xét lại, thì vui mừng hớn hỡ, buồn là buông đôi ta phải quang hà cách trở, nhạn bắc hồng nam, kẽ thì chiếc bóng song the, thãm nỗi phòng lang vắng vẽ: người thì một mình đất khách xiết bao mưa nắng giải dầu.
« Nhưng mà, mừng là mừng trong lúc quốc bộ gian nan, nước nhà hữu sự, mà được một người trung thần kiệt sỉ như phu tướng, hết lòng vì nước, ra mà gánh một trách nhậm, rất khó nhọc rất nặng nề, tuy chưa biết kết cuộc thế nào, song cái phận làm thần tử như phu-tướng ngày nay, đối với xã-tắc, đối với sơn-hà, thì cũng được gọi rằng một bực trung thần nghĩa sĩ.
« Vậy thiếp xin phu-tướng cất bớt cái lòng ái-tình phu phụ, mà đổi làm một khối ái quốc tinh thần, dẫu chúng ta cách xa nhau vạn thủy thiên sơn, cũng gìn giữ một tấm cang trường thiết thạch.
« Thiếp tuy là một gái thân bồ vóc liễu, nhưng cũng biết cái phận sự đối với nhà với nước thế nào.
« Nghĩ cho trong lúc loạn ly điên bái, quốc bộ gian nan như vậy, làm một gái thượng lưu như thiếp, cũng nên dẹp cái nghề soi gương điễm phấn nơi chốn khuê phòng, mà học theo cái tài lước đạn xông tên, trên đường hoạn nạn, chẳng lẽ cứ theo thói hẫn hờ lơ lãng, cũa phụ nữ thường tình, mà đễ cho tiếng đời chê rằng là bọn yếm mang quần vận.
« Vậy xin trên phu-tướng phải ra công phò nguy tế khổn, hết sức cùng vua, dưới tiện thiếp cũng nguyện trải mật phơi gan, một lòng tiết nghỉa. »
Tiện thê NGỌC-DU công-chúa kỉnh bái.
Công-chúa viết thơ rồi phong lại và đưa cho tên quân nhơn bão phải lập tức đem về trao lại cho Nguyễn-hữu-Thoại.
Tên quân vâng lịnh lãnh thơ, rồi từ giã công-chúa trở về Rạch-giá.
Lúc bấy giờ công-chúa ỡ thủ đồn Bình-Hóa, thường thường mổi bữa đem quân ra đồng diển dượt trận thế, khi thì vào rừng tập cách phục binh xạ tiển, lúc thì lên núi lập thế cứ hiểm đồn quân.
Công chúa có hai tên thể nữ, một đứa tên là Huỳnh Anh, một đứa tên là Bạch-Yến, hai đứa nầy vóc to sức mạnh, vỏ nghệ tinh thông, mổi khi công-chủa diển trận bài binh, thì hai thể-nữ ấy, cởi ngựa mang gươm, rồi kéo đội nử binh ra đứng dàng hầu hai bên công-chúa.
Còn Công-chúa thì mình mặc một áo chiến bào sắc xanh, trước ngực có một chùm bông kết bằng lụa đỏ, đầu đội một mũ da cọp, trên mũ có dắt một cặp lông công, bên lưng đai một song thanh-kiếm, tay cầm một cây cờ sắc vàng, chung quanh có chạy một đường chơn rít, xem rất đẹp đẻ.
Công-chúa cởi một con chiến mã sắc hồng rất tốt, rồi ra giữa diển trường, khi giục ngựa chạy tới, lúc hô quân thối lui, khi cầm kiếm chĩ huy, lúc phất cờ truyền lịnh, còn các tam quân tướng sỉ, đâu đó bố trận liệt hàng, vát giáo cầm khiên, thảy đều tề tề chỉnh chỉnh.
Thật là một vị nữ-tướng đường đường diện mạo, lẩm lẩm dung nghi, như một vị thần-nử lai trần, như một bà Trưng-Vương xuất trận.
Khoan thai thay cho một gã Hồng nhan nương-tử, phất cờ giục trống, mỉa mai chim phụng múa đường mây; diệu dàng thay cho một vẽ kiều mị phu-nhơn, cởi ngựa cầm thương, mường tượng hoa đào nghinh ngọn gió.
Bữa nọ công-chúa diển trận tập binh rồi trở về đi ngang qua một cái núi, thấy ẩn ẫn trên núi, có một tòa miểu-võ lấp ló trong mấy cụm cây, Công-chúa liền truyền lịnh đình quân, đóng dưới chơn núi, rồi dắc hai thể-nữ lên xem, hai bên đường chỉ thấy cỏ hoa thưa thớt, đá liển chập chồng, chổ thấp nơi cao, lần lần trèo theo bực núi.
Khi lên tới sân, thấy miểu cất trên một bàn thạch rất to, bốn phía đều có cây cao bóng mát, cảnh đẹp non xinh, Công-chúa với hai thể nữ bước vào, thấy trước miểu có một tấm biển đá, khắc năm chữ vàng: « Nam-Nhạc-Đại-Vương miểu » liền bước vào trong xem coi, thấy chính giữa một tượng Đại-Vương rất lớn để ngồi trên ngai, mặt đen râu cụt, áo mảo nghiêm-trang, trước cột có mấy đôi liển sơn son, và trên điện có màng treo chấn phủ.
Kế mấy người sau miểu chạy ra cúi đầu chào Công-chúa.
Công-chúa liền bước lại hỏi rằng: các ngươi có biết sự-tích của Đại-Vương nầy làm sao không?
Mấy người ấy đáp rằng:
— Bẫm quới-nương, chúng tôi nghe nói Đại-vương nầy là gốc người Chiêm-thành khi trước, thật là anh linh hiển hích lắm, thường thường trong lúc trời thanh gió tịnh, hay là trong khi đêm vắng canh khuya, thì Đại-vương hay hiện lên đứng trên đảnh núi sờ sờ, rồi đi trên ngọn cây, như một bóng đen thoãn qua thấm thoát, nếu ai gặp ngài mà không vái vang cúng tế, thì ngài vật chết và làm cho trong làng xóm không yên.
Bữa nọ ngài nhập cho một người ỡ làng nầy lên đồng, xưng là « Nam-nhạc đại-vương » và bảo làng phải lập miễu phụng thờ, từ đó trong làng ai có việc chi cầu khẩn đến ngài, thì ngài đều phò hộ mách bảo, vì vậy nên nhơn dân trong xứ nầy ai ai cũng đều sùng bái tin ngưởng ngài lắm.
Công-chúa nghe nói liền bảo người-từ ở giữ miểu ấy, sắm sữa hương đăng, và dộng chuông đánh trống, rồi công-chúa bước ra đứng trước hương án cúi đầu ba cái, cầm hương dâng lên và khấn rằng:
« Tôi nghe rằng: sống làm một người trung thành nghĩa khí, thát làm một vị thần thánh anh linh, bảo hộ người lành, trừng phạt kẽ dử, oai linh khắp cùng sơn nhạc, ân đức ra tột Hương-thôn, biết việc quá khứ tương lai, rỏ đều kiết hung họa phước.
« Tôi công-chúa Ngọc-Duệ là một gái thơ ngây yếu đuối, gặp lúc nước nhà bác loạn, xả tắc khuynh nguy, thân nầy như cá trong ao, dường chim mất bạn, chí muốn phò nguy cứu nạn, dẹp đãng nghịch thù, nhưng chẳng rõ việc lợi hại hung kiết ngày sau thế nào, nên đến đây cầu xin thần minh chỉ giáo
« Vậy nếu Đại-vương là đứng bực thánh thần, anh linh hiển hích, biết sự ký-vảng, rỏ việc tương-lai, thì xin Đại-vương mách bảo việc kiết hung họa phước thế nào, cho tôi là Ngoc-Duệ rỏ biết. Và Đại-vương cho tôi xin một keo thử coi, như được thì ngài cho một sấp một ngữa, gọi rằng quẻ có âm-dương, còn không thì ngài cho hai miếng keo nầy đều ngữa ra hết ». Khấn rồi, công-chúa liền lấy hai miếng cây để trước hương án, hai tay xá một cái rồi quăng ngay xuống đất.
Hai miếng cây nhảy nhảy ít cái, rồi dựng đứng trên mặt đất, không cái nào nằm hết.
Công-chúa lấy làm lạ và tự nghĩ rằng: thường thường xin keo có thánh thần ứng nghiệm, thì cho một miếng ngửa một miếng sấp, ấy là quẽ có âm có dương, mới gọi rằng được việc, nay cớ gì hai miếng cây lại đứng sửng trên đất, thế thì Đại-vương nầy không có linh nghiệm chăng? hay là muốn cợt mình chăng?
Nghĩ vậy rồi công-chúa lượm hai miếng cây lên, và vái lầm thầm một chút rồi quăng xuống một lần nữa.
Hai miếng cây nhảy lên nhảy xuống ít cái, và chạy một vòng, rồi cũng đứng sửng trơ trơ trên đất như nảy.
Công-chúa thấy thì lấy làm một sự quái gở phi thường, tức thì lửa giận hừng lên, rồi thạnh nộ và rút gươm bên lưng ra chỉ ngay cái tượng ngồi trên ngai mà nói lớn rằng:
Ớ Nam-nhạc Đại-vương kia, ta nói cho ngươi biết, ta đã làm lễ khẫn vái cùng ngươi, xin hai keo rồi mà không thấy ứng nghiệm chi hết. Vậy ta cũng dằn lòng nhẫn khí, mà xin thêm một keo thứ ba nữa, nếu không ứng nghiệm theo lời ta xin, thì rỏ ràng là ngươi chẳng phải một vị chánh trực linh thần, lẽ nào ngươi ở đây mà lạm thực hương hỏa của nhân dân cúng tế.
Ta nói cho ngươi biết rằng: nếu ngươi không có anh linh hiển hích, thì ta sẽ chém quách đầu ngươi, và phá nát miểu nầy, từ đây về sau, ta chẵng cho ai khói hương cúng quãy chi hết.
Mấy người đứng trước miểu nghe công-chúa nói lớn, không biết chuyện gì, ghé mắt dòm coi, thấy công-chúa sắc mặt phừng phừng, má đào ững ững, hai mắt trợn lên sáng hoắc như hai đốm tinh-quang, đôi mày dửng lên cong vòng như hai vành bán-nguyệt, coi bộ hầm hầm khí sắc, rút gươm chỉ ngay mặt Đại-vương, thì thất kinh rồi xầm xĩ cùng nhau, lắt đầu le lưởi và nói: trời ôi! nàng ấy dữ quá, sao dám xĩ mạ Đại-vương? không sợ chết sao?
Còn công-chúa nói rồi, liền lấy hai miếng cây, cầm nơi tay đập xuống hương án cái bốp, ngó lườm lườm cái tượng Đại vuơng, và nói cách nghiêm nghị rằng:
Đại-vương, ngươi phải biết lần nầy là lần thứ ba mà ta cầu khẫn ngươi đây, nếu ngươi muốn ngồi vững trên ngai, và muốn toạ hưởng trong miễu nầy lâu dài, thì ngươi phãi ứng vào keo thứ ba, ta sẽ xin cùng ngươi đây; bằng không, thì đầu ngươi sẽ văng ngay xuống đất, nói rồi cầm hai miếng cây liệng xuống một cái, thì thấy một miếng ngửa một miếng sấp, bổng nghe phía trong vật chi rớt xuống cái cãn, ngó lại thì thấy cái mảo sắt của Đại-vương đương đội trên đầu, thinh không đã rớt ngay xuống đất, người từ trong miểu thấy thì cã kinh, lật đật lượm mão đem lại để trên hương-án rồi vập đầu xuống đất cồm cộp vừa lạy vừa vái lầm thầm rằng:
Cầu xin Đại-vương bớt giận bớt giận.
Tôi là thằng Từ giử miếu cho đại-vương bấy lâu tôi nhờ cái oai thế đại-vương mà làm nghề buông hương bán khói, đánh trống dộng chuông, đăng kiếm tiền chi độ vợ con, tôi không dám xúc phạm đại-vương đều chi, xin đại-vương đừng giận lây tới tôi, tội nghiệp tội nghiệp, cầu đại-vuong bớt giận bớt giận.
Trong ý tên từ nầy ngỡ là đại-vương giận mà nộ phát xung quang,[3] chớ chăng dè Đại-vuong thất kinh mà rớt mão.
Lúc bấy giờ công-chúa thấy xin keo được, thì day lại nói với hai tên thể-nữ rằng:
Keo này có dương có âm, thì quẽ đã ứng nghiệm, vậy thì chúng ta hảy xuống núi trở về, nói rồi cã ba người dắc nhau đi ra, kéo quân về trại.
Mấy người trong miểu lật đật bưng mão đem lại đội lên cho Đại vương và nói cùng nhau rằng:
Người gái ấy không biết ở đâu, làm chức chi mà coi bộ ngang tàng quá quắc, dám xúc phạm xĩ mạ Đại-vương, thế thì người gái ấy điên hay sao, nên mới dám cã gan như vậy? chừng sau hõi lại mới biết là công-chúa Ngọc-Duệ, là chánh thất cũa quan chưỡng-dinh Nguyển-hữu-Thoại, nàng đi diễn trận hành binh, thấy miễu thì ghé lại xin keo thí nghiệm. Thi rằng:
Hởi bạn quần-xoa phải biết mình,
Hể là đức trọng quĩ thần kinh,
Xưa nay những gái anh hùng thế,
Danh giá lưu truyền quán sử xanh,
Cũng tiếng ông thần chức đại-vương,
Cớ sao ghẹo chọc gái cang cường.
Hồn mê thế đã quên danh vị,
Chút nữa đầu rơi trước miểu đường.
Chú thích
▲Hương khuê, là chổ khuê phòng của đàn bà.
▲Cần-vương là đạo binh theo cứu giúp vua.
▲Nộ phát xung quang là giận mà dửng tóc lên đến nỗi rớt mão.
HỒI THỨ HAI MƯƠI SÁU
Dựng quyệt kế công chúa cướp dinh
Phá đồn quân Tây-sơn thắng trận.
Bài binh liệt trận;
Đạo quân nương-tữ vẩn quan phòng;
Kính cổng cao tường;
Cửa thành phu-nhơn đều đóng chặc.
Vùng vẩy ngọn gươm địch khái,
Máu phi-thường nhuộm đỏ nước Biên-giang,
Hơn thua mấy trận tranh hùng,
Xương đồng-loại chất đầy hào chiến lủy.
Trong khi cỏ cây mang mát, bóng xế đài tây, ngó ra trước mặt đồn phía hửu, thấy một viên Nử tướng, đương cởi ngựa mang đao chạy lúp xúp nơi mé rừng, sau lưng có hai thể-nử cũng cởi ngựa thỉnh thoảng chạy theo, còn bốn mặt đồn quân lính đều canh giờ nghiêm nhặc, viên nử tướng nào đây? ấy là công chúa Ngọc-Duệ đi tuần du các trại.
Khi công chúa đi tuần du các trại và các đồn rồi trở về ngồi nơi trướng liểu, nhớ tới mẹ và anh, gặp lúc binh cùng thế nhược, vận đảo thời điên, phải lưu lạc ngoài chổ góc biển chơn trời, mà tạm chốn thê thân ký túc, còn chồng là Nguyễn-hửu-Thoại phụng sứ qua Xiêm, đường sá sơn trường thủy viển, chưa biết đắc thất lẽ nào, khiến cho trong lòng nhửng mãng bồi hồi lo ngại, Công-chúa ngồi một mình lúc cúi đầu suỹ nghĩ, khi dựa gối ngẩn ngơ, lúc đón nhạn mà ngóng đợi tin chồng, nhưng nhạn đâu chẳng thấy, khi trông mây mà cảm thương phần mẹ, những mây vẫn biệt mù, thật là:
Nam bắc bơ vơ trời mổi một,
Đêm ngày dồn dập tháng như ba.
Bữa nọ công-chúa Ngọc-Duệ đương ở tại đồn Bình-hóa bổng có quân nhơn vào báo rằng: có tướng Tây-sơn là Nguyển-văn-Kiêm đem binh tới đóng trước đồn cách đây ước chừng mười dậm.
Quảng cáo
IFrame
Cài đặt chế độ riêng tư
Công-chúa liền truyền cho đồn tả và đồn hữu, các tướng sỉ ngày đêm phải phòng thủ chắc chắn, còn Công-chúa thì coi thủ đồn giữa, chờ quân Tây-sơn kéo tới thì sẽ cự chiến, còn binh của tướng giặc là Nguyễn-Kiêm, đóng dựa triền núi đặng dọ thám binh tình địa thế, rồi sẻ xáp trận hỗn chiến.
Tối bữa đó Công-chúa nai nịt tữ tế, rồi cho đòi hai tên thể-nữ Huỳnh-anh và Bạch-yến đến và bão rằng:
— Hai ngươi hãy sắp sửa đi với ta qua trại quân giặc, đặng thám thính động tịnh thế nào.
Thễ-nử Huỳnh-anh nghe Công-chúa bão vậy thì bẫm rằng:
Bẫm Công-chúa, Công-chúa là một vị chũ tướng ở đây, trong lúc đêm khuya tâm tối, Công-chúa không nên khinh suất qua trại Quân-giặc, e quân-giặc biết thì sanh sự khó lòng, vậy xin Công-chúa đễ hai tôi qua đó thám thính động tịnh cho, chẳng cần gì Công-chúa phải xông pha vào chổ binh đao chiến địa.
Công-chúa nói: việc nầy là một việc trọng yếu, ta làm một viên chũ tướng, mắt ta phãi thấy cái địa thế của giặc, đóng binh chỗ nào, và phãi biết binh giặc hư thiệt nhiều ít thế nào, nên bỗn thân ta phãi đi mới được, hai ngươi cứ việc theo ta không sao phòng ngại, nói rồi Công-chúa với hai thễ nữ lên ngựa ra đi.
Đi đặng một đổi, cách xa đồn chừng ít dậm, kế tới một khoãn rừng cây rậm rạp, Công-chúa với hai thễ-nử cởi ngựa đi chậm chậm dựa nơi mé rừng, bổng nghe tiếng lá khô kêu rạo rạo trong rừng, kế thấy một người ở trong bụi cây nhãy ra, tay cầm gươm, tay cầm đèn, dọi qua một cái rồi mất.
Công-chúa liền la lên một tiếng « đàng ta », thì thấy tên kia đã nhãy tới trước mặt công-chúa, và cúi đầu rồi chống gươm đứng dựa bên đường hầu đón, Công-chúa với hai thễ-nử liền giục ngựa tới và hỏi tên ấy rằng:
— Phục binh của ta ở đâu?
Tên ấy đáp rằng: Bẩm công-chúa phục binh đều núp trong đám rừng nầy.
— Nãy giờ ngươi có thấy quân giặc léo hánh đến đây chăng?
— Bẩm công-chúa, nãy giờ chúng tôi núp trong rừng nầy rình coi, mà chưa thấy chúng nó léo tới.
Công-chúa nghe tên ấy nói vậy, liền lấy tay khoát ra một cái và bão rằng:
— Thôi, ngươi cứ việc vào rừng núp theo chỗ cũ mà coi chừng chẳng nên hơ hõng.
Tên ấy thưa vâng, rồi lui lại nhãy ngay vào rừng một cái, và chun mất trong mấy bụi cây.
Thễ-nử Huỳnh-anh thấy vậy thì hõi Công-chúa rằng:
Quảng cáo
IFrame
Cài đặt chế độ riêng tư
— Bẩm công-chúa, khi nãy chúng tôi thấy một ánh sáng dọi lại, kế nghe Công-chúa la lên một tiếng « đàng ta » đó là nghĩa gì? chúng tôi không hiểu.
Công chúa nghe thễ-nữ hõi, thì day lại đáp rằng:
— Chổ nầy là chổ ta đễ phục binh mà coi chừng và ngăn ngừa quân giặc; khi chúng ta đến đây, quân mai-phục trong rừng không biết ai, nên phải rọi đèn mà coi, hễ rọi một lần thứ nhứt, thì phãi lấy khẩu hiệu riêng mà trã lời rằng: « đàng ta », thì chúng nó biết là người của mình, còn khi chúng nó rọi đèn hai lần, mà không trã lời theo khẩu hiệu ấy, thì là người giặc, tức thì mấy trăm mũi tên trong rừng, đều phát ra một lược, đó là một đội quân ta để phòng trong lúc đêm khuya, sợ quân giặc đem binh đến thình lình mà cướp đồn phá lůy, nói rồi Công-chúa và hai thể-nử đều giục ngựa chạy tới.
Khi chạy qua khỏi rừng ít dậm, kế tới một chổ đồng trống, Công-chúa và hai thễ-nữ liền quức ngựa chạy mau, bổng thấy dưới đất nhãy lên hơn ba chục người, đều mặc đồ đen, tự đầu tới chơn, mổi người đều một tay mang khiên, một tay cầm giáo rần rần áp lại, bộ tướng dử dằn.
Công-chúa liền la lên một tiếng « đàng ta » thì thấy mấy người ấy cúi đầu, rồi đứng ra hai bên mé đường đều có hàng ngũ thứ tự.
Công-chúa ngồi trên ngựa, tay gò cương, tay cầm bửu kiếm, day lại hỏi rằng:
— Nãy giờ chúng bây ở đây có thấy quân giặc động tịnh thế nào không?
Mấy tên kia trả lời rằng:
— Bẫm công-chúa, hồi nãy chúng tôi thấy có một toán quân giặc, ước chừng hai mươi người, đi phía bên kia đồng, rồi thẵng qua hướng bắc, chắc là quân đi do thám của giặc.
Công-chúa nghe rồi thì bão rằng:
— Vậy chúng bây cứ việc chung xuống hang mà núp đó, chờ chúng nó đi ngang qua đây, thì áp lên bắt nó cho được, rồi dẫn về cho ta. Nói rồi công-chúa lấy tay khoát ra một cái, tức thì ba mươi mấy tên quân ấy đều nhảy ra lề đường lẹ làn, rồi chun mất xuống hang, chẵng còn một người ỡ trên mặt đất: hai thể-nữ ngó lại, thì thấy trên mặt đất liền lạc như thường, không thấy lổ hang chi hết, đó rồi công-chúa và hai thễ-nữ giục ngựa chạy tới; chậy được ước chừng it dậm, thấy một vòng binh trại cũa giặc Tây-sơn đóng dựa mé triền dài theo chơn núi.
Công-chúa liền gò cương ngừng ngựa, đứng nhắm một hồi, rồi lấy tay chĩ trên một hòn núi nhỏ kia, và day lại nói với hai thế nữ rằng:
— Chúng ta phải lên hòn núi thỗ-sơn nầy mà xem vào binh trai của giặc mới rõ.
Hai thể nử nói: Bẫm Công-chúa, hòn núi đó ở gần dinh trại của giặc lắm, nếu chúng ta lên đó, e quân giặc ngó thấy thì khó lòng.
Công-chúa mỉn cười và nói rằng:
Quảng cáo
IFrame
Cài đặt chế độ riêng tư
— Hể muốn tìm châu thì phải xuống biển, muốn biết ngọc thì phải vào non, nay ta muốn biết binh tình của giặc hư thiệt, nhiều ít thế nào, thì phải đến đó xem coi mới rõ, nói rồi, Công-chúa và hai thể-nử cởi ngựa chạy tuốc lên núi, lần lần leo lên trên chót, đứng ngó bốn phía vòng binh của giặc, thấy đèn đuốt lờ mờ, chói ra leo lét, ngó vào chính giữa vòng binh, thấy trước dinh trại có cậm một cây đại kỳ, thì biết là dinh trại của tướng giặc, rồi ngó ra phía sau, thấy đồ đạt ngổn ngang, thì biết là chổ nhung xa lương-phạn, còn chung quanh vòng binh đều lẵng lặng yêm liềm, chỉ nghe vẳn vẳn những tiếng dùi trống nhịp sanh trong mấy trại quân, thỉnh thoãng nghe kêu thùng thùng rắc rắc.
Công-chúa đương cởi ngựa đi qua rảo lại trên đảnh núi, rồi đứng châm chỉ xem coi các trại binh giặc. Kế thể nử Huỳnh-anh chạy lại nói rằng.
Bẫm công-chúa, tôi nghe ở dưới chơn núi, có tiếng người nói lào xào, chắc là quân giặc tới đây, xin công-chúa phải mau mau trở về, kẻo chúng nó ngó thấy.
Công-chúa nghe nói liền quày ngựa xuống núi, bổng thấy một tướng giặc ở dưới núi bước lên.
Công-chúa với hai thể-nử lật đật quức ngựa chạy mau, tướng giặc thấy tức thì giực ngựa rược theo xuống núi.
Nguyên tướng giặc nầy là một viên tiểu tướng của Tây-sơn tên là Lê-văn-Quang, đêm ấy đem một toán quân đi tuần chung quanh binh trại, bổng thấy có bóng người qua lại trên đảnh núi, liền bảo quân ở dưới chơn núi coi chừng, rồi day lại nói với tên bộ hạ kia rằng:
Ta thấy trên núi có dạng người, vậy ta cùng ngươi cỡi ngựa lên coi, hay là quân giặc lén tới dòm hành, thám dọ dinh trại của ta đó chăng? nói rồi liền dắc nhau tuốt lên trên núi.
Khi lên tới đảnh núi, thấy ba người nữ-tướng đương cởi ngựa chạy xuống phía mé bên kia.
Lê-văn-quang với tên bộ hạ, hai người giục ngựa rược theo: Công-chúa và hai thể-nử chạy quanh lộn trong núi một hồi, rồi cứ noi theo đường củ thẳng tới.
Còn tướng giặc là Lê-văn-Quang, với tên bộ hạ, giục ngựa chạy trước, và truyền quân rược tiếp theo sau, Khi rược theo đặng ít dậm đường, thình tình con ngựa của Lê-văn-Quang, với tên bộ hạ đều quị hai chơn trước xuống đất, làm cho hai tướng giặc nầy té nhào xướng ngựa, chừng ngó lại thì thấy ngựa bị vấp chơn vào mấy sợi dây dăng ngang qua đường nên phải quị xuống.
Công-chúa và hai thể nử chạy trước, thấy hai tướng giặc té nhào xuống ngựa, liền quày lại bảo thể nử bắt hai tướng ấy vừa người vừa ngựa, rồi dẩn đi về trại, còn một toán quân giặc lục thục rược theo phía sau, mới vừa rần rần chạy tới, bổng thấy hai bên đường thình lình dưới đất trồi bên hơn ba chục người, đều cầm khiên vát giáo, áp lại hổn chiến một trận, quân giặc thất kinh, hàng ngủ lộn xộn, chẳng biết binh tướng ở đâu dưới đất thình lình trồi lên, ào ào áp tới, thì hoãn vía kinh hồn, chẳng dám cự chiến, rồi cả thảy đều bị quân mai phục của Công-chúa bắt hết.
Khi công-chúa về tới dinh ra giữa thính đường, thì quân đao-phủ đả dẩn tướng giặc là Lê-văn-Quang vào dinh.
Quảng cáo
IFrame
Cài đặt chế độ riêng tư
Lê-văn-Quang ngó lên thấy công-chúa ngồi trên ghế cao, oai nghi trầm tịnh, sắc diện nghiêm trang, hai bên có hai thế-nử Bạch-Yến với Huỳnh-Anh, đều đai kiếm mang gươm, đứng hầu tề chỉnh, thì nghỉ thầm rằng:
— Khi nảy ta gặp người nầy trên núi, ngở là mội người tướng sỉ tầm thường, chẳng dè là Ngọc-Duệ công-chúa, ta đã nghe danh bấy lâu, nay mới thấy đây, thật là đáng một viên nử-tướng, nghi biểu đường đường, lại có vẽ thuyền quyên quốc-sắc, nghĩ vậy rồi theo quân đao-phủ buớc vào thính đường yết kiến.
Công-chúa thấy thì hõi rằng:
— Ngươi tên chi, và làm chức gì của giặc Tây-sơn Nguyễn-Nhạc?
— Thưa, tôi là Lê-văn-Quang làm chức thiếu-úy.
— Còn chánh tướng đạo binh ấy là ai?\
— Thưa chánh tướng của đạo binh Tây-sơn nầy là Nguyển-văn-Kiêm.
— Đạo binh cũa Nguyển-văn-Kiêm quân sĩ ước đặng bao nhiêu? ngươi hãy nói thiệt ta nghe, bằng nói sai lời, thì ta không dung ngươi được.
— Thưa, đạo binh nầy chĩ có một ngàn mà thôi.
Công-chúa nghe rồi, liền truyền cho đao-phũ quân đem Lê-văn-Quang và mấy chục quân giặc đều giam cấm vào ngục, và bão lấy đồ sắc phục của quân giặc ấy cho tướng sĩ mặc vào, giã làm đội quân cũa Lê-văn-Quang, rồi đi tiên-phong kéo tới trại binh Tây-sơn, áp vào mà cướp giết quân giặc, còn công-chúa với các tướng đem năm trăm binh mã theo sau đặng làm hậu tập.
Khi quân tiền đội cũa công-chúa kéo tới dinh trại Tây-sơn, mấy tên quân canh nhựt trước dinh, thấy quân ấy mặc một sắc phục như chúng nó, thì tưởng là quân tuần thám của Lê-văn-Quang trở về; nên không nghi ngờ tra hõi chi hết, đến chừng đội quân ấy lại gần, liền rút gươm giết chết mấy tên quân canh, rồi kéo thẵng vào trại, còn năm trăm binh hậu tập của công-chúa theo sau, tức thì kéo tới như giông, rồi xông vào áp giết quân giặc một trận rất dử.
Quân giặc đương ngủ, thình lình nghe binh mã ào ào áp tới, thì hồn bất phụ thễ, không kịp trở tay, bị binh cũa công-chúa tràn tới, lớp chém lớp đâm, tên bắn ra như mua bấc, quân Tây-sơn hoãn kinh rùng rùng kéo nhau chạy hết.
Lúc bấy giờ tướng giặc là Nguyển-văn-Kiêm, xông ra cãn cự không lại, rồi củng vỡ chạy theo quân.
Công-chúa đắc thế đùa binh rược theo một hồi rất xa, rồi mới truyền lịnh thâu binh trở lại.
Trận nầy công-chúa đoạt được lương phạn khí giới rất nhiều, và nổi lửa đốt hết dinh trại quân giặc, rồi kéo binh trỡ về, thì canh đã gần tàng, trời hầu rựng sáng.
Quảng cáo
IFrame
Cài đặt chế độ riêng tư
Nguyên tướng Tây-sơn Nguyển-văn-Kiêm có tánh kiêu căng khinh thị công-chúa Ngọc-Duệ là một nữ tướng, tài bộ bao nhiêu, nên ơ hờ chẵng thèm đễ ý đề phòng cẫn thận, vì vậy mà đêm ấy bị công-chúa đem binh cướp trại, và bị thất bại một trận rất to, chiến trượng nhung xa, hao mất chẵng biết bao nhiêu mà kễ.
Sáng bữa sau Nguyển-văn-Kiêm hội tập binh mả lại đặng sáu bãy trăm quân, còn đồ đạt, khí giới lương thão đều bị công-chúa đoạt hết.
Vua Tây-sơn Nguyễn-Nhạc ở Saigon nghe Nguyển-văn-Kiêm thất trận, liền sai Nguyễn-danh-Tập, làm đốc chiến đem năm trăm quân lên Biên Hòa mà trợ chiến cùng Nguyễn-văn-Kiêm, đặng đánh với công-chúa.
Khi Nguyển-danh-Tập đem binh lên hiệp với Nguyển-văn-Kiêm, rồi phân làm hai đạo, kéo tới vây phũ đồn lũy cũa công-chúa Ngọc-Duệ, quyết đánh một trận mà rữa sạch tiền cừu.
Công-chúa liền truyền lịnh cho các tướng sĩ phãi cố thũ trong đồn mà cự chiến với giặc.
Nguyển-văn-Kiêm liền truyền quân áp tới phá đồn hãm trận, công-chúa đứng trên mặt đồn, đốc suất tướng sĩ lấy cung nỗ súng ống bắn ra như mưa.
Quân Tây-sơn phũ vây đánh phá mặt tiền hơn mười bữa, quân sĩ bị nhằm tên đạn, mà chết chẵng biết bao nhiêu, nhưng không lấy đặng.
Bửa nọ quân Tây-sơn nữa đêm áp tới, mỗi đứa đều mang một cái khiên đễ đỡ tên bắn, rồi xốc vào bên dồn, bắt thang leo lên hãm trận một cách dử dội.
Công-chúa thấy binh Tây-sơn ào vô hằng hà sa số, quân sĩ trong đồn thế cự không lại, bèn truyền lịnh mở cửa đồn sau, rồi rút binh theo đường rừng mà chạy.
Khi Nguyễn-văn-Kiêm đoạt đặng đồn giữa rồi, kéo binh qua lấy đồn tả, và đồn hửu, đặng kiếm Công-chúa mà bắt, thì Công-chúa đã đem quân sĩ bộ hạ chạy đi xa rồi, kế gặp Lê-văn-Quang ở trong ngục phá cửa chạy ra.
Nguyển-văn-Kiêm bèn sai Lê-văn-Quang hiệp với Nguyển-danh-Tập đem binh rược theo, truy tầm Công-chúa mà bắt cho được.
Lúc bây giờ Công-chúa chạy theo đường rừng tuốc qua Thủ-dầu-một, thì chỉ còn quân sỉ bộ hạ chẳng đầy một trăm.
Công-chúa bèn kiếm chổ tìm tàng, tạm ẩn ít ngày, đặng chờ tin chồng là Nguyển-hửu-Thoại qua xiêm về, rồi sẽ tùy cơ liệu luợng.
Bữa nọ Công-chúa với hai thể nử Huỳnh-anh và Bạch-yến, đương ngồi nơi nhà hậu đường bàn tính công việc, bổng có một người xin vào ra mắt.
Công-chúa lật đật bước ra, thấy tên nội thị của Nguyển-vuơng là Phụng-Tường thì vội vàng hỏi rằng:
Quảng cáo
Cài đặt chế độ riêng tư
— Ủa quan nội thị Phụng-Tường, ngươi đến đây có việc chi?
Phụng-Tường thấy Công-chúa liền vội vàng bước tới thi lể rồi bẫm rằng:
— Bẫm Công-chúa, tôi vâng lịnh Nguyễn-vuong đến tìm Công-chúa.
Vưong-mẩu và Vương-huynh ta bình yên mạnh giỏi chăng?
Bẫm Công-chúa, lịnh Vương-mẫu và Đức Nguyển- vương đều mạnh khoẻ hết cả.
— Vậy thì nhà ngươi tìm ta đến đây về việc binh tình quốc sự, hay là về việc gia quyến của ta?
— Bẩm Công-chúa, tôi phụng mạng lịnh quốc-mẩu và Đức Nguyển-vuong sai đến tìm kiếm Công-chúa, đặng trao thơ nầy cho Công-chúa khai khán, nói rồi liền lấy phong thơ trong áo trao ra.
Công-chúa lấy thơ rồi đứng trước bàn, chúc cho lịnh Vương-mẩu và Vương-huynh hai tiếng bá phúc, rồi dở thơ ra xem; thơ nói như vầy:
« Ta vội vàng tả ít hàng vắn tắc cho Công-chúa hiền mụi đặng rỏ; trước khi ta cất bút đề thơ, ta đã gạt mấy giọt nước mắt thương tâm mà tỏ cho hiền mụi hay rằng: Phu-tướng của hiền mụi là quan Chửong-cơ Nguyển-hửu-Thoại, trong lúc phụng sứ qua Xiêm, cầu binh cứu giúp, rủi thay mới vừa nữa đường, gặp quân Tây-sơn và quân Caoman cãn trở, làm cho quan Khâm-sứ Nguyễn-hửu-Thoại phải sa xuống vực thẩm, mà táng mạng giữa chốn chiến trường kia rồi. »
Công-chúa đứng trước bàn, vừa đọc tới đây, thì la lên một tiếng: Ủa! và nói: Trời ôi! phu-tướng ta đã táng mạng giữa chốn chiến trường kia rồi! Nói vừa dứt, thì hai mắt Công-chúa dường như có một chòm mây kéo qua, làm cho tối tâm mờ mịt, rồi mặt mày chán ván, bủng rủng tay chơn, bức thơ đương cầm nơi tay, bổng chúc đã rớt ngay xuống đất, rồi xiểu mình nơi bàn mà bất tỉnh.
Hai thễ-nử đứng hai bên thấy vậy liền chạy lại đở Công-chúa ngồi nơi ghế, thì thấy Công-chúa, mặt đả tái xanh, hai thễ-nử kêu gọi một hồi, Công-chúa tỉnh lại, liền lấy khăn lau nước mắt, rồi đở thơ xem tiếp đoạn sau, thấy nói như vầy:
« Hiền-mụi ôi! ấy là cơ trời xui khiến, vận nước đảo điên, nên gặp nhiều cảnh ngộ gian nan, làm cho lòng người lắm đều chua xót, nay cung quyến còn tỵ nạn tại cù-lao Phú-quốc, và ta đương lo chiêu tập các đạo binh nghỉa-dỏng cần-vương, rồi sẽ toan bề phục thâu bờ cỏi, bây giờ hảy còn nước bước linh đinh, minh mang trời bể, chưa định đi ở nơi nào! vì vậy ta vâng lịnh từ mẩu gởi thơ nầy, khuyên hiền-mụi chẳng nên quá ư chác thảm mua sầu, mà tâm thần hao tổn, vậy thì hiền-mụi hảy bỏ đồn Bình-Hóa, bải việc chiến chinh, đặng mau mau theo quan nội-thị Phụng-Tường mà trở ra Phú-quốc, ngỏ cùng cung-quyến sum hiệp một nhà, kẽo lịnh từ mẩu ngày đêm trông đợi. »
Công-chúa xem thơ rồi, khóc nức nở một hồi, bèn day lại nói với Phụng-Tường rằng:
Quảng cáo
IFrame
Cài đặt chế độ riêng tư
Quan nội-thị, phiền ngươi về trước tâu lại cho Vương-Mẫu và Vương-Huynh ta hay rằng: ta đã thất thủ đồn Bình-Hóa, và quân Tây-sơn đương đem binh ruợc theo, truy tầm tứ hướng, vậy ta phãi kiếm nơi tạm trú mà tỵ nạn ít ngày, đặng chờ quân Tây-sơn rút binh trở về, chừng ấy ta sẻ lần ra Phú-quốc mà sum hiệp cùng từ mẩu và Vương-Huynh ta mới đặng.
Phụng-Tường lãnh mạng rồi từ giã Công-chúa ra về, bổng có quân thám thinh vào báo rằng:
— Bẩm Công-chúa, có Lê-văn-quang, và Nguyển-danh-Tập đem binh truy tầm Công-chúa, bây giờ đương đóng dinh trại nơi rừng nầy, cách chừng năm dặm.
Công-chúa hỏi: binh nó cả thãy ước chừng bao nhiêu?
— Bẩm Công-chúa, đội quân của Lê-văn-Quang đi tiền đạo ước chừng năm chục người, còn đạo binh của Nguyển-danh-Tập đi sau độ chừng hai trăm quân sỉ.
Công-chúa nghe nói ngẫm nghĩ một hồi, rồi day lại nói với các Quân sỉ rằng:
— Thằng Lê-văn-Quang đã bị ta bắt được một lần, không giết là may, bây giờ hãy còn đem binh rược theo, vậy thì số nó đã muốn chết về tay ta, nên ngày nay đến đây mà nạp mạng, nói rồi Công-chúa liền bảo năm chục quân sỉ đem cung tên ra núp dựa mé rừng, chờ Lê-văn-Quang đi đến, thì bao nhiêu mũi lên sẽ phát ra một lược mà giết nó, còn Công-chúa với hai thế nữ, đem ba chục quân nhơn ra dẩn dụ tướng giặc.
Lê-văn-Quang thấy Công-chúa cởi ngựa ra trận, chĩ có hai ba chục quân nhơn, liền đốc binh kéo tới xáp chiến.
Công-chúa truyền quân vừa đánh vừa chạy thối lui, Lê-văn-Quang thấy Công-chúa chạy trước, thì đốc quân sỉ rược theo, quyết bắt Công-chúa cho được mà lập đầu công, khi rược tới khoãn rừng rậm kia.
Lê-văn-Quang sợ có phục binh, bèn bão hai mươi quân sĩ đi trước dọ đường, còn mình đem binh theo sau, lần lần tấn tới.
Khi thấy quân tiền đội đi trước đã xa, mà chẳng có phục binh ngăn trở, thì cười và nói với tướng sỉ rằng: Ngọc-Duệ chẳng biết dụng binh, nếu chổ nầy mà có phục binh, thì ta ắc không đường sanh lộ, nói rồi liền giục ngựa kéo binh rược theo, chẳng dè Công-chúa đứng núp trong rừng, để quân tiền đội đi qua, chẵng cho náo động chi hết, chờ khi Lê-văn-Quang đi tới, tức thì Công-chúa hô lên một tiếng; thì năm chục quân mai phục trong rừng, cũng rập nhau ré lên dậy trời, rồi nhắm ngay Lê-văn-Quang, bắn ra như mưa bấc.
Lê-văn-Quang hoãn kinh quày ngựa muốn chạy, bổng đâu một mủi tên bay tới trúng ngay vào mặt, anh ta la lên một tiếng châu ôi! thì đã bị mười mấy mũi tên khác bay tới gâm vào trên mình, tức thì té nhào xuống ngựa mà chết, còn mấy chục quân sỉ lớp bị thương, lớp bị chết, rồi kéo nhau chạy hết.
Kế đạo binh cũa Nguyễn-danh-Tập ùng ùng kéo tới hơn hai trăm, binh cũa công-chúa tuy cứ hiểm, ân núp trong rừng bắn ra, nhưng mà số binh ít lắm, nên đánh không lại, còn binh cũa Nguyển-danh-Tập ào ào tràn tới, lớp lấy lữa đốt rừng, khói bay mù mịt, lửa cháy đõ trời, lớp đem binh rược theo công-chúa mà tập nã.
HỒI THỨ HAI MƯƠI BẢY
Nơi phật tự thuyền quyên tá túc,
Chốn thạch đầu hòa-thượng vong thân.
Lúc bấy giờ công-chúa bị Nguyển-danh-Tập đánh một trận rất hung, quân sĩ đều tãng lạc chạy hết, chĩ còn hai thễ nữ Huỳnh-Anh với Bạch-Yến chạy theo mà thôi, công chúa bèn dắc nhau giục ngựa chạy quanh lộn trong đường rừng, đặng kiếm nơi mà tị nạn, nỗng gò cao thấp, rừng bụi gay go, hai bên đường thì gai gốc phủ vây, nhành cây cãn trở, dường như nó thấy một viên nữ tướng, đã cùng đồ thất trận, sức yếu thế cô, thì rũ nhau xúm lại, mà chận đường bít ngõ.
Công-chúa tuông bờ lước bụi, chạy đặng một hồi, ngó lại thì một vừng thái-dương đã lần lần lặng chen dưới núi, lúc bấy giờ cã thãy cây cõ đều lờ mờ, mà đường đi lại thêm bịt lối, công-chúa với hai thể-nử ngừng ngựa, trông xem bốn phía đều rừng bụi quạnh hiu, chĩ nghe những tiếng dế gáy re re, sành kêu tích tích, kìa là cây nhen lửa đốm, nhắp nhán bên rừng, nọ là tiếng vượng ru con, nĩ non trên nhánh, thật là một cãnh ngộ rất thãm khỗ rất gian truân, dẫu cho một người dạ sắt gan đồng thế nào, mà gặp lối cùng đồ như vầy, thì cũng phãi hồn tiêu phách lạc.
Nhưng mà công-chúa vẫn là một gái đã có sẵn tinh thần nghị lực, cang đỡm phi thường, đối với một cãnh ngộ nguy hiểm gian nan như vầy, mà chẵng chút chi gọi là nao lòng rũng chí, chạy một hồi, bụng đã đói cơm, miệng thêm khát nước, công-chúa liền thò tay vào áo, lấy ra ít trái ô-mai, đưa cho hai thễ nữ mỗi người một trái và nói rằng:
— Hai ngươi hãy ngậm lấy trái nầy cho đở khát, nói rồi công chúa cũng lấy một trái bõ vào miệng, chấp chấp và cười mà nói cách hòa huỡn rằng:
— Lúc đi đường rừng bụi, trái ô-mai nầy là một hốp nước thanh tuyền, để mà giải cho người hành khách trong cơn khao khát, thể-nử Huỳnh-Anh bước lại một bên công-chúa và nói:
— Bẫm công-chúa, bây giờ chúng ta không có đường nào mà đi nửa, nếu quân giặc rược theo, thì chúng ta biết liệu làm sao?
— Chúng ta sẽ có một nẻo đường thông hành ở dưới mấy cái lưởi gươm cũa chúng ta đây, nói rồi công-chúa liền rút cây thanh kiếm bên lưng ra, cởi ngựa xốc tới chém mấy cây gai gốc cãn trở trước đường, hai thể nử thấy vậy cũng chặc đốn một hồi, gay gốc đều trống hết, thì thấy một nẻo đường nhõ bên kia ló ra; công-chúa bèn giục ngựa đi tới hai ba chục bước, bèn bão hai thễ nữ lấy gai ráp lại rồi, cả ba người đều lước bụi càng cây đi quanh lộn một hồi, vừa ra khỏi rừng, tới chỗ khoản trống, bỗng thấy một hòn núi, sờ sờ hiện ra trước mắt, trên hòn núi ấy lại thấy một ánh đèn chớp nhán, ẫn ẫn trong mấy tàng cây.
Thể nữ Bạch-Yến la lên rằng:
— Bẫm công-chúa có đèn nhà ai ở trên đãnh núi, vậy xin công-chúa lần tới thử coi.
Công-chúa nghe nói liền giục ngựa lước tới, lần theo đường mòn bước lên; thì thấy một cãnh chùa nhõ ở dựa thạch bàn, công-chúa với hai thễ-nử xuống ngựa bước vào thấy một Hòa-thượng trạc chừng ba muơi mấy tuỗi, đương ngồi trên ghế, lật đật chạy ra tiếp chào công-chúa và nói rằng:
— Thưa quí nương ở đâu lạ mặt, có việc chi mà đến đây trong lúc đêm hôm? phải là khách đoàn việt[1] viếng chùa,hay là người du phương điền điệp?
Công-chúa đáp rằng:
— Ta là công-chúa Ngọc-Duệ là chánh thất cũa quan chưởng-cơ Nguyển-hửu-Thoại, trấn tại đồn Bình-Hóa, bị tướng Tây-sơn là Nguyển-danh-Tập đem binh đánh lấy, nên ta chạy lạc vào đây, xin Hòa-thượng cho ta tá túc một đêm, sáng mai ta sẻ tìm qua xứ khác.
Hòa-thượng nghe nói liền rảo mắt ngó công-chúa với hai thễ nữ rồi đáp rằng:
— Bẩm công-chúa, vậy xin mời công-chúa và hai cô vào trong đặng dùng trà giải khát.
Công-chúa và thể nử cột ngựa nơi trước chùa, rồi cùng nhau vào trong, thấy trên cữa có một tấm bảng đề là « Vân-phong-Tự » trong chùa chĩ thờ một ít vị phật trên bàn mà thôi, chớ chẵng có chưng dọn chi hết.
Hòa-thượng liền mời Công-chúa bước vào hậu-đường, thì thấy có một bộ váng, và ít cái ghế ngồi sơ sài, phía bên chái có một căng phòng nhỏ nhỏ, Hòa-thượng bão mấy tên đạo chúng trãi chiếu pha trà, rồi chắp tay mời Công-chúa và thể-nử ngồi và nói rằng:
Bẩm Công-chúa, chùa nầy chật hẹp không có xứng đáng mà rước một vị quới khách như Công-chúa, vậy xin Công-chúa miển chấp.
Công-chúa nói: không hề gì, miễng có chổ cho chúng ta nghĩ đở một đêm thì thôi, xin thoàn-sư chớ ngại.
Công-chúa và hai thể-nử uống ít chung trà, rồi bước ra ngoài hậu-đường, thấy phía sau có một nhà nhỏ, để cho các đạo-chúng ở, rồi đi vòng ra trước, đứng xem bốn phía, thấy non cao rừng rậm, cây cỏ mịt mù, thật là một chỗ cùng cốc thâm lâm, sơn khe hiễm trở, Công-chúa day lại hỏi Hòa-thượng rằng:
— Chỗ nầy có đường nào thông hành qua xứ khác không?
— Bẩm Công-chúa, chổ này là chổ đã cùng đường, chỉ có một đường của Công-chúa vào đây khi nãy đó thôi, còn bốn phía chung quanh đều là truông hố hiễm nguy, rừng cao nước độc, không thế gì đi đâu cho đặng.
Công-chúa nghe nói thì nheo mày cúi mặt, rồi cắn móng tay cái nơi miệng mà nghỉ thầm rằng:
— Nếu vậy thì quã thật ta đã vào chỗ tuyệt vức cùng đồ đây rồi, không còn đường nào mà mong qua xứ khác cho được;
Hòa-thượng đưa qua cập mắt láo liên, trộm liếc Công-chúa rồi hỏi rằng:
— Bẫm Công-chúa, Công-chúa muốn hỏi thăm đường đặng qua xứ nào?
— Ta muốn qua Tayninh hay là trỡ về Baria, hai xứ ấy có ngã nào đi băng trong rừng mà đến đó đặng không?
— Bẩm Công-chúa, muốn đi qua hai xứ đó, thì phãi trở lại đường củ là đường Công-chúa vào đây đó mà thôi, chớ không có đường nào khác hết, Công-chúa nghe nói thì đứng sửng và nghỉ thầm rằng: ngoài đường thì bị quân Tây-sơn ngăn đón, chung quanh lại bị rừng núi bao vây, thế thì số mạng ta chỉ đến chừng nầy mà thôi, nên khiến cho ta thất lạc vào đây là chổ cùng đồ tuyệt mạng, nghỉ vậy rồi day lại nói với Hòa-thượng rằng:
— Thôi, Hòa-thượng hãy tự tiện nghỉ ngơi, đễ chúng tôi vào hậu đường tá túc một đêm rồi sáng ra sẽ tính, nói rồi Công-chúa với hai thể nử, vào hậu-đường đóng cửa lại nghỉ.
Còn Hòa-thượng đi thẳng ra phía nhà sau, cách chùa chừng ba bốn chục bước, cũng đóng cửa lại, rồi kêu hai tên sãi kia và nói rằng:
Các anh em, hôm nay chúng ta gặp được một cơ hội rất may mắn lắm.
Hai tên sải kia nghe nói, thì ngó sửng Hòa-thượng mà hỏi rằng:
— Bạch Hòa thượng, cơ hội gì mà Hòa-thượng gọi rằng may mắn?
— Các ngươi hồi nãy không nghe nàng ấy nói rằng: nàng là công-chúa Ngoc-Duệ bị tướng Tây-sơn là Nguyển-danh-Tập đem binh đánh lấy đồn Bình-Hóa, nên nàng bại trận chạy lạc vào đây đó sao?\
Hai sãi kia, gặt đầu lia lịa và đồng ứng thinh mà nói rằng:
— Phải, chúng tôi nghe nàng nói vậy, song sự ấy làm sao? mà Hòa-thượng gọi rằng may mắn?
Hòa-thượng cười khan một tiếng rồi nói rằng:
— Sự đó là một cơ hội may mắn cho ta và cho hai ngươi lắm đó, để ta nói hết cho hai ngươi nghe.
Hai sải nghe nói một cơ hội may mắn cho mình thì lật đật bước lại một bên Hòa-thượng, rồi một tên vẫu tai để nghe, còn một tên nhướng mắt ngó sửng.
Hòa-thượng tằng hắng một tiếng cho thông cổ rồi nói rằng:
— Nguyên khi trước ta với Nguyển-danh-Tập chẵng nhửng là người đồng hương đồng xứ mà thôi, lại là một bạn đồng song đồng chí, học một trường, nằm một chiếu, kết làm một bạn thiết nghĩa thân bằng.
Khi vua Tây-sơn là Nguyễn-Nhạc đem binh vào Qui-nhơn, đi ngang qua tỉnh Quãng-nam, nghe thiên hạ đồn rằng: tại Ngũ-hành-sơn dựa bên mé biễn, có một cái hang rất sâu, có kẻ kêu là hang « Thuồng-Luồng » lại có người gọi là hang « Âm-Phũ », thường thường nhửng người phường chài ở theo mé biển đó, hay bị giống yêu quái chun ra mà làm hại chẳng biết bao nhiêu.
Vua Tây-sơn nghe thì lấy làm một sự quái gở, bèn dắc các quan binh đến viếng, thấy hang ấy ở dựa chơn núi rất to, trên miệng lớn bằng hai căng nhà, ngó xuống sâu xa thâm thẩm, Vua Tây-sơn muốn biết hang ấy sâu cạn thế nào, và thông hành vào đâu, thì day lại hỏi các quan tùy tùng rằng:
— Trong hàng tướng sĩ ai dám xuống đó mà thám dọ địa huyệt?
Các quan văn võ chẳng ai dám đi, lúc ấy ta và Nguyển-danh-Tập (là người bây giờ đương chiến trận với công-chúa Ngọc-Duệ nầy) mới xin đầu quân, được tuyển làm thị-vệ, đồng theo hộ giá vua Tây-sơn, Nguyển-danh-Tập thấy vua Tây-sơn hỏi vậy, mà chẳng một ai dám chịu lãnh mạng ra đi, thì bàn với ta rằng:
Hai ta mới vào đầu quân, chưa có lập được công cán chi hết, vậy nhơn dịp nầy chúng ta tình nguyện xin đi, ngỏ đặng lập chút công lao, thì mới mau thăng quan tấn chức.
Ta nghe Nguyển-danh-Tập nói vậy, bèn vổ ngực chịu liền, đó rồi hai ta đồng ra phụng mạng xin đi thám dọ địa huyệt.
Hai sải kia nghe nói, rùng mình một cái mà rằng: Hòa-thượng thật là dạng gan lắm, hòa-thượng không sợ yêu quái sao?
Hòa-thượng mỉn cười rồi nói tiếp rằng:
— Vua Tây-sơn thấy Nguyển-danh-Tập và ta chịu đi, thì vui sắc mặt mà nói rằng:
— Ta khá khen cho hai ngươi là người mới đầu quân, mà có gan đởm, vậy hai ngươi có đi thì ta sẽ cho mười tên quân nhơn tùy tùng đặng giúp đở hai ngươi trong lúc hửu sự, ngài nói rồi liền truyền cho mười đứa quân nhơn, mổi đứa đều cụ bị khí giới và đem theo một bó đèn chai, hơn cả trăm cây, còn Nguyển-danh-Tập và ta thì ngài ban cho mổi người một cây súng và thuốc đạn đều đủ, ngài lại phát cho một cái thùng cây, và một đường dây dài hơn hai mươi mấy sải, với hai cái Đồng-la rất to.
Hai sải kia nghe nói lấy làm lạ, day lại hỏi rằng:
—Vua Tây-sơn ngài phát cho mấy món ấy, cốt để làm gì?
Sao lại dây luột và Đồng-la, để làm chi vậy?
Hòa-thượng nói:
— Cái thùng và đường dây ấy là để khi gặp chổ hang sâu vực thẩm, thì phải một người vô ngồi trong thùng rồi cột dây mà thòng xuống, còn hai cái Đồng la đó, thì để phòng khi nào có gặp yêu-quái dử tợn, thì đánh lên cho giống nó nghe mà hải kinh, và cho quân sỉ trên miệng hang nghe đặng xuống mà tiếp cứu. Ngài lại truyền cho năm trăm quân sỉ súng ống gươm giáo, ngày đêm canh giử trên miệng hang, đễ nghe động tịnh thế nào mà phòng bị; sau khi sắp đặt công việc xong rồi, Nguyển-danh-Tập và ta nai nịt y giáp tữ tế dắc nhau xuống hang, hai tên quân cầm đèn đi trước rọi đường, hai ta thì guơm dắc bên lưng, súng nghiềm trước mặt, đi quanh lộn trong hang một hồi hang ấy tối đen, mà càng ngày càng rộng và sâu, coi bộ đường đi còn xa thẩm thẩm, hết đèn nầy thắp đèn khác, nhưng cứ việc đi tới luôn luôn, có chổ đi lên như gò, có nơi đi xuống như hố, có chổ thì đường thẵng đất bằng, như đi trên lộ, đi ước hồi lâu coi lại thì đốt đã cháy hết năm chục cây đèn chai rồi, mà hang còn dài không biết chừng nào mà đi cho hết.
Nguyển-danh-Tập nói với ta rằng:
— Chúng ta đi một buổi nay đã hết năm chục cây đèn chai rồi, chĩ còn có năm chục cây mà thôi nếu đi nữa thì chừng trở về chúng ta không đèn mà đi cho đũ, vậy thì chúng ta phãi trở về tâu lại cho vua Tây-sơn hay, và xin đèn thêm rồi đi mới được, đó rồi chúng ta đều dắc nhau trở lại.
Khi lên tới miệng hang, thấy quân sĩ còn đứng canh giữ hai bên, mà trời đã tối.
Hai tên sải kia nghe nói tới đó thì hỏi rằng:
— Nếu vậy Hòa thượng với mấy người kia, đi dưới hang ấy ước được bao lâu.?
— Khi chúng ta đi, thì mặt trời mới mọc, mà khi về tới miệng hang thì trời đã tối mò.
Hai sải kia nghe nói rất nên kịnh dị, rồi le lưởi lắc đầu và nói rằng: thật chẵng biết hang gì sâu dữ như vậy? mà Hòa thượng có đi lần thứ hai nữa không.
— Sao lại không đi, khi chúng ta về tâu cùng vua Tây-sơn, thì ngài lại truyền quân nhơn, đem theo hai trăm đèn chai, phen nầy chúng ta đi khõi lần trước rất xa, khi đi tới một chổ rộng kia, thì thấy những đống chi trắng trắng, rãi theo bên hang, ta bèn bão tên quân nhơn đem đèn lại xem. thấy sọ và xương người ta chẳng biết bao nhiêu mà kể, chúng ta thấy vậy đều rởn ốc lạnh mình; Nguyễn-danh-Tập day lại nói với ta rằng: chắc có con yêu quái gì đây, thuở nay ăn thịt người ta rất nhiều, nên bõ sọ xương lại đó.
Mấy tên quân thấy vậy đều thất vía kinh hồn, bèn nói với Nguyển-danh-Tập rằng: xin ngài trở về, nếu đi nữa ắc là chúng ta phải bị yêu quái ăn hết.
Nguyễn-danh-Tập cũng thất kinh. song dằn trí xuống làm mặt dạn dỉ và nói rằng:
— Yêu quái thây kệ, chúng ta có sẵng súng đây, nếu nó ra thì ta giết nó cho, không hề gì mà bây sợ, nói rồi Nguyễn-danh-Tập lấy rượn ra uống và đưa cho ta một ly mà rằng: chúng ta muốn mạo hiễm, thì phãi lấy rượu làm nư, và cho mấy tên quân mổi đứa một cốc, rồi cứ việc lần lần đi tới.
Hai tên sãi kia nghe nói cũng rùng mình mà hỏi rằng:
— Hòa-thượng thấy vậy có sợ không? chớ chúng tôi nghe nói lại đây cũng đủ nhổm gáy.
Hòa-thượng nheo mày mà đáp rằng:
— Ai gặp cái cảnh ngộ hung ác như vậy mà chẳng kinh hãi phập phòng, song làm dạn mà đi với anh em, chớ trong lòng đã rụng rời chết điến.
— Rồi sao nửa xin Hòa-thượng hãy nói luôn cho chúng tôi nghe thử.
— Chúng ta đi được một đổi nữa, thì đèn đã cháy gần hết một trăm cây, kế thấy một đống xương rất to, ta bão hai tên quân cầm đèn lại coi, thấy một cái sọ voi rất lớn, và có hai cái ngà voi mổi cái dài hơn một sải
Hai sải nghe nói thì chận lại hõi rằng: Úy, sọ voi và ngà voi ở đâu, sao lại xuống hang âm phủ?
Hòa-thượng nói: Vì vậy cho nên Nguyển-danh-Tập lấy làm kinh ngạc, day lai nói với ta rằng:
— Anh nghĩ thử coi, ngà voi và sọ voi ở đâu, sao lại có dưới hang nầy, tưởng chắc là giống yêu quái kia bắt tới voi, ăn rồi bõ xương và ngà lại đó chớ gì, vã lại voi là loại thú ở rừng, chớ chẵng phải loại ở hang ỡ lỗ, nói rồi bảo quân tùy tùng lấy cập ngà để riêng ra, đặng khi trở về lấy mà dâng cho vua Tây-sơn để làm kỹ niệm.
Đó rồi cả thãy mấy anh em kéo nhau lần lần đi tới, đi được một đổi, bỗng thấy hang ấy trổ làm hai ngách, một ngách trổ ra phía tả, còn một ngách ăn qua phía hữu; đến đó đường hang phân làm hai ngả, ta và Nguyển-danh-Tập đương đứng bàn tính, chưa biết phải đi đường nào, xảy nghe những tiếng ồ ồ ở đâu lần tới, ban đầu còn nghe tiếng ấy xa xa, một chút đả nghe ào ào gần tới, mấy tên quân thảy đều sắc mặt tái xanh, vía hồn mất hết, kêu lên mà rằng: Hai ngài ôi, chết, chết, yêu quái đi tới ồ ồ kia cà.
Ta cũng hải kinh chắc là yêu quái đi tới, liền bước lại hỏi Nguyển-danh-Tập rằng: Anh có biết tiếng gì ồ ồ đó không ?
Nguyển-danh-Tập cũng tái mặt mà đáp rằng:
— Không biết tiếng gì lạ quá, mà nghe rền dội cả hang.
Ta lại nói với Nguyển-danh-Tập rằng: cái tiếng ấy chẵng bao lâu nữa, thì sẽ tới đây, vậy thì bảo quân tùy tùng phãi lấy đèn chai đốt thêm cho sáng, rồi chúng ta núp theo hai bên kẹt đá, đặng để rình coi, nếu quã yêu quái đến, thì hắn thấy lữa cũng chẵng dám lại gần, còn mình thì núp theo kęt tối dòm ra, đặng coi yêu quái thế nào cho biết.
Nguyển-danh-Tập nghe ta nói vậy liền đáp rằng: Anh nói phải đa, phàm yêu quái thấy lửa sáng thì có lẽ phãi sợ mà chẵng dám lại gần, nói rồi truyền cho mấy tên quân, lấy đèn chất lại mot đống, rồi đốt cháy rần rần, chói ra sáng rỡ, kế có một luồng gió thoãn tới ồ ồ, thổi qua lạnh ngắc, và phưởng phất bay ra nhửng mùi rất hôi tanh lạ thường, thật là một trận gió rất tanh, làm cho chúng ta đều phải nín hơi bịt mủi.
Nguyển-danh-Tập bèn kêu ta mà nói nhõ rằng:
— Chắc nó, chắc nó, chúng ta phải nghiềm súng cho sẵn, và bão mấy tên tùy tùng phải tuốt gươm ra, núp theo mấy đống xương voi, phòng khi hửu sự mà cự chiến.
Mấy tên quân vâng lịnh lại núp theo sau đống xương, mà sợ đả run en phát rét, còn ta với Nguyển-danh Tập ực thêm hai cốc rượu nữa cho tráng kiện tâm thần, nhưng hai hàm răng cũng cứ khua nhau nghe kêu cấm cốp.
Hai sải kia nghe nói cũng lạnh mình, rồi thúc rằng:
— Hòa-thượng hảy nói mau cho chúng tôi nghe coi yêu quái ấy sẽ ra thế nào,
Hòa-thượng trợn cập mắt ốc bưu lên ngó hai sải và nói cách tỉnh tề rằng:
— À, thật quái gở lắm, thật ghê gớm lắm, nếu hai chú lúc ấy ở đó, thế cũng bay mất tâm-hồn, mà ngã lăng té xiễu.
Hai sãi nghe nói rất lạnh mình, rồi lại thúc rằng:
— Hòa-thượng nói đi, hai tôi muốn nghe chuyện con yêu quái rất ghê gớm ấy.
Hòa-thượng quay đầu dòm ra ngoài trời một hồi và day lại ngó lên trên chùa, lóng tai nghe chi một chút rồi hỏi hai sãi rằng: bây giờ ước chừng mấy canh?
— Bạch Hòa thượng, bây giờ đả hết canh một, ước chừng nhằm lối canh hai.
Hòa-thuợng suy nghĩ một chút rồi bão hai sãi rằng:
— Hai ngươi hãy lén lên chùa, nghe coi công-chúa với hai đứa thể-nử ngũ chưa, và xuống nói cho ta biết, rồi ta sẽ thuật hết chuyện con yêu quái cho hai ngươi nghe.
Hai sãi thưa vâng, liền mở cửa bước ra, sẻ lén lên chùa đứng ngoài rình nghe một hồi, thấy trong chùa đều lặng lẽ, mà đèn ở hậu đường đã tắc tối đen, chỉ còn một ngọn đèn dầu chong trên phật đài, khi tỏ khi mờ, nhán ra leo lét; hai sãi bèn ghé mắt vào kẹt vách dòm vô, thấy công-chúa nằm trong phòng nhỏ, kế giữa hậu đường, còn hai thể-nữ nằm trên váng sau phía bên góc chái, cã thảy ba nàng đều mê mang giấc điệp, phê phê một vóc Trà-mi, nghiên ngữa gối hòe, phới phới hai nhành thược-dược, xem hoa rồi động, thật là gái thuyền quyên đẹp đẻ dạng hình; thấy ngọt cũng thèm, khiến cho sãi yêu nghiệt ngẩn ngơ hồn phách.
Hai sãi xem rồi, nuốt nước mieng, và lật đật trở lại nhà sau, hé cữa bước vào, thì Hòa-thượng còn ngồi nơi ghế.
Hòa-thượng thấy hai sải bước vô, thì hỏi nhỏ rằng:
— Hai ngươi có thấy chi lạ trên chùa không?
— Bạch Hòa-thượng, không chi lạ hết, chĩ thấy ba nàng nằm đó phê phê, mà coi bộ ngủ mê thiêm thiếp, chớ không chi lạ cã.
Hòa-thượng nghe thì có ý nghĩ nghị đều chi một chút rồi day lại nói rằng:
— Nãy giờ hai cập mắt ngươi đã xem thấy ba vóc tiên nga đẹp đẻ, bây giờ bốn lổ tai ngươi có muốn nghe chuyện yêu quái gớm ghê nửa không?
Hai sãi chúm chím mà nói rằng:
— Bạch Hòa-thượng, xin hòa-thượng thuật tiếp chuyện yêu quái ấy cho tôi nghe.
Hòa-thượng nói: hồi nảy ta thuật chuyện ấy tới đoạn nào, hai ngươi nhớ không?
— Bạch Hòa-thuợng, tới cái đoạn một trận gió tanh, làm cho Hòa thượng phải nín hơi bịt mũi đó mà.
Hòa-thượng gặt đầu rồi tiếp rằng:
— Khi trận gió ấy thoãn tới hơi bay lạnh ngắt mà mùi phất tanh rình, bổng nghe phía hang bên tã, tiếng chi ồ ồ, dường như có giống gì lần lần đi tới.
Nguyển-danh-Tập liền bước lại nói nhõ với ta rằng: chắc nó, chắc nó, chúng ta hãy núp sát vào kęt hang, còn bốn mắt đều châm châm ngó ngang ngọn lữa đương cháy, kế thấy phía hang bên tã, ló ra một cái đầu rất lớn như cái lu, hai mắt đõ như hai ngọn lửa, hai lỗ mũi lớn như mũi trâu, mặt có đúm đỏ đúm đen, trên đầu có một cái mồng xanh lét như chàm, lòng thòng hai bên như hai cái túi, hàm răng chôm chổm như hai cái bàn chông, trên cỗ có hai cái khoen vàng lươm, và hai khoen đõ lói.
Con yêu quái ấy cất đầu lên cao hơn ba thước, ngó châm châm đống lửa, rồi le lưởi ra dài hơn mười sải, liếm trên ngọn lửa một cái, và phùng hai mang ra thổi tới nghe tiếng vo vo, lúc bấy giờ lửa lại rần rần cháy lên rất dữ.
Ta và Nguyển-danh-Tập cầm súng núp trong kẹt đá, mà cả và mình mầy rung như thằng lằng đứt đuôi, kế thấy con quái ấy quày đầu lại chun qua phía hang bên hửu, rồi tha thểnh bò đi, thì thấy trên lưng đen láng như huyền, mà bên hông thì có sọc vàng sọc xanh xen nhau, xem rất ghê gớm.
Nguyển-danh-Tập và ta thấy con yêu quái ấy chun qua hang kia bò đi, thì hồn vía mới lần lần tỉnh lại, rồi để rình coi nguyên hình của nó thể nào, thì thấy mình lớn ước chừng hai ôm, khúc thì gò lên, khúc thì dủi tới, khúc thì thun lai, khúc thì dảng ra, thỉnh thoản bò đi. xem trên lưng như lằng sóng dợn, trường trên mặt đất nghe tiếng ồ ồ, hơi bay tanh ói.
Hai sải kia nhăn mày nhiếu mặt rồi hỏi rằng:
— Bạch Hòa-thượng, con yêu quái ấy bề to ước chừng hai ôm, mà còn bề dài độ chừng mấy sải?
— À, ta không biết mấy chục sải, nhưng ta thấy nó bò ngang qua đó từ đầu cho tới khúc đuôi, độ chừng hút tàn điếu thuốc mới hết, thì tưởng mình nó dài ra ước chừng một trăm sải là ít.
Hai sải kia le lưỡi như rắn lục và nói: trời ôi! con yêu quái gì mà lớn và dài dử vậy, phải nó là rắn mảng xà to không? hay là con thuồng luồng chi đó?
— Hòa-thượng nói: — Loại rắn thì có vảy có vi, mà con yêu quái nầy thì mình mẩy láng trơn, và trên đầu đội một cái mủ mồng-xanh, cổ đeo bốn cái khoen vàng đỏ, xem rất kỳ dị, song củng là may, chúng ta nhờ có đống lửa, nên mới còn sống sót lại đây, nếu không, thì con yêu quái ấy đả nuốt chúng ta vào bụng.
Khi con yêu quái bò đi mất rồi, Nguyển-danh-Tập và ta lật đật trở lai, bảo quân đem cập ngà voi về dâng cho vua Tây-sơn, để làm dấu tích, khi chúng ta lên khỏi miệng hang, hỏi lại các quan thì nói rằng chúng ta đi trọn một ngày một đêm, nhưng chưa biết hang ấy còn phải đi tới đâu mới hết[2].
Đó rồi chúng ta dâng cập ngà cho vua Tây-sơn, và thuật lại nhửng sự chúng ta gặp thấy cho ngài nghe, thì ngài rất kinh dị và nói rằng:
— Nhửng loại sơn yêu, hải quái, cự mảng, trường xà, từ xưa đến nay vẩn củng thường có: — mà nhứt là trong xứ nào còn cỏ rậm rừng hoan, thâm san cùng cốc, như trong xứ ta, thì chắc là loại yêu quái ấy còn tàng ẩn hại người chẳng biết là bao nhiêu mà kể?
Nay hai ngươi có công mạo hiểm, mà đi thám dọ cái địa huyệt nầy, thật củng đáng khen, vậy ta thăng thưởng cho hai ngươi làm chức trung húy; rồi ngài sai ta đi vận tải lương thảo về Qui-nhơn, còn Nguyển-danh-Tập thì coi đạo Ngự-lâm-Quân theo ngài mà hộ giá.
Hai sải nói: Thật Hòa-thượng có gan đởm lắm, nếu bảo chúng tôi vào hang ấy mà thám dọ, thì chúng tôi chẳng hề khi nào dám đi. Bây giờ sự thám dọ địa huyệt và sự gặp yêu quái ấy, Hòa-thượng đã thuật chuyện hết rồi, nhưng còn một sự Công-chúa thất trận chạy lạc vào đây, mà Hòa-thượng gọi rằng một cái cơ hội may mắng cho chúng ta là may mắng thế nào, Hòa-thuợng nói cho nghe thử.
— Khoan, khoan, chút nữa ta sẻ thuật tới chuyện đó, bây giờ ta thuật sự ta đi vận tãi lương thão cho hai ngươi nghe; khi ta phụng mạng vua Tây-sơn vận lương về Qui-nhơn ta đem một đội quân 50, phân làm hai tốp, 25 tên đi trước, kế đó 50 xe lương, và và 30 chục xe nhung y binh khí, cã thãy là 80 xe, đều đi chính giữa, còn một túp 25 tên quân thì hộ tống theo sau.
Khi đi tới địa phận tỉnh Bình-định, bỗng găp hai người mang gói cởi ngựa đứng dựa bên đuờng, thấy ta liền lật đật xuống ngựa, cúi đầu thi lể, ta thấy vậy thì hỏi rằng:
— Hai ngươi đứng đây làm gì?
Hai tên ấy vòng tay bẩm rằng:
— Bẩm quan lớn; hai tôi là người ở Quãng-nam, đem hàng lụa vào Qui-nhơn buôn bán, song nghe nói đường nầy có quân mọi Đá-vách hay xuống cướp giựt nhửng kẻ bộ hành, nên chúng tôi sợ chẳng dám đi, để chờ có đông người sẻ rủ nhau đồng đi một lược.
Ta nghe nói vậy liền bão rằng:
— Thôi hai ngươi hảy đi theo ta, không sao phòng ngại, hai tên ấy rất mừng và cãm on, rồi mang gói cởi ngựa đi theo, ước được mười mấy dậm đường, thì trời đã tối: ngó ra hai bên, rừng cây mù mịt, non núi chập chồng, kế có một quân nhơn chạy lại nói với ta rằng:
— Bẩm quan lớn, cách đây chừng năm dặm, thì tới ngã ba núi Hạt sơn, một đường thẳng về Qui-nhơn, còn một đường tẻ lên trên mọi, chổ dó hiểm nghèo lắm, thường thường quân mọi Đá-Vách hay xuống cướp giết người ta, xin quan lớn đình lại, để sáng sẽ di cho tiện
Ta tự ỹ rằng, có quân gia hộ tống, thì còn sợ gì quân cướp chận đường, bèn truyền quân đốt đuốt thắp dèn, cứ việc xâm-xâm đi tới, đi được ít dậm, xảy nghe rầm rì sấm chớp, rải rắc mưa tro, tiếng vó ngựa hòa với tiếng bánh xe, đi nghe rần rần rột rột, còn bao nhiêu quân lính đều lẳng lặng như tờ, chẳng ai nói năn một tiếng.
Lúc bấy giờ ta cởi ngựa đi kế xe lương, ngó lại thì thấy hai tên hành khách đương đi phía sau, mà mặt mày tái ngắt, tay chơn rung rẫy như bị chứng cãm hàn, ta thấy vậy thì hỏi rằng: hai ngươi bị rét sao? mà mình rung bây bẩy đi vậy?
Hai tên ấy cúm núm thưa rằng:
— Bẩm quan lớn, chúng tôi nghe tên quân nói chổ nầy giống mọi Đá-Vách dữ lắm, và chúng tôi cũng thường nghe thiên hạ đồn rằng: giống mọi ấy bắt đặng người ta, chẳng những đoạt cướp bạc tiền mà thôi, lại còn mỗ ruột móc gan mà ăn nữa, nên chúng ta sợ quá, rồi tự nhiên phát rung, nói rồi coi bộ dớn giát và sợ hãi lắm.
Ta thấy vậy thì rức cười và bảo rằng:
— Hai ngươi có sợ, thì theo sau ta đây mà đi.
Hai tên ấy nghe nói mừng quính, bèn cởi ngựa đi theo phía sau, mà xem sắc mặt cũng còn tái lét, kế tên quân ở tiền đội chạy lại báo rằng:
— Bẫm quan lớn, chúng tôi thấy có dạng người, đương ngồi dựa triền núi rất nhiều, chắc là quân mọi Đá-Vách núp đó mà rình ta, xin quan lớn định liệu thế nào mà khán cự với chúng nó.
Ta nghe báo vậy, liền truyền cho 25 tên quân tiền đội, sắm sữa khí giới đi tới, còn ta với hai tên hành khách cởi ngựa theo sau, cã thảy đều châm chỉ ngó hai bên đường và ngó vào truyền núi, còn hai tên hành khách thì rên hì hì và rung bẩy bẫy như thằng lằng đức đuôi.
Khi đi tới được chừng trăm buước, các quân tiền đội ré lên dậy trời, rồi rút giáo đôm ra, và huơi đuốt rọi tới, thì thấy nhửng bóng đen ấy rần rần kéo nhau mà chạy cả bầy, coi lại té ra bầy nai ăn đêm, chớ chẵng phãi giống mọi Đá-vách, chừng ấy hai tên hành khách mới tĩnh hồn, rồi lầm thầm vái rằng: Vái thần linh thỗ vỏ, vái bổn cảnh thành hoàng, cho chúng tôi mạnh giỏi lên đàng, đi tới nơi về tới chốn, bình yên vô sự, nạn khõi tai qua.
Hai sải nghe Hòa-thượng nói tới đó, thì cười rộ lên mà rằng:
— Thật hai thằng bộ hành ấy nhát như thõ đế, nó sợ quân mọi ấy móc ruột nó mà ăn, nên kinh hồn hoãn vía, rồi sao nữa xin Hòa-thuợng nói luôn.
Hòa-thượng day lại lấy một chung trà, uống kêu cái ọt, rồi nói tiếp rằng:
— Đó rồi ta đốc quân đi tới, ước đặng bảy tám dậm đường, bổng thấy một người mặc đồ vỏ-phục sắc đen, cởi một con ngựa ô-chùy rất cao, như giống ngựa Bắc thảo, tay cầm trường thương, lưng đai bữu kiếm, lại có hai người củng cởi ngựa cầm giáo đứng cặp hai bên, xem bộ tịch rất hùng hùng củ củ.
Kế đó người cởi ngựa ô-chùy huơi thương xốc tới rồi kêu lớn lên rằng:
— Ta là Châu-văn-Tiếp, nảy giờ ở đây chờ bây đả lâu, vậy bây phải hiến nap cả thảy mấy chục xe lương nầy cho ta, thì ta dung thứ mạng cho, bằng nghịch ý ta, thì chúng bay không còn một đứa.
Ta nghe tới tên Châu-văn-Tiếp thì đả rụng rời, biết là một người võ dỏng tuyệt luân, anh hùng xuất chúng, nhưng chẵng thấy quân mả chi hết, thì nghĩ thằm rằng: Va đi một mình với hai tên bộ hạ chẵng có binh gia, còn ta thì quân sĩ hơn năm mươi, vậy ta đánh liều một trận thử coi, chẵng lẽ bó tay mà chịu, ta nghỉ như vậy, rồi giục ngựa huơi thương, đốc quân xốc tới xáp chiến; nhưng Châu-văn-Tiếp chống giáo đứng trơ, nghiểm nhiên như một thiên-thần, chẳng thèm rúng động chi hết, bổng nghe Châu-văn-Tiếp kêu lớn lên rằng;
Dương-hùng và Châu-Hỗ sao chưa ra tay còn đợi chừng nào? kêu vừa dứt lời, bổng thấy một vòng dây phía sau quăng tới vấn cã mình ta, rồi giựt ngược lại sau một cái rất mạnh, làm cho ta đương ngồi trên ngựa, tức thì té nhào xuống đất, thì thấy hai tên hành-khách hồi nãy, nhãy tới rút gươm đưa ngay cổ ta, và trợn mắt lườm lườm mà nói cách nghiêm nghị rằng:
— Ngươi hảy truyền cho quân nhơn bỏ hết gươm giáo xuống đất, mà hàng đầu cho mau; nếu bất tuân thì ta khai đao cho ngươi lập tức, mau, mau.
Ta thấy hai mũi gươm chỉ ngay vào yết hầu, thì hồn tiêu phách táng, biết không thế gì cự được tức thì ta phải truyền quân bỏ giáo hàng đầu, chẳng dám chống trả chi hết.
Hai sải kia nghe Hòa-thượng nói vậy, thì rất nên kinh ngạt, rồi trợn mắt tròn vo và nói rằng:
— Chết chưa! nếu vậy thì hai thằng đó không phải là bọn bán hàng gói sao? nếu vậy thì chúng nó là tướng sỉ cũa Châu-văn-Tiếp sao?
Hòa-thượng gặt đầu mà rằng: chính là nó đó chớ ai, khi nãy hai tên hành khách, bộ tướng như đứa rét võ-da, trói gà không chặc, mà lúc bấy giờ coi bộ chúng nó dữ như hai con mãnh hổ, mạnh như hai vị thiên-thần; khi nãy chúng nó mình mặc áo tơi, đầu đội nón nhọt, mà lúc bấy giờ, chúng nó lại mình mặc võ-phục, lưng dắc đoão dao, thật là nó đổi dạng thay hình rất mau, xem ra mới biết là một chước quỉ mưu thần của chúng nó sắp đặt hồi nào, làm cho ta thấy vậy mà phải điên hồn hoãn vía.
Hai sãi kia nghe nói củng hồn phách ngẩn ngơ rồi hỏi tiếp rằng: nếu vậy Hòa-thượng phải bị chúng nó bắt sao?
— Sao lại không bị, nếu ta cưởng lý, thì ta phải chết ngay dưới hai lưởi đao đó rồi, lúc bấy giờ năm chục tên quân đều thúc thủ hàng đầu, rồi hai tên ấy dẩn ta tới trrớc, ra mắt Châu-văn-Tiếp.
Châu-văn-Tiếp liền bão hai tướng bộ hạ là Dương-Hùng với Châu-Hổ, là hai thằng giã dạng hành khách mà bắt ta đó, đem ta bỏ vào tù xa mà nhốt lại, còn bao nhiêu lương thão khí giới, đều đoạt hết mà chở về Trà-lang Sơn, rồi kéo binh thẳng vào Gia-định.
Nguyên Châu-văn-Tiếp lúc ấy ỡ tại Trà-lang-Sơn, chiêu binh mãi mã, đặng giúp Đức Nguyễn-vương, bữa nọ quân thám tữ về báo rằng: có tướng Tây-sơn vận tãi lương thão ve Qui-nhơn rất nhiều, nên Châu-văn-Tiếp sai hai tướng bộ hạ là Châu-Hổ với Dương-Hùng, giã dạng hành khách, đặng trà trộn theo quân Tây-sơn, mà đoạt thâu lương thão.
Hai sải kia thở ra một cái và nói rằng:
— Nếu vậy thì Hòa-thuợng đả bị bõ vào tù xa, rồi Hòa-thượng làm sao thoát ra, bấy giời về đây mà trú ngụ?
Hòa-thượng cuời hì hì mà rằng:
— Khi Châu-văn-Tiếp ở Trà-lang-Sơn kéo binh vào Saigon, bữa nọ về tới Biên-Hòa thì trời đã tối, bèn truyền quân hạ trại nghĩ ngơi, đêm ấy trời mây tâm tối, mưa gió mịt mù, còn hai tên quân, canh giữ tù xa, cũng kiếm chổ năm co, rồi ngũ khò như vụ, ta liền lén lén phá cữa tù xa, rồi thoát ra vòng binh, chung tuốt vào rừng mà trốn. Hai sãi kia chận ngang lại mà hỏi rằng:
— Nếu vậy Hoa-thượng là một người-tù vượt ngục đó sao?
Hòa-thượng cười một tiếng lạt lẻo mà nói rằng:
— Hai người khờ quá, nếu ta không vuợt ngục thì làm sao ta còn sống sót đến ngày nay, khi ta trốn ra khỏi vòng binh của Châu-văn-Tiếp rồi, lúc bấy giờ ta muốn trở về Qui-nhơn phục mạng, nhưng sợ một nổi vua Tây-sơn bắt tội, về sự thất thũ quân lương, còn muốn vào Saigon, thì lại sợ Châu-văn-Tiếp sai người Tập-nả, vì vậy mà tấn thối lưởng nan, nên ta phải vào núi nầy ẩn tích mai danh, cho cơ hội sẻ tính bề ra mặt.
May thay cho ta ngày nay, thời hên đả tới, vận bỉ hầu qua, khiến cho ta gặp đặng Nguyển danh-Tập nầy là một vị thần hạnh phúc của ta, còn công-chúa Ngọc-Duệ kia, chính là một miếng mồi công-danh của ta vậy, đó là một cơ hội may mắng cho ta, như lời ta đã nói với hai ngươi khi nãy.
Hai sãi kia nghe nói thì bốn mắt nhìn nhau, mà ngẩn ngơ tuồng mặt, không hiểu cái gì là vị thần hạnh-phúc, cái gì là miếng mồi công-danh, rồi day lại hỏi rằng:
— Bạch Hòa-thượng nói gì mà gọi rằng miếng mồi công-danh, vị thần Hạnh-phúc? chúng tôi không hiểu, xin Hòa-thượng cắt nghĩa lại nghe.
— Ờ, Hai ngươi chưa rỏ à? số là công-chúa Ngọc-Duệ nầy là kẽ nghịch tặc của Nguyễn-danh-Tập với vua Tây-sơn, nay Công-chúa bại trân thất lạc vào đây. vậy thì đêm nay ta tính lấy đầu Công-chúa đem ra xin Nguyễn-danh-Tập hiến nạp cho vua Tây-sơn, đặng chuộc cái tội ta làm thất thủ quân lương ngày xưa, ấy gọi rằng đái công thục tội, thế nào Nguyễn-danh-Tập cũng nghĩ tình cố hữu thân bằng, mà bão tấu với vua Tây-sơn, đặng xả tội tiền niên cho ta, mà phục hồi cựu chức; ấy vậy chẳng phải công-chúa Ngọc-Duệ là miếng mồi công danh của ta, và Nguyễn-danh-Tập là vị thần hạnh phúc của ta đó sao? Hai ngươi hiểu chưa?
Hai sải nói: úy, Hòa-thượng bây giờ tính chặt đầu Công-chúa sao? Công chúa lịch sự quá, mà Hòa thượng giết đi thì tội nghiệp và uổng lắm.
Hòa thượng nói: không giết Công-chúa, thì chúng ta ở đây mà chịu chết đói sao?
Vậy hai ngươi phãi ráng giúp ta, đặng giết Công-chúa đêm nay, nếu cái hy vọng ta được hoàn thành, thì ta sẽ bão cữ hai ngươi làm bộ hạ phúc tâm của ta, mà chung hưởng sự công danh chức phận.
Hai sải ấy nghe nói liền vổ ngực mà rẳng:
— Chúng tôi sẳng lòng, sẳng lòng. bây giờ làm thế nào mà giết Công-chúa, xin Hòa-thuợng bão cho chúng tôi. đặng chúng tôi thi hành lập tức.
Hòa-thượng nói:
— Ta xem Công-chúa là một gái có tài năng võ dõng, và hai thế-nữ cũng đều lực tráng thân cường, chẳng phãi như bọn nhi nữ tầm thường, mà hai ngươi khinh suất, vậy hai ngươi phải lén cạy cữa trước chùa, rồi vào bắt hai đứa thế-nữ trói lại, còn Công chúa Ngọc-Duệ, thì để ta lén vào giết nó mà lấy đầu, hai ngươi phãi ráng sức gia tâm, đừng để chúng nó thoát ra, nếu họa hổ bất thành, thì chúng ta ắc phãi mang hại, chớ chẳng chơi đâu.
Hai sãi mừng rở và nói: đuợc được, Hòa thượng cứ việc thi hành Công-chúa đi, còn hai đứa thế-nữ để cho hai tôi, không sao phòng ngại.
Hòa thượng nói rồi, vào trong xách ra một con dao nhọn mũi, và sáng giới, rồi vo quần chí gối, vận áo ngang trôn, còn hai sãi kia mổi người một cây thước nách, một ngọn dao lưng và một đoạn dây gai, sắp đặt sẳng sàng, rồi cã ba đều sẽ lẻn bước ra trước chùa, Hòa thượng bão hai sải cạy cữa, còn mình đứng núp một bên, ghé mắt coi chừng và lóng nghe động tịnh.
*
* *
Sương sa lát đát, cây cỏ lào xào, ngóng trước xem sau, quanh quẽ một cảnh rừng thuyền tối mịt, kìa bóng đen tháp thoán, khi lấp ló, lúc lom khom, nọ tiếng nói xằm xì, khi lên to lúc bỏ nhỏ.
Cộp cộp, kẹt kẹt ;— nó ngủ mê không?— ngủ đã mê mang, không thấy cục cựa, — nhẹ tay một chút, kẻo chúng nó dực mình, — Thưa vâng, — cái lổ kẹt ở đâu, — ở dưới, ở dưới, lấy tay rờ nó thử coi, — ó, có, — thôi đừng nói nửa, mà nó thức dậy đi giờ, yêm đi, — yêm đi.
Cộp cộp, kẹt kẹt, hé ra một chút, — nhận chốt xuống rồi rút ra, đuọc, được, ra rồi, ra rồi…
Trong lúc canh khuya đêm vắn, mà nghe nhửng tiếng rầm rì thầm thỉ cùng nhau ở dựa mé thềm, tợ hồ tiếng cũa đứa gái trai to nhỏ, dường như tiếng của bọn trộm phấn nếm hương, nhưng mà nghe rỏ lại thì chẳng phải nhửng tiếng lớp-tuồng trên bộc trong dâu,[3] mà chính là tiếng của Hòa-thượng nói thầm thỉ với hai sải kia trong khi cạy cửa.
Khi mở cữa được rồi, Hòa-thượng nói nhõ với hai sải kia rằng:
— Hai ngươi đi vòng ra váng sau là chồ hai con thể-nử nằm ngủ, lén lấy cặp song-kiếm của nó trước đi, rồi lấy dây làm vòng cho sẵng, hể nghe ta hô một tiếng, thì đè nó xuống mà trói cả tay chơn, đừng cho ních động, nghe không?
Hai sải thưa vâng, rồi đi vòng ra sau, còn Hòa-thượng thì xách con dao mủi nhọn, sáng hoắc như gươm, nhẹ bước lén lén vào phòng Công-chúa.
Tội nghiệp cho Công-chúa bị chiến trận liên miên mấy bửa, mà phải ăn ngủ thất thường, tâm thần mỏi mệt, nên nằm xuống thì ngũ đả mê mang, nào dè đâu giống sải ác-tăng nầy là quân khẫu mật tâm xà, ngoài miệng thì nói ngọt như đường, mà trong lòng lại độc nhu rắng, muốn đồ mưu thiết kế mà hảm hại một gái anh hùng, thật rất ghê gớm thay cho cái thế thới nhơn-tình, ngày đêm xé óc ra mà kiếm những sự ích kỷ tỗn-nhơn, tiềm nhửng sự sát sanh tàng nhẫn, mà hại lẩn nòi giống cùng nhau, thử nghỉ mà coi, rốt cuộc thì cũng vì con quỉ tham-ô, miếng mồi danh-lợi, mà làm cho một khối lương-tâm phải chết mất.
Trước khi tên Hòa-thượng nầy, vào phòng mà sát hại Công-chúa, thì đứng dựa bên cửa, kê tai vào vách, lóng nghe hơi thở Công-chúa mạnh yếu thế nào, cho biết thức hay là ngủ, đứng lặng một hồi, thì nghe Công-chúa ngủ ngáy pho pho, hơi thở rất mạnh, liền sẻ lén vén màng, nhẹ bước vào phòng, thấy Công-chúa nằm nghiên một bên day mặt vào vách mà ngủ, thì nghỉ rằng: nếu nó ngủ thế này, thi ta đâm ngang hông nó, sấn vào tới ruột, ắc là tự nhiên nó cũng phải chết, kế thấy Công-chúa cựa mình day qua, Hòa-thượng lật đật thục đầu núp xuống, một chút, lại nghe Công-chúa ngáy lên, Hòa-thượng sẻ lén đứng dậy rình coi, thì thấy Công-chúa nằm ngửa, hai tay để úp ngang bụng, còn trên ngực vung lên, hai chơn tréo lại, và để nguyên y giáp mà ngũ, thật là một gái thiên-chương quốc-sắc, vóc ngọc mình ngà, gương mặt đẹp nhu đóa hoa, màu da trắng như bông tuyết.
Hòa-thượng đứng núp bên phòng nhắm nhía một hồi, thấy Công-chúa nằm ngữa mà ngũ rất mê, thì bụng mừng khắp khỡi, rồi nghỉ thầm rằng: thế cái số mạng con nầy tới rồi, nên nó nằm ngữa đưa ngực ra đây, vậy thì ta cho một mũi dao bén nầy vào ngay trái tiêm thì xong việc, nghỉ vậy rồi bước lại, hai tay cầm chặt cây dao dơ lên thẳng cánh, nhắm ngay trên ngực Công-chúa đâm xuống một cái rất mạnh, (đọc tới đây, khán quan có lẻ cũng động lòng truất tích, chạnh mối thương tâm, mà lo sợ cho Công-chúa phải bị cái ngọn dao độc thũ cũa thằng ác tăng nầy mà tuyệt mạng, nhưng mà Công-chúa không chết đâu, Công-chúa không tuyệt mạng đâu! bởi sao mà Công-chúa không tuyệt mạng?)
Nguyên công-chúa trong lúc chiến tranh, có mặc một tấm yễm tâm bằng sắt trước ngực, khi vào chùa tá túc thì công-chúa cũng có ý đề phòng, để nguyên y-giáp trong mình mà ngủ, vì vậy nên khi luỡi đao cũa thằng ác-tăng đâm xuống trên ngực một cái, nhờ tấm yểm tâm ấy làm cho ngọn dao trợt ra một bên, rồi ghiêm ngay xuống váng. Lúc đó Công-chúa vùng mình chổi day, gạt tay Hòa-thượng một cái rất mạnh, làm cho con dao ấy văng ngay xuống đất: Hòa-thượng hoãn kinh đâm đầu tông cửa mà chạy.
Công-chúa liền tuốt gươm bên lưng ra, rồi nhãy một cái qua khõi cửa phòng và rược theo Hòa-thượng, Hòa-thượng chạy tuốt ra phía sau chùa, tính chung vô nhà đóng cửa mà thũ, nhung công-chúa rược theo rất gấp, Hòa-thượng mở cửa không kịp, túng thế rồi phãi chạy vòng ra ngoài đường núi.
Công-chúa lại càng rược theo gấp lắm và la lên rằng:
— Ớ thằng ác-tăng, mi chạy đi đường trời, cũng không thoát được, Hòa-thượng cứ việc lũi đầu, càng cây lước bụi chạy thôi bất kể hầm hố chông gay, chạy chừng nào, ngó lại thì thấy công-chúa cầm gươm rược theo chừng nấy. Trong lúc một đàng đương lo chạy chết, một đàng đương trớn rược theo, bổng nghe tiếng chi kêu một cái vụt rất mạnh, kế nghe Hòa-thượng la trời ôi! một tiếng bài hải, ngó lại thì thấy Hòa-thuợng chơn trở lên trời, đầu động xuống đất, tòn ten trên một vòng dây, cách mặt đất độ chừng bãy tám thước mộc.
Công-chúa vừa chạy tới, thì nghe tiếng kêu vang lên rằng:
— Trăm lạy công-chúa, ngàn lạy công-chúa, xin công-chúa lấy lượng nhơn từ, mở lòng đại độ, mà tha thứ cho bần đạo một phen với nào! tội nghiệp lắm, nay bần đạo đã hồi đầu tĩnh ngộ, mà thống hận tiền phi kia rồi; cái tội bần đạo ngày nay, dẫu mà công-chúa xẽ thịt phân thây, cũng chẵng dám một lời chi phàn nàn thán oán, nhưng mà xin công chúa lấy lòng trời phật mà cho tôi sống sót nơi cõi trần gian nay, thì bần đạo nguyện mỗi đêm bái phật hành hương, mà cầu chúc cho công-chúa được phước thọ vô cương, trường sanh bất tữ.
Công chúa liền bước tới xem coi, thấy một cái bẫy treo rất to, đặt bên đường núi, và một vòng dây đã thắc ngang hai dò Hòa-thượng, treo lên tòn ten trên nữa ngọn cây, thì Công-chúa thạnh nộ mà hõi rằng: Ớ thằng ác-tăng khốn nạn kia.
— Ta với mi thuỡ nay, vốn không thù hận, sao nửa đêm mi dám lén tới mà giết ta? nếu ta chẵng có tấm yễm tâm trên ngực, thì ta sẽ chết về cái lưởi đao độc thũ cũa mi đó rồi, vì cớ nào mà mi lại muốn giết ta, mi hảy khai ngay cho mau, bằng mi dấu diếm một lời, thì ta giết mi tức tốc.
— Trăm lạy công-chúa, ngàn lạy công-chúa, tôi không phãi cố giết công-chúa, xin công-chúa xả từ hoàn sanh cho kẽ bần tăng, công-chúa thứ tha một mạng, thì cung nhu tu tạo cửu cấp phù đồ, xin công-chúa cứu tôi xuống đất, tôi sẽ khai ngay cho công-chúa nghe, không dám một lời giã dối, tội nghiệp lắm công-chúa cứu tôi một chút, kẽo lộn ruột lộn gan, ắc là phải chết.
Công-chúa nói: Vậy thì mi khai bây giờ cho ta nghe đi, rồi ta sẽ tha mi, khai đi, khai đi, nói rồi công-chúa cấp gươm sau lưng, đi qua rão lại, nơi dưới cái bẫy kia, không thèm thốt một lời chi nửa hết.
Hòa-thượng bị mắc hai dò vào bẫy, tòn ten trên cao, hễ mình nặng chừng nào, thì vòng dây càng riết lại chừng nấy, phần thì ruột gan lộn ngược, chơn cẵng tê cứng như khúc cây, làm cho nặng óc nhức đầu, mặt mày chán váng, kế nghe đường dây trên bẫy, tiếng kêu rắc rắc. dường như nó bị cái thây trằn xuống rất nặng nề, mà lần lần muốn đức.
Hòa-thượng rất kinh hãi rồi kêu vang lên rằng:
— Trăm lạy công-chúa, ngàn lạy công-chúa, xin cứu tôi cho mau, tôi hứa với công-chúa, tôi sẽ khai hết cho công-chúa nghe.
Công-chúa cứ việc rão lại đi qua nơi dưới cái bẫy, không thèm đáp lại một lời, kế một luồn gió mạnh, thổi tới ồ ồ làm cho cái bẫy ấy vụt lại vung qua, lại nghe đường dây cứ kêu rắm rắc, Hòa-thượng mất vía điên hồn, và kêu lớn lên rằng:
Trăm lạy công-chúa xin ra tay tế độ mà cứu kẽ bần tăng, kẽo tội nghiệp lắm mà, bần tăng đã hồi đầu tĩnh ngộ, và sắm hối cái tội ác cũa bần tăng đó rồi, xin công-chúa lấy lượng nhơn từ, ra tay tế độ, tế độ.
Công-chúa hai mắt ngó lườm lườm sải ấy mà rằng:
— Mi là một đứa ác-tăng khốn nạn, mi là một thằng Hòa-thượng sát nhơn, ta nói cho mi biết, ta cứu là cứu nhửng người hiền lương đức hạnh, những người nghỉa khí trượng phu rũi gặp lúc vận kiển thời quai, gặp cơn gian nan nghèo ngặc, còn những đứa táng tận lương tâm, ác-nhơn thất đức như mi, mi mượn danh thần phật, giã dạng tu-hành, hoặc thế vụ dân, mà lường gạc của thập phương bá tánh, ngày nay mi lại đồ mưu thiết kế mà ám hại đến ta, ta cùng mi là kẻ vô cớ vô cang, ta cùng mi chẳng phải là kẽ tiền cừu hậu hận, sao mi lại nhẩn tâm nửa đêm lén đến mà giết ta? nhưng trời phật không để cho ta phãi chết về tay tàn ngược của mi; mà lại khiến cho mi phãi chịu một hình phạt trỡ cẳng lên trời, dộng đầu xuống đất như thế, đó là một cái nghiêm hình cũa trời phật phạt mi, đặng để mà răng loài bạo ngược.
Vậy thì vì cớ nào mà mi muốn hại ta? hãy khai ngay đi, khai ngay cho mau, nói rồi công-chúa cấp gươm sau lưng, đi vòng theo chung quanh cái bẩy ấy, cách đi đứng rất hòa huởn thung dung, xem ra rất xuê xang kiều mị, rồi thúc rằng: mi hãy khai đi, khai đi cho mau.
Lúc bấy giờ gió càng thổi càng mạnh, cái bẩy ấy vụt lại vung qua, nghe kêu kèn-kẹt, làn cho Hòa-thượng xích tới đưa lui, cheo leo trên vòng dây thư xích đu bầu, xem rất ghê gớm, còn mối dây cứ việc thắc riết vào chơn, và thỉnh thoãn nghe kêu rắm rắc;
Hòa-thượng ba hồn chín vía đều bay rồi kêu vang lên rằng: chết tôi đi! chết tôi đi trời ôi! ruột gan lộn hết, chơn cẳng cứng đơ, nếu dây nầy đức đi, chắc là đầu tôi phãi bể.
— Thằng ác-tăng, mi không chịu khai à?
— Trăm lạy Công-chúa tôi khai, tôi khai; tôi tên là Hồ-duy-Nhựt là tướng cũa Tây-son ngày xưa, và là bạn thiết nghỉa với Nguyển-danh-Tập. khi tôi phụng mạng vua Tây sơn, vận lương về Qui-nhơn nửa đường gặp Châu-văn-Tiếp thiết kế đoạt thũ quân lương, và bắt tôi mà cầm ngục, rồi kéo binh thẵng về Saigon.
Khi tới Biên-Hòa, tôi bèn vượt ngục trốn đi, rồi vào núi nầy ẩn tích mai danh, náo nương kiển phật, chẵng dè ngày nay gặp công-chúa đến và nói rằng: bị tướng Tây-sơn là Nguyển-danh-Tập lấy đồn Bình-Hóa, nên Công-chúa hạ lạc vào đây, nói tới đó thì la lên rằng:
— Trời ôi! chết tôi đi, chết tôi đi! Cả mình đều tê ngắc, máu miệng chãy ra, trăm lạy Công-chúa, cứu tôi một phen, kẻo chết đi mà.
Công-chúa đương đi qua rảo lại, chung quanh bẩy ấy, bổng nghe Hòa thượng khai rằng: hắn là tướng cũa Tây-sơn khi truước, lại là bạn thiết nghĩa với Nguyển-danh Tập, thì sửng sở liền dừng chơn đứng lại rồi tự nghĩ rằng: ờ té ra thằng khốn nạn nầy là tướng Tây-sơn khi trước, và là bạn thiết với Nguyển-danh-Tập bây giờ, hèn chi nó chẳng tính kế giết mình, mà lập công cúng giặc, nghĩ vậy rồi day lại ngó Hòa thượng lườm lườm. Và thúc rằng: sao nữa mi khai đi cho mau, rồi ta sẽ cứu, khai đi khai đi.
— Trăm lạy Cong-chúa, khi tôi nghe Công-chúa nói rằng: bị Nguyển-danh-Tập dem binh truy cãng, nên Công-chúa chạy lạc vào chùa, và xin tá túc một đêm, đặng sáng ngày sẻ tiềm qua xứ khác, lúc bấy giờ ỷ có Nguyển-danh-Tập là bạn cố giao thiết nghỉa, nên tôi mới cố ý tính giết Công-chúa, lấy đầu đem nạp cho Nguyễn-danh-Tập đặng xin biểu tấu cùng vua Tây-sơn, mà chuộc cái tội thất thủ quân-lương ngày xưa, đặng phục hồi cựu chức. vì vậy nên nửa đêm tôi cạy cửa vào phòng, quyết giết Công-chúa, chẳng dè sự ấy không thành, mà bây giờ lại lâm vào đại nạn, vậy trăm lạy Công-chúa, xin Công-chúa lấy lòng hà hải, dung thứ cho bần-đạo một phen, kẻo tội nghiệp lắm mà, xin Công-chúa cứu mạng, nói tới đây thì một trận gió dữ ào ào thổi tới, làm cho cái bẩy ấy đòng đưa rất mạnh, còn vòng dây thì rắc rắc dãn ra.
Hòa-thượng lúc này đả táng đởm kinh tâm, rồi kêu tiếng thảm thiết mà rằng:
Công-chúa ôi! mối dây gần đức, xin Công-chúa cứu tôi cứu tôi, Công-chúa thấy vậy củng động lòng muốn kiếm thế cứu xuống, nhưng trận gió ồ ồ thổi tới, làm cho cái bẩy ấy vục qua rất mạnh, dây ấy đức ra, kế nghe Hòa-thuợng la lên một tiếng trời ôi! thì đả rớt thấy ngay trên hòn đá, Công-chúa nhảy lại muốn đở, nhưng Hòa-thượng đả vặp đầu vào đá một cái, xem lại thì đã bể nát khắp sanh, sọ óc văn ra lai láng.
Chú thích
▲Đoàn việt là người bố thí cúng cấp cho chùa.
▲Thiên hạ truyền ngôn rằng: Vua Minh-Mạng có đi xuống hang nầy 3 ngày 3 đêm, một người cội rễ cố cựu ỡ tỉnh Quảng-nam củng có thuật chuyện ấy như vậy, bây giờ hang đó củng còn, nhưng tác giả không biết đâu mà đoán chắc, đó là một đều ngoại truyện giả sử, chớ chưa thấy chánh sử biên chép chổ nào.
▲Trên bộc trong dâu là chổ hẹn hò của bọn trai gái.
HỒI THỨ HAI MƯƠI BẢY
Giả hòa thượng địch nhơn trúng kế,
Gặp trường giang liệc nữ quyên sanh
Nguyên cái bẩy treo nầy của một tên thợ rừng ở phía sau núi, làm ra mà gài bẫy thú vật, trong lúc bôn ba nguy cấp, Hòa thượng không dè, nên chạy tuông qua đó, vướng cảng vào trong vòng dây, tức thì bẩy ấy vục lên, làm cho Hòa thượng phải mắc hai giò tòn ten trên bẩy, rủi thay cho đường dây không chắc, mà cái thay Hòa thượng lại rất nặng nề, phần thì bị gió vục lại vung qua, nên vòng dây lần lần phải đức.
Khi tên ác tăng rớt xuống, vập đầu vào đá bể óc, thì ngáp ngáp vài cái rồi chết liền.
Công-chúa thấy sự tai hoạ thình lình, thì đứng đó mà sững sờ ngơ ngẩn, kế hai tên thễ-nữ chạy tới, thấy Công-chúa thì mừng rỡ và hỡi rằng.
— Công-chúa đã giết chết thằng Hòa-thượng nầy rồi sao?
— Không, ta không giết nó, má trời đã giết nó chết rồi, Công-chúa bèn thuật sự chết của thằng ác-tăng lại cho hai thế-nữ nghe rồi hỏi rằng;
— Còn hai thằng àc-tăng kia thế nào?
— Bẩm Công-chúa, chúng tôi đã bắt nó được, và trói lại để nằm trong chùa, đó rồi Công-chúa và hai thế-nữ dắc nhau trở về, thì thấy hai sải còn nằm chèo queo dưới đất.
Công-chúa buớc tới lấy gươm chĩ ngay vào mặt hai sải, và nghiêm sắc diện mà hỏi rằng:
— Hai thằng khốn kiếp kia, sao mi dám đồng ác tương tế cùng Hòa-thượng mà ám hại chúng ta, thằng Hòa-thượng khốn nạn ấy bây giờ đã chết rồi, vậy hai mi muốn theo nó, thì ta cho mỗi đứa một gươm, đặng theo nhau một bọn cho rảnh.
Hai sải kia rung rảy và nói rằng:
— Trăm lạy Công-chúa, sự ấy là tại Hòa-thượng đồ mưu thiết kế muốn giết Công-chúa mà lập công, rồi sai khiến hai tôi làm theo, chớ chúng tôi dám đâu sanh sự, xin Công-chúa thứ cho, kẻo tội nghiệp tôi lắm.
Công-chúa nói: ta cũng lấy lòng nhơn đức mà tha thứ cho hai mi, nếu mi không cải ác tùng thiện, mà còn sanh sự đều chi, thì đầu mi phải rụng, nói rồi bão hai thế-nữ mỡ trói.
Hai sãi mừng rở liền bước lại lạy tạ công-chúa mà cám-ơn.
Công-chúa ngó hai sãi và bão rằng:
— Hai ngươi phãi lấy đồ y phục cũa Hòa-thượng đem đây cho ta xem.
Hai sãi thưa vâng, rồi buớc vào hậu liêu, lấy ra một xấp áo mão đạo-phục của Hòa-thượng, trình lên cho công-chúa.
Công-chúa lấy lên từ cái xem rồi, day lại nói với hai sãi rằng: thôi hai ngươi hãy ra sau mà nghĩ đi, chừng nào có việc, ta sẽ kêu đến.
Hai sãi thưa vâng, rồi lui ra, còn công-chúa với hai thể-nữ cũng bước vào hậu đường ngơi nghĩ.
Đây xin nhắc lại, khi Nguyển-danh-Tập rược theo Công-chúa đi tới mé rừng, thi trời đã tối mịt, lại thấy đường đã cùng, không có ngã nào đi đâu đặng nữa, liền truyền quân hạ trại, và sai một đội binh, đón chân các nẽo đường rừng, đặng kiếm bắt công-chúa.
Sáng bữa sau Nguyện danh-Tập thấy quân sĩ kiếm không đặng Công-chúa, thì nghi cho Công-chúa rút vô tàng ẩn trong rừng, đặng chờ mình lui binh, thì sẻ lén ra, tiềm qua xứ khác mà đào tị, vì vậy nên không chịu lui binh, cứ đống trại bao vây các nẽo đường rừng mà tiềm kiếm Công-chúa.
Công-chúa lúc nầy như chim ở lồng, như cá ở chậu, đất trời tuy rộng, mà không chổ dung thân, rồi một mình đi thơ thẩn trong chùa mà thằm than tự nghĩ rằng:
— Mẹ ta và anh ta lúc nầy ở tại cù lao Phú-quốc thế củng ngày ngày ngóng mông, bữa bữa trông mây, chẳng biết nông nổi cửa ta sau nầy, dữ lành bao nả. Mẹ ta và anh ta thì xiêu lạc ngoài chốn chơn trời mặt biễn nắng mưa khôn thấu lẻ nào, còn ta bây giờ thì bơ vơ trong chổ góc núi đầu non, sống thát biết ai nhắn nhũ.
Mẹ ôi! thế thì mẹ đã mõi mắt ngày trông con nhạn tin, mà con đây cũng treo tròng đêm đợi mãnh ngư thơ, con nghĩ tại con sanh ra gặp đời giang sang điên đão, xã tắc khuynh nguy như vầy, thì con nở nào sống mà làm cái túi đựng cơm, cái sào vắc áo, cho uỗng một khí huyết của cha mę sanh thành, nay con đã cam bề thất hiếu, sự ân cần, con không thế sớm viến tối thăm; xin mẹ liều như con thát thuở trong nôi, tình ly biệt xin mẹ chớ ngày trông đêm đợi.
Mẹ ôi! từ đây mẹ muốn thấy con, thì xin mẹ trong lúc canh vắn dêm khuya, me nghe những tiếng dắn dõi quyên kêu trước ngõ, đó là vía con trở lại thăm nhà, và nhửng khi phất phơ gió thoản bên màng, ấy là hồn trẻ đi về viến mẹ.
Công chúa than thở rồi bước ra ngoài chùa, thấy núi vây bốn mặt, rừng bọc tư bề, xem như tuồng ai đã bố liệc một đồ trận ra đây, cọp đó là Tướng-quân, beo kia là Đề-đốc, núi non là thành lũy, cây cõ là binh gia, kià là cờ chuối phất phơ, nọ là giáo tre chơm chởm, dưới bụi sành kêu dắn dõi, trên nhành vượng hú thon von, thật là một cảnh ngộ rất thê thảm, rất hiểm nguy, khiến cho Công-chúa ngó đến đâu, thì nét mặt tõ ra một sắc âu sầu thãm đạm, rồi Công-chúa lại nghĩ rằng:
— Con người ỡ trong hoàng cảnh thế giới nầy, ai ai kết cuộc rồi cũng phãi lãnh một cái chết là một phần gia tài cũa mình sau hết mà chôn chặc dưới mồ ba thước, một giấc ngàn thu, không ai trốn khõi, chồng ta là Nguyễn-hửu-Thoại đả vì nước mà quyên sanh, vì vua mà tận mạng, thế thì ta bây giờ hãy còn sống sót lại đây làm gì, vậy ta củng nên kím một thế nào mà đối với chồng ta cho xứng đáng, đối với mẹ ta và anh ta cho vẽ vang, hơn là ta phải chết đói chết mục trong đám rừng nầy, mà để cỏ cây vùi lấp cho uỗng mạng.
Công-chúa nhớ lại khi nãy thằng Hòa-thượng khai tên họ là Hồ-di-Nhựt, quyết giết mình lấy đầu đem nạp cho tướng Tây-sơn là Nguyển-danh-Tập mà lập công, nhưng may cho mình không chết cách nhơ nhớp về tay thằng ác-tăng, vậy thì bây giờ mình phãi tính thế nào mà thoát khỏi vòng binh, nếu ở đây sớm muộn cũng chẵng khỏi vào tay quân nghịch.
Công-chúa suy vậy nghỉ vậy, rồi tự nhiên một mãnh tâm hồn lừng lừng lẩy lẩy, phát lên phới phở, mặt mày hớn hở, trở nên tươi cười, khí phách trở ra hùng hào, tinh thần trở ra tráng kiện, dường như kiếm đặng một vật quí báu gì trong trí khôn, mà tỏ ra bề ngoài hình thù, xem rất hân hoan hâm hở, thật Công-chúa là một gái có cang đởm tinh thần, đối với một cãnh ngộ rất khốn đốn hiểm nguy như vầy, mà trong trí tỉnh tỉnh tề tề, chẳng để cho linh hồn mình bị cái cãnh khốn nạn kia lừng lên mà làm cho gan xàu ruột héo.
Công-chúa tức thì chạy ra truớc chùa, ngó qua hướng tây, thấy bóng tàng dương đã lần lần khuất núi, chỉ còn một lằng ánh sáng dọi lại đầu non, thì gặt đầu, và nói một mình rằng: được, được, cái quang cãnh đã hết, tức nhiên cái mộ cãnh phải hiện ra, nói rồi lật đật vào chùa, kêu hai thể-nữ bão rằng:
— Hai ngươi hãy sắm sửa theo ta, hai thể-nử thưa vâng.
Công-chúa liền vào phòng, nai nịch y giáp, sửa soạn chĩnh đốn xong rồi, bước ra, nghiểm nhiên như một vị Nam-hãi Quang-Âm, như một vị yết-ma Hoà-thượng, đầu đội một cái mủ Từ-Lư, hai giãi cập theo hai bên mép tai, lòng thòng tới ngực, mình mặc một áo đạo-phục màu vàng như áo Ca-sa, tay cầm một cây trượng-tích dài hơn ba thước.
Hai thể-nử ở dưới hậu đường, chạy lên thấy Công-chúa thi ngó sửng mà nhìn một hồi, rồi la lên rằng:
— Ủa, Công-chúa, Công-chúa sao lại mặc đồ đạo-phục làm gì? làm cho hai tôi mới xem, ngở là thằng Hoà-thượng ác nhơn sống lại.
Công-chúa mĩn cười và nói rằng:
— Ta giã làm Hoà-thượng như vậy, hai ngươi coi có giống không?
— Bẩm Công-chúa, hai tôi mới xem bề ngoài, thật giống thằng Hoà-thượng ấy không sai, nhưng mà nếu ai cắt cớ vạch ra bề trong mà xem, thì mới biết là Công-chúa.
Công-chúa nghe hai thể-nử nói, thì tỏ ra một nụ cười trên miệng rất hửu duyên mà rằng:
— Hai đứa bây khờ quá, nào ai lại dám vạch tới bề trong của ta mà coi, mà hai ngươi phòng sợ, nói rồi bão hai thể-nữ rằng:
— Hai ngươi phãi vô mượn y-phục của hai sãi kia mặc vào giã làm đồ đệ ta, rồi chúng ta sẻ đi một lược.
Hai thể-nử thưa vâng, chạy vô lấy đồ đạo-phục của hai sải kia mặc vào, rồi trở ra.
Công-chúu xem thấy thì cười mà nói rằng:
— Được đa, hai ngươi bây giờ hộ tướng, y phục đã giống thầy chùa, nhưng còn khác một cái là hai ngươi không có đầu trọc.
Hai thể-nữ nghe nói cũng bụm miệng chúm chím mỉn cười rồi hỏi rằng:
— Bẩm Công chúa, chẳng hay Công-chúa bây giờ giã làm Hòa-thượng, còn chúng tôi giã làm hai sải, đặng tính đi đâu?
— Ta bây giờ đi xuống ra mắt Nguyển-danh-Tập
Hai thể-nữ nghe Công-chúa nói, thì rất kinh hãi mà hỏi rằng:
— Úy! Nguyển-danh-Tập hôm nay đương truy tầm chúng ta mà bắt, sao Công-chúa lại xuống đó làm gì, Công-chúa muốn xuống hàng đầu sao? hay là Công-chúa muốn nạp mình cho quân giặc sao?
— Hai ngươi cứ việc theo ta xuống đó sẽ biết, thôi hai ngươi hảy dắc ngựa ra trước cữa chùa; đặng chúng ta thượng lộ.
Hai thễ-nữ thấy Công-chúa bão vậy, thì không dám hỏi nữa, rồi ra dắc ba con ngựa để trước sân chùa, thì Công-chúa đã bước ra rồi cã ba người đều lên ngựa, đồng đi xuống núi.
Khi Nguyển-danh-Tập đóng binh nơi mé rừng, truy tầm Công-chúa không được, thì biết Công-chúa binh mã đã hết, thế phải núp ẫn vào rừng, liền phân binh ra từng đội, lớp thì bao vây chung quanh mé rừng, lớp lại sai quân vào rừng kiếm bắt Công-chúa, chỉ đễ một đội quân nhơn coi giữ tiền đội mà thôi, còn Nguyễn-danh-Tập thì đóng trại bên rừng, ỡ về hậu đội,
Bữa ấy Nguyển-danh-Tập cơm nuớc xong rồi, đương ngồi trong trại, bỗng có tên quân ở tiền-đội vào báo rằng:
— Bẩm quan lớn, có một Hòa-thượng xưng tên là Hồ-Di-Nhựt ở chùa Vân-phong cách đây chừng bảy tám dậm, đi với hai sãi đến trước vòng binh, nói rằng: anh em thiết nghĩa với quan lớn, xin vào ra mắt.
Nguyễn-danh-Tập nghe nói tên Hồ-di-Nhựt, thì nhớ trực lại năm trước Hồ-Di-Nhựt có gởi thơ nói rằng: mai danh ẩn tích tại chùa Vân-phong, nhưng chẳng dè chàng ta trú ngụ chổ nầy, ngày nay thế va nghe ta cữ binh tới đây, nên tìm đến ra mắt, vậy ta nhơn dịp nầy cho va vào, đặng hỏi thăm đường sá và Công-chúa Ngọc-Duệ hạ lạc nơi nào cho biết, nghĩ vậy rồi sắc mặt tươi cười, day lại nói với tên quân nhơn rằng:
— Mi ra mời Hòa-thượng Vân-phong vào đây.
Tên quân thưa vâng, lui ra vòng binh ở tiền-đội, nói với Hòa-thượng rằng:
— Quan lớn xin mời Hòa-thượng vào dinh.
Hòa-thượng[1] liền đi với hai sãi bước vào vòng quân, thẵng tới trại cũa Nguyễn-danh-Tập, rồi day lại nói với hai sãi kia rằng: Hai ngươi hảy dắc ngựa vòng ra sau trại đứng đó chờ ta, chừng có việc ta sẽ cho biết.
Hai sãi kia thưa vâng, rồi ra đứng ngoài sau cách trại độ chừng trăm bước, đó rồi Hòa-thượng đi cách khoan thai, chẫm hẫm thẵng vào trong trại.
Nguyễn-danh-Tập đương ngồi trên ghế, lật đật đứng dậy đặng bước ra nghinh tiếp, nhưng vừa bước xuống thì Hòa-thượng đã vào tới trong dinh.
Nguyển-danh-Tập ngó lên nhìn châm chĩ Hòa-thượng một chút rồi hõi rằng:
— Phải là Hòa-thượng Vân-phong đó chăng?
— Chính là ta đây, quí hửu đã quên sao?
Nguyển-danh-Tập liền nhướng hai mí mắt lên, lộ cặp tròng đen ra dọi với ánh đèn, long lanh sáng hoắc, rồi ngó ngay vào mặt Hòa-thượng mà nhìn và hỏi rằng:
— Phãi là Hồ-di-Nhựt đó chăng?
Hòa-thuợng cười ha hã và nói cách chẫm hẫm rằng:
— Chính ta là Hòa-thượng vân-phong đây, chính tá là Hồ di-Nhựt đây chớ ai, anh em ta cách nhau chẳng đầy bốn năm, mà quí hữu đã quên rồi sao? hay là quí hửu ngày nay quan cao chức trọng, lộc cã ngôi sang rồi, không muốn nhìn đến bần tăng, là một bạn cố giao khi trước sao? nếu quí hữu không muốn nhìn thì ta xin đi, nói rồi quày chơn muốn bước ra cữa.
Nguyển-danh-Tập lúc bấy giờ bán tín bán nghi làm cho bối rối trí khôn, không biết đâu mà nói liền cãng lại và cười lạt một tiếng mà rằng:
Khoan, khoan, nếu thiệt là Hoà-thuợng vân-phong, là Hồ-di-Nhựt thì xin kỹ thượng tọa an.
Hòa-thượng không đáp một lời, liền bước lại ngồi ngang trên ghế.
Nguyễn-danh Tập liếc cập mắt tin dời, ngó Hoà-thượng từ trên tới dưới, rồi nghĩ thầm rằng: quái thay Hoà-thuợng vân-phong là Hồ di-Nhựt vẫn là một bạn thiết nghĩa cùng ta năm xưa, cách nhau không đầy ba bốn năm nay, mà ý gì diện mạo xem có vẻ khác xưa, Hồ-di-Nhựt khi trước mập mà đen, ngày nay sao lại ốm mà trắng, hay là người bị phong trần lưu lạc, thời vận đão điên, và lắm nỗi ưu sầu, cho nên đỗi khác mặt mày khí sắc, nghỉ vậy rồi day lại hõi rằng:
— Hoà-thượng hôm nay đến đây có việc chi chăng?
— Tôi đến đây muốn tỏ cho túc-hạ hay một việc bí-mật rất quang-hệ cho túc-hạ lắm, chớ không việc chi khác hết, nếu túc-hạ muốn nghe, thì xin bão quân hầu ra ngoài, rồi tôi sẻ nói việc bí-mật ấy cho túc-hạ rõ.
Nguyễn-danh-Tập nghe nói một việc bí-mật quang hệ cho mình, liền bảo quân hầu ra ngoài rồi nói rằng:
— Việc chi gọi rằng bí mật, xin Hoà-thượng nói đi cho tôi nghe.
Hoà-thượng đứng dậy và nói cách nghiêm nghị rằng:
— Việc bí-mật ấy là việc cũa Công-chúa Ngọc-Duệ, túc-hạ đã tìm kím hôm nay, mà không bắt đặng đó mà.
Nguyển-danh Tập nghe nói việc Công-chúa Ngọc-Duệ thì nheo mày trợn mắt vội vã hõi rằng;
Ờ, việc bí-mật cũa Công-chúa Ngọc-Duệ, mà việc ấy làm sao?
Hoà-thượng bước tới một buớc, đưa cập mắt như sao nháy, rồi cười một tiếng mà rằng;
— Việc bí mật ấy là việc Công-chúa Ngọc-Duệ, muốn giết chết tướng quân chớ gì.
Nguyển-danh-Tập nghe nói thì thối lui lại bai ba bước và ngó Hoà-thượng không chớp mắt, rồi hỏi rằng:
— Công-chúa Ngọc-Duệ muốn giết ta à? Công-chúa Ngoc-Duệ ở đâu bây giờ? hõi vừa dứt lời, tức thì thấy cái mủ Hoà-thượng đương đội, và cái áo cà sa Hoà-thượng đương mặc trong mình, bổng nhiên văn ra rớt ngay xuống đất, ngó lại thì một viên nử tướng hiện ra trước mặt, hai tròng mắt lườm lườm sáng hoắc như hột châu, hai gò má rần rần ửng đỏ, lưng đeo đoãn kiếm, mình mặc võ trang, khí sắc hầm hầm như một con sư tữ rất dữ, rồi nói cách nghiêm-nghị rằng:
— Công-chúa Ngọc-Duệ đả đứng trước mặt ngươi đây, Công chúa Ngoc-Duệ chính là ta đây.
Nguyễn danh-Tập nghe nói dường như một tiếng sấm sét thình lình nổ chạt vào tai, làm cho chàng-ta rùng mình một cái, ngơ ngẩn nhu giấc chim bao mới tỉnh, rồi hai mắt trợn lên tròn như ốc bưu, ngó sững Công-chúa không chớp mi mà hõi rằng:
— Nếu vậy nàng là Công-chúa Ngọc-Duệ, quyết đến đây mà giết ta sao?
— Phải, ta đến đây quyết giết một tướng Tây-sơn là ngươi, mà báo thù cho chồng ta, ta đến đây quyết giết một kẽ nghịch cũa giặc mà báo oán cho anh ta, và giải thoát cho ta luôn thể, ta không thèm giết ngươi về cách núp lén, mà ta muốn giết ngươi về cách chán chường, ta quyết một mạng ta đối với một mạng ngươi đỗ máu giữa đây, ấy là việc bí-mật của ta nói cho ngươi biết đó.
Nguyễn-danh-Tập nghe mấy lời khí khái cũa công-chúa nói, thì sắc mặt nữa đỏ nửa xanh, nửa kinh nửa giận, liền kêu lớn một tiếng: « quân bây », rồi xốc lại nơi bàn, chụp lấy cây gươm, rút ra, nhưng rút vừa khỏi vỏ, thì công-chúa đã tuốt ngọn đoãn đao bên lưng, nhãy lại một cái lẹ như con cọp.
Nguyễn-danh-Tập mới vừa hươi gươm quyết chém công-chúa, thì ngọn đoãn đao cũa Công-chúa đã đâm ngay một mũi trên lưng, lút vào tới phổi, Nguyển-danh-Tập la lên một tiếng rồi té sấp trên bàn! kế mấy tên quân ỡ ngoài chạy vô, thì công-chúa đã thoát ra ngã sau, gặp hai thể-nữ, giục ngựa bước tới, Công-chúa liền lên ngựa, rồi cã ba người tuốt ra đường rừng mà chạy.
Khi mấy tên quân hầu vô thấy Nguyễn-danh-Tập té xiểu trên bàn, máu ra lai láng, liền hô lên rồi xúm lại đỡ nằm nơi ghế, thì tâm thần đã mệt mê bất tĩnh, chẳng bao lâu, Nguyễn-danh-Tập đã từ biệt-dương trần, hồn về chín suối.
Đó rồi các tướng bộ hạ cũa Nguyễn-danh-Tập nhứt diện, đi báo tin ấy cho quan Tỗng-nhung là Nguyễn-văn-Kiêm hay, còn nhứt diện, đem binh rược theo Công-chúa mà tập nả.
Công-chúa với hai thể nử tuông theo đường rừng, chạy hơn mười dậm, kế gặp một giãi tràng giang chận ngang trước mặt, sông nầy là sông trên miền thượng du đổ xuống Biên-Hòa, đến đây thì công-chúa đả cùng đường, mà quân giặc đàng sau lại rược theo rắp tới, Công-chúa thấy cái tiền đồ, đả gặp tràng giang cảng trở: mà hậu lộ lại bị binh mã rược theo, thì than với hai thể nữ rằng:
— Ta nghĩ cho ta gặp lúc thời quai vận kiển, làm cho hai ngươi cũng vì ta mà phải chịu cực khổ gian truân, vậy chỗ nầy là chỗ cùng đồ, thế thì ta phải cùng hai ngươi vỉnh biệt.
Thể-nữ Huỳnh-Anh thấy Công-chúa than thở thì nói rằng:
— Xin Công-chúa chẳng nên đeo sầu chác thãm, mà rũng chí nguôi lòng, phải ráng vượt qua cái cảnh ngộ gian nan nầy, họa may, trời có lòng thương, thì cho chúng ta thoát khõi hiểm nguy, mà gặp đường sanh lộ.
Kế thể-nử Bạch-yến chạy lại nói rằng:
— Bẩm Công-chúa có một chiếc xuồng nhõ đậu dựa mé đay, xin Công-chúa buớc xuống cho mau, đặng chúng tôi chèo qua bên sông mà tị nạn.
Công-chúa và hai thể-nử vừa bước xuống ghe, thì một đội quân phía sau đã rần rần ruợc tới;
Công-chúa và hai thể-nữ ở trên chiếc tiểu thuyền, linh đinh thã theo một giãi trường giang thinh thoan rộng lớn, giữa dòng thì sông sâu nước cbảy như cắt, hai bên mé thì cây cỏ rậm rì, cã ba cô cháu đều lẳng lặng làm thinh, cứ việc bẻ lái kềm ghe, nương theo khúc vịnh đường gioi, bòn ba thẳng tới, đi đặng một đổi xa xa, kế một trận gió thổi tới ồ ồ, bốn phía mây bay cuồn cuộn, làm cho mặt nước bình tịnh kia, trở ra nhăn nhó bào nhào, rừng cây im lìm kia trở ra lào xào chuyển động, rồi mấy lượng sóng nổi lên ào ào, bõ vòi trắng giã.
Chiếc thuyền Công-chúa lúc bấy giờ trồi lên hụp xuống, lắc lại nghiên qua, xem cái sanh mạng gởi trên mặt nước chỉ còn vài phân, thiệt là biết bao nguy hiễm.
Trận gió lăng làng xung xăng lước tới, lúc vạch vạt áo Công-chúa, kéo ngược ra sau, khi banh lai quần Huỳnh-Anh, đánh nghe bành bạch, còn mấy lượng sóng rủ nhau xốc đến, cái thì trèo dựa bên be, cái thì chồm lên truớc mủi, dường như thấy gái hồng nhan lưu lạc, thì áp tới trêu hoa ghẹo nguyệt, ngả ngớn bên mình; thấy người quốc sắc bơ vơ, thì xúm lại cợt phấn cưới son, lẵng lơ dởn mặt.
Thễ-nử Bạch-Yến ngồi bơi trước mủi, bị mấy ngọn sóng chồm lên hụp xuống rồi nhãy xả vào mình, làm cho áo quần ước mẹp, Huỳnh-Anh đương chèo sau lái, bị mấy luồng gió vục qua phất lại, nựng vào hai má, làm cho đầu cổ tơi bời.
Công-chúa ngồi giửa khoang ghe, thấy cái cảnh ngộ trớ trêu thì than rằng: thiệt cái giống cuồng phong bạo lảng, xem rất vô tình, chỉ biết lừng lẩy làm oai, mà chẵng biết thương người lạc nạn.
Nhưng hai thể-nử cứ việc ra sức kẻ chèo người bơi, mủi thuyền gối theo lượng sóng trường tới như bay. Huỳnh-Anh chèo một hồi, ngó lại phía sau, bổng thấy một bóng đen đen trong mé đi ra, lần lần tấn tới, liền kêu công-chúa và nói:
— Bẩm Công-chúa, chẳng biết cái chi đen đen phía sau, xem dường thuyền ai đi tới.
Công-chúa liền day qua ngó châm chỉ một hồi, thấy một chiếc ghe, có dạng người đương chèo xung lăng, thì hồ nghi và nói: nếu chẳng phải ghe thương hồ, thì chắc là thuyền giặc, liền bảo hai thể-nử bẻ lái vào bờ, ẩn theo bóng tối mấy cây bần mà đi, đặng chúng nó không thấy, thuyền vừa day mủi vào bờ, đi được vài khúc, kế Rạch-yến kêu lên mà rằng:
Bẩm Công-chúa, có một chiếc thuyền nào ỡ trong gioi đâm ra nửa kia? Công-chúa nghe nói ngó lại, thấy quả một chiếc thuyền trương bườm bọc gió, xâm xâm lước tới, bỗng nghe bên thuyền ấy kêu lớn lên rằng: ghe, ngừng lại, ngừng lại.
Công-chúa thấy trên thuyền ấy có hơn hai ba chục người, cầm gươm chống giáo, và hai bên be thuyền, mười mấy cây chèo, dơ lên bõ xuống một lược,chèo tới rầm rầm, ngọn sóng vổ với mái chèo, nước văng trắng giả. Công-chúa liền bảo hai thễ-nử cứ việc bơi thuyền lước tới, kế nghe bên thuyền ấy kêu lớn lên: Ngọc-Duệ Công-chúa, hảy xếp chèo ngừng lại cho mau.
Huỳnh-Anh thấy thuyền ấy phăn phăn rược theo rất cấp, thì nói:
— Bẩm công-chúa, thuyền ấy chắc là thuyền quân giặc rược theo chúng ta. — Công-chúa nói: mi cứ việc chèo đi, không cần chộn rộn, đi đặng một khúc nữa, Hnỳnh-Anh nói:
— Bẫm Công-chúa, thuyền quân nghịch rược theo gần tới, chúng ta phải liệu làm sao? bổng nghe bên thuyền ấy bắn lên một tiếng súng, và kêu lớn lên rằng:
— Ngọc-Du, ngừng lại, ngừng lại, mi chạy đường trời cũng không thoát khõi.
Công-chúa ngồi trên ghe tỉnh tỉnh tề tề, không dấu chi nao núng, còn hai thể-nử cứ việc chèo tới như bay, mot lát thể-nử Bach-Yến kêu lên: xin công-chúa để chúng tôi đâm ghe vào bờ, đặng kiếm đường mà đào nạn, kẻo chúng nó theo kịp.
Công-chúa nói không đặng, hai bên mé sông rừng bụi mịt mù, không thế lên được, hai ngươi cứ việc bơi thuyền ra khơi, cho dể bề vận động, kế tới ngả ba, công-chúa bảo đâm ngang qua sông.
Lúc bấy giờ gió càng thổi càng mạnh, sóng càng nổi càng to, chiếc thuyền cũa công-chúa trường trên ngọn sóng phăn phăn lước tới, vừa đặng nữa sông, bổng thầy một ánh sáng nhán ra và nghe môt tiếng nổ lên cái đùng rất lớn, tức thì thấy một đội chiến thuyền hơn bảy tám chiếc, bườm giăng trắng nỏn, đèn thắp như sao, ở trong mé sông bên kia kéo ngang một hàng và chặn thuyền công-chúa mà vây phủ.
Thảm thay, trước mặt thì chiến thuyền ngăn trở, sau lưng lại người nghịch rưrợc theo, công-chúa lúc nầy, ở giửa trời cao lồng lộng, sông rộng thinh thinh, mà xem lại quanh mình thì chật như cái rọ.
Bổng thấy một tướng giặc Nguyển-văn-Kiêm, đứng trước mủi thuyền kêu lớn lên rằng:
— Công-chúa Ngọc-Duệ, nàng hảy mau mau nạp mình mà hàng phục cho rồi, dầu nàng có xa chạy cao bay thế nào, cũng không phương thoát được.
Công-chúa thấy cái cảnh ngộ khốn đốn đã hiện ra trước mắt, thì biết không thế gì giải thoát nữa đặng, bèn day lại nói với hai thể-nữ rằng:
— Hùynh anh, Bạch yến, thuở nay hai ngươi theo ta, giúp đỡ tay chơn, đồng ưu cọng lạc, tuy là hai ngươi phận làm thể-nữ, mà ta xem nhu cật ruột đồng bào, dầu cho gặp cơn cực khổ gian nan thế nào, chúng ta cũng không rời nhau ra đặng. Ngày nay ta đả gặp cái cảnh ngộ khuẩn bách như vầy, thế thì ta cùng hai ngươi phải từ đây không thấy nhau đặng nữa.
Vậy thì thà ta mượn chốn dòng sâu nước bích mà náo nương một giấc u-hồn, hơn là sống mà sỉ tiết ô danh, đễ cho quân giặc vày bừa thân phận.
Hai thể nử nghe Công-chúa nói vậy, thì rưng rưng giọt lụy mà rằng:
— Công-chúa ôi! thuở nay Công-chúa xem hai con như tay chơn, hai con cũng coi Công chúa như ruột thịt, nay gặp cái cảnh nguy bức như vầy, dầu Công-chúa thế nào, thì hai con củng nguyện giữ đồng sanh tữ, nói tới đây, thì các thuyền quân giặc đả bốn phía phũ vây, gươm giáo điệp điệp trùng trùng, rồi ào ào xốc lại
Công-chúa liền day mặt qua hướng Tây và tung hô rằng:
« Vuơng mẩu vạng tuế, vuơng Huynh vạng tuế. »
Chúc rồi, tức thì Công-chúa gieo mình xuống giữa dòng sông, kế hai thể-nữ Bạch yến và Huỳnh anh cũng nhảy theo mot lược.
Ôi ! mình ngà mặt ngọc, đấm chôn giữa chốn trường giang; phách quế hồn mai, vơ-vởn theo dòng bích thủy, lúc bây giờ bốn mặt gió êm, tư bề sóng lặng, bên rừng quyên kêu dắn dỏi, dường như khóc người liệt nữ quyên sanh: dưới nước cá lội vởn vơ, tuồng như thuơng kẽ hồng nhan bạc mạng, kìa, minh mông nước nháy, chứa chan sông nổi mạch sầu: nọ, rải rác sương sa, mờ mịt trời tuông giọt thảm.
Thi điếu Công-chúa và hai thể-nử.
Cân quốc anh-hùng dể mấy ai,
Cám thương Ngọc-Duệ gái thiên-tài,
Lá gan địch-khái thần ghê mặt,
Lưởi kiếm phong trần giặc khiếp oai,
Nống sức quần xoa xông giửa trận,
Chen chơn hào kiệt đứng ngang vai,
Trời xanh nở phụ người trung-nghỉa,
Vôi khien hồn hương xuống dạ đài.
Thãm thay ba vị gái anh-hùng,
Gặp buổi thời quai mạng phải chung,
Gương bể bình tang rời rá ngọc,
Hương chiềm phấn dập giải dầu bông,
Tớ thầy chi để hai phan cách,
Sống thát thà cam một chử đồng,
Vơ vởn trung hồn theo lượng sóng,
Từ đây danh rạng giửa non sông.
Ít lời cẩn cáo:
Truyện nầy còn dài lắm, đặt ít nữa là 20 quyễn mới hết sự tích của đức Gia-Long; nay xin xuất bản năm quyển đầu nầy, đặng cống hiến cho đồng bào xem chơi sau sẻ tiếp theo cho tới Gia-Long phục quốc mới là toàn bộ.
Cholon 1er Novembre 1929.
TÂN-DÂN-TỬ cẩn khải
Chú thích
▲Hòa-thượng với hai sãi nầy là công-chúa với hai thể-nữ giả dạng đặng đến ra mắt Nguyễn-danh-Tập.
_____________________
Tien Tran gởi
