Khai Thị Quyển Ba
Hòa Thượng Tuyên Hóa
Ban Phiên Dịch Việt Ngữ
Trường Ðại Học Pháp Giới
Vạn Phật Thánh Thành
Talmage, California
Mục lục:
1. Nhân Nào Quả Nấy
2. "Lấy Giả Làm Thật"
3. Thấm Nhuần Nghĩa Lý Kinh Ðiển
4. Sự Lập Nguyện Phải Ðược Phát Xuất Từ Lòng Chân Thành
5. Vạn Phật Thánh Thành - Cảnh Tiên Giữa Chốn Nhân Gian
6. Vạn Sự, Nhẫn Là Quý
7. Sống Ở Ðạo Tràng Phải "Tùy Chúng"
8. Phiền Não Là Bồ Ðề
9. Làm Thế Nào Ðể Dứt Trừ Phiền Não
10. Khai Thị Nhân Ngày Lễ Tắm Phật
11. Nhân Quả Vay Trả, Mảy May Chẳng Sai
12. Thức Ăn Cho Tinh Thần
13. Mưu Sanh và Mưu Tử
14. Bí Quyết Học Thuộc Lòng Kinh Ðiển
15. Pháp Vị Chân Thật
16. Kẻ Cướp Trong Nhà Khó Ðề Phòng!
17. Không Nên Có Thái Ðộ Cống Cao Ngã Mạn Ðối Với Tam Bảo!
18. Bớt Dùng Lời Khách Sáo
19. Cảm Kích Ân Ðức Của Chư Phật và Bồ Tát
20. Làm Thế Nào Ðể Có Ðược Trí Huệ Hơn Người
21. Học Pháp Quý Ở Thực Hành
22. Sửa Ðổi Lỗi Lầm, Nghiệp Tội Sẽ Tiêu Tan
23. Tánh Ðịnh, Ma Phục
24. Lòng Hiếu Thảo Chí Thành Cảm Ðộng Ðến Trời Ðất
25. Quả Thuấn Ðốt Thân Cúng Phật
26. Nhân Duyên Khiến Quả Năng Xuất Gia
27. Không Thể Phung Phí Của Trời!
28. Cần Phải Kiểm Tra Những Sách Xuất Bản
29. Tu Ðạo Cần Phải Quý Phước Cầu Huệ
30. Tính Nóng Nảy Là Nhân Duyên Chướng Ngại Việc Tu Ðạo
31. Cảnh Giới của Bậc A La Hán Chứng Ðạo
32. Vì Sao Cần Phải Niệm Phật
33. Con Người Có Cần Trọn Ðạo Hiếu Hay Chăng?
34. Thế Nào Là Thiện-Tri-Thức
35. Như Người Uống Nước, Nóng Lạnh Tự Biết
36. Bớt Nói Chuyện, Dụng Công Cho Nhiều
37. Tham Thiền Cần Lúc Nào Cũng Nhớ Như Vậy
38. Vì Sao Không Tương Ưng Với Ðạo
39. Phải Cẩn Thận Khi Giảng Kinh Thuyết Pháp
40. Học Gương Người Hiền Mới Là Bậc Dũng Sĩ
41. Sáu Ðại Tông Chỉ của Vạn Phật Thánh Thành
42. Người Tu Hành Không Ðược Phan Duyên
43. Khai Ngũ Nhãn Mới Thấy Ðược Rồng Thật
44. Ðời Người Như Giấc Mộng, Hãy Thức Tỉnh
45. Thế Nào Là "Ngũ Suy Tướng Hiện"
46. Trong Ðạo Tràng Phải Cẩn Thận Nơi Lời Nói và Việc Làm
47. Người Tu Ðạo Không Nên Ích Kỷ
48. Noi Gương Ðịa Tạng Vương Bồ Tát
49. Hãy Chấp Nhận Sự Chỉ Trích Vô Lý
50. Khuyên Con Dâu Nên Hiếu Thảo Với Cha Mẹ Chồng
51. Ðạo Tặc Trở Thành Hiếu Tử
52. Bốn Giai Ðoạn Tất Yếu Của Ðời Người
53. Một Cuốn Kinh Rất Khó Tụng
54. Rèn Luyện Nhân Cách Cao Thượng
55. Lầu Cao Vạn Trượng Ðều Từ Dưới Ðất Xây Lên
56. Hãy Học Cho Giỏi Mới Trọn Vẹn Ðạo Hiếu
57. Nghĩa Vụ Giáo Dục của Vạn Phật Thánh Thành
58. Trẻ Em Là Rường Cột Của Nước Nhà
59. Thế Nào Là Ðôn Phẩm, Thế Nào Là Lập Ðức
60. Ðồng Tính Luyến Ái - Chính Là Tự Ðào Mồ Chôn Mình
61. Tiền Bạc Có Thể Hại Ðến Thân Mạng
62. Kiến Tạo Một Nền Tảng Kiên Cố
63. Khổng Tử - Nhà Ðại Giáo Dục
64. Cái Ðạo Của Bậc "Ðại Học"
Sơ Lược Tiểu Sử Hòa Thượng Tuyên Hóa
Mười Tám Ðại Nguyện Của Hòa Thượng Tuyên Hóa
Tám Quy Luật của Viện Phiên Dịch Kinh Ðiển
Chú Thích
Kệ Khai Kinh
Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu,
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu,
Con nay nghe thấy chuyên trì tụng,
Nguyện rõ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nhân Nào Quả Nấy
Con người ở thế gian này gặp đủ thứ chuyện kỳ lạ, vì sao? Ðó là vì trước kia người ta đã trót trồng cái nhân kỳ lạ nên bây giờ mới sanh ra cái quả kỳ lạ. Nếu các bạn chẳng gieo loại nhân ấy thì sẽ không gặt phải loại quả này. Vì thế, nếu mọi người hiểu được đạo lý nhân quả thì hãy:
Chư ác mạc tác,
Chúng thiện phụng hành.
(Chớ làm điều ác,
Chỉ làm việc lành.)
Trên thế gian này, con người không thể nào tách rời khỏi nhân quả; song le, vì ai nấy đều chỉ thấy quả chứ chẳng thấy nhân nên khi quả báo xảy tới thì cuống quít, hoang mang, không biết nên như thế nào cho phải nữa! Ðó đều là do khi trồng nhân, người ta đã không biết thận trọng, đợi đến lúc phải nhận lãnh những quả báo quái lạ thì họ mới giật mình, sửng sốt!
Chúng ta hiện đang nghiên cứu Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối (Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh) trong Kinh Lăng Nghiêm. Phần kinh văn này giảng giải rất cặn kẽ những trường hợp nhân quả phức tạp, kỳ lạ của con người. Các bạn muốn hiểu rõ vấn đề nhân quả thì hãy "chớ làm điều ác, chỉ làm việc lành." Hằng ngày, các bạn không nên chỉ toàn nghĩ tới lợi lộc riêng tư mà hãy tìm cách mang lại lợi ích cho người khác; song, không cần phải huênh hoang: "Tôi thường làm nhiều chuyện lợi ích cho người khác lắm! Tôi sửa chùa tháp, bố thí, giúp đỡ người nghèo..." Những việc như thế không phải để khoác lác hay nói suông, mà cần phải chân chánh thực hành. Hãy lấy việc giúp người làm nguồn vui và xem đó là thiên chức của mình; được như vậy thì thế giới này sẽ tự nhiên trở nên tốt đẹp!
(Giảng ngày 30 tháng 4 năm 1983)
"Lấy Giả Làm Thật"
Ðức Khổng-Tử nói:
Ngô vị kiến hiếu đức như hiếu sắc giả dã.
(Ta chưa thấy người nào chuộng đức hạnh như chuộng sắc đẹp cả!)
Ðức Khổng-Tử bấy giờ vì nhận thấy người mến chuộng đạo đức và hạnh kiểm thì không được chuyên tâm bằng kẻ yêu chuộng sắc đẹp, cho nên ngài đã thở dài và than rằng: "Từ trước đến nay ta chưa từng gặp được người nào hâm mộ đạo đức giống như hâm mộ sắc đẹp vậy!"
Tôi thì chưa thấy có người nào mến chuộng Phật Pháp mà dụng công đến độ như mến chuộng tiền của cả! Các bạn xem, người mến mộ Phật Pháp dù ham thích Phật Pháp đến thế nào đi nữa thì cũng có lúc mệt mỏi, lạy Phật, tụng Kinh hoặc niệm chú hơi lâu thì cảm thấy mệt. Thế nhưng, nếu đi kiếm tiền, thì dù không ăn, không uống, không ngủ, người ta cũng chẳng thấy mệt! Cứ nhìn những kẻ ham mê cờ bạc là biết, suốt ngày suốt đêm không nghỉ ngơi mà mắt họ vẫn ráo hoảnh, chẳng chút mệt nhọc!
Tại sao con người lại có thể như thế được chứ! Ðó là vì đối với những gì chân thật thì người ta không nhận thức được rõ ràng; trái lại, đối với những thứ giả tạo thì họ "lật đật chạy theo như vịt," đeo đuổi kiếm tìm một cách điên cuồng, thật là điên đảo hết sức!
(Giảng tối ngày 30 tháng 4 năm 1983)
Thấm Nhuần
Nghĩa Lý Kinh Ðiển
Muốn nghiên cứu Phật Pháp thì cần phải hiểu rõ nghĩa lý trong kinh. Mỗi bộ kinh do Ðức Phật thuyết giảng đều bao hàm một nghĩa lý chân chánh riêng biệt; tuy nhiên, tất cả kinh điển đều có quan hệ liên đới với nhau và nghĩa lý cũng có tính cách liên đới.
Ðức Phật viện dẫn Tiểu Thừa, Ðại Thừa, rồi cuối cùng quy nạp về một thừa duy nhất là Phật Thừa. Bất luận là Ðại Thừa, Tiểu Thừa, hay Phật Thừa, thừa nào cũng dạy mọi người sửa đổi thói hư tật xấu, dẹp bỏ vô minh, quét sạch phiền não và dứt trừ tham, sân, si. Nếu các bạn dứt bỏ được mọi thói xấu thì đối với nghĩa lý kinh điển tự nhiên sẽ có sự tương hợp; nếu không dứt bỏ thói xấu thì các bạn sẽ không thể nào thấu triệt được nghĩa lý trong kinh.
Chúng ta đang nghiên cứu Kinh Lăng Nghiêm, và hiện đã nghiên cứu xong Ngũ Thập Ấm Ma (Năm Mươi Thứ Ấm Ma) cùng Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối (Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh). Vậy, nghĩa lý chân chánh của bộ kinh này là gì? Tại sao Ðức Phật thuyết bộ kinh này? Các bạn tìm ra đặng thì mới được xem là thật sự hiểu rõ giáo pháp hàm chứa trong kinh; nếu không tìm ra chân-nghĩa thì coi như các bạn vẫn chưa thật sự thông suốt kinh pháp! Chẳng hạn bạn gặp một người nào đó, mặc dù đã biết tên của người ấy nhưng bạn vẫn cần phải "tiến thêm một bước nữa", nhận rõ tướng mạo, tư tưởng, hành vi, v.v... của người ấy; như thế mới là nhận biết người ấy. Nếu bạn chỉ biết danh tánh mà không biết gì về tướng mạo, tư tưởng... của người ta, thì đó vẫn chưa phải là nhận biết. Chúng ta nghiên cứu kinh Phật thì cũng tương tự như vậy!
Tướng của Kinh Lăng Nghiêm là "đại nhi vô ngoại, tiểu nhi vô nội." (lớn đến độ không gì có thể vượt ra ngoài nó, nhỏ đến độ không gì nhỏ hơn nó). Nghĩa lý của Kinh Lăng Nghiêm ví như bộ xương người vậy, nếu con người không có xương, chỉ có da, thịt, gân, máu... mà thôi, thì chẳng ra hình dáng con người cũng chẳng thể nào đứng vững được. Cho nên, Kinh Lăng Nghiêm là cốt tủy của các bộ kinh. Kinh Lăng Nghiêm có công dụng "phá tà hiển chánh" - phá hủy tất cả tà vạy để hiển lộ Tam-muội chân chánh. Nếu không có Kinh Lăng Nghiêm, thì không có Phật Pháp; có Kinh Lăng Nghiêm, tất có Phật Pháp! Vậy, muốn hộ trì Phật Pháp thì trước hết chúng ta hoằng dương, phổ biến Kinh Lăng Nghiêm - phải học cho thuộc, giảng giải cho được, rồi dựa theo đó mà tu hành.
Vạn Phật Thánh Thành chính là "Lăng Nghiêm Ðàn Tràng" - đạo tràng của Kinh Lăng Nghiêm. Chúng ta nhất định phải ngời sáng "Lăng Nghiêm Ðại Quang," tu tập "Lăng Nghiêm Ðại Ðịnh," thành tựu "Lăng Nghiêm Ðại Trí" và viên mãn "Lăng Nghiêm Ðại Từ!"
(Giảng ngày 01 tháng 5 năm 1983)
Sự Lập Nguyện Phải Ðược
Phát Xuất Từ Lòng Chân Thành
Người tu hành cần phải lập nguyện với một tấm lòng thành khẩn nhất và phải luôn luôn theo đúng những điều nguyện mà mình đã lập, chứ không phải, lập nguyện xong chưa tới năm phút là đã hoàn toàn quên bẵng, vì như thế thì cũng như chưa hề lập nguyện vậy! Các bạn cần phải nhận thức cho rõ một điều - vì sao mình lập nguyện?
Việc lập nguyện không cốt ở hình thức; cho nên, nếu các bạn coi lập nguyện như một nghi thức phải theo đúng thể lệ, thì các bạn hoàn toàn sai lầm và đã đi ngược lại nguyên tắc lập nguyện rồi vậy. Những người đã lập nguyện thì mỗi ngày nên tụng bài văn phát nguyện của mình một lần để tự nhắc nhở và thôi thúc mình cố gắng thực hiện tới mức tận thiện tận mỹ; như thế mới không phụ chí hướng lập nguyện ban đầu của các bạn.
Chư Phật và chư Bồ Tát nhờ đã nghiêm chỉnh lập nguyện và thực hành đúng theo thệ nguyện nên chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vì vậy, nếu chúng ta cứ thi hành từng điều nguyện một của mình theo chiều hướng chân thật, chẳng chút giả dối, thì chúng ta cũng sẽ được thành Phật, thành Bồ Tát! Ðức Phật là bậc đại trí huệ, còn chúng ta là kẻ đại ngu si; cho nên, muốn học theo trí huệ, tất chúng ta phải lấy tâm Phật làm tâm mình, lấy nguyện của Phật làm nguyện của mình, lúc nào cũng từ bi hỷ xả, nhẫn nhịn những chuyện mà người khác khó thể nhẫn nhịn, hoàn thành những việc mà người khác khó thể làm được. Mọi sự đều phải được tiến hành một cách chân thật thì mới có thể đạt được sự cảm ứng chân chánh. Do đó, mọi người đều phải đặc biệt chú ý về việc lập nguyện!
Ðức Phật A Di Ðà do lập bốn mươi tám điều nguyện mà thành tựu được Thế Giới Cực Lạc, tiếp dẫn tất cả chúng sanh. Chúng ta nên học theo hành vi của chư Phật, chư Bồ Tát, cùng chư Thánh-nhân đời quá khứ, phải thiết tha sửa chữa những sai lầm khi trước, không nên che giấu khuyết điểm và cũng đừng chiều theo các thói hư tật xấu của mình - như thế gọi là "bội trần hợp giác" (quay lưng lại trần lao, trở về với giác ngộ); nếu trái lại, là "bội giác hợp trần" (quay lưng lại sự giác ngộ để hòa hợp với trần lao) vậy.
Nếu các bạn có thể mạnh dạn sửa chữa lỗi lầm, đối diện với hiện thực, đón nhận thử thách, rồi vượt qua được mọi thử thách cam go, thì các bạn sẽ có cơ hội thành tựu. Chớ nên có ngã kiến quá sâu, ngã tướng quá nặng. Các bạn cần phải biết rằng tự tánh vốn ngay thẳng, trong sáng, và được gọi là cái chân tâm "trọn vẹn, sáng láng, thẳng thắn, không dính mắc một chút gì dù nhỏ như sợi tơ." Chân tâm này thì không có thói hư tật xấu hay khuyết điểm gì cả; cho nên, chớ đem Phật-tánh ký thác nơi vật chất do tứ đại1 giả hợp tạo thành.
Tại sao chúng ta "bỏ thật, theo giả?" Vì cớ gì lại "bỏ gốc, tìm ngọn?" Là vì chúng ta không nhận biết được tự tánh của chính mình! Tự tánh thì trong sạch, không một chút nhiễm ô, và giống như tấm gương sáng vậy. "Vật lai tắc ánh, vật khứ tắc tịnh" (vật đến thì gương liền phản chiếu cái bóng của vật, vật đi rồi thì gương lại trong sáng như trước, không dính dấu vết).
Các bạn! Người tu Ðạo mà không thể sửa chữa lỗi lầm thì cũng như chẳng tu. Có câu rằng:
Hành niên ngũ thập, phương tri tứ thập cửu tuế chi phi.
(Ðến tuổi năm mươi mới biết những sai lầm hồi bốn mươi chín năm rồi.)
Người nào có được tâm giác ngộ như thế hẳn là người có trí tuệ; con đường tương lai của người ấy sau này chắc chắn sẽ rộng lớn thênh thang, có thể nói là "tiền đồ rực rỡ như gấm." Nếu không tự biết được điểm sai của mình thì sẽ hồ đồ suốt cả một đời, chỉ biết mưu cầu "hư danh," bị khách trần làm cho mê muội - những kẻ như thế thật đáng thương lắm thay!
Hiện tại, Vạn Phật Thánh Thành là một đạo tràng tỏa ánh sáng đến muôn nơi và được hàng vạn đức Phật hộ trì. Hy vọng rằng mọi người xua tan được những đen tối mờ ám trong tâm; song le, các bạn cần phải vận dụng trí huệ quang minh để soi sáng tự tâm thì mới mong quét sạch được mọi vô minh, phiền não. Các bạn phải hết sức thận trọng và đặc biệt lưu ý đến điểm này!
Vạn Phật Thánh Thành -
Cảnh Tiên Giữa Chốn Nhân Gian
Vạn Phật Thánh Thành là một nơi yên tĩnh, tịch mịch. Ở đây, không khí trong lành mà khung cảnh lại u nhã, chẳng có không khí ô nhiễm và cũng chẳng có tiếng xe cộ ồn ào quấy nhiễu. Phàm là người sống trong khuôn viên của Vạn Phật Thánh Thành thì phải biết quý trọng và hết lòng gìn giữ, bảo vệ môi trường.
Trong rừng thông Ðại Tùng Thụ thuộc khuôn viên Thánh Thành có tới mấy trăm con hạc trắng làm tổ trên cây và sống ở đó quanh năm. Giống chim này thuộc loài hậu điểu, lẽ ra thì phải tùy theo khí hậu mà thiên di tới nơi khác, nhưng những con bạch hạc này lại cứ "đóng đô" ở đây mãi, chẳng chịu "dọn nhà" đi, đủ thấy không khí tại Vạn Phật Thánh Thành trong lành như thế nào!
Vạn Phật Thánh Thành cũng là một Thánh-địa, có hơn ba chục con hươu sao (mai hoa lộc) sinh sống trên đồng cỏ mênh mông; chúng khoan thai đi lại trong thảo nguyên và hễ thấy có người đến thì nhảy cẫng lên ra vẻ mừng rỡ chào đón. Hươu con lại còn khả ái hơn nữa, chúng cứ quấn quít bên mình khách, không chịu rời.
Trong Thánh Thành còn có loài chồn, cáo, nhưng chúng chẳng hề làm hại những động vật nhỏ bé. Nếu chúng phạm Giới - dù là ăn con sóc nhỏ - thì cũng phải chịu sự trừng phạt của Thần Hộ Pháp. Những con chồn này rất tinh nghịch, có người trông thấy chúng liền giậm chân thì chúng bắt chước giậm chân theo, trợn mắt nhìn chúng thì chúng cũng trố mắt nhìn lại! Chồn con rất hồn nhiên, hễ gặp người xuất gia là lẽo đẽo đi theo. Có khi chúng còn vô nhà hoặc lảng vảng trước cửa để xin thức ăn.
Muôn chim được tắm mình trong cảnh giới thần tiên thiêng liêng, kỳ diệu, tinh khiết và thanh tịnh này đều sống trong niềm an lạc chan hòa; có thể nói là chúng đã gặp được môi trường thích hợp vậy!
Vạn Sự, Nhẫn Là Quý
Bí quyết của người tu hành là nên ăn ít. Vì sao? Vì ăn ít thì bớt sanh dục niệm. Dục niệm ít thì có thể biết đủ (tri túc). Biết đủ thì thường xuyên được an lạc. Luôn luôn an lạc thì không có phiền não. Không có phiền não thì Bồ-đề nảy sanh. Bồ-đề nảy sanh thì được giải thoát. Ðạt được sự giải thoát tức là có thể "nhiệm vận tự tại, sanh tử tự tại, trí huệ tự tại"- tóm lại là hoàn toàn tự tại. Ðó là những chặng đường mà người tu hành phải trải qua; mọi người hãy cùng nhau gắng sức!
Người tu hành cần phải nhẫn nại, bất luận cảnh giới thử thách nào xảy đến cho mình thì cũng phải dùng lòng nhẫn nại mà nhịn nhục, nghiến chặt răng mà chịu đựng; lúc đã vượt qua "cửa ải" được rồi thì "gió êm sóng lặng," tự nhiên sẽ được yên ổn. Khi làm việc, nếu có những việc mình không muốn làm thì cũng nên nhẫn nại mà làm, lâu dần sẽ quen đi, rồi trở thành tự nhiên. Nói tóm lại, bất luận làm công việc gì chúng ta cũng đều nên làm cho đàng hoàng, có lương tâm; chớ nên lười biếng, trốn tránh công việc cho nhàn thân, hoặc làm cẩu thả qua loa cho xong chuyện. Nếu có ý tưởng "làm Hòa Thượng một ngày thì đánh chuông một ngày," tức là trái ngược với Ðạo; hạng người này chẳng qua là "dựa vào Phật để có áo mặc, nương theo Phật để kiếm cơm ăn," sống lây lất qua ngày tháng, chắc chắn chẳng có triển vọng gì cả!
Tôi dùng hai chữ "nhẫn nại" làm phương châm cho đời mình - bất luận trong hoàn cảnh nào cũng dứt khoát không chịu đầu hàng, cương quyết nhẫn chịu hết thảy bằng cả thân lẫn tâm. Khi còn ở tại quê nhà Ðông Bắc, tôi đã quen "chịu nóng chịu lạnh." Vào những ngày "tam cửu"2 (thời kỳ lạnh nhất trong năm), tôi không mang giày mang vớ gì cả, cứ để chân trần mà đi trong tiết trời giá rét như cắt, khiến chân bị lạnh cóng đến đau buốt - nhưng tôi vẫn cố gắng chịu đựng, hễ nhẫn nại được thì không còn thấy đau nữa! Còn trong mấy hôm "tam phục"3 (thời kỳ nóng nực nhất trong năm) thì khí trời nực nội đến nỗi đầu óc choáng váng, mặt mày xây xẩm; bước đi mà cứ thấy trước mắt một màn tối đen, tưởng chừng như trời đất đang quay cuồng đảo lộn vậy. Nhiều người cảm thấy nóng bức đến lả người, nhưng tôi nhận thấy cũng không đến nỗi nào, chỉ cần ngồi nghỉ một lát là khỏe ngay. Tôi lấy hai chữ "nhẫn nại" làm Pháp-bảo để khắc phục mọi khó khăn - chịu lạnh chịu nóng, dầm mưa dãi nắng, nhịn đói nhịn khát; tôi nhẫn nại chịu đựng tất cả, nhất quyết không "kéo cờ trắng" đầu hàng.
Sau khi xuất gia, tôi chuyên tâm tu Pháp Môn Nhẫn Nhục. Nếu có người mắng tôi ư? Thì tôi cứ như chẳng nghe thấy gì cả, hoặc coi như mình đang nghe nhạc vậy, và tự nhiên được bình an vô sự! Nếu có người đánh tôi ư? Tôi tuyệt đối không đánh trả, mà chỉ đón nhận với thái độ bình tĩnh, ôn hòa! Tôi cũng kiên nhẫn hành trì các khóa lễ Công Phu Khuya và Công Phu Tối - sáng sớm tinh mơ, khi gần đến giờ phải lên Chánh Ðiện, dù đang ngon giấc mà nghe tiếng mõ báo hiệu là tôi lập tức vùng dậy. Súc miệng rửa mặt, chuẩn bị xong xuôi là tôi lên Chánh điện chờ sẵn; bao giờ tôi cũng đến sớm năm phút, không một lần trễ nãi!
Từ khi xuất gia đến nay, tôi luôn luôn dùng lòng nhẫn nại để làm việc. Khi tôi đến những nơi khác để tham cứu học hỏi, bất luận là hành lễ Công Phu Khuya, Công Phu Tối, giảng Kinh thuyết Pháp, nghe Kinh nghe Pháp, hay Cúng Ngọ, tôi đều tới sớm hơn giờ giấc ấn định, chưa bao giờ chậm trễ một chút! Hôm nay tôi mang sự việc trước kia của mình ra kể cho các bạn nghe tức là "hiện thân thuyết Pháp" vậy!
Nếu muốn tu hành một cách chân chánh, thì các bạn không được lười biếng, khi làm việc thì phải tích cực, hăng hái, và không được thiếu lòng nhẫn nại. Dẫu có những điều không thể nhẫn nhịn được thì cũng phải nhẫn nhịn, và nếu có những việc không thể chịu đựng nổi thì cũng phải chịu đựng. Nhẫn nhịn và chịu đựng tất cả - đó là kim chỉ nam của người tu hành. Ðặc biệt là trong thời kỳ còn đang học hỏi, rèn luyện thì các bạn càng phải cố gắng nhẫn nhịn và chịu đựng hơn nữa; cho dù thật tình là chẳng thể nào nhẫn nhịn được nữa thì cũng vẫn phải ráng dằn lòng mà nhẫn nhịn! Có câu:
Nhẫn phiến khắc, phong bình lãng tĩnh,
Thối nhất bộ, hải khoát thiên không.
(Nhẫn một chút, gió êm sóng lặng,
Lùi một bước, biển rộng trời cao.)
Các bạn không được tùy tiện nổi nóng; phải biết rằng:
Vô minh hỏa năng thiêu hủy công đức lâm!
(Lửa vô minh có thể thiêu rụi rừng công đức!)
Ðó là một câu danh ngôn rất chí lý và cũng là một nhận định đầy kinh nghiệm. Mọi người hãy nhớ lấy, hãy khắc ghi trong lòng! Phải thận trọng, chớ nên nổi giận!
Các bạn không nên tùy tiện nổi nóng, cho rằng như vầy là không đúng, như thế là không phải, hoặc trông thấy cái gì cũng lấy làm gai mắt, khó chịu. Ðành rằng ở đời có nhiều việc không như ý mình mong muốn, thế nhưng, các bạn hãy "lùi một bước" mà tự nhắc nhở: "Phải nhẫn nhịn! Mình phải nhẫn nhịn!" Nếu nhẫn nhịn được thì muôn sự đều êm đẹp, bao nhiêu rắc rối phiền phức đều không còn nữa!
Chúng ta, những người tu hành, cần phải làm mọi công việc một cách đàng hoàng, chu đáo, không được lười biếng, không được phóng túng, buông lung. Mọi người phải nghiêm túc tuân theo quy củ của đạo tràng; chớ nên nói rằng: "Hằng ngày tôi đều có tới nghe giảng Kinh, không hề vắng mặt, thì những việc khác cứ qua loa, đại khái thôi cũng được!" Tư tưởng này quả thật không thể nào chấp nhận được! Dù là Cúng Ngọ, Công Phu Khuya, Công Phu Tối hay là Pháp Hội, thì các bạn đều nên đến Chánh Ðiện sớm một chút để chờ tới giờ hành lễ, bởi như thế thì quả báo đến với các bạn trong tương lai mới được viên mãn. Bằng không, nếu thời khóa nào các bạn cũng trễ nãi, thì sau này các bạn có thể bị vuột mất cơ hội khai ngộ. Phàm nếu làm việc gì cũng đi sau đến trễ, thì công đức sẽ không được viên mãn.
Chúng ta, những người tu hành, đừng tự lý sự với chính mình hoặc tự làm luật sư biện hộ cho mình. Nên có câu rằng:
Như thị nhân, như thị quả.
(Nhân nào thì quả nấy.)
Hễ trồng thiện nhân thì được thiện quả, gieo ác nhân thì gặp ác báo - đó là định luật "thiên kinh địa nghĩa," là định luật muôn thuở của trời đất. Nếu trồng cái nhân trọn vẹn thì khi kết trái sẽ được quả trọn vẹn, trồng cái nhân nửa chừng hay lỡ dở thì sẽ sanh ra quả nửa chừng hay lỡ dở. Mọi người cần phải thật sự thấu suốt điểm này, chớ nên thờ ơ, xem như gió thoảng qua tai!
(Giảng ngày 01 tháng 5 năm 1983)
Sống Ở Ðạo Tràng
Phải "Tùy Chúng"
Quy củ của đạo tràng là nếu có công việc thì mọi người cùng làm chung với nhau. Ăn thì cùng nhau ăn, làm công quả thì cùng nhau làm. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp ngoại lệ, ví dụ như những người thật sự biết dụng công ngồi Thiền, tịnh tọa hằng ngày, thì họ có thể bớt làm các công việc khác. Tại sao? Bởi vì họ dụng công như thế tức là tu hành rồi! Và niệm Phật hay lạy Phật thì cũng đều là dụng công tu hành cả. Nếu quả có tình trạng đặc thù như thế, thì đó là trường hợp cá biệt, chúng ta khỏi phải đề cập tới. Nếu không thuộc trường hợp đặc biệt, thì tuyệt đối không được lười biếng, không được trốn việc cho khỏe thân, mà phải đồng loạt tuân theo quy củ, nề nếp của đạo tràng.
Các bạn không phải là lúc nào cũng ngồi Thiền, cũng chẳng phải là luôn luôn lạy Phật, thế mà khi hành lễ Công Phu Khuya và Công Phu Tối thì lại không có thì giờ tham gia (nhưng lại có thì giờ để nói chuyện thị phi), hoặc là đã đến giờ hành lễ Công Phu Khuya và Công Phu Tối rồi mà cứ lần khân chần chờ, các bạn trễ, tôi trễ, và người khác cũng trễ nữa, thế thì các khóa Công Phu Khuya và Công Phu Tối để cho ai làm chứ? Người tu hành mà không làm lễ Công Phu Khuya và Công Phu Tối thì làm gì?
Trong đạo tràng, các thời khóa Công Phu Khuya và Công Phu Tối là việc chung của Thường Trụ, là công việc mà không một ai được trốn tránh. Không làm lễ Công Phu Khuya và Công Phu Tối tức là coi thường đạo tràng, mà coi thường đạo tràng tức là coi thường Phật, và coi thường Phật thì cũng như coi thường đại chúng. Nếu coi thường đại chúng, thì không thể "cộng trụ," không thể cùng sống chung; và như thế tức là không thể cùng tu hành với mọi người được nữa!
Ngoại trừ thời gian hành trì Công Phu Khuya và Công Phu Tối, thời giờ còn lại là tùy ý mỗi người muốn làm gì thì làm. Ai muốn phiên dịch kinh điển thì phiên dịch kinh điển, ai muốn đọc sách Phật thì đọc sách Phật, ai muốn nói chuyện thị phi thì đi nói chuyện thị phi, ai muốn nghe chuyện thị phi thì cứ việc nghe chuyện thị phi, chẳng có ai can thiệp hoặc ngăn cấm các vị cả. Tuy nhiên, đến giờ hành lễ Công Phu Khuya và Công Phu Tối thì các bạn nhất định phải tham gia, bởi vì Công Phu Khuya và Công Phu Tối là pháp môn tất yếu, là thời khóa bắt buộc phải theo của đạo tràng.
Người tu Ðạo cần phải bảo vệ, gìn giữ và tôn trọng đạo tràng, và phải tuân theo mọi quy củ của đạo tràng. Hễ nghe tiếng chuông trống gióng lên báo hiệu sắp đến giờ hành lễ thì mọi người phải lập tức bỏ hết công việc đang làm dở để chuẩn bị lên Chánh Ðiện, không được chậm trễ. Ai nấy cần phải có tinh thần "tranh tiên khủng hậu" luôn luôn cố gắng tới trước, không được bỏ lại đằng sau. Nếu các bạn cho rằng các thời khóa Công Phu Khuya và Công Phu Tối không quan trọng, chỉ miễn cưỡng tham gia, thì quả thật là các bạn ở trong đạo tràng để chờ ngày xuống địa ngục! Có câu:
Ðịa ngục môn tiền Tăng Ðạo đa.
(Trước cửa địa ngục các thầy, ông Ðạo rất nhiều.)
Bất luận là người xuất gia hay là kẻ tại gia, một khi đã sống trong đạo tràng tất phải biết tùy hỷ công đức, nghiêm chỉnh làm Phật sự; chứ không thể a dua hoặc hùa theo kẻ khác, bởi như vậy thì thật không có triển vọng!
Phiền Não Là Bồ Ðề
Ðức Phật thấy chúng sanh chịu đựng bốn nỗi khổ to lớn là sanh, già, bệnh, chết, nên Ngài bèn phát tâm xuất gia tu hành, tìm cách giải quyết vấn đề ấy. Trong sự vô minh của chúng ta, phiền não bất giác xuất hiện -khi thì bộc lộ qua sắc tướng, lúc lại tiềm tàng trong tâm trí, và cũng có khi vô minh dấy khởi nên cái gì cũng không biết cả. Hễ vô minh vừa tác oai tác quái là mình trở nên hồ đồ ngay, cho nên phiền não chính là nhân duyên cản trở việc tu Ðạo, là chướng ngại vật trên đường Ðạo.
Song le, chẳng thể không có phiền não! Vì sao? Bởi "phiền não tức là Bồ-đề." Nếu biết vận dụng thì phiền não chính là Bồ-đề, nếu không biết vận dụng thì Bồ-đề biến thành phiền não! Bồ-đề ví như nước và phiền não ví như băng vậy; nước chính là băng, băng chính là nước. Nước và băng vốn cùng một thể chứ chẳng phải là hai thứ khác biệt nhau. Khi giá lạnh thì nước đông lại thành băng và lúc nóng bức thì băng tan thành nước. Vậy, nói một cách khác thì khi có phiền não tức là "nước đóng thành băng," và lúc không phiền não tức là "băng tan thành nước;" lý này rất dễ hiểu. Lại nữa, có phiền não thì có "băng" phiền não -vô minh, và không có phiền não thì có "nước" Bồ-đề -trí huệ. Về điểm này, các bạn hãy thiết thực nhớ lấy, ghi khắc vào lòng! Chúng ta tu Ðạo, chớ nên tu tới tám vạn đại kiếp mà cái phiền não này vẫn cứ tồn tại. Ngày ngày "ăn" phiền não mà sống, nếu không "ăn" phiền não thì chết đói, bởi như thế thì thật là rất đáng thương!
Bệnh tật của chúng ta là từ đâu mà ra? Chính là từ ba cái độc tham, sân, si! Nếu con người không có ba thứ độc này thì bệnh tật gì cũng không có cả. Giới, Ðịnh, Huệ trong Phật Pháp chính là phương thuốc đặc hiệu để trị căn bệnh "tham, sân, si." Thuốc này hiệu nghiệm như thần, "thuốc đến, bệnh đi," nên nói:
Tâm thanh, thủy hiện nguyệt,
Ý định, thiên vô vân.
(Tâm lắng, nước hiện trăng,
Ý dừng, trời không mây.)
Ðó là thứ cảnh giới không còn phiền não. Có câu:
Tâm chỉ niệm tuyệt: chân phú quý,
Tư dục đoạn tận: chân phước điền.
(Tâm dừng, niệm dứt: giàu sang thực,
Tư dục hết sạch là ruộng phước.)
Tâm vọng tưởng dừng hẳn, ý niệm phan duyên không còn, đó đúng là giàu sang thật sự. Nói tóm lại, không tham tức là giàu sang. Vì sao người ta tham lam? Vì họ không "tri túc," nên cảm thấy thiếu thốn, chưa đầy đủ! Không có tư dục chính là ruộng phước, nếu dứt bỏ được mọi ham muốn ích kỷ thì đúng là ruộng phước thật sự. Các bạn hãy đặc biệt lưu ý:
Tâm bình: bách nạn tán,
Ý định: vạn sự kiết.
(Tâm bình lặng, trăm nạn tiêu tan,
Ý an định, muôn sự được kiết tường.)
Câu danh ngôn trên đây rất chí lý và vô cùng hữu ích, đáng cho mọi người lấy làm khuôn vàng thước ngọc.
"Phiền não" là gì? Là "phiền thân não tâm," không được thanh thản, tự tại.
"Ưu" là gì? Ưu có nghĩa là "ưu sầu khổ não," buồn rầu, không vui.
"Hoạnh" là gì? Hoạnh tức là "phi tai hoạnh họa," có nghĩa là tai bay vạ gởi, bất ngờ xảy ra chuyện không may.
Những sự việc này ràng buộc hoặc bức bách các bạn khiến cho các bạn như bị khóa chặt bởi cái "khóa vô minh," bị trói chằng chịt bởi sợi dây phiền não, hoặc có cảm giác nghẹt thở như bị tảng đá lớn đè lên người vậy. Chính vì muốn cho hết thảy chúng sanh dứt bỏ mọi phiền não để đạt sự an vui và xa lìa mọi bức bách hầu đạt sự giải thoát, nên Ðức Phật mới khuyên tất cả chúng sanh nên phát tâm Bồ-đề rộng lớn và tu học công đức cùng đạo hạnh của Phật. Do đó, tất cả chúng sanh chúng ta nên vâng lời Ðức Phật, tin tưởng Ðức Phật, và càng nên y giáo phụng hành hơn nữa!
Tâm phiền não của chúng sanh thì nhiều đến vô lượng vô biên, nhưng nên biết rằng nó giống như các ảo ảnh trông thấy khi bị ánh mặt trời làm hoa mắt (dương diễm) vậy. Chúng sanh điên điên đảo đảoỦlấy thẳng làm cong, lấy cong làm thẳng; lấy đen làm trắng, lấy trắng làm đen; lấy thiện làm ác, lấy ác làm thiệnỦdù giáo hóa thế nào đi nữa thì cũng vẫn cứ chứng nào tật nấy, chướng ngại chồng chất. Nếu nêu ra khuyết điểm của họ, thì chẳng những họ không vui, không chịu sửa sai, không phục thiện, mà còn tìm cách che đậy, biện hộ cho những lỗi lầm của họ, và thậm chí còn nổi đại vô minh, sanh đại phiền não nữa. Chư Bồ Tát trông thấy những chúng sanh như thế thì khởi lòng từ bi thương xót, tận tình dạy bảo, năm lần bảy lượt căn dặn họ đừng nên nói chuyện thị phi, đừng nên sanh phiền não; và còn cho biết rằng nếu họ không nổi nóng, không đố kỵ, không chướng ngại kẻ khác, thì họ sẽ vượt khỏi bể khổ.
Thân người là giả tạm, đừng xem cái "túi da" hôi hám này như báu vật rồi cứ lo nâng niu, chăm sóc, sợ "nó" cực khổ, vất vả. Các bạn muốn cho "nó" được sung sướng, an nhàn, nhưng "nó" lại luôn luôn gây thêm rắc rối, phiền lụy cho các bạn!
(Giảng ngày 03 tháng 5 năm 1983)
Làm Thế Nào Ðể
Dứt Trừ Phiền Não?
Bồ Tát thấy chúng sanh trong Tam Giới đều mắc chứng bệnh phiền não của Tam Ðộc: tham, sân, si, nên phải chịu đựng đủ thứ khổ não, thiêu đốt, bức bách triền miên.
Trên lý thuyết thì người xuất gia tu Ðạo không nên có phiền não; thế nhưng, thực tế thì nhiều người vẫn còn vô số phiền não! Vì sao? Vì tâm họ không thanh tịnh, họ cứ thấy cái này không được, cái kia không đúng, nào là người này có sai lầm, kẻ kia có khuyết điểm... Nói tóm lại, họ bị rất nhiều phiền não bủa vây, khiến cho thân tâm họ không được tự tại, thanh thản. Các bạn ngẫm lại xem, người nào cũng có phiền não của người ấy, từ ông tổng thống cho đến kẻ hành khất, ai ai cũng có những buồn phiền, đau khổ riêng cả! Những vị nguyên thủ của các quốc gia trên thế giới thì hôm nay ưu tư vận nước, ngày mai lo nghĩ chuyện dân, họ có rất nhiều chuyện bận tâm, phiền lòng. Còn những người hành khất đi ăn xin mà gặp khi người ta không muốn bố thí thì họ cũng có thể tức giận, sanh phiền não vậy. Nếu muốn không còn phiền não, thì chỉ có một biện pháp duy nhất là:
Cần tu Giới Ðịnh Huệ,
Tức diệt Tham Sân Si.
(Siêng tu Giới Ðịnh Huệ,
Dứt bỏ Tham Sân Si.)
Khi việc tu hành được viên mãn thì tự nhiên không còn sanh khởi phiền não nữa.
Chính vì những chúng sanh mắc bệnh "Tam Ðộc," bệnh "phiền não" mà chư Bồ Tát đã phát tâm từ bi rộng lớn, phổ biến phương pháp đối trị. Ðức Phật thuyết giảng tám vạn bốn ngàn pháp môn là để đối trị tám vạn bốn ngàn chứng bệnh phiền não của chúng sanh, đó chính là tám vạn bốn ngàn toa thuốc có công năng xoa dịu và trị lành mọi bệnh khổ của chúng sanh. Tuy nhiên, nếu chỉ nghiên cứu toa thuốc mà không uống thuốc thì không ích lợi gì cả; cho nên, người học Phật Pháp cần phải có công phu "tín, giải, hành, chứng" thì mới có thể thành tựu được!
Khai Thị Nhân
Ngày Lễ Tắm Phật
Giữa Nam Tông và Bắc Tông có sự bất đồng về ngày đản sanh của Ðức Phật. Tuy nhiên, bất luận ngày nào, chỉ cần mọi người thành kính tưởng nhớ, trang nghiêm lễ bái, thì ngày đó chính là ngày Ðức Phật đản sanh. Bởi lẽ "pháp vô định pháp," cho nên dẫu có nghiên cứu riêng về một vấn đề này đến tóc bạc, mắt lòa, cũng vẫn không tìm ra được một đáp án đúng đắn, chỉ lãng phí thì giờ quý báu, như thế thì đáng tiếc biết bao!
Theo đạo Phật, mỗi người nói chung đều có chỗ chấp trước, câu nệ. Người thì chấp trước Phật Giáo Ấn Ðộ, kẻ thì chấp trước Phật Giáo Tích Lan, Phật Giáo Trung Hoa hoặc Phật Giáo Nhật Bản, v.v... Chính vì sự chấp trước và quan điểm bất đồng đã khiến cho Phật Giáo trở thành có giới hạn, có ranh giới, và gây nên sự chia rẽ trong Phật Giáo.
Thật ra, Phật Giáo vô lượng vô biên, không hề có một phạm vi nhất định. Do đó, tôi trước sau vẫn chủ trương là không nên vạch ranh giới cho Phật Giáo, mà trái lại, tất cả phải đoàn kết nhất trí, "thế giới một nhà" mới đúng! Tôi vẫn thường nói: "Phật Giáo mà tôi giảng thì không phải là Phật Giáo Ấn Ðộ, cũng chẳng là Phật Giáo Trung Hoa, mà chính là thứ Phật Giáo 'tận hư không, biến Pháp Giới!'" Nói rõ hơn thì không có Phật Giáo nào có quốc tịch, không có Phật Giáo nào có chủng tộc, và cũng không có thứ Phật Giáo phân chia nhân, ngã hay mình, người! Không phải chỉ có kẻ tín ngưỡng Phật Giáo mới là đệ tử Phật, mà ngay cả những người không tín ngưỡng Phật Giáo cũng là đệ tử của Phật! Vì sao? Là vì Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni từng dạy rằng:
Nhất thiết chúng sanh,
Giai hữu Phật tánh,
Giai kham tác Phật!
Nghĩa là:
Tất cả chúng sanh,
Ðều có Phật tánh,
Ðều đặng thành Phật!
Ðiều này chứng tỏ rằng người tin Phật là chúng sanh, mà người không tin Phật cũng là chúng sanh!
Có người nói: "Tôi không phải là chúng sanh!" Thế thì, thử hỏi: "Bạn không phải là chúng sanh; vậy thì bạn là gì?"
Có người lại cả quyết: "Tôi tên là Thiên (trời), vậy thì tôi là trời!" Bạn nên biết rằng: "Trời" cũng là một chúng sanh!
Cũng có người nói: "Tôi tên là Ðịa (đất), vậy thì tôi là đất!" Bạn nên nhớ rằng: "Ðất" cũng là chúng sanh và cũng không vượt ra ngoài vòng chúng sanh!
Tận cùng cõi hư không và khắp cả Pháp Giới đều là nơi cư ngụ của chúng sanh. Trong mười Pháp Giới, chỉ có Phật Pháp Giới là vượt ra ngoài vòng chúng sanh; kỳ dư, chín Pháp Giới còn lại (Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, Trời, Người, A Tu La, Súc Sanh, Ngạ Quỷ, Ðịa Ngục) đều thuộc trong vòng chúng sanh, nên đều được gọi là "chúng sanh."
Chúng ta đều là chúng sanh, thế thì, nếu tôi xem những kẻ không tin theo đạo Phật cũng thuộc về Phật Giáo thì có gì là không công bằng chứ? Ðây chính là tánh cách "toàn thể đại dụng" của Phật Giáo. Ðức Phật dạy rằng:
Nhất thiết chúng sanh giai khả thành Phật!
(Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật!)
Dù các bạn có tin theo Phật Giáo hay không, trong tương lai, tất cả các bạn đều sẽ thành Phật! Vì sao? Vì các bạn chạy không khỏi cái vòng chúng sanh! Người nào hiện tại không tin Phật, thì tương lai sẽ tin Phật; đời này không tin Phật; thì đời sau có thể tin PhậtỦnói tóm lại là mọi người rồi sẽ tin Phật, do đó mà tất cả chúng sanh đều được xem như đệ tử của Phật.
Hiện nay có tôn giáo không giảng đạo lý, cứ quả quyết rằng: "Chỉ có một vị Thần độc nhất vô nhị, có thể làm chủ tể thế giới, sáng tạo thế giới, và khống chế vũ trụ mà thôi. Con người thì không có tư cách làm Thần, mà chỉ có thể làm nô lệ cho Thần và chịu sự chi phối của Thần!" Thứ lý luận này rất tương phản với tông chỉ của Phật Giáo!
Theo tông chỉ của Phật Giáo thì ai ai cũng có thể thành Phật được cả. Các chúng sanh đời hiện tại chính là cha mẹ của chúng ta trong đời quá khứ và là những vị Phật trong tương lai. Nếu chúng ta sanh lòng sân hận đối với chúng sanh thì cũng như sân hận cha mẹ mình và chư Phật; và như thế tức là chúng ta trở thành những kẻ bất hiếu, đại nghịch! Do vậy, đối với chúng sanh thì chúng ta cần phải từ bi, kính trọng. Giữa người với người thì nên đối đãi một cách chân thành và sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau; chứ đừng chướng ngại, đố kỵ nhau. Ðó là điểm vĩ đại nhất của đạo Phật.
Hôm nay các bạn đến Vạn Phật Thánh Thành tham gia Lễ Tắm Phật, thì tôi xem các bạn như là đệ tử của Phật (mà không cần biết các bạn có tin Phật hay không, có tắm Phật hay không!) Người tín ngưỡng Thiên Chúa tôi cũng kể như đệ tử của Phật, người tín ngưỡng Giê-su tôi cũng coi là đệ tử của Phật. Ngay cả những người tín ngưỡng Do Thái Giáo, hoặc Hồi Giáo, v.v... Tôi cũng đều xem họ như đệ tử của Phật. Tôi tuyệt nhiên không hề xem các bạn là "người ngoài" đối với Phật Giáo. Tất cả mọi người đều là một nhà, cùng chung một gia đình, không phân biệt người này kẻ nọ. Các bạn xem, Phật Giáo hoàn toàn không có tư tưởng bài xích tôn giáo khác, thật là vĩ đại biết bao!
(Giảng ngày 09 tháng 5 năm 1983)
Phụ Lục:
Nhân Quả Vay Trả,
Mảy May Chẳng Sai
(Châu Quả Lập)
Hôm nay nhằm Lễ Phật Ðản (mồng tám tháng tư âm lịch, năm 1983), sao chép Kinh Hoa Nghiêm vừa đến phần Tám Tướng Thành Ðạo của Ðức Phật. Hồi tưởng ngày này năm trước, sớm mai thức dậy chợt thấy rất khó chịu nơi chân phải, một lúc sau thì lại không cử động được nữa, đau đớn như bị ai lấy chùy mà đánh. May nhờ Ân Sư Tuyên Hóa Thượng Nhân từ bi, dùng thần chú gia trì làm dịu hẳn mọi đau nhức. Trải qua nửa năm trời tĩnh dưỡng, sức khỏe được hồi phục; nay lại có thể tiếp tục sao chép Kinh Hoa Nghiêm, tâm nguyện như vậy cũng đã thỏa. Hôm nay cảm khái muôn vàn, bèn mượn bút ghi lại mấy dòng cảm tưởng.
Mùa xuân năm 1975, kẻ viết bài này có duyên may hạnh ngộ gặp Thượng Nhân tại Nhật Bản và được Ngài thâu nhận là đệ tử. Ðến mùa thu năm ấy thì kẻ này sang Hoa Kỳ, nguyện hiến thân cho Phật Giáo, đảm nhiệm công việc sao chép kinh điển. Lòng những mong báo đáp ơn Thầy nên tận lực làm việc, lại đối trước bệ thờ Quán Thế Âm Bồ Tát lập ba đại nguyện: (1) Không tranh hơn, thiệt; (2) Không bàn đúng sai; (3) Không quên ân, oán. Trong cơn bệnh hoạn vừa qua, đã sửa lại là "không nhớ ân, oán" (thay vì "không quên ân, oán") và quyết định chuyên tâm tu tập Pháp Môn Nhẫn NhụcỦbất luận gặp phải nghịch cảnh nào cũng cố dằn lòng, nhẫn chịu, chứ không tìm cách lẩn tránh. Vì sao? Vì nghiệp chướng mình quá nặng nề, đành phải mượn cách này để tiêu trừ bớt vậy!
Người ta mắc bệnh, tất có nguyên do. Kẻ viết bài này nhờ ơn Thượng Nhân quán sát tiền nhân hậu quả lần đau chân ấy mới biết được rằng: Vào thời Tống triều kẻ này từng giữ chức Sứ Bộ Thượng Thư, do xét án nghiêm khắc mà hại đến ba mạng người. Tuy là vì việc công, song cũng bởi thiếu lòng từ bi nên mới gieo trồng nghiệp chướng. Nay nhân duyên chín muồi, phải cam chịu quả báo một phen bệnh hoạn đau đớn dường ấy. Thật đúng là "nhân quả không sai chạy một mảy may!"
Kẻ phạm tội nọ bị xử chém; vợ y thì treo cổ trên xà nhà tự tử trong lúc đang mang thai một bé trai (gần tới kỳ sinh nở). Bị hại đến nhà tan cửa nát, nữ quỷ bèn tìm tới kẻ viết này đòi đền lại ba mạng người. Thượng Nhân dùng hết tâm cơ điều đình để hòa giải kẻ này mới được vô sự, nữ quỷ chịu xóa bỏ oán thù mà đi. Kẻ viết này rất đỗi hổ thẹn, cam lòng nhận lãnh quả báo.
Nay kính cẩn ghi lại nhân duyên này hầu khuyến khích chư đạo hữu. Ngưỡng mong chư vị sanh tín tâm sâu dày đối với vấn đề nhân quả, thận trọng lúc trồng nhân, và chóng thành tựu Ðạo quả!
Thánh hiền xưa có nói bài kệ nhân quả như sau:
Dục tri tiền thế nhân,
Kim sanh thọ giả thị.
Dục tri lai thế quả,
Kim sanh tác giả thị.
Nghĩa là:
Muốn biết nhân đời trước,
Xem thọ báo đời nàỵ
Muốn biết quả đời sau,
Xét việc hiện đương làm!
Thức Ăn Cho Tinh Thần
Lý do khiến con người đọa địa ngục, làm ngạ quỷ, -hoặc chuyển thành súc sanh thì không ngoài sự chi phối của Lục Căn. Con người sở dĩ thành A-tu-la, sanh lên cõi trời hay làm người, cũng không ngoài tác dụng của sáu căn này. Cho đến con người được thành A-la-hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát hay Phật cũng đều không rời công năng của sáu căn này. Vì sao sáu căn này có sức mạnh lớn lao như vậy? Thậm chí con người dù sanh lên thiên đàng hay đọa xuống địa ngục cũng đều không thể tách rời khỏi chúng được? Phải chăng sáu căn này có khả năng chi phối con người trong vấn đề thành Phật hoặc làm quỷ?
Kỳ thật, không phải là sáu căn này chi phối chúng ta mà là tại chúng ta không biết vận dụng chúng. Trong tự tánh (hay linh minh giác tánh) của mỗi con người đều có một "chủ nhân ông." Vị "chủ nhân" này cũng chính là Phật tánh bản hữu của chúng ta. Khi vị "chủ nhân" nắm quyền (tức là Phật tánh hiện hữu) thì chánh niệm hiện tiền, làm chuyện gì cũng tự tại, không có trở ngại. Song le, nếu có một niệm vô minh dấy lên hoặc ngu si ám chướng khơi dậy trong tâm chúng ta, thì sáu căn này sẽ giống như sáu tên giặc, chúng lấn áp chủ nhà, chúng tước đoạt quyền hành của vị "chủ nhân" và chúng ta sẽ bị sáu tên giặcỦmắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và tư tưởng mưu hại. Sáu tên giặc này sẽ phá nhà cướp của, vơ vét hết tài sản quí báu trong nhà! Cho nên nói rằng:
Nhất niệm bất sanh toàn thể hiện,
Lục căn hốt động bị vân giá.
(Một niệm không sinh: Phật tánh hiển hiện,
Sáu căn bổng dậy: tâm bị che mờ.)
Do đó, chúng ta vốn dĩ đi theo con đường Phật nhưng rồi lại rơi vào con đường ma! Thí dụ như có người lái xe, lẽ ra phải đi trên con đường lớn nhưng người đó lại lao xuống biển, làm cả người lẫn xe đều chìm dưới đáy biển; lại có những người thích những chuyện cao xa viễn vông, y chạy lên núi rồi bị rớt xuống từ trên đỉnh núi, khiến cho thân thể tan nát, đó là vì họ không thuộc đường, không quen đường đi nước bước, không biết lái xe, nên mới xảy ra chuyện bất trắc, thậm chí có thể nguy hiểm đến tánh mạng.
Linh tánh bản hữu của con người thì thông thiên triệt địa, hết sức viên mãn, kỳ diệu, sáng suốt, hiển hiện khắp mười phương, và có sức mạnh vô song, cái gì cũng thực hiện được. Thí dụ có kẻ tuy biết lái xe, nhưng một khi đầu thai trong một cái "túi da" thối tha này thì trở nên rất hồ đồ, thậm chí không còn biết phương hướng đông tây nam bắc hay trên dưới gì nữa, nên y cứ chạy lung tung khắp nơi. Con người khi bị sáu căn che mờ cũng vậyỦvốn muốn thành Phật, thành Bồ Tát, nhưng chỉ sơ hở, thiếu cẩn thận một chút là có thể thành ngựa, thành bò hoặc thành dê ngay!
Ðáng thương nhất là có một số tín đồ Phật Giáo tuy một lòng muốn thoát khỏi ba đường ác,5 nhưng không hiểu cách lái chiếc xe này, không biết vận dụng sáu căn nên bị sáu căn chi phối, đành để cho ma vương làm chủ "căn nhà" của họ. Họ bị vây khốn trong tấm thân giả tạm do năm uẩn6 tạo thành này mà không thể nào thoát ra được. Họ đau khổ không thể tả xiết, linh tánh bản hữu của họ thì bị mai một, trí huệ quang minh cũng không sao hiện tiền được!
Cho nên mọi sự, mọi vật trên đời đều thuyết Pháp, đều dạy cho chúng ta sự thật chân lý; nếu hiểu được, thì các bạn sẽ thấy là vạn sự vạn vật đều đang thuyết Phật Pháp, đang nói lên cái pháp ra khỏi thế gian; nhưng nếu không hiểu thì các bạn sẽ thấy rằng tất cả chỉ toàn nói pháp thế gian, thứ pháp nhiễm ô! Do đó, tất cả mọi sự đều coi thử tâm các bạn như thế nào, tất cả đều là ở nơi ý niệm của các bạn mà thôi. Hễ có trí huệ thì bất luận vấn đề gì cũng có thể giải quyết một cách ung dung tự tại; còn không có trí tuệ thì đâu đâu cũng chỉ toàn là chướng ngại!
Thân thể loài người chúng ta tuy cần ăn uống để sinh tồn, song đó chỉ là một loài thực phẩm thô sơ mà thôi, con người còn phải dựa vào Phật tánh, vào trí huệ quang minh để sanh tồn. Ví như chiếc xe cần phải có xăng mới chạy được, con người cũng phải nhờ vào ăn uống thì mới có sức sống, mới có thể sanh hoạt, mới có thể vận động được. Song le có một số người tu hành không cần phải nhờ vào sự ăn uống để sanh tồn; vì sao vậy? Vì họ chỉ "ăn" trí huệ quang minh, đó mới chính là thực phẩm dinh dưỡng cho họ! Cho nên, về mặt thô kệch thì thân thể cần dựa vào sự ăn uống; nhưng nhìn theo chiều sâu vi tế hơn thì con người cần phải có linh tánh của Phật để làm thức ăn cho tinh thần mới được. Ban ngày chúng ta làm việc, bất kỳ đi, đứng, nằm hay ngồi, cũng đều hao tổn sanh lực cả, giống như chiếc xe tiêu thụ rất nhiều xăng dầu vậy. Ðến ban đêm chúng ta nghỉ ngơi thì các lỗ chân lông mở ra tiếp xúc với hào quang của Phật, hấp thụ trí huệ quang minh tỏa ra từ Ðại Quang Minh Tạng của Phật để bổ sung cho tinh thần đã bị tiêu hao lúc ban ngày. Do đó, nhờ ban đêm nghỉ ngơi đầy đủ rồi nên hôm sau tinh thần lại được khôi phục như bình thường!
Có nhiều người nghe được đạo lý này liền nổi lòng tham, nghĩ rằng: "À! Thì ra khi mình ngủ chính là lúc đức Phật 'tiêm' hào quang cho mình; vậy nếu mình ngủ nhiều hơn một chút nữa chẳng phải là càng có trí tuệ hơn sao?" Kỳ thật, mỗi người chỉ cần một thời gian ngủ nghỉ nhất định; nếu ngủ quá nhiều sẽ làm cho đầu óc ngu muội và trí huệ bị sút giảm. Người ta thường nói "dạ trường mộng đa" (đêm dài thì lắm mộng); con người mà mộng mị hoài thì chỉ lãng phí tinh thần mà thôi! Ngủ nhiều quá lại có thể làm cho chúng ta uể oải, mắc bịnh nhức đầu; cho nên, phàm làm việc gì cũng phải thích đáng, vừa phải, không nên đi tới chỗ cực đoan!
Những người không hiểu đạo lý này thì cho rằng chỉ có ăn uống mới duy trì được sanh mạng; song le, những bậc tu Ðạo biết dụng công thì hết sức chú ý tới món ăn tinh thần cho nên họ rất thích ngồi Thiền, rất thích tham cứu và tu tập Thiền Ðịnh. Bởi chính nhờ tham Thiền tập Ðịnh mà họ có thể tiếp xúc với nhiều trí huệ quang minh của chư Phật để bổ sung tinh thần và khiến cho huệ lực được tăng trưởng hơn nữa. Tuy nhiên, đối với việc ngồi Thiền hay tịnh tọa các bạn cũng không nên quá tham lam, chấp trước vào tịnh tọa nhiều quá cũng có thể mắc phải "Thiền bệnh!"
Cho nên chúng ta những người học Phật, không nên chạy bên tây hay bên đông, hướng ra ngoài mà truy cầu, nào là cầu Phật pháp, tìm con đường tắt, hoặc là tham tiện nghi, muốn mau khai ngộ, bởi vì như thế chỉ khiến cho mức năng lượng có giới hạn trong người mình bị hao tổn, bản thân mình cũng nhọc tâm kiệt sức, trí huệ bị tổn giảm, mà lại không đạt được gì cả! Ðó là tệ trạng của sự không hiểu gì về đạo lý "căn bản Phật tánh," cứ hướng tâm ra ngoài mà truy đuổi cái Pháp!
Những điều tôi nói hôm nay không phải là thần thoại, mà có thể gọi là "thần lý!" Lý luận này, có thể nói rằng ngay cả những khoa học gia tân tiến nhất cũng chưa thể nghiên cứu tới chứ đừng nói là hiểu được, và dù nằm mơ họ cũng không thể mơ tới rằng có đạo lý kỳ diệu như thế! Thật ra, đây vốn là những đạo lý rất bình thường, nhưng đáng tiếc là ai nấy đều thờ ơ, không chú trọng!
(Giảng vào tháng 5 năm 1983)
Mưu Sanh và Mưu Tử
(Nói chuyện với sinh viên trường Ðại Học Redwood tại Vạn Phật Thánh Thành,
trưa ngày 21 tháng 5 năm 1983)
Các bạn "thanh niên già" và các bạn "cao niên trẻ!" Hôm nay mọi người họp mặt nơi đây nếu không phải là đại duyên thì cũng là tiểu duyên. Ðiều mà tôi muốn nói đây chắc chắn là không có bạn nào có thể phủ nhận được!
Vì sao tôi gọi các bạn là "thanh niên già?" Bởi vì tôi thấy các bạn trẻ trông rất có chí khí, thái độ rất chững chạc, thận trọng và già giặn, cho nên tôi gọi các bạn là thanh niên già. Vì sao tôi lại gọi là "các bạn cao niên trẻ" nữa? Bởi vì tôi thấy trong số các bạn có nhiều người lớn tuổi nhưng lại rất cởi mở, trẻ trung, không có tâm tính toán, cũng không có tâm đố kỵ, tâm chướng ngại, tâm nhân ngã thị phi, cho nên tôi gọi những người đó là các bạn cao niên trẻ. Có một số các bạn đã đến đây năm ngoái; vì không rõ những bạn đến năm nay chính là những người ấy hay là có cả người mới kẻ cũ cùng đến, cho nên vừa có thể nói các bạn là bạn mới mà vừa có thể gọi các bạn là bạn cũ!
Vạn Phật Thánh Thành chúng tôi có tông chỉ là muốn sửa đổi phong khí của nền giáo dục. Trên thế giới, Tam Giáo Cửu Lưu,7 Ngũ Hạng Bát Tác8 có đủ tất cả các nghề nghiệp, ai nấy đều tự mưu sinh (lo sống) không người nào muốn mưu tử (lo chết) cả! Không người nào lo nghĩ rằng rồi mình sẽ chết như thế nào; sống thì cứ sống, nhưng chết thì như thế nào? Bởi không có ai nghĩ đến vấn đề đó nên tôi nói là chẳng có người nào mưu tử. Song le, ở Vạn Phật Thánh Thành thì có người mưu sanh có người mưu tử.
Thường thì người ta mưu sinh bằng cách buôn bán, làm ruộng, làm quan, làm thợ, học hành, v.v... Mọi người tùy ý lựa chọn một trong năm nghề sĩ, nông, công, thương, quan để làm; vì thế có người chọn công việc về ngành giáo dục. Tuy nhiên, có nhiều người muốn dùng học sinh làm công cụ để mưu lợi nên tính toán rằng: "Tôi mở một ngôi trường, có người đến học thì tôi kiếm được bao nhiêu tiền? Ðược nhiều tiền như vậy thì tôi có thể mưu sinh rồi!" Do đó họ dùng đủ mọi phương cách để trường của họ trở thành nổi tiếng nhất. Nhưng đến khi được tiếng là "học đường tối cao" rồi thì trường trở nên suy đồi; vì sao? Tôi cảm thấy rất hổ thẹn khi phải nói ra những chuyện như thế này: Tại nhiều trường học, học sinh công khai mua bán thuốc phiện, hút thuốc phiện! Các bạn thấy như thế có đáng thương chăng? Trong trường lại còn có những kẻ công khai làm những chuyện bất hợp pháp nữa.
Thấy tình trạng như thế, Vạn Phật Thánh Thành bèn thành lập một trường tiểu học dạy học sinh biết cách làm tròn đạo hiếu, một trường trung học dạy học sinh về lòng trung thành, ái quốc. Ðồng thời chúng tôi cũng lập trường đại học để dạy về trung, hiếu, nhân, nghĩaỦhiếu thuận với cha mẹ, trung thành với tổ quốc, lấy nhân nghĩa mà đối đãi với nhân quần xã hội. Ðó là tông chỉ, đường hướng của Vạn Phật Thánh Thành. Ngoài ra, các trường tiểu học, trung học và đại học ở Vạn Phật Thánh Thành đều hoàn toàn miễn phí. Vì sao lại miễn phí? Vì tôi không muốn lợi dụng học sinh để tính toán, mưu lợi riêng tư. Ðó chính là tác phong giáo dục của Vạn Phật Thánh Thành.
Tại Vạn Phật Thánh Thành, bất luận là học sinh bậc tiểu học, trung học, hay đại học, là người xuất gia hay người tại gia, tất cả đều đồng loạt tuân theo Sáu Ðại Tông Chỉ sau đây:
1) Thứ nhất là Không Tranh. Ta không tranh với người, người cũng không tranh với ta; người tranh với ta, ta cũng không tranh chấp với người, nếu làm được như vậy thì mọi sự tranh chấp trên thế giới sẽ biến mất.
2) Thứ nhì là Không Tham, có nghĩa là đối với mọi thứ mọi vật mình đều không tham lam.
3) Thứ ba là Không Cầu, có nghĩa là không truy đuổi, không tham cầu bất cứ thứ gì.
4) Thứ tư là Không ích Kỷ.
5) Thứ năm là Không Tự Lợi, có nghĩa là không mưu đồ lợi lộc cho riêng mình; và
6) Thứ sáu là Không Vọng Ngữ, tức là không nói dối.
Ðó là Sáu Ðại Tông Chỉ mà ở Vạn Phật Thánh Thành ai ai cũng cần phải rèn luyện. Các bạn tới thăm Vạn Phật Thánh Thành, tôi không phải tuyên truyền mà chỉ muốn giới thiệu cho các bạn biết về tông chỉ của Vạn Phật Thánh Thành. Hy vọng các bạn trẻ sẽ đặc biệt nổ lực giúp ích cho đất nước của các bạn, làm cho quốc gia và dân tộc của các bạn được an vui, hạnh phúc. Các bạn hãy cố gắng đồng tâm hiệp lực!
Bí Quyết
Học Thuộc Lòng Kinh Ðiển
Nhất thốn quang âm nhất thốn kim,
Thốn kim nan mãi thốn quang âm,
Thốn kim thất khứ dung dị đắc,
Quang âm quá khứ nan tái tầm!
(Một tấc thời gian: một tấc vàng,
Vàng không mua được tấc thời gian,
Tấc vàng mất đi dễ kiếm lại,
Thời gian qua mất khó lòng tìm!)
Người đời từ sáng tới tối, cạnh tranh, phấn đấu đều không ngoài việc kiếm cơm ăn, áo mặc, tài vật, chỗ ở và danh lợi, vì năm thứ này mà ai nấy điên điên đảo đảo, từ sáng sớm đến chiều tối không có thời giờ để nghỉ ngơi. Thỉnh thoảng có lúc không phải đi làm, được ở nhà, thì họ lại bận rộn với đủ thứ tiết mục như coi Tivi, chơi com-pu-tơ (computer), chơi cổ phiếu, xem xi-nê, đi du lịch v.v...
Người ở Vạn Phật Thánh Thành cũng bận rộn, song sự bận rộn ấy thì hoàn toàn khác biệt. Ở đây, không ai vì chuyện ăn uống, áo quần, hay chỗ ở mà bận rộn cả. Người ở Vạn Phật Thánh Thành không chú trọng những thứ đóỦtạm đủ là được rồi; còn đối với danh lợi thì họ lại càng thờ ơ hơn nữa. Tuy nhiên, ai nấy đều rất bận rộn. Nhưng bận chuyện gì chứ? Bận rộn học Phật, học Pháp, học Tăng; bận rộn tu Giới, tu Ðịnh, tu HuệỦtính chất hoàn toàn khác biệt với người đời. Ở đây, chúng ta hằng ngày nghiên cứu kinh điển thì cần phải đặc biệt chuyên tâm chú ý, chứ không phải thân ở đó mà tâm thì chạy mất, chẳng biết chạy tới phương nào! Các bạn không nên cho rằng người này giảng Pháp hay nên chú ý nghe, còn người kia giảng không hay nên lơ đãng, không chú ý nghe. Nếu các bạn cứ ở nơi nhân, ngã, thị phi mà dụng công thì tâm thương ghét của các bạn rất là nặng, tâm để ý tới chuyện đúng, sai, tốt, xấu cũng rất lớn, các bạn chưa hoàn toàn khắc phục hoặc tẩy trừ nó được.
Khi nghe giảng Kinh thì các bạn cần phải hết sức thành khẩn, chăm chú. Nếu người ta giảng hay thì mình nên học hỏi, bắt chước phương pháp của họ. Nếu người ta giảng không hay thì mình càng nên chú ý lắng nghe, dùng Trí Diệu Quán Sát để nhận xét xem họ giảng có đúng hay không, có phù hợp với giáo pháp, với chân lý hay không; chứ đừng dùng thức tâm mà phân biệt, so sánh để tìm lỗi lầm. Ðối với mọi cử chỉ mọi hành động của bất kỳ người nào, các bạn đều phải đặc biệt chú ý, lưu tâm mà học hỏi, đừng để lãng phí; như vậy các bạn mới có chỗ sở đắc, mới khai mở được trí huệ. Việc khai mở trí huệ không phải một ngày một đêm mà thành tựu được, nó đòi hỏi chúng ta sáng phải tu như vậy, chiều cũng phải tu như vậy, từ sáng tới tối phải liên tục học tập, không gián đoạn; như thế mới có cơ hội thành tựu.
Bây giờ mọi người đều đang học Kinh Lăng Nghiêm và Chú Lăng Nghiêm. Các bạn cần phải biết rằng Kinh Lăng Nghiêm là chân-thân của Phật, và cũng chính là Phật, chính là Pháp, chính là Tăng, chính là Giới, chính là Ðịnh, chính là Huệ. Các bạn muốn cung kính Tăng, thì trước hết phải cung kính Kinh Lăng Nghiêm. Các bạn muốn học Giới, tu Ðịnh, phát Huệ, thì trước hết phải học Kinh Lăng Nghiêm. Phật Pháp có tám vạn bốn ngàn pháp môn, song Kinh Lăng Nghiêm thì đầy đủ, vừa đúng, không dư không thiếu. Chúng ta phải học bộ Kinh này, và phải học cho thuộc, cho nhuần nhuyễn. Phương pháp học là mỗi ngày các bạn học một đoạn kinh văn, và hằng ngày đều phải ôn lại những phần đã thuộc. Ðừng ham học nhiều, học mau, phải mỗi ngày ôn tập một lần thì mới có thể thuộc lòng được. Ðến khi đã làu thông, thành thục rồi thì trở nên tinh xảo, khéo léo; có tinh xảo thì mới sinh ra linh động, nhạy bén. Có câu:
Thục năng sinh xảo, xảo năng sinh linh.
(Quen rồi thành thạo, thạo sanh linh hoạt.)
Ðiều thiết yếu là các bạn đừng bao giờ bỏ cái gần kề mà chạy đi tìm cái xa xôi, cũng đừng hướng tâm ra ngoài mà truy cầu, săn đuổi; bởi đó chỉ là sự tu hành ở ngoài da, chứ không phải là phương pháp để thâm nhập Kinh Tạng, khai mở trí huệ.
Chúng ta nên lợi dụng giờ giấc nào để học thuộc kinh? Buổi sáng khi vừa thức dậy thay áo quần, hoặc khi đang đánh răng rửa mặt, đều là những lúc có thể thầm tụng kinh văn. Buổi tối lên gường đi ngủ, tuy là đầu kê gối nhưng các bạn vẫn có thể im lặng mà đọc nhẩm được cả. Nếu các bạn có thể dụng công học kinh liên tục, không gián đoạn, thì có thể học thuộc lòng rất nhanh.
Phương pháp học kinh có "ba tới." Thứ nhất là "mắt tới"; thứ nhì là "miệng tới"; và thứ ba là "tâm tới." Khi cả mắt, miệng và tâm đều chuyên nhất, chăm chú hướng tới kinh, thì các bạn sẽ học thuộc rất dễ dàng.
Lại còn có ba chỗ có thể để học thuộc kinh. Thứ nhất là trên đường đi, thứ nhì là trên gối, thứ ba là tại nhà tiêu. Ba chỗ này là những nơi rất thuận tiện cho việc học thuộc kinh. Nếu các bạn áp dụng phương pháp này thì có thể học thuộc kinh rất là nhuần nhuyễn. Các bạn hãy thí nghiệm xem!
Pháp Vị Chân Thật
Vạn Phật Thánh Thành là đạo tràng của cảnh giới Hoa Nghiêm, là đàn tràng của Kinh Lăng Nghiêm và Chú Lăng Nghiêm, và cũng là kho tàng của Pháp Tứ Thập Nhị Thủ Nhãn. Ngày ngày chúng ta ở nơi kho tàng châu báu này nghiên cứu đạo lý chính là vì muốn bỏ mê về giác, cải tà quy chánh, đoạn dục khử ái. Nếu làm được như vậy thì sẽ chấm dứt được những suy nghĩ tà quấy, phá thủng màng vô minh điên đảo. Bấy giờ, các bạn không cần học hỏi Phật Pháp gì nữa cũng được, bởi vì các bạn đã bỏ được bờ mê để quay về bến giác, đã bỏ đường tà để trở về với đường chánh, về với cội nguồn bản hữu rồi.
Song le, trong lúc các bạn chưa được chỗ như vậy, chưa cải tà quy chánh, chưa đoạn dục khử ái, chưa phản bổn hoàn nguyên, chưa về tới cội nguồn được, thì các bạn phải ngày ngày nỗ lực nghiên cứu những kinh điển Ðại Thừa như Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Ðàn, Kinh Ðịa Tạng, Kinh Kim Cang v.v... Các bạn cần phải chuyên tâm, chí thành khẩn thiết mà tu học chân lý. Các bạn chớ nên chỉ dụng công bề ngoài một cách hời hợt như kiểu "gãi ngứa qua giày," mà cần phải đạt được Pháp vị chân thật thì mới có công dụng thực tiễn!
(Ngày 27 tháng 5 năm 1983)
Kẻ Cướp Trong Nhà
Khó Ðề Phòng!
Từ kiếp vô thủy xa xưa đến nay, Sáu Căn của người phàm phu cứ chạy theo ngoại cảnh, tức là Lục Trần9 mà "tìm thanh kiếm sắc," tạo ra không biết bao nhiêu nghiệp bất tịnh. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý của con người thì giống như sáu kẻ gian làm mối lái cho giặc, chúng dẫn bọn cướp vào nhà lấy hết tất cả tài sản quý giá nơi "căn nhà" tự tánh của chúng ta.
Chúng ta cho rằng mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý là những thứ giúp đỡ mình; kỳ thật, sáu thứ này là sáu vật rất xấu xa, chúng dẫn kẻ gian vào nhà cướp đoạt hết Pháp bảo tự tánh của chính mình mà mình vẫn không hay biết; quả thật là "kẻ cướp trong nhà khó đề phòng!" Bây giờ hãy nói về mắt và tai:
Nhãn bất kiến, khẩu bất sàm,
Nhĩ bất thính, tâm bất phiền.
(Mắt không thấy, thì miệng không thèm thuồng,
Tai không nghe, thì lòng không phiền não.)
Khi trông thấy người khác ăn những thức ăn ngon lành thì tự nhiên mình có ý muốn nếm thử, rồi sanh lòng tham ăn. Khi nghe thấy lời hay ho, mình sanh lòng vui thích; còn nghe thấy những lời trái tai, nghịch ý thì sanh giận dữ. Các bạn đừng cho rằng mắt là vật tốt, giúp mình nhìn thấy, bởi vì chính do sự giúp đỡ của mắt mà sanh ra đủ thứ phiền não, như khi mắt nhìn thấy sắc đẹp thì mình sanh lòng tham sắc đẹp, tham tới mức là mình đạt được nó thì lòng sanh phiền não, mà không đạt được nó thì cũng sanh phiền não! Ngay cả mũi, lưỡi, thân, tư tưởng hay ý niệm cũng đều như vậy, chúng khiến mình phát sanh đủ thứ phiền não, mà một khi phiền não nảy sanh là mình mất đi Pháp bảo tự tánh; nên nói rằng:
Thiên nhật khảm sài nhất thiêu tận.
(Ngàn ngày chẻ củi, một ngày đốt sạch.)
Cũng vậy, mình tu dưỡng công phu Thiền Ðịnh cả ngàn ngày, nhưng đến khi đạt được cảnh giới khinh an tự tại rồi, thì hốt nhiên chỉ vì khởi một niệm phiền não mà bao nhiêu công phu đều tiêu tan cả; nên có câu:
Tinh tinh chi hỏa thiêu tận công đức chi lâm.
(Một đốm lửa nhỏ có thể thiêu sạch cả rừng công đức.)
Cho nên người tu Ðạo cần phải:
Nhãn quán hình sắc, nội vô hữu,
Nhĩ thính trần sự, tâm bất tri.
(Mắt nhìn hình sắc, lòng không động,
Tai nghe thế sự, dạ chẳng hay!)
Phải có được Ðịnh-lực như thế thì mới không bị người ta tới cướp của quý trong nhà. Nếu không, thì suốt ngày các bạn sẽ theo Sáu Căn và Sáu Trần, tâm hướng ra ngoài mà chạy, chẳng biết hồi quang phản chiếu, và như thế gọi là "lậu," có nghĩa là phiền não. Khi có lậu thì cứ luân lạc mãi trong ba đường ác, chẳng có kỳ hạn chấm dứt; như thế há chẳng đáng sợ sao? Muốn đoạn trừ phiền não, trước tiên chúng ta phải truy tìm căn nguyên của phiền não. Ðức Phật dạy rằng Sáu Thức10 chính là giặc trong nhà. Bởi do Sáu Căn cấu kết với Sáu Trần nên sanh ra Sáu Thức, rồi vì thế mà "khởi hoặc, tạo nghiệp," trở nên mê mờ, gây ra đủ thứ ác nghiệp. Cho nên, Sáu Căn chính là kẻ môi giới dẫn dắt chúng ta tạo ra những việc ác.
"Gia bảo" (vật báu) trong nhà mình là gì? Gia bảo của mình chính là chân tâm thường trụ hay Như Lai Tạng với tánh giác mầu nhiệm sáng suốt, chứ không phải là thứ tiền tài vật chất có hình có tướng của thế gian. Tự tánh thì đầy đủ Phật-bảo, Pháp-bảo và Tăng-bảo, và chính là thứ "tài bảo chân chánh." Ngoài ra, siêng năng tu học Giới, Ðịnh, Huệ, hoàn thành Tam Vô Lậu Học, cũng là "Pháp bảo chân chánh" của chúng ta.
Có người nói: "Thứ tài bảo này, tài sản quý báu mà Thầy nói, không thể nhìn thấy thì làm sao tôi tin được?" Người này cũng chẳng đáng trách, bởi vì "tài bảo" này thì không có hình tướng nên chẳng thể nào thấy được. Song le, mình vẫn có thể cảm nhận được nó, người có huệ-căn thì sẽ biết được ngay, còn kẻ không có huệ-căn thì chẳng thể biết được. Ðó là vì huệ-căn chưa thuần thục, chín chắn, cho nên họ không thể sanh khởi lòng tin và cũng không thể có sự hiểu biết rõ ràng được!
Không Nên Có Thái Ðộ Cống Cao Ngã Mạn Ðối Với Tam Bảo!
Theo đạo Phật thì người tại gia phải kính trọng người xuất gia, chứ không được "coi trời bằng vung," không được khinh thường người xuất gia, không được phê phán người xuất gia. Người tại gia phải biết cúng dường và tán thán người xuất gia, như vậy thì mới không tạo ra mạn nghiệp (nghiệp kiêu mạn); nếu không, người tại gia sẽ trở nên cống cao ngã mạn, chẳng những không được công đức mà còn tạo tội nữa, theo định luật nhân quả thì chắc chắn sẽ bị đọa vào ba đường ác. Ngược lại, khi thọ nhận sự cúng dường của người tại gia, giúp họ trồng ruộng phước, thì người xuất gia cần phải hồi quang phản chiếu, suy xét hằng ngày mình có tu hành đàng hoàng hay không, bởi vì:
Thí chủ nhất lạp mễ,
Trọng như Tu Di sơn,
Thực hậu bất tu Ðạo,
Bị mao đái giác hoàn!
(Một hạt cơm thí chủ,
Nặng như núi Tu Di,
Ăn rồi không tu hành,
Mang lông, đội sừng trả!)
Người xuất gia khi thọ nhận sự cung kính của kẻ khác thì phải biết tự phản tỉnh, bản thân mình có xứng đáng để nhận sự cung kính chăng? Thân mình mặc áo của người tu, nhưng phải chăng mình chẳng khác gì kẻ đời? Phải chăng hằng ngày mình thường khởi những vọng tưởng vô ích? Phải chăng từ sáng tới tối mình luôn nóng giận, bực dọc? Phải chăng từ sáng tới tối mình luôn đố kỵ hoặc chướng ngại sự tu hành của kẻ khác? Người xuất gia nếu phạm những điều như trên thì không đủ tư cách để thọ sự cúng dường của người tại gia, dù cho miễn cưỡng mà thọ nhận, thì vẫn thấy thẹn với lòng. Người xuất gia tu Ðạo cần phải luôn luôn chú ý, không được hồ đồ ở trong đạo tràng lãng phí thời gian. Nếu sống như thế mà lại thọ nhận sự cúng dường của kẻ tại gia thì thật là điều hết sức sai lầm!
Vì sao người tại gia nên cúng dường người xuất gia hoặc là hộ trì người xuất gia? Là bởi vì người xuất gia chuyên tâm tu Ðạo, không có vọng tưởng, phiền não hay tật đố như kẻ đời. Nếu được như vậy thì mới xứng đáng với sự cung kính và cúng dường của người tại gia, mới có thể thọ nhận mà lòng không hổ thẹn. Nếu người xuất gia mà không chân thật tu hành, thậm chí không cung kính và thành khẩn như người tại gia, thì không có tư cách để thọ nhận sự cung kính và cúng dường của kẻ khác! Ðây là điều mà mọi người cần phải giác ngộ sâu xa, không thể "lẫn lộn mắt cá với hạt ngọc," không nên ở trong đạo Phật mà kiếm miếng ăn.
Khi người tại gia cúng dường cho người xuất gia thì không được có tâm phân biệt, không được có tâm lựa chọn: "Vị Thầy này có tu hành nên tôi muốn cúng dường. Vị Thầy kia không có đạo hạnh nên tôi không cúng dường." Ðừng nên có tâm trạng không chánh đáng như vậy. Bất luận ở đâu chúng ta cũng đều nên cúng dường Tam Bảo, chứ đừng bới lông tìm vết, đừng tìm kiếm lỗi lầm của Tam Bảo. Nếu bạn cứ luôn tìm kiếm lỗi lầm của Tam Bảo, thì đó chính là tánh cống cao ngã mạn của bạn tác quái, dứt khoát bạn không đủ tư cách hộ trì Tam Bảo!
Ở trong đạo tràng, chúng ta đừng nên tạo tội lỗi mà cần phải làm nhiều việc công đức, như thế mới bù đắp được những tội lỗi mình đã tạo khi xưa. Ðầu tiên, chúng ta cần phải sám hối, bởi:
Di thiên đại tội,
Nhất sám tiện tiêu.
(Tội lỗi dẫu lớn đầy trời,
Nếu biết sám hối, tội thời tiêu tan.)
Vậy phải sám hối như thế nào? Chúng ta phải ở trước tứ chúng mà kể ra tất cả tội lỗi mình đã làm, phải nói rõ mọi chi tiết của các tội và phát nguyện rằng từ nay về sau tuyệt đối sẽ không tái phạm. Như vậy thì chư Phật và chư Bồ Tát mới có thể tha thứ cho chúng ta và giúp ta trừ sạch nghiệp tội. Những tội lỗi trước kia của chúng ta đều là "vô tâm sở phạm," tức là do vô ý mà phạm. Song le, từ nay về sau, nếu chúng ta tái phạm thì đó là "minh tri cố phạm"- biết rõ mà vẫn cố ý vi phạm - thì dù có sám hối cũng không có tác dụng bởi nó thuộc loại định nghiệp, tương lai chúng ta tất sẽ chịu quả báo. Chúng ta không nên có tư tưởng: "Ban ngày tạo tội, ban đêm cầu nguyện, kể như vô tội!"; rồi cứ gây nghiệp luôn luôn, mà gây xong thì tiếp tục cầu nguyện, và dần dà tạo thành một thói quen máy móc. Nếu cứ như thế thì tương lai nghiệp tội của chúng ta sẽ chất chồng như núi Tu Di, không đọa địa ngục sao được!
Trong đạo tràng của chúng ta có hóa thân của mười phương chư Phật, hóa thân của mười phương chư Bồ Tát, hóa thân của chư Bích Chi Phật, hóa thân của chư Thánh nhân A-la-hán, và cả Thiên Long Bát Bộ cũng ở đây hộ pháp nữa. Vì thế, nếu chúng ta ở trong đạo tràng mà cứ luôn gây phiền phức cho người khác, soi mói lỗi lầm của mười phương vậy! Sống trong đạo tràng mà một mặt tu hành, một mặt tạo nghiệp - công đức tu được không bằng ác nghiệp tạo ra thì cũng giống như tiền gởi trong ngân hàng không bằng tiền chi tiêu; nếu không bù được sự thâm thủng thì tương lai sẽ bị phá sản. Bởi vậy:
Thiện ác lưỡng điều đạo,
Tu đích tu, tạo đích tạo.
(Thiện ác hai con đường,
Tu thì tu, tạo vẫn tạo.)
Nghĩa là thiện, ác hai con đườngỦmột mặt mình tu, mà ác nghiệp thì vẫn tạo. Do đó, đừng nên ở chùa mà chỉ biết tạo nghiệp ác. Hãy nên thường xuyên tìm kiếm lỗi lầm của chính mình, chứ đừng soi mói sự sai trái của người khác. Nếu cứ chuyên tìm lỗi người, chướng ngại kẻ khác tu hành thì chẳng những bản thân mình không được điều gì tốt lành mà tương lai mình còn phải gánh chịu quả báo, hậu quả khó lường!
Bớt Dùng Lời Khách Sáo
Trong xã hội có rất nhiều kẻ lắm lời. Vì sao? Vì giữa người với người, trong xã hội đã hình thành thứ phong khí không dám nói lời chân thật, chỉ nói toàn lời giả dối!
Vì sao người ta không nói lời chân thật? Là vì chẳng ai muốn nghe lời chân thật cả! Ðối với Pháp thì cũng tương tự như vậy, nhiều người chỉ thích hoa và lá chứ không thích trái cây! Ví dụ như những cây ăn trái, vào lúc ra hoa thì tỏa hương thơm dịu, ai ngửi cũng thấy thích hơn cả lúc ăn. Song đến khi trái chín, thì nó không còn sức thu hút lớn lao như thế nữa. Ðiều này cũng tương tự như người đời thích nghe lời giả dối, ghét nghe lời chân thật vậy. Lời giả dối ví như hương thơm khi cây ra hoa, toàn là những lời đẩy đưa, rào đón khéo léo, những ngôn từ khách sáo, không thật, nhưng lại có rất nhiều người muốn nghe, và nghe một cách say sưa, thích thú! Còn nếu thành thật mà nói đến những vấn đề như làm sao giữ Giới Luật, làm sao giữ quy củ, thế nào là không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối, hoặc làm sao để thành người Phật tử chân chánh thì chẳng riêng gì kẻ khác đạo mà luôn cả tín đồ Phật Giáo cũng cho là "chói tai," trong lòng khó chịu, chẳng muốn nghe. Tại sao vậy? Là vì "trung ngôn nghịch nhĩ," lời nói thẳng thắn mà trái tai này không thuận lợi cho việc họ làm! Cũng chính vì lý do ấy mà trong Pháp Hội Linh Sơn, khi đệ tử của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là Tôn-giả Xá Lợi Phất cung thỉnh Ngài thuyết giảng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Ngài dạy rằng:
Chỉ, chỉ, bất tu thuyết!
Ngã Pháp diệu nan tư.
(Thôi, thôi, chớ nên nói!
Pháp của Ta kỳ diệu, khó nghĩ bàn.)
Ðức Phật đã nói như thế, nhưng Tôn-giả Xá Lợi Phất vẫn cứ ân cần thỉnh Pháp. Phật lại dạy:
Chỉ, chỉ bất tu phục thuyết!
Ngã Pháp diệu nan tư.
(Thôi, thôi, chớ nên nói!
Pháp của Ta kỳ diệu, khó nghĩ bàn.)
Ðệ tử bao nhiêu lần thỉnh cầu thì Phật cũng bấy nhiêu lần trả lời như vậy. Cuối cùng, vì người thỉnh Pháp quá thành tâm, Phật động lòng từ bi thương xót chúng sanh, nên Ngài đã tuyên giảng đạo lý "Khai Quyền Hiển Thực," đặt ra phương tiện tạm thời để dẫn đến sự thật rốt ráo:
Duy nhất Phật Thừa, cánh vô dư Thừa!
(Chỉ có một Phật Thừa,
không còn Thừa nào khác!)
Sau khi Ðức Phật nói câu ấy, lập tức có năm ngàn người rút lui khỏi Pháp Hội! Các bạn xem, những người ấy có kẻ là đệ tử theo Phật tu Ðạo đã nhiều năm, có kẻ chỉ mới theo học Phật Pháp, đều đồng thời đứng dậy rời khỏi Pháp Hội, không muốn lắng nghe giáo pháp diệu mầu của Ðức Phật!
Sự kiện trên chứng tỏ rằng người đời chỉ thích nghe lời giả dối chứ không muốn nghe lời chân thật. Do đó, những lời tôi nói với các bạn hôm nay đều là giả dối chứ không phải chân thật; các bạn có thể quên hết những lời nói trên. Song le, các bạn cần phải nhớ kỹ cái pháp mình muốn nghe, cái pháp mình muốn thực hành!
Tất cả những người tới Vạn Phật Thánh Thành đều phải tuân theo quy củ của Vạn Phật Thánh Thành. Bất luận là người thường trú ở Thánh Thành hay là người ngoài đến viếng chùa, không ai được phép ăn thịt, hút thuốc, uống rượu, và càng không được hút thuốc phiện trong khuôn viên của Vạn Phật Thánh Thành. Mọi người cần phải lưu ý thêm một điều là không nên "cám ơn" lẫn nhau! Hai tiếng "cám ơn" là những ngôn từ xã giao thù tiếp. Ðó là trọng điểm của những gì tôi nói hôm nay, bất kể là các bạn muốn nghe hay không muốn nghe, tôi vẫn cứ như vậy mà nói!
(Ngày 26 tháng 6 năm 1983)
Tải về xem