Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh


 

HỒI KÝ CỦA MỘT NGƯỜI BỊ KẸT LẠI HÀ NỘI SAU 1954
 

Với bút hiệu tựdo ‒ chữ thường, viết liền ‒ ông Nguyễn Văn Luận là tác
giả bài “Người tìm tự do và tượng thần tự do” đã được bình chọn trúng
giải chính thức trong giải sơ kết 3 tháng Giải Thưởng Việt Báo Viết Về
Nước Mỹ.

Tác giả sinh năm 1937, hiện cư ngụ tại Worcester, Massachusetts. Sau
đây là bài viết mới nhất của ông.

***

Ông Hòa là cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, bị Cộng sản bắt đi tù năm
1975, sang Mỹ theo diện HO. Tôi gặp ông tại một tiệc cưới, trở thành
bạn, thường gặp nhau bởi cùng sở thích, nói chuyện văn chương, thời
thế, dù trong quá khứ ông sống tại miền Nam, tôi ở xứ Bắc.

Một lần tới thăm, cháu Thu Lan, con ông Hòa, hỏi tôi:
- “Bác ở Hà Nội mà cũng đi ty nạn à…?”
Nghe hỏi tự nhiên nên tôi chỉ cười:
- “Cái cột đèn mà biết đi, nó cũng đi… nữa là bác!”

Thực ra tôi đã không trốn thoát được từ lần đầu “vượt tuyến” vào miền
Nam. Rồi thêm nhiều lần nữa và 2 lần “vượt biển”, vẫn không thoát.
Chịu đủ các “nạn” của chế độ cộng sản trong 27 năm ở lại miền Bắc, tôi
không tị nạn, mà đi tìm Tự Do, trở thành thuyền nhân, đến nước Mỹ năm
1982.

Sinh trưởng tại Hà Nội, những năm đầu sống ở Mỹ, tôi đã gặp nhiều câu
hỏi như cháu Thu Lan, có người vì tò mò, có người giễu cợt. Thời gian
rồi cũng hiểu nhau.

Tôi hằng suy nghĩ và muốn viết những giòng hồi tưởng, vẽ lại bức tranh
Hà Nội xưa, tặng thế hệ trẻ, và riêng cho những người Hà Nội di cư.
Người dân sống ở miền Nam trù phú, kể cả hàng triệu người di cư từ
miền Bắc, đã không biết được những gì xảy ra tại Hà Nội, thời người
cộng sản chưa vận com-lê, đeo cà-vạt, phụ nữ không mặc áo dài.

Hiệp định Geneva chia đôi nước Việt. Cộng sản, chưa lộ mặt là Cộng
sản, tràn vào miền Bắc tháng 10 năm 1954. Người Hà Nội đã “di cư” vào
miền Nam, bỏ lại Hà Nội hoang vắng, tiêu điều, với chính quyền mới là
Việt Minh, đọc tắt lại thành Vẹm. Vì chưa trưởng thành, tôi đã không
hiểu thế nào là …Vẹm! Khi họ tiếp quản Hà Nội, tôi đang ở Hải Phòng.
Dân đông nghịt thành phố, chờ tầu há mồm để di cư. Trước Nhà Hát Lớn,
vali, hòm gỗ, bao gói xếp la liệt.

Lang thang chợ trời, tôi chờ cha tôi quyết định đi Nam hay ở lại. Hiệp
định Geneva ghi nước Việt Nam chỉ tạm thời chia cắt, hai năm sau sẽ
“Tổng tuyển cử” thống nhất.
Ai ngờ cộng sản miền Bắc “tổng tấn công” miền Nam!

Gia đình lớn của tôi, không ai làm cho Pháp, cũng không ai theo Việt
Minh. Cha tôi làm chủ một hãng thầu, nghĩ đơn giản là dân thường nên ở
lại. Tôi phải về Hà Nội học.

Chuyến xe lửa Hà Nội “tăng bo” tại ga Phạm Xá, nghĩa là hai chính
quyền, hai chế độ, ngăn cách bởi một đoạn đường vài trăm mét, phải đi
bộ hoặc xe ngựa. Người xuống Hải phòng ùn ùn với hành lý để đi Nam,
người đi Hà Nội là con buôn, mang xăng về bán. Những toa tầu chật cứng
người và chất cháy, từ chai lọ đến can chứa nhà binh, leo lên nóc tầu,
bíu vào thành toa, liều lĩnh, hỗn loạn …

Tới cầu Long Biên tức là vào Hà Nội. Tầu lắc lư, người va chạm người.
Thằng bé ù chạc 15 tuổi, quắc mắt nhìn tôi:
“Ðề nghị đồng chí xác định lại thái độ, lập trường tư tưởng!”

Tôi bàng hoàng vì thứ ngoại ngữ Trung quốc, phiên âm thành tiếng Việt,
nghe lần đầu không hiểu, để rồi phải “học tập” suốt 20 năm, “ngoại ngữ
cộng sản”: “đấu tranh”, “cảnh giác”, “căm thù” và … “tiêu diệt giai
cấp”! (Thứ ngôn ngữ này ghi trong ngoặc kép.)

Hà Nội im lìm trong tiết đông lạnh giá, người Hà Nội e dè nghe ngóng
từng “chính sách” mới ban hành.
“Cán bộ” và “bộ đội” chỉ khác nhau có ngôi sao trên mũ bằng nan tre,
phủ lớp vải mầu cỏ úa, gọi là “mũ bộ đội”, sau này có tên là “nón
cối”. Hà Nội “xuất hiện” đôi dép “Bình Trị Thiên”, người Bắc gọi là
“dép lốp”, ghi vào lịch sử thành “dép râu”.

Chiếc áo dài duyên dáng, thướt tha của thiếu nữ Hà Nội được coi là
“biểu hiện” của “tư sản, phong kiến”, biến mất trong mười mấy năm sau,
vì “triệt để cách mạng”. Lần đầu tiên, “toàn thể chị em phụ nữ” đều
mặc giống nhau: áo “sơ mi”, quần đen. Hãn hữu, như đám cưới mới mặc sơ
mi trắng vì “cả nước” không có xà phòng.
Chơi vơi trong Hà Nội, tôi đi tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi Nam.

Tôi phải học năm cuối cùng, Tú tài 2, cùng một số “lớp Chín hậu
phương”, năm sau sẽ sát nhập thành “hệ mười năm”. Số học sinh “lớp
Chín” này vào lớp không phải để học, mà là “tổ chức Hiệu đoàn”, nhận
“chỉ thị của Thành đoàn” rồi “phát động phong trào chống văn hóa nô
dịch!”
Họ truy lùng… đốt sách!

Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn “kiểm tra”, lục lọi,
từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang “tập
trung” tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt.

Lửa cháy bập bùng mấy ngày, trong niềm “phấn khởi”, lời hô khẩu hiệu
“quyết tâm”, và “phát biểu của bí thư Thành đoàn”: tiểu thuyết của Tự
Lực Văn Ðoàn là … “cực kỳ phản động!” Vào lớp học với những “phê bình,
kiểm thảo…cảnh giác, lập trường”, tôi đành bỏ học.
Chiếc radio Philip, “tự nguyện”, mang ra “đồn công an”, thế là hết,
gia tài của tôi!

Mất đời học sinh, tôi bắt đầu cuộc sống đọa đày vì “thành phần giai
cấp”, “sổ hộ khẩu”, “tem, phiếu thực phẩm”, “lao động nghĩa vụ hàng
tháng”.
Ðây là chính sách dồn ép thanh niên Hà Nội đi “lao động công trường”,
miền rừng núi xa xôi. Tôi chỉ bám Hà Nội được 2 năm là bị “cắt hộ
khẩu”, … đi tù!

Tết đầu tiên sau “tiếp quản”, còn được gọi là “sau hòa bình lập lại”,
Hà Nội mơ hồ. Những bộ mặt vàng võ, áo quần nhầu nát, xám xịt, thái độ
“ít cởi mở”, từ “nông thôn” kéo về tiếp quản chiếm nhà người Hà Nội di
cư. Người Hà Nội ở lại bắt đầu hoang mang vì những tin đồn và “chỉ
thị”: ăn Tết “đơn giản, tiết kiệm”. Hàng hóa hiếm dần, “hàng nội” thay
cho “hàng ngoại”.

Âm thầm, tôi dạo bước bên bờ Hồ Gươm, tối 30 Tết. Tháp Rùa, Cầu Thê
Húc nhạt nhòa, ảm đạm, đền Ngọc Sơn vắng lặng. Chỉ có Nhà Thủy Tạ, đêm
nay có ca nhạc, lần cuối cùng của nghệ sĩ Hà Nội.
Ðoàn Chuẩn nhớ thương hát “Gửi người em gái miền Nam”, để rồi bị đấu
tố là phong cách tiểu tư sản, rạp xinê Ðại Ðồng phố Hàng Cót bị “tịch
thu”.

Hoàng Giác ca bài “Bóng ngày qua”, bị kết tội thành “tề ngụy”, hiệu
đàn nhỏ phố Cầu Gỗ phải dẹp, vào tổ đan mũ nan, làn mây, sống “tiêu
cực” hết đời trong đói nghèo, khốn khổ.

Danh ca Minh Ðỗ, Ngọc Bảo, nhạc sĩ Tạ Tấn, sau này làm gì, sống ra
sao, “phân tán”, chẳng ai còn dám gặp nhau, sợ thành “phản động tụ
tập”.
“Chỉ thị Ðảng và Ủy ban Thành” “phổ biến rộng rãi trong quần chúng” là
diệt chó. “Toàn dân diệt chó”, từ thành thị đến “nông thôn”. Gậy gộc,
giây thừng, đòn gánh, nện chết hoặc bắt trói, rồi đầu làng, góc phố
“liên hoan tập thể”.

Lý do giết chó, nói là trừ bệnh chó dại, nhưng đó là “chủ trương”,
chuẩn bị cho đấu tố “cải tạo tư sản” và “cải cách ruộng đất”. Du kích,
công an rình mò, “theo dõi”, “nắm vững tình hình” không bị lộ bởi chó
sủa. Mọi nơi im phăng phắc ban đêm, mọi người nín thở đợi chờ thảm
họa.

Hà Nội đói và rách, khoai sắn chiếm 2 phần tem gạo, 3 mét vải “cung
cấp” một năm theo “từng người trong hộ”. Mẹ may thêm chiếc quần “đi
lao động “ thì con nít cởi truồng.

Người thành thị, làm cật lực, xây dựng cơ ngơi, có ai ngờ bị quy là
“tư sản bóc lột”? nhẹ hơn là “tiểu tư sản”, vẫn là “đối tượng của cách
mạng”.

Nông dân có dăm sào ruộng đất gia truyền vẫn bị quy là “địa chủ bóc
lột, cường hào ác bá”!

Giáo sư Trương văn Minh, hiệu trưởng trường Tây Sơn, ngày đầu “học
tập”, đã nhẩy lầu, tự tử.
“Tư sản Hà Nội” di cư vào Nam hết, chẳng còn bao nhiêu nên “công tác
cải tạo được làm “gọn nhẹ” và “thành công vượt mức”, nghĩa là mang bắn
một, hai người “điển hình”, coi là “bọn đầu xỏ” “đầu cơ tích trữ”, còn
thì “kiểm kê”, đánh “thuế hàng hóa”, “truy thu”, rồi “tịch thu” vì
“ngoan cố, chống lại cách mạng!”

Báo, đài hàng ngày tường thuật chuyện đấu tố, kể tội ác địa chủ, theo
bài bản của “đội cải cách” về làng, “bắt rễ” “bần cố nông”, “chuẩn bị
thật tốt”, nghĩa là bắt học thuộc lòng “từng điểm”: tội ác địa chủ thì
phải có hiếp dâm, đánh đập, bắt con ở đợ, “điển hình” thì mang thai
nhi cho vào cối giã, nấu cho lợn ăn, đánh chết tá điền, hiếp vợ sặc
máu …!

Một vài vụ, do “Ðảng lãnh đạo”, “vận động tốt”, con gái, con dâu địa
chủ, “thoát ly giai cấp”, “tích cực” “tố cáo tội ác” của cha mẹ.
Cảnh tượng này thật não nùng! Lời Bác dạy suốt mấy mươi năm: “Trung
với Ðảng, hiếu với dân …” là vậy!
“Bần cố nông” cắm biển nhận ruộng được chia, chưa cấy xong hai vụ thì
phải “vào hợp tác”, “làm ăn tập thể”, ruộng đất lại thu hồi về “cộng
sản”.
“Toàn miền Bắc” biết được điều “cơ bản” về Xã hội chủ nghĩa là… nói
dối! Mọi người, mọi nhà “thi đua nói dối”, nói những gì Ðảng nói. Nói
dối để sống còn, tránh bị “đàn áp”, lâu rồi thành “nếp sống”, cả một
thế hệ hoặc lặng câm, hoặc nói dối, vì được “rèn luyện” trong xã hội
ngục tù, lấy “công an” làm “nòng cốt” chế độ.

Ở Mỹ, ai hỏi bạn: “How are you?”, bạn trả lời: “I’m fine, thank you.”
Ở miền Bắc VN thời đại Hồ chí Minh, “cán bộ” hỏi: “Công tác thế nào?”
Dù làm nghề bơm xe, vá lốp, người ta trả lời, “…rất phấn khởi, ra sức
thi đua, lập thành tích chào mừng… các nước anh em!”

Bị bắt bên bờ sông Bến Hải, giới tuyến chia hai miền Nam Bắc, năm 19
tuổi, tôi bị “bộ đội biên phòng” giong về Lệ Thủy, được “tự do” ở
trong nhà chị “du kích” hai ngày, đợi đò về Ðồng Hới. Trải 9 trại giam
nữa thì về tới Hỏa Lò Hà Nội, vào xà lim. Cảnh tù tội chẳng có gì tươi
đẹp, xã hội cũng là một nhà tù, không như báo, đài hằng ngày kêu to
“Chế độ ta tươi đẹp”.

Cơ hàn thiết thân, bất cố liêm sỉ, người tù “biến chất”, người tứ
chiến kéo về, nhận là người Hà Nội, đói rét triền miên nên cũng “biến
chất”!

Ðối xử lọc lừa, gia đình, bè bạn, họ hàng, “tiếp xúc” với nhau phải
“luôn luôn cảnh giác”. Hà Nội đã mất nền lễ giáo cổ xưa, Hà Nội suy
sụp tinh thần vì danh từ “đồng chí”!

Nằm trong xà lim, không có ngày đêm, giờ giấc, nghe tiếng động mà suy
đoán “tình hình”. Ánh điện tù mù chiếu ô cửa sổ nhỏ song sắt, cao quá
đầu, tôi đứng trên xà lim, dùng ngón tay vẽ chữ lên tường, “liên lạc”
được với Thụy An ở xà lim phía trước.

Thụy An là người Hà Nội ở lại tham gia hoạt động “Nhân Văn Giai Phẩm”,
đòi tự do cho văn nghệ sĩ, sau chuyển lên rừng, không có ngày về Hà
Nội. Bà phẩn uất, đã dùng đũa tre chọc mù một mắt, nói câu khí phách
truyền tụng: “Chế độ này chỉ đáng nhìn bằng nửa con mắt!”

Người du lịch Việt Nam, ít có ai lên vùng Thượng Du xứ Bắc, tỉnh Lào
Cai, có trại tù Phong Quang hà khắc, có thung lũng sâu heo hút, có tù
chính trị chặt tre vầu theo “định mức chỉ tiêu”. Rừng núi bao la,
tiếng chim “bắt cô trói cột”, nấc lên nức nở, tiếng gà gô, thức giấc,
sương mù quanh năm.

Phố Hàng Ðào Hà Nội, vốn là “con đường tư sản”, có người trai trẻ tên
Kim, học sinh Albert Sarraut. Học trường Tây thì phải chịu sự “căm thù
đế quốc” của Ðảng, “đế quốc Pháp” trước kia và “đế quốc Mỹ” sau này.
Tù chính trị nhốt lẫn với lưu manh, chưa đủ một năm, Kim Hàng Ðào “bất
mãn” trở thành Kim Cụt, bị chặt đứt cánh tay đến vai, không thuốc,
không “nhà thương” mà vẫn không chết.

Phố Nguyễn công Trứ gần Nhà Rượu, phía Nam Hà Nội, người thanh niên
đẹp trai, có biệt danh Phan Sữa, giỏi đàn guitar, mê nhạc Ðoàn Chuẩn,
đi tù Phong Quang vì “lãng mạn tiểu tư sản”. Không hành lý nhưng vẫn
ôm theo cây đàn guitar. Chỉ vì “tiểu tư sản”, không “tiến bộ”, không
có ngày về…! Ba tháng “kỷ luật”, Phan Sữa hấp hối, khiêng ra khỏi Cổng
Trời cao vút, gió núi mây ngàn, thì tiêu tan giấc mơ Tình Nghệ Sĩ!

Người già Hà Nội chết dần, thế hệ thứ hai, “xung phong”, “tình nguyện”
hoặc bị “tập trung” xa rời Hà Nội. Bộ công an “quyết tâm quét sạch tàn
dư đế quốc, phản động”, nên chỉ còn người Hà Nội từ “kháng chiến” về,
“nhất trí tán thành” những gì Ðảng … nói dối!

Tôi may mắn sống sót, dù mang lý lịch “bôi đen chế độ”, “âm mưu lật đổ
chính quyền”, trở thành người “Hà Nội di cư”, 10 năm về Hà Nội đôi
lần, khó khăn vì “trình báo hộ khẩu”, “tạm trú tạm vắng”. “Kinh nghiệm
bản thân”, “phấn đấu vượt qua bao khó khăn, gian khổ”, số lần tù đã
quên trong trí nhớ, tôi sống tại Hải Phòng, vùng biển.

Hải Phòng là cơ hội “ngàn năm một thuở” cho người Hà Nội “vượt biên”
khi chính quyền Hà Nội chống Tầu, xua đuổi “người Hoa” ra biển, khi
nước Mỹ và thế giới đón nhận “thuyền nhân” tị nạn.

Năm 1980, tôi vào Sài Gòn, thành phố đã mất tên sau “ngày giải phóng
miền Nam”. Vào Nam, tuy phải lén lút mà đi, nhưng vẫn còn dễ hơn “di
chuyển” trong các tỉnh miền Bắc trước đây. Tôi bước trên đường Tự Do,
hưởng chút dư hương của Sài Gòn cũ, cảnh tượng rồi cũng đổi thay như
Hà Nội đã đổi thay sau 1954 vì “cán ngố” cai trị.

Dân chúng miền Nam “vượt biển” ào ạt, nghe nói dễ hơn nên tôi vào Sài
Gòn, tìm manh mối. Gặp cha mẹ ca sĩ Thanh Lan tại nhà, đường Hồ Xuân
Hương, gặp cựu sĩ quan Cộng Hòa, anh Minh, anh Ngọc, đường Trần Quốc
Toản, tù từ miền Bắc trở về. Ðường ra biển tính theo “cây”, bảy, tám
cây mà dễ bị lừa. Chị Thanh Chi (mẹ Thanh Lan) nhìn “nón cối” “ngụy
trang” của tôi, mỉm cười: “Trông anh như cán ngố, mà chẳng ngố chút
nào!”
“Hà Nội, trí thức thời Tây, chứ bộ…!.”

Cả nước Việt Nam, ai cũng sẽ trở thành diễn viên, kịch sĩ giỏi!”
Về lại Hải Phòng với “giấy giới thiệu” của “Sở giao thông” do “móc
ngoặc” với “cán bộ miền Nam” ở Saigòn, tôi đã tìm ra “biện pháp tốt
nhất” là những dân chài miền Bắc vùng ven biển. Ðã đến lúc câu truyền
tụng “Nếu cái cột điện mà biết đi….”, dân Bắc “thấm nhuần” nên “nỗ
lực” vượt biên.

Năm bốn mươi tư tuổi, tôi tìm được Tự Do, định cư tại Mỹ, học tiếng
Anh ngày càng khá, nhưng nói tiếng Việt với đồng hương, vẫn còn pha
chút “ngoại ngữ Việt cộng” năm xưa.

Cuộc sống của tôi ở Việt Nam đã đến “mức độ” khốn cùng, nên tan nát,
thương đau. Khi đã lang thang “đầu đường xó chợ” thì mới đủ “tiêu
chuẩn” “xuống thành phần”, lý lịch có thể ghi là “dân nghèo thành
thị”, nhưng vẫn không bao giờ được vào “công nhân biên chế nhà nước”.
Tôi mang nhẫn nhục, “kiên trì” sang Mỹ, làm lại cuộc đời nên “đạt kết
quả vô cùng tốt đẹp”, “đạt được nguyện vọng” hằng ước mơ!

Có người “kêu ca” về “chế độ tư bản” Mỹ tạo nên cuộc sống lo âu, tất
bật hàng ngày, thì xin “thông cảm” với tôi, ngợi ca nước Mỹ đã cho tôi
nhân quyền, dân chủ, trở thành công dân Hoa kỳ gốc Việt, hưởng đầy đủ
“phúc lợi xã hội”, còn đẹp hơn tả trong sách Mác Lê về giấc mơ Cộng
sản.

Chủ nghĩa cộng sản sụp đổ rồi. Cộng sản Việt Nam bây giờ “đổi mới”.
Tiếng “đổi” và“đổ” chỉ khác một chữ “i”. Người Việt Nam sẽ cắt đứt chữ
“i”, dù phải từ từ, bằng “diễn biến hòa bình”. Chế độ Việt cộng “nhất
định phải đổ”, đó là “quy luật tất yếu của lịch sử nhân loại”.
Ôi! “đỉnh cao trí tuệ”, một mớ danh từ…!
 
Nguyễn Văn Luận
 
_________________


Đỗ Hứng gởi