HẠNH PHÚC - Happiness
***
Nội dung
1. Khái niệm về hạnh phúc.
1.1. Nhân của hạnh phúc.
1.2. Phân loại hạnh phúc theo định tính.
1) Hạnh phúc vật chất
2) Hạnh phúc tinh thần
1.3. Phân loại hạnh phúc theo đối tượng.
- Hạnh phúc: Cá nhân, Gia đình, Xã hội, Quốc gia
2. Hạnh phúc theo quan điểm khoa học.
2.1. Hạnh phúc ở tầm vĩ mô – quốc gia.
1) Chỉ số tổng sản phẩm nội địa GDP (Gross Domestic Product).
2) Chỉ sốtiến bộ đích thực GPI (Genuine Progress Indicator).
3) Chỉ số tổng hạnh phúc quốc gia GNH (Gross National Happiness).
4) Chỉ số phát triển con người HDI (Human Development Index).
5) Chỉ số hành tinh hạnh phúc HPI 9 (Happy Planet Index).
6) Tiêu chí hạnh phúc của Viện Gallup.
7) Tiêu chí hạnh phúc của WDH (World Databases of Happiness).
8) Chỉ số thịnh vượng Legatum.
9) Nhận xét và đánh giá hạnh phúc ở tầm vĩ mô của một số chuyên gia.
2.2. Hạnh phúc ở tầm vi mô – cá nhân và gia đình.
1) Y học và hạnh phúc.
2) Tâm lý học và hạnh phúc.
- Khí chất (temperament). - Tiền bạc. - Tiêu pha và thời gian.
- Tích cực và giao tiếp. - Tuổi tác. -Tự tin và lạc quan. .
3) Đo lường hạnh phúc.
4) Thực hiện hạnh phúc.
3. Hạnh phúc theo các quan điểm dân gian.
3.1. Năng lượng hình dáng (thị giác).
1) Phúc.
2) Ngũ phúc lâm môn.
3) Tam đa (= Tam tinh tại hộ: Phúc – Lộc – Thọ).
4) Tranh tượng cát tường: - Cá chép. - Hổ. - Hoa cát tường.
3.2. Năng lượng màu sắc (thị giác).
3.3. Năng lượng âm thanh (thính giác).
3.4. Năng lượng mùi (khứu giác).
3.5. Năng lượng địa sinh học – Năng lượng đá quý.
4. Hạnh phúc theo quan điểm triết học-xã hội.
4.1. Hạnh phúc theo các trường phái triết học phương Đông:
- Ấn Độ. – Trung Quốc.
4.2. Hạnh phúc theo các trường phái triết học phương Tây:
- Hy Lạp cổ đại. – Châu Âu.
4.3. Hạnh phúc theo các quan điểm xã hội.
5. Hạnh phúc theo các tín ngưỡng tôn giáo hữu thần.
5.1. Hạnh phúc theo Kitô giáo.
1) Loại 8 Mối Phúc (Eight Beatitudes)
2) Loại 4 Mối Phúc + 4 Mối Họa.
5.2. Hạnh phúc theo các tín ngưỡng dân gian.
6. Hạnh phúc theo tôn giáo vô thần – Phật giáo.
6.1. Hạnh phúc tuyệt đối (Niết-bàn) và Hạnh phúc tương đối.
6.2. Phân tích cấu trúc con người để nhận thức về hạnh phúc.
6.3. Thực hành sống hạnh phúc - Bát chánh đạo.
1/ Chánh tri kiến (right view). 5/ Chánh mạng (right livehood).
2/ Chánh tư duy (right thought). 6/ Chánh tinh tấn (right effort).
3/ Chánh ngữ (right speech). 7/ Chánh niệm (right mindfulness).
4/ Chánh nghiệp (right action). 8/ Chánh định (right concentration).
Bài đọc thêm
1/. Hạnh phúc nơi đâu, lúc nào?
2/. Tại sao Đan Mạch được mệnh danh là đất nước hạnh phúc nhất thế giới?
NBS: Minh Tâm(8/2009, 2/2013, 3/2015, 12/2018).
1. Khái niệm về hạnh phúc.
Hạnh phúc幸福là từ gốc Hán, trong đó:
Hạnh– 幸: May mắn (không dùng riêng. Ví dụ: bất hạnh 不幸, đắc hạnh 得幸: được sủng ái)
Phúc–福: Tốt lành.
Theo đó, hạnh phúccó nghĩa tốt là tốt lành và thường được sử dụng dưới 3 dạng:
- Danh từ(E: happiness): Là sự việc tốt lành, đạt được ý nguyện về lượng hay về phẩm của một thang giá trị nào đó về một cảm giác, một niềm vui sướng. Ví dụ: Vì hạnh phúc của trẻ thơ.
- Tính từ(E: happy): Là tốt lành, được tốt lành. Ví dụ: Gia đình hạnh phúc, xã hội hạnh phúc.
- Trạng từ(E: happily): Là (một) cách tốt lành. Ví dụ: sống hạnh phúc.
Happiness- Wikipedia
Hạnh phúc– Wikipedia tiếng Việt
Hạnh phúc đôi khi còn nói gọn là phúc theo cách nói ở miền Bắc và phước theo cách nói ở miền Nam. Có phúc hay có phước có nghĩa là có được hạnh phúc.
Có thể nói rằng nói rằng muôn loài đều đi tìm hạnh phúc là cuộc sống tốt lành. Con người xưa nay hướng tới văn minh bằng khoa học kỹ thuật và khoa học xã hội – như triết học, tôn giáo, … – cũng không ngoài mục tiêu hạnh phúc.
1.1. Nhân của hạnh phúc.
Về nguyên nhân có được hạnh phúc, nói chung có 2 quan niệm sau:
- Hạnh phúc có được từ hành động hiện thực: Bản thân con người nỗ lực thực hiện đạt được, hoặc có được sự hỗ trợ từ của người khác, hoặc do cả hai. Người hỗ trợ cho người khác được hạnh phúc gọi là người làm phúc (hay người làm phước) cho cách gọi trong quan hệ xã hội.
- Hạnh phúc có được từ niềm tin tôn giáo: Thần linh vô hình được tôn thờ nơi tôn giáo được cho là có khả năng giúp cho con người được hạnh phúc. Con người cầu xin thần linh và thần linh ban phúc cho con người.
1.2. Phân loại hạnh phúc theo định tính.
Đời sống của con người, cá thể hay cộng đồng, đều gồm 2 mặt là vật chất và tinh thần. Vì thế hạnh phúc của con người được đánh giá là sự tốt lành trên hai phương diện này, đó là hạnh phúc vật chất và hanh phúc tinh thần. Nếu đạt cả hai là hạnh phúc trọn vẹn.
1) Hạnh phúc vật chất: Có thể nói rằng loại hạnh phúc này đặt nền tảng trên sự thỏa mãn ngũ quan là nhìn (nhãn), nghe (nhĩ), ngửi (tỉ), nếm (thiệt), xúc chạm (thân). Tổng hợp chung là các hình thái ăn, mặc, ở, giải trí, … sung sướng.
Nhà triết học cổ đại Hy Lạp là Platon (428–427 TCN) đã góp ý: “Nếu thỏa mãn vật chất là hạnh phúc thì ta có thể xem con bò là hạnh phúc…” .
Thông thường, nhiều quan điểm cực đoan đặt nặng định lượng vật chất cho vấn đề hạnh phúc. Tuy nhiên thực tế xưa nay cho thấy, tình trạng vật chất thừa mứa của một đối tượng vẫn chưa quyết định hạnh phúc, mà lắm khi bị bế tắc dẫn đến hủy hoại thân xác của họ. Tri túc là ý tưởng mà có lẽ ai cũng thường nghe qua, thuộc mảng tinh thần của con người. Vì thế nói chung, khía cạnh tinh thần không thể thiếu nếu như ta mong cho hạnh phúc của chính mình được tròn đầy.
2) Hạnh phúc tinh thần: Có thể nói rằng loại hạnh phúc này đặt nền tảng trên sự thỏa mãn tư duy hiểu biết, cụ thể là trên hai lĩnh vực tình cảm và lý trí. Tổng hợp chung là các hình thái tư duy triết học, tư duy sáng tạo.
Các tôn giáo được xem như môi trường xã hội thỏa mãn phần nào hạnh phúc tinh thần của con người. Quan điểm về nhận thức và hành động để đạt tới hạnh phúc của các tôn giáo có hai hướng trái nhau, có thể thấy như sau:
- Tôn giáo hữu thần: Cho rằng con người cần chấp nhận và sống theo Chân lý chủ quan của tôn giáo mình thì thần linh sẽ ban cho hạnh phúc, và hứa hẹn người cầu xin sẽ có được hạnh phúc vĩnh cửu sau khi chết.
- Tôn giáo vô thần: Cho rằng con người cần tự nỗ lực học hiểu Chân lý khách quan để có được nhận thức và thực sống hạnh phúc hợp với chân lý. Do Chân lý khách quan luôn tồn tại trong mọi không gian và thời gian, nên người thực chứng không phải cầu xin ai điều gì cả, và thản nhiên tự tại với sinh tử.
1.3. Phân loại hạnh phúc theo đối tượng.
Hạnh phúc có thể được khảo sát theo đối tượng cá nhân (một người) cộng đồng (nhiều người) như gia đình, xã hội. Nội dung của hạnh phúc trên một đối tượng bao gồm hạnh phúc vật chất và hạnh phúc tinh thần.
1)Hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc gia đình.
Từ xưa đến nay, 2 loại hạnh phúc nàythường được các nhà đạo học, các triết gia hay các tổ chức tôn giáo có những quan điểm riêng, tạo ra những ảnh hưởng nhất định.
Ngày nay, ngành khoa học xã hội có những nghiên cứu liên tục về điều kiện vật chất và tinh thần đáp ứng, nhằm làm cho cá nhân và gia đình được hạnh phúc.
Nhà triết học người Đức gốc Do thái là Marx (1818–1883) nói:“Người hạnh phúc nhất là người đem đến hạnh phúc cho nhiều người nhất… Chỉ có cầm thú mới quay mặt trước nỗi đau của đồng loại, mà chỉ chăm lo cho hạnh phúc riêng của mình…”.
2)Hạnh phúc xã hội, hạnh phúc quốc gia.
Hiện nay có rất nhiều tổ chức trên thế giới đánh giá hạnh phúc của một xã hội, một quốc gia theo những yếu tố riêng biệt đặt ra và được thống kê tổng hợp, thí dụ: như dưới đây sẽ được tìm hiểu:
- Chỉ số tổng sản phẩm nội địa GDP (Gross Domestic Product).
- Chỉ số tiến bộ đích thực GPI (Genuine Progress Indicator).
- Chỉ số tổng hạnh phúc quốc gia GNH (Gross National Happiness).
- Chỉ số phát triển con người HDI (Human Development Index).
- Chỉ số hành tinh hạnh phúc HPI 9 (Happy Planet Index).
- Tiêu chí hạnh phúc của Viện Gallup.
- Tiêu chí hạnh phúc của WDH (World Databases of Happiness).
- Chỉ số thịnh vượng Legatum.
Dưới đây chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu, và cũng cần lưu ý rằng cho dù gọi đó là một quốc gia hạnh phúc, nhưng không phải ai ai sống trong quốc gia này đều hạnh phúc.
Xem thêm:
- Hạnh phúc - ChúngTa.com
- Nghịch lý của hạnh phúc: Con người luôn tìm kiếm hạnh phúc nhưng ...
2. Hạnh phúc theo quan điểm khoa học.
2.1. Hạnh phúc ở tầm vĩ mô – quốc gia.
Đại hội đồng Liên Hợp Quốc ngày 28/6/2012 đã thông qua nghị quyết lấy ngày 20/3 hàng năm là Ngày Hạnh phúc thế giới và bày tỏ mong muốn tất cả mọi người tham gia vào ngày này. Nghị quyết này kêu gọi tất cả các nước thành viên tổ chức lễ kỷ niệm Ngày Hạnh Phúc thế giới một cách phù hợp bao gồm việc giáo dục và các hoạt động nhận thức của quần chúng.
Việc đề ra Ngày Hạnh phúc thế giới là một phần trong chiến dịch ngoại giao của vương quốc Bhutan, một đất nước có chỉ số hạnh phúc quốc gia được xem là khá cao.
Nhiều chính phủ cho biết những nhân tố mới, trong đó có nhân tố hạnh phúc sẽ phải nằm trong các biện pháp đánh giá sự thịnh vượng hiện đang bị chi phối bởi các chỉ số kinh tế.
Sau đây là những những tiêu chí mà các tổ chức trên thế giới chọn để đánh giá sự thành đạt và hạnh phúc trong cuộc sống của các nước trên quả đất này và theo từng thời kỳ.
International Day of Happiness - Wikipedia
Ngày Quốc tế Hạnh phúc – Wikipedia tiếng Việt
1) Chỉ số tổng sản phẩm nội địa GDP và chỉ sốtiến bộ đích thực GPI.
Chỉ số tổng sản phẩm nội địa GDP (Gross Domestic Product) là giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm), lần đầu tiên được đưa ra bởi Simon Kuznets (1901 – 1985) – nhà kinh tế Mỹ-Belarus (Nga) gốc Do Thái cho một báo cáo của Quốc hội Hoa Kỳ vào năm 1934. Trong báo cáo này, Kuznets sử dụng nó như một biện pháp đánh giá phúc lợi. Tại hội nghị Bretton Woods vào năm 1944, GDP đã trở thành công cụ chính để đo lường nền kinh tế của một quốc gia.
GDP từng và hiện vẫn được dùng rộng rãi trên thế giới như một chỉ số đánh giá sự phát triển kinh tế đến nỗi người ta thường đánh đồng GDP với tiến bộ xã hội. Thực ra GDP cơ bản chỉ là tổng giá trị sản xuất (tiêu thụ) nội địa tính bằng tiền tệ. Trong khi đó, tiến bộ xã hội là một vấn đề nhiều mặt mà GDP chỉ là một chiều kích mang tính vật chất của nó.
GDP không thể bao hàm chất lượng cuộc sống ở nhiều mặt, và cũng không phản ánh được sự phân bố bình quân đầu người một cách trung thực ở những quốc gia có mức chênh lệch giàu nghèo cao. Vì thế, chiến lược phát triển quốc gia nếu chỉ dựa trên tiêu chí GDP sẽ dễ bị lạc hướng, bám vào phương tiện mà quên mất (thậm chí hy sinh luôn) mục đích!
2) Chỉ sốtiến bộ đích thực GPI.
Trước những hạn chế của GDP, đã có nhiều đề nghị về những chỉ số thay thế khác có tầm nhìn tổng quát và chính xác hơn, được biết đến nhiều nhất trong số đó là chỉ số tiến bộ đích thực (GPI) và chỉ số phát triển con người (HDI). Tuy nhiên, GDP vẫn được dùng đến cùng với các yếu tố khác nữa khi tính toán hai chỉ số này.
John Hicks – Wikipedia –Nobel kinh tế 1972 (trái) vàR. Colman (phải).
Chỉ sốtiến bộ đích thực GPI(Genuine Progress Indicator – Wikipedia) được dựa trên các khái niệm về thu nhập bền vững, trình bày bởi nhà kinh tế học người Anh là John Hicks (1904 – 1989) trình bày vào năm 1948 vàđược tiến sĩ người gốc Úc là Ronald Colman (1947 – …) hoàn thiện. Chỉ số GPI được áp dụng tại Mỹ, Úc, Canada … Tại Mỹ các phương pháp tính toán của GPI lần đầu tiên được han qua dữ liệu trong cuối những năm 1990.
Theo đó, GPI được tính dựa trên GDP làm mức ban đầu, sau đó điều chỉnh bằng cách cộng thêm những yếu tố ảnh hưởng tích cực (công việc tình nguyện, chăm sóc trẻ em, kinh tế gia đình…) trừ đi những yếu tố ảnh hưởng tiêu cực (khắc phục ô nhiễm môi trường, chi phí thuốc men, chi phí an ninh và tòa án cho các tội phạm). Tuy nhiên, những chi phí có thể làm tăng GDP, nhưng rõ han không phải là chỉ thị của sự phát triển tốt đến hạnh phúc con người và phúc lợi xã hội.
3) Chỉ số tổng hạnh phúc quốc gia GNH.
Vương quốc Bhutan nằm trên dãy Himalaya nổi tiếng với chính sách tác động đến thái độ tích cực của người dân đó là chỉ số đa chiều GNH.
Jigme Singye Wangchuck (1955 - …), tại vị (1972 – 2006)
Chỉsố tổng Hạnh Phúc Quốc Gia GNH (Gross National Happiness) là khái niệm ra đời từ ý tưởng của cựu vương Bhutan là Jigme Singye Wangchuck (1955 - …), khi ông lên ngôi năm 1972, đến nay đã được nhiều nước trên thế giới lưu ý và nghiên cứu. Nó cho thấy quyết tâm của ông theo đuổi một con đường phát triển kinh tế chọn lọc và thận trọng để bảo vệ môi trường và gìn giữ nền văn hóa tâm linh. Những giá trị đạo đức được đặt làm trọng tâm trong chiến lược kinh tế để bảo đảm nguồn lương thực, nhà ở và sức khỏe người dân. Trong triết lý định hướng phát triển của họ, tiêu chí ưu tiên là GNH chứ không phải là GDP, quan niệm đó định nghĩa lại sự thịnh vượng trong một tầm nhìn bao quát hơn, đo lường phúc lợi thật sự hơn là chỉ với sự tiêu thụ vật chất.
Hệ tiêu chuẩn đánh giá hạnh phúc dựa trên 4 nền tảng, 9 phương diện và 72 tiêu chí. Từ 4 nền tảng của một xã hội hạnh phúc là kinh tế, văn hoá, môi trường vàquản lý hiệu quả,có thể chia nhỏ ra thành 9 phương diện: trạng thái khoẻ mạnh về tinh thần, môi sinh, sức khoẻ, giáo dục, văn hoá, chất lượng sống, thời gian sử dụng, sức mạnh cộng đồng và quản lý hiệu quả. Tất cả các phương diện này được phân tích bằng cách sử dụng 72 tiêu chí. Chẳng hạn khoẻ mạnh về mặt tinh thần có thể bao gồm các tiêu chí sau: tần suất thực hiện cầu kinh, thiền định và sự xuất hiện các cảm giác ích kỷ, ghen tỵ, bình thản, từ bi, khoan dung độ lượng, đau khổ thất vọng cũng như ý nghĩ về tự tử.
Cứ hai năm một lần, những tiêu chí này sẽ được đánh giá lại thông qua một bảng câu hỏi phổ biến trên toàn quốc.
Chỉ số hạnh phúc quốc gia và nụ cười hồn nhiên cho thế hệ mai sau của Bhutan
Người dân Bhutan sống một cách gần như bền vững và thanh bình, không có người thất nghiệp, nghiện rượu, không có bạo lực, tội ác. Mỗi gia đình đều có đất đai, gia súc để có thể tự cung cấp mọi thứ cần thiết cho mình. Giáo dục và chăm sóc y tế được miễn phí. Đây là quốc gia duy nhất trên thế giới cấm săn bắn hay đánh bắt thú hoang dã, cấm kinh doanh thuốc lá dưới mọi hình thức. Trong khi nhiều nước đang phát triển bán rẻ nguồn tài nguyên của mình và tìm mọi cách thu hút du lịch nhằm tăng trưởng kinh tế, luật Bhutan ngược lại, rất chú trọng bảo vệ tài nguyên thiên nhiên với 60% diện tích đất bao phủ bởi rừng và hạn chế du lịch (bằng cách thu phí rất cao) nhằm bảo vệ các di tích cổ và ngăn ngừa những ảnh hưởng tiêu cực của nó đến các giá trị văn hóa lâu đời.
Trong 3 thập niên qua, đất nước 2,2 triệu dân này phát triển được mạng lưới đường bộ đáng kể cùng lúc với việc mở rộng độ che phủ của diện tích rừng, điều tưởng như mâu thuẫn.
Tuổi thọ trung bình của người dân Bhutan cũng tăng lên thêm 19 tuổi từ năm 1984 đến 1998. Tỉ lệ người biết chữ tăng từ 17% lên gần 50% và giáo viên được luân chuyển han tục từ thành thị ra nông thôn nhằm bảo đảm cho học sinh có cơ hội tiếp cận giáo viên giỏi ngang nhau.
Sự thật là Bhutan vẫn còn nghèo. Không có nghĩa là mọi thứ đều tốt đẹp ở Bhutan. Vương quốc nhỏ bé này đã thành công với chỉ tiêu Tổng Hạnh Phúc Quốc Dân của mình, những kết quả đạt được là đáng kể. Bước tiến cuộc sống tuy chậm nhưng nhân bản và tiềm ẩn nguồn nội lực dồi dào.
Bhutan có rất nhiều cần sa (marijuana), nhưng người ta không ai hút cần sa, chỉ dùng cho heo ăn như đoạn phim tài liệu thú vị về Bhutan và chỉ số Tổng Hạnh Phúc Quốc Gia của han Journeyman.Tv dưới đây.
Xem thêm:
4) Chỉ số phát triển con người HDI.
Chỉ số phát triển con người HDI (Human Development Index) là khái niệm mang tính nhân văn, với con người làm trung tâm do UNDP (chương trình phát triển của Liên hiệp quốc) đưa ra, với một hệ thống cơ sở lý luận và phương pháp tính nhằm đánh giá và so sánh mức độ phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia và vùng lãnh thổ trên phạm vi thế giới, bao gồm những tiêu chí như tuổi thọ (sức khỏe), phổ cập giáo dục (tri thức), GDP bình quân (thu nhập). (Việt Nam đứng 105/177 nước về HDI, theo báo cáo LHQ năm 2007).
Chỉ số phát triển con người HDI là chỉ số so sánh, định lượng về mức thu nhập, tỷ lệ biết chữ, tuổi thọ và một số nhân tố khác của các quốc gia trên thế giới. HDI giúp tạo ra một cái nhìn tổng quát về sự phát triển của một quốc gia. Chỉ số này được phát triển bởi một kinh tế gia người Pakistan là Mahbub ul Haq vào năm 1990.
Mahbub ul Haq(1934 – 1998)
Chỉ số thỏa mãn với đời sống, theo các mức độ Xanh lục = cảm thấy hạnh phúc nhất > Xanh dương> Tím > Cam > Đỏ = ít hạnh phúc, cảm giác bất hạnh nhất; Xám = Không có thông tin.
Bản đồ thế giới theo chỉ số phát triển con người HDI (2012)
Bản đồ dành cho người bị mù màu.
0,850 trở lên
0,800–0,849
0,750–0,799
0,700–0,749
0,650–0,699 |
0,600–0,649
0,550–0,599
0,500–0,549
0,450–0,499
0,400–0,449 |
0,350–0,399
0,300–0,349
0,250–0,299
dưới 0,250
không có số liệu |
Ngày Quốc tế Hạnh phúc – Wikipedia tiếng Việt
International Day of Happiness - Wikipedia, the free ...
Quan điểm phát triển con người
Phát triển con người chính là, và phải là, sự phát triển mang tính nhân văn. Đó là sự phát triển vì con người, của con người và do con người.
Quan điểm phát triển con người nhằm mục tiêu mở rộng cơ hội lựa chọn cho người dân và tạo điều kiện để họ thực hiện sự lựa chọn đó (có nghĩa là sự tự do). Những lựa chọn quan trọng nhất là được sống lâu và khỏe mạnh, được học hành và có được một cuộc sống ấm no.
Năm đặc trưng của quan điểm phát triển con người là:
1. Con người là trung tâm của sự phát triển.
2. Người dân vừa là phương tiện vừa là mục tiêu của phát triển.
3. Việc nâng cao vị thế của người dân (bao hàm cả sự hưởng thụ và cống hiến).
4. Chú trọng việc tạo lập sự bình đẳng cho mọi người dân về mọi mặt: tôn giáo, dân tộc, giới tính, quốc tịch…
5. Tạo cơ hội lựa chọn tốt nhất cho người dân về: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa…
Cách tính HDI
HDI là một thước đo tổng quát về phát triển con người. Nó đo thành tựu trung bình của một quốc gia theo ba tiêu chí, HDI là số trung bình nhân của các chỉ số sau:
1. Sức khỏe:Một cuộc sống dài lâu và khỏe mạnh, đo bằng tuổi thọ trung bình.
Chỉ số tuổi thọ trung bình= |
Tuổi thọ trung bình – 20 |
83.4 – 20 |
2. Tri thức:Được đo bằng tỉ lệ số người lớn biết chữ và tỉ lệ nhập học các cấp giáo dục (tiểu học, trung học, đại học).
Chỉ số học vấn= 2/3 tỉ lệ số người lớn biết chữ cộng với 1/3 tỷ lệ chung trong cả nước.
3. Thu nhập:Mức sống đo bằng chỉ số GDP bình quân đầu người (GDP tính theo phương pháp sức mua tương đương quy ra dollar Mỹ):
Chỉ số GDP thu nhập đầu người =
Ngày 26 tháng 12 năm 2013, Việt Nam đã ban hành Quyết định số 2589/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Tổ chức các hoạt động nhân Ngày Quốc tế Hạnh phúc 20 tháng 3 hằng năm.
Xem thêm:
|
|