Cảm Kích Ân Ðức của Chư Phật và Chư Bồ Tát
Chư Phật và chư Bồ Tát đã không nề gian khổ quay chiếc thuyền từ bi trở lại thế giới Ta Bà để giáo hóa, điều phục chúng sanh. Các Ngài dùng đủ tám vạn bốn ngàn pháp môn để tiếp dẫn những ai hữu duyên. Song, mình chẳng những không hiểu tinh thần và tấm lòng từ bi hỷ xả của Phật Bồ Tát, lại còn quay lưng với sự giác ngộ, hợp cùng trần lao ngu muội, bỏ gốc theo ngọn, chẳng muốn chấm dứt sanh tử và thoát ra khỏi Tam Giới!11
Ai ai cũng biết rằng Tam Giới giống như nhà cháy, không phải là chỗ yên ổn, song le, chẳng ai muốn rời khỏi Tam Giới! Mặc dù biết rằng ở trong Tam Giới thì vạn phần thống khổ, nhưng ai cũng lưu luyến, chẳng muốn lìa xa. Họ sống một cách thản nhiên trong căn nhà lửa Tam Giới, chẳng lo âu sợ hải, lại còn cho là vui vẻ, sung sướng!
Chư Phật Bồ Tát hết lòng thuyết Pháp, dạy dỗ chúng sanh, khiến quay về đường ngay nẻo phải. Tiếc thay, chúng sanh vì không hiểu được tâm niệm của chư Phật Bồ Tát nên nghe mà như không hiểu, nhìn mà như không thấy, coi lời giảng của quý Ngài như gió thoảng qua tai, chẳng để tâm ghi nhớ, vẫn cứ vật vờ "sống say chết mộng," giống như cái thây biết đi hay bị thịt biết chạy vậy! Tuy là tu Ðạo, nhưng họ không biết tìm cầu con đường giác ngộ chân chánh. Vậy, nếu muốn tìm cầu con đường dẫn tới sự giác ngộ chân chánh thì tìm ở đâu? Vô cùng đơn giản, chỉ cần đừng hướng tâm ra ngoài để truy đuổi, mà hãy đi ngược lại sự mê lầm, quay về với sự giác ngộ. Từ cảnh giới mê muội mà quay trở lại, đó chính là giác ngộ!
Nếu vất bỏ được tà niệm, quay về với chánh niệm, thì chúng sanh có thể trở nên giác ngộ, khai mở đại trí huệ. Song le, chúng sanh không muốn "hồi đầu" quay về mà cứ muốn trôi nổi trong biển khổ sanh tử, vĩnh viễn đánh mất đường Ðạo chân chánh, rồi lại cho rằng hành động như thế là rất chính đáng. Như vậy không phải là điên đảo sao? Trước tình huống ấy, chư Phật Bồ Tát cũng không còn biện pháp gì để làm cho chúng sanh được xa lìa cảnh khổ, hưởng sự an vui nữa cả. Vì sao? Vì chúng sanh còn mê muội, quá ư mê muội, chưa tỉnh ngộ! Giảng về đạo lý giác ngộ thì điều nào cũng xa lạ đối với họ mà nguyên nhân là bởi các thói hư tật xấu tích tập nơi họ đã quá sâu dày. Các tập khí ấy đè lên trí huệ, che lấp trí huệ, vì thế họ không thể nhận thức và phân biệt rõ ràng điều gì đúng, điều gì sai, đâu là chánh, đâu là tà, thứ nào là thật, thứ nào là giả được.
Nếu biết được cái chân thật, thì nên vất bỏ cái giả dối đi. Vì sao chúng sanh mê muội? Chính là vì không có trí huệ chân chánh nên tới đâu cũng va phải vách, đụng phải tường, gặp trở ngại, không được suông sẻ, không va vào tường phía đông thì cũng đụng vào tường phía tây, phía nam hoặc phía bắc. Ở giữa có lối trống thì không đi, cứ sồng sộc đâm đầu vào tường đến nỗi máu chảy đầy mặt mà vẫn không biết "hồi quang phản chiếu," không biết lấy trí huệ để soi sáng tự tâm!
Chư Phật Bồ Tát tận tình chỉ dạy, thuyết giảng nhiều Pháp bảo 'Tam Tạng Mười Hai Bộ Kinh' thế mà chúng sanh vẫn thờ ơ như không nghe không thấy, để phụ lòng từ bi của các Ngài, khiến cho các Ngài cảm thấy vô cùng mệt mỏi. Vì sao các Ngài lại mệt mỏi? Vì cảm thấy chúng sanh khó độ, chư Phật Bồ Tát hao tổn biết bao tâm huyết mà chúng sanh vẫn "trơ như gỗ đá," không chịu sửa đổi, không chịu tu hành, không chịu giữ Giới. Tuy chúng sanh khó cứu độ như vậy, nhưng chư Phật và chư Bồ Tát vẫn không nản lòng, dù khó độ, quý Ngài cũng vẫn độ! Không những thế, quý Ngài còn từ bi muốn cứu độ khắp hết tất cả chúng sanh. Ân đức này chúng ta làm sao báo đáp?
Ðịa Tạng Bồ Tát từng phát nguyện rằng:
Ðịa ngục vị không, thệ bất thành Phật,
Chúng sanh độ tận, phương chứng Bồ Ðề.
(Ðịa ngục chưa trống, thề không thành Phật,
Chúng sanh độ hết, mới chứng Bồ Ðề.)
Lời nguyện này thật vĩ đại biết bao! Mình hãy nghiền ngẫm ý nghĩa của lời nguyện ấy. Không cần phải xem kinh điển, chỉ nghe qua lời nguyện thôi, mình cũng đã nên cảm tạ ân đức của Ðịa Tạng Bồ Tát, phải đau lòng khóc lớn, cảm tạ sự quan tâm, che chở của chư Phật Bồ Tát dành cho mình. Tất cả mọi thứ trên thế giới này đều là do chư Phật Bồ Tát trong vô lượng kiếp đã xả thân bồi đắp. Chúng ta nhất định phải phát tâm Bồ-đề rộng lớnỦ trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sanh. Như thế mới có thể báo đáp được phần nào ơn của chư Phật, ơn của chư Bồ Tát, ơn của cha mẹ, ơn của sư trưởng và ơn của trời đất. Mình phải làm sứ giả cho Ðức Phật, phải phát tâm từ bi thay Phật mà tuyên hóaỦtuyên dương Chánh Pháp, giáo hóa chúng sanhỦvà cứu nước cứu dân một cách có ý nghĩa. Bất cứ lúc nào chúng ta cũng phải giữ lòng từ bi, có tinh thần chánh nghĩa, và sẳn sàng đem hết sức lực của mình, dù nhỏ nhoi đến đâu, để hoằng dương Phật Pháp, để tuyên đạt bổn hoài của chư Phật.
Vì sao thành Phật rồi mà Ðức Phật vẫn không quên chúng sanh, lại phát nguyện muốn cứu độ chúng sanh? Là vì tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật, chẳng qua là chúng sanh chưa tự biết được đều đó mà thôi! Do bị tham, sân, si, vô minh, phiền não, vọng tưởng, v.v... che lấp nên trí huệ chân chánh của mình không thể hiển lộ được; vì lẽ đó, chư Phật Bồ Tát mới đến để chỉ bày cho mình phương pháp khai ngộ. Nếu mình có thể nương theo giáo pháp của Ngài chỉ dạy mà tu hành, thì nhất định mình sẽ khai trí huệ. Cho nên, bất cứ lúc nào chúng ta cũng phải biết cảm kích ơn của chư Phật, cảm kích ơn của chư Bồ Tát, cảm kích ơn của cha mẹ, và cảm kích ơn của sư trưởng.
Trong vũ trụ của chúng ta thì Tam Tài: trời, đất và con người đều có giá trị như nhau; cho nên mình chớ lãng phí giá trị của sanh mạng! Ðó là tư tưởng mà kẻ làm người cần phải có. Chúng ta cần phải thấu hiểu bổn hoài cũng như hạnh nguyện của chư Phật Bồ Tát, bởi có như thế thì mới không uổng phí được làm kiếp người!
(Ngày 9 tháng 7 năm 1983)
Làm Thế Nào Ðể Có
Ðược Trí Huệ Hơn Người?
Chúng ta phải "mượn cái giả để tu cái chân thật," phải học hỏi trí huệ hơn người và thần thông khó nghĩ bàn của chư Phật cùng chư Bồ Tát.
Vì sao có thể đạt tới chỗ trí huệ hơn người? Làm sao có thể đạt được thần thông khó nghĩ bàn? Nói một cách tóm tắt là vì khi còn ở nhân địa thì chư Phật Bồ Tát bao giờ cũng tu hành một cách nghiêm túc, chân thật, và lúc nào cũng giữ Giới hết sức cẩn thận. Bất luận lúc nào các Ngài cũng tự mình nêu gương, đi đứng nằm ngồi đầy đủ oai nghi. Ðối với chúng sanh thì các Ngài không ngại vất vả, sẵn sàng hy sinh, chẳng tiếc thân mạng, mà tuyệt nhiên không bao giờ tự quảng cáo hay khoe khoang công đức mà các Ngài đã làm vì lợi ích của chúng sanh. Ðó là vì các Ngài xem cứu độ chúng sanh là bổn phận và trách nhiệm của các Ngài.
Chư Phật và chư Bồ Tát đều có tư tưởng:
Thi ân bất cầu báo,
Dữ nhân bất truy hối.
(Ban ơn, không mong đáp,
Cho rồi, không hối tiếc.)
đồng thời đều có hành vi "vô duyên đại từ, đồng thể đại bi," có lòng nhân từ bao la đối với kẻ không có duyên với mình, thấy mọi loài là cùng một thể với mình. Chính nhờ tu hành như vậy nên các Ngài mới được trí huệ hơn người và đạt thần thông khó nghĩ bàn.
Mình thường xuyên nghe giảng Kinh, thì cần phải suy gẫm, "tiêu hóa" các nghĩa lý thì mới có ích; bằng không thì nghe Kinh tuy nhiều nhưng lại chẳng lãnh hội được những đạo lý trong Kinh! Có nhiều người thậm chí đem các nghĩa lý của Kinh mà "đặt đằng sau ót," chẳng nghiên cứu, chẳng suy gẫm; rồi vì chỉ dùng con quỷ "tinh ranh," con sâu "lanh lợi" của riêng họ nên gây ra đủ chuyện hồ đồ, điên đảo. Làm điều xằng bậy như thế tức là họ không có hiếu với chư Phật và chư Bồ Tát, là bất hiếu với tổ tiên, cha mẹ và sư trưởng của họ. Thế thì chúng ta phải như thế nào? Phải hành trì Phật Pháp một cách đàng hoàng, chân thật, không được lười biếng trễ nãi, không được phóng dật buông lung, ở đâu cũng cẩn thận, lúc nào cũng thận trọng, và phải luôn luôn dũng mãnh tinh tấn, nghiêm thủ Giới Luật. Ðó là những điều kiện tất yếu mà người tu Ðạo phải tuân theo.
Nếu chúng ta có những tập khí, thói quen không chánh đáng thì nhất định phải sửa đổi. Có khuyết điểm mà không chịu sửa đổi, còn che đậy, đó chính là "trợ Trụ vi ngược," nghĩa là giúp vua Trụ làm những điều tàn ác, bạo ngược. Ðời nhà Ân, vua Trụ vốn là một vị hôn quân vô đạo; cho nên người nào giúp y làm những điều độc ác tức là người ấy "trợ Trụ vi ngược." Trong số những người tu Ðạo cũng có Trụ Vương. Ðó là ai? Chính là Ma Vương! Thấy Phật Pháp trở nên hưng thịnh thì Ma Vương rất khó chịu, bèn dùng trăm phương ngàn kế để phá hoại Phật Pháp, nhiễu loạn đạo tràng. Hễ các bạn có đạo tràng thì Ma Vương tới quấy nhiễu đạo tràng. Nếu các bạn không có đạo tràng thì Ma Vương sẽ quấy nhiễu thân tâm các bạn, làm cho các bạn thân không an, tâm không ổn; một khi thân tâm các bạn điên đảo thì các bạn không thể tu hành có thứ lớp theo như giáo pháp được. Ðó là cách phá hoại trực tiếp. Còn cách phá hoại gián tiếp của Ma Vương là lợi dụng đủ thứ cảnh giới để dẫn dụ, mê hoặc, làm các bạn không còn Ðịnh lực, thần hồn điên đảo. Vì trúng phải độc kế của Ma Vương nên các bạn mất chân tâm tu ÐạoỦđến khi hối hận thì đã trễ!
Do đó, người tu Ðạo tâm cần yên định, vững chãi như núi Tu Di; dù gặp bất kỳ cảnh giới nào cũng không động tâm. Khi ấy, Ma Vương đành bó tay, chỉ còn cách quăng giáp tháo chạy mà thôi!
Học Phật Pháp
Quý Ở Thực Hành
Hằng ngày mình cùng nhau nghiên cứu Phật Pháp thì ai đều có chỗ tâm đắc, nhưng nếu không thực hành thì cũng thành vô dụng. Sau khi nghiên cứu, mình phải theo đó tu hành. Phải thực hành với "chân đạp trên mặt đất vững chắc," thì mới có sự thọ dụng. Nếu mình không thực hành, chỉ nói suông, thì mình cũng giống như "người đá"đối với Phật Pháp chẳng giúp ích được bao nhiêu cả!
Muốn giúp ích cho Phật Pháp thì mình phải hoằng dương Phật Pháp, tự mình làm gương, chú ý bốn oai nghi12 giữ năm Giới13 dùng Tứ Vô Lượng Tâm (từ, bi, hỷ, xả) để độ chúng sanh và dùng Sáu Ðại Tông Chỉ (không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, và không vọng ngữ) làm tiêu chuẩn để răn mình. Nếu các bạn dùng những phép tắc như vậy để hoằng dương Phật Pháp thì bất cứ lúc nào và bất cứ nơi nào cũng có sự hiện hữu của Chánh Pháp, không thể có sự xuất hiện của Mạt Pháp, tà ma ngoại đạo sẽ sợ hãi đến dựng tóc gáy, hễ thấy bóng các bạn là chúng chạy trốn mất. Ðiều khiến chúng sợ hãi chẳng phải là thần thông diệu dụng mà chính là đức hạnh của các bạn!
Khi "tri hành hợp nhất," biết và làm là một, thì sự tu hành của mình nhất định sẽ thành tựu; yêu ma quỷ quái chỉ nghe tiếng là đầu hàng ngay. Vì sao vậy? Bởi vì các bạn có trí huệ chân chánh, nhận thức được sự lý thật giả, biết được việc gì nên làm và việc gì không nên làm! Các bạn cần phải nhận thức rõ ràng, hiểu thấu suốt, không làm chuyện điên đảo, không có mọi phiền não, rắc rối, thì mới có thể nói là đã đạt tới cảnh giới "như như bất động, liễu liễu thường minh." Nếu được như thế thì mười phương chư Phật sẽ vỗ tay khen ngợi, hoan hỷ vô cùng; nếu chẳng được như thế - không tới được chỗ phải tới, tự cam chịu đọa lạc, không cầu tiến - thì chư Phật cũng phải bật khóc: "Ôi! Ta đã hao tổn biết bao tinh thần thế mà ngay cả một chúng sanh cũng không độ được. Thật là quá sức khó khăn!" Do đó, các bạn nếu biết được một chút thì hãy thực hành một chút, bởi "tích tiểu thành đa, góp gió thành bão," từ một chút mà tích lũy dần thì sẽ thành nhiều, ví như đống cát cũng có lúc dồn thành ngọn núi, công phu đầy đủ thì tự nhiên sẽ thành công!
Mình được ở đây tu hành là đã "được trời hậu đãi" rất nhiều; do đó, mình không nên lãng phí cơ hội quý báu này và không nên phụ lòng của sư trưởng. Các bạn hãy dũng mãnh, tinh tấn tu Ðạo Vô Thượng để chóng thành Phật quả!
Sửa Ðổi Lỗi Lầm,
Nghiệp Tội Sẽ Tiêu Tan!
Người ta sống cùng một nơi với nhau tức là có duyên với nhau, do đó đừng nên sanh lòng bực bội, tức giận, và càng không nên mắng chửi lẫn nhau, các hành vi như thế hoàn toàn không thích hợp và không thể chấp nhận được. Hy vọng mọi người đều có được công phu tu dưỡng và phong độ của bậc quân tử.
Trong Lục-độ14 pháp môn Nhẫn-nhục quan trọng bậc nhất. Mọi người phải tu tập Pháp Môn Nhẫn-Nhục cho viên mãn thì mới có sự thành tựu. Người tu đạo tuyệt đối không được "nhóm lửa trong gan," không được nổi giận, cần phải nhẫn nhịn mọi chuyện, bởi có câu rằng:
Vô minh hỏa thiêu tận công đức lâm.
(Lửa vô minh (sự nóng giận) đốt sạch rừng công đức)
Do đó các bạn phải ghi nhớ điểm này bằng mọi giá!
Hôm nay có một đệ tử xin được sám hối. Tôi thấy lỗi phạm không nghiêm trọng lắm, nên bảo y rằng không cần phải ra trước đại-chúng mà sám hối, chỉ cần hối cải, sửa đổi lỗi lầm là được. Cổ nhân có nói:
Nhân phi Thánh Hiền, thục năng vô quá?
Quá vật đan cải, thiện mạc đại yên!
Nghĩa là:
Con người nào phải Thánh Hiền, ai chẳng lầm lỗi?
Chẳng sợ sửa đổi, còn gì tốt hơn!
Tự mình biết lỗi, về sau không tái phạm là tốt rồi, nên nói:
Hữu quá năng cải quy ư vô.
(Có lỗi mà sửa đổi tội lỗi sẽ sạch tiêu.)
Biết sửa đổi lỗi lầm thì lỗi lầm không còn nữa. Tức là tội có lớn tày trời, nếu biết sám hối thì tội cũng sẽ tiêu tan (di thiên đại tội, năng hối tiện tiêu). Chỉ sợ rằng tự biết mình sai mà lại cứ cứng đầu cho là đúng; điều sai lầm mà chấp là đúng thì lại càng sai hơn nữa!
Những điều tôi nói hôm nay không phải dành riêng cho một cá nhân nào mà là cho chung tất cả mọi người. Bất luận người nào, nếu nhận thấy mình thuộc vào trường hợp nói trên thì hãy mau mau sửa đổi; còn nếu không thuộc vào trường hợp trên, thì hãy tự khích lệ, lấy đây làm điều sách tấn. Phàm hễ mình có thái độ không được viên mãn tốt đẹp với người khác, thì nên lập tức cải thiện ngay.
Các bạn đến được đây (chùa) là nhờ bao kiếp lâu xa về trước đã gieo trồng thiện duyên, kết duyên lành với nhau; nếu không thì kiếp này không thể tụ hội lại như thế này được. Ðó là điều mà mọi người cần phải hiểu rõ; nhất là mang danh Phật tử lại càng nên chú trọng đến chữ "duyên" hơn nữa! Tục ngữ có câu:
Có duyên, ngàn dặm về gặp gở,
Không duyên, đối diện chẳng biết nhau.
Hai câu này thật là đầy triết lý.
Các bạn cùng cư ngụ ở Vạn Phật Thánh Thành nên kính trọng, giúp đỡ lẫn nhau, chứ không nên có thái độ thờ ơ "khoanh tay đứng nhìn" hoặc "đứng bên kia bờ xem nhà cháy." Mọi người hãy học tinh thần của chư Bồ Tát thấy chúng sanh chìm đắm, khổ sở trong cảnh "nước sôi lửa bỏng" thì cảm thấy như chính bản thân mình đang chịu khổ. Do đó các Ngài tìm cách cứu chúng sanh thoát khỏi biển khổ, đó là bổn phận của tín đồ Phật Giáo. Chúng ta không nên có tâm trạng "hạnh tai lạc họa," (vui mừng trước tai họa của người khác). Ðó là điều tôi kỳ vọng ở tất cả các bạn. Hy vọng rằng ai ai cũng có tấm lòng Bồ Tát, sẵn sàng quên mình vì người.
Trong mỗi ý niệm, mình nên luôn luôn nghĩ cách hỗ trợ Phật giáo, hoằng dương Phật Pháp, tất cả đều vì Phật giáo mà phục vụ. Hãy làm một tín đồ Phật Giáo chân chính, không sợ khó nhọc, chẳng ngại gian nan, tận tâm tận lực ủng hộ đạo tràng. Phải ở trong Phật giáo mà "lập công lập ngôn," làm việc công đức, nói lời chân thật, thì mới đúng là một Phật-tử. Các bạn cần phải có năng lực dũng mãnh chiến đấu thì mới có thể "bách chiến bách thắng;" không được vừa lâm trận là đầu hàng, không vượt qua nổi thử thách. Nếu vượt qua được thử thách thì các bạn không còn ở cách Ðạo bao xa nữa!
Tánh Ðịnh, Ma Phục
Tánh định ma phục triều triều lạc,
Vọng niệm bất khởi xứ xứ an.
Tâm chỉ niệm tuyệt chân phú quý,
Tư dục đoạn tận chân phước điền.
Nghĩa là:
Tánh định, ma phục: ngày ngày vui,
Không sanh vọng tưởng: chốn chốn yên.
Tâm dừng, niệm dứt - giàu sang thật,
Dục vọng trừ sạch - thật phước điền.
Vì sao mình có ma chướng? Vì tánh của mình chưa _định! Nếu tánh mà định rồi, thì lúc nào mình cũng minh mẫn sáng suốt, thấu triệt mọi sự. Một khi đạt tới được trình độ như vậy thì:
Nội quán kỳ tâm, tâm vô kỳ tâm,
Ngoại quán kỳ hình, hình vô kỳ hình.
Nghĩa là bấy giờ, chúng ta quán xét bên trong (nội quán) thì không thấy có tâm, nhưng quán xét bên ngoài (ngoại quán) thì cũng không thấy có thân. Khi ấy, cả thân lẫn tâm đều là "không," và quán xét xa ra bên ngoài (viễn quán) thì vật cũng không hiện hữu. Cả ba thứ thân, tâm và vật đều tiêu vong, lúc này chỉ có lý "Không" mà thôi.
Trung Ðạo phát khởi là do dựa vào lý "Không" này. Trung Ðạo thì không có vui mừng (hỷ), không có bực tức (nộ), không có lo buồn (ai), không có sợ hãi (cụ), không có yêu thương (ái), không có căm ghét (ố), không có tham dục (dục). Khi bảy thứ tình cảm (thất tìnhỦhỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục) không còn "dậy sóng," thì trong không có vọng tưởng, mà ngoài cũng chẳng có tham cầu, nội ngoại thân tâm hoàn toàn thanh tịnh. Ðó là cảnh giới "tánh đã an định." Tánh an định chính là bản thể của Trung Ðạo vậy.
Khi tánh đã định thì mình vững chãi chẳng khác gì núi kim-cang, không còn bị cảnh giới của bảy thứ tình cảm làm dao động. Nếu các bạn thấy cảnh vui mà biết vui, thấy cảnh giận mà biết là giận, thì chứng tỏ rằng các bạn chưa đạt được tánh định. Khi cảnh giới tới mà các bạn liền sanh lòng chấp trước, yêu thích hoặc chán ghét, đó là do tánh chưa định. Bảy thứ tình cảm này cũng như sóng biển. Nếu gặp sóng bạc cao ngất thì thuyền bè có thể bị lật úp; nếu gió yên sóng lặng thì thuyền sẽ bình an tới bến. Người tu Ðạo trước hết phải nhận biết bảy thứ tình cảm một cách thấu đáo, không phải chỉ hiểu đạo lý, ý nghĩa của bảy thứ tình cảm là đủ đâu, cần phải khống chế sự dẫn dụ và dẹp tan sự tác oai tác quái của chúng. Nếu không bị cảnh giới của bảy thứ tình cảm làm dao động tức là tánh đã định rồi vậy.
Khi tánh đã định thì ma sẽ đầu hàng, quy phục, chúng không thể làm mưa làm gió, không thể nhiễu loạn thân tâm người tu Ðạo được nữa. Sau khi khiến ma hàng phục thì thuận cảnh đến mình cũng vui mà nghịch cảnh tới mình hoan hỷ, bất luận gặp phải cảnh ngộ thuận lợi hay trái ý thì mình đều an lạc, tự tại. Sự an lạc này là thứ an lạc chân chánh, hạnh phúc thật sự, chứ không phải là thứ an lạc đến từ ngoại vật. Hương vị của sự an lạc bất tận này vốn phát xuất từ nội tâm nên lúc nào mình cũng an vui, ngày nào mình cũng thanh thản, mọi lo âu, buồn bã hay phiền não đều không còn nữa.
Tánh đã định rồi thì lúc nào mình cũng cảm thấy an lạc, không còn khởi vọng niệm nữa. Khi vọng niệm không còn thì ở nơi nào cũng được bình yên, nên nói:
Niệm động bách sự hữu,
Niệm chỉ vạn sự vô.
(Khởi niệm: trăm sự đều có,
Dứt niệm: mọi sự đều không.)
Khi mình chẳng khởi tâm động niệm thì thân tâm tự nhiên sẽ thanh tịnh, bình an: do đó nói rằng:
Tâm dừng, niệm dứt - giàu sang thật,
Dục vọng trừ sạch - thật phước điền.
Ðó chính là tiêu chuẩn của sự tu Ðạo.
Chúng ta không nên "nhận giặc làm con" bởi giặc có thể cướp sạch châu báu của mình, và cũng không nên nghe lời ma quỷ, bởi chúng có thể lừa mình, mà hể trúng phải quỷ kế thì mình sẽ bị thiệt hại rất lớn. Do đó, các bạn đừng bao giờ kết bạn với quyến thuộc của ma quỷ bởi chúng chỉ biết hại mình, xui khiến mình làm những việc điên đảo, mê muội mà thôi.
Tánh người tu đạo phải định thì mới rời bỏ mê lầm, quay về giác ngộ, bỏ tà theo chánh. Nếu lúc nào chánh niệm cũng hiện tiền thì sẽ không còn bất cứ phiền não nào nữa. Khi sự việc xảy tới thì các bạn hãy đối phó mà đừng có tâm phan duyên; như thế, khi sự việc qua rồi thì tâm lại sạch trong, không lưu giữ dấu vết. Các bạn cần phải hiểu rõ đạo lý "ba cái tâm không thể nắm bắt"Ủ tâm quá khứ không thể nắm bắt, tâm hiện tại không thể nắm bắt, và tâm vị lai không thể nắm bắt. Sau khi thấu triệt rồi, các bạn cần theo đó thực hành thì mới thật sự hiểu rõ Phật Pháp. Nếu học mà không thực hành thì dù có học bao nhiêu đi nữa cũng chẳng ích lợi gì, vô minh, phiền não vẫn đầy dẫy, đến tận kiếp vị lai cũng không có chỗ tương ưng. Trí huệ chân chánh cũng chẳng thể hiện tiền. Dẫu có được chút trí huệ thì đó chẳng qua chỉ là thứ nông cạn, hời hợt, chứ không phải là thứ chân chánh.
Phàm là người tu Ðạo ở Vạn Phật Thánh Thành thì phải biết quý thời giờ, không được lãng phí thời gian quý báu, bởi vì:
Nhất thốn thời quang, nhất thốn mệnh quang.
(Một tấc thời gian là một tấc mạng sống.)
Do đó, mình cần phải chân thật thực hành giáo lý Phật Pháp học được ở đạo tràng. Ðừng nên làm lấy lệ cho xong chuyện hoặc sống lây lất cho qua ngày đoạn tháng, bởi như thế là đi ngược lại với Ðạo!
Sau khi tánh định rồi thì mình mới có thể phá thủng vô minh, hiển lộ Pháp tánh. Mình nhất định phải phá cho được vô minh, phải làm cho Pháp tánh hiện rõ như vậy mới là đạt mục tiêu học Phật. Ðiều tối kỵ nhất trong việc học Phật Pháp là "hữu thủy vô chung," có đầu mà không có cuối, bỏ dở nửa chừng, vất hết bao công phu khó nhọc từ trước. Mình không nên rút lui giữa đường hay ngừng lại chẳng chịu tiến tới; bằng không, sẽ chẳng bao giờ đến được "kho báu" Phật Pháp. Các bạn hãy nhớ rằng: Bất luận làm việc gì thì cũng phải có thủy có chung, tới nơi tới chốn; đừng để ngoại cảnh làm dao động rồi thối chuyển, đánh mất chí nguyện của mình! Phát nguyện, lập chí thì phải như sắt đá; đừng vì nghịch cảnh và những việc không như ý làm dao động rồi quên mất tâm Bồ-đề. Mất tâm Bồ-đề là một tổn thất lớn lao nhất; cho nên, người chân chánh hiểu rõ Phật Pháp thì ở bất cứ tình huống nào cũng kiên quyết gìn giữ tâm Bồ-đề, không bao giờ thối chuyển tâm Bồ-đề.
Nếu các bạn không hiểu phương pháp tu hành thì làm bất cứ việc gì "cũng là đầu cọp đuôi rắn," không trọn vẹn, lúc đầu thì rất hăng hái, dũng mãnh, nhưng về sau thì lười biếng, giãi đãi. Ðó gọi là "hữu thủy vô chung." Việc gì cũng không viên mãn, hoàn hảo. Vì sao vậy? Bởi vì nhân nào, quả nấyỦnhân quả thì không sai chạy một mảy may. Ðã học Phật Pháp thì mình phải tin nhân quả, không được làm chuyện lầm lẫn về lý nhân quả, và càng không được bác bỏ, cho rằng chẳng có nhân quả. Các bạn phải biết rằng nhân quả là định luật muôn đời không thay đổi!
(Ngày 10 tháng 7 năm 1983)
Lòng Hiếu Thảo Chí Thành
Cảm Ðộng Ðến Trời Ðất
Tại làng Ðại Nam Câu, một thôn trang phía nam thành phố Hợp Nhĩ Tân, Ðông Bắc, có một vị hiếu tử họ Cao, tên là Ðức Phước. Vì thân mẫu bị bệnh nặng, cả Trung y lẫn Tây y đều bó tay, vô phương cứu chữa, nên anh phát nguyện chặt tay cúng Phật, xin cho bệnh tình thân mẫu được thuyên giảm. Lòng hiếu thảo ấy cảm động trời đất, khiến thân mẫu anh từ nơi chỗ chết được hồi sanh. Sự kiện này đã từng một thời gây xôn xao; ai ai cũng biết đến gương hiếu thảo của Cao Ðức Phước. Chuyện xảy ra như vầy:
Thân mẫu của Cao Ðức Phước lâm bệnh nặng, cơm không ăn, nước không uống, hơi thở thoi thóp, hấp hối. Nóng lòng vì mẹ, Cao Ðức Phước đến chùa Tam Duyên (hôm ấy nhằm ngày Phật Ðản, chùa đang cử hành Pháp-hội, có khoảng mấy trăm thiện nam tín nữ tham dự). Sau khi thắp nhang và lạy Phật ba lạy, anh rút ra một con dao phay. Ðúng vào lúc anh sắp chặt cánh tay trái thì có người phát giác kịp thời nên lập tức ngăn cản, hỏi rằng: "Vì sao anh lại muốn chặt tay?" Cao Ðức Phước giải thích rằng vì bệnh tình của thân mẫu và muốn chặt tay cúng dường Phật. Lúc đó có cư sĩ Lý Cảnh Hoa mách với anh: "Anh hãy mau mau đến liêu thất phương trượng mà khẩn cầu Hòa Thượng. Ngài có thần thông, có thể Ngài sẽ cứu được mẹ anh khỏi bệnh đấy!"
Cao Ðức Phước bèn đến liêu thất phương trượng, xin gặp Hòa Thượng và kể rỏ tự sự. Hoà Thượng bảo anh rằng: "Con hãy đến thỉnh cầu Thầy An Từ. Thầy ấy có cách chữa được bệnh của mẹ con đấy!"
Cao Ðức Phước liền tới liêu phòng của tôi và xin tôi mở lòng từ bi chữa bệnh cho mẹ anh. Vì nghe nói anh là người con chí hiếu nên tôi nhận lời, dặn anh rằng: "Con cứ đạp xe về trước đi. Thầy sẽ đến liền!" Anh ta vui mừng đi ngay. Vì anh đi xe đạp nên phải theo đường cái; còn tôi thì đi bộ theo đường tắt, nên đến nơi trước anh ta mười phút.
Vừa bước vào nhà đã thấy tôi có mặt ở đó rồi, Cao Ðức Phước vô cùng kinh ngạc hỏi: "Bạch Thầy! Làm thế nào mà Thầy lại tới trước con? Thầy đi bộ mà còn nhanh hơn con đi xe đạp nữa!" Bấy giờ cả nhà, từ già đến trẻ, đều tới đảnh lễ tôi; thật là:
Bình thời bất thiêu hương,
Lâm thời bao Phật cước!
(Thường thì chẳng chịu thắp hương,
Tới khi nguy cấp ôm chân Phật liền!)
Bấy giờ, tôi viết một bài sớ xin cho thân mẫu của họ Cao được lành bệnh. Sau khi đốt tờ sớ, bệnh nhân nằm ngủ một cách thanh thản và mọi người đều đi nghỉ. Sáng hôm sau, bệnh nhân ngồi dậy và gọi con bằng tên tộc: "Cử ơi, Cử con ơi, Mẹ đói lắm, mẹ muốn ăn chút cháo!" Cao Ðức Phước nghe tiếng thân mẫu gọi thì mừng rỡ vô cùng, vội vàng đi nấu cháo ngay. Bệnh nhân ăn hết một bát cháo thì tỉnh táo hẳn và có thể nói chuyện được (đã tám ngày qua bệnh nhân cứ nằm thiêm thiếp, không nói không rằng, không ăn không uống, môi thì thâm mà lưỡi cũng đen sì).
Cao Ðức Phước hỏi: "Thưa mẹ, mấy ngày hôm nay mẹ cảm thấy trong người như thế nào?"
Thân mẫu anh ta đáp: "Ôi! Mẹ đi lạc, không tìm ra đường về nhà, Mẹ thấy đâu đâu cũng là một màn đen dầy đặc, không có mặt trời, không có mặt trăng gì, cũng chẳng có ngôi sao. Mẹ không biết đông tây nam bắc là đâu nữa. Mẹ cứ mò mẫm trong cảnh tối tăm ấy không biết bao nhiêu ngày rồi nữa, mãi cho đến tối hôm qua thì bỗng có một vị Sư tới dẫn mẹ về nhà!"
Cao Ðức Phước nghe thân mẫu nói thế thì đã đoán hiểu được sự tình, nên lại hỏi: "Mẹ à! Vị Sư ấy đó hình dáng như thế nào?" Mẹ anh trả lời: "Vị Sư ấy mặc y rách vá nhiều chỗ lắm!" Cao Ðức Phước trỏ vào tôi, hỏi: "Thế mẹ nhìn xem, có phải là vị Sư này không?" Bà ta chăm chú nhìn tôi, rồi nói: "Ðúng rồi! Vị Sư này chính là người đã đưa mẹ về nhà đây mà!"
Sau đó, cả gia đình của Cao Ðức Phước đều đến xin quy y với tôi; thân mẫu anh ta cũng dần dần bình phục.
(Ngày 15 tháng 7 năm 1983)
Quả Thuấn Ðốt Thân Cúng Phật
Khi còn ở Ðông Bắc (Mãn Châu), tôi có thâu nhận một đệ tử, Pháp danh là Quả Thuấn. Y vốn họ Diêu; người ta thường gọi y là "Lão Diêu." Y cư ngụ tại làng Ðại Nam Câu, cách thành phố Hợp Nhĩ Tân hai mươi dặm về phía nam. Khi chưa quy y Tam Bảo, Lão Diêu là một kẻ du thủ du thực, không nghề nghiệp, y chẳng những hút nha phiến mà còn chích thuốc phiện nữa, có thể nói là rượu chè, cờ bạc, trai gái, chẳng có thứ nào mà y bỏ sót!
Lúc bấy giờ Nhật Bản đang thống trị khu vực Ðông Bắc, thành lập nước Mãn Châu, và lập phế đế của nhà Thanh là vua Tuyên Thống lên làm Hoàng-đế Mãn Châu quốc. Tuy nhiên, trên thực tế thì Hoàng-đế Tuyên Thống chỉ là một ông vua bù nhìn, bởi toàn bộ hệ thống chính quyền đều do người Nhật thao túng. Nhằm ngăn chặn sự xâm lược (nước Trung Hoa) của Liên Sô, Nhật Bản cho xây một công trình quốc phòng tại mạn sông Hắc Hà và lùng sục khắp nơi để bắt người về làm việc. Thợ thuyền phải đóng góp công sức nhưng hoàn toàn không được tiền thù lao. Người nào bị đưa vào trại lao động cũng đều buồn bực, ủ rũ suốt ngày, vì không biết đến bao giờ mới được về lại quê quán. Nghe kể về đời sống trong trại lao động thì ai nấy đều rùng mình, sợ hãi đến nỗi không rét mà run! Nơi ấy thật đúng là địa ngục ở trần gian khổ sở không thể tả xiết!
Lúc ấy, Quả Thuấn là kẻ lang thang không nghề nghiệp nên bị lính Nhật bắt và đưa về trại lao động ở mạn sông Bắc Hà. Ban ngày phải làm việc quần quật như trâu như ngựa; ban đêm chỉ đắp cái bao kết bằng sợi cói mà ngủ, không thể nào chống nổi giá rét. Vì thế, y luôn luôn suy tính, tìm cách trốn khỏi doanh trại. Bốn phía của trại lao động đều được bao bọc bởi hàng rào có mắc điện với cường độ mạnh, bất cứ sanh vật nào chạm vào cũng đều bị điện giật mà chết ngay tức khắc. Mặc dầu có sự đe dọa của hàng rào điện, nhưng vì không chịu nổi sự ngược đãi tàn ác, vô nhân đạo của lính Nhật, nên lúc nào y cũng để tâm rình tìm cơ hội đào thoát.
Một đêm nọ, vì muốn tìm tự do nên Quả Thuấn bất chấp mọi nguy hiểm, quyết định rời khỏi trại lao động. Ðúng vào lúc y dợm chân tính trốn đi thì đột nhiên có một ông già râu tóc bạc phơ hiện ra và nói với y rằng: "Hiện tại chưa phải lúc; đợi đến khi khổ nạn của con đã hết thì Ta sẽ báo cho con biết. Ta hy vọng là con sẽ đặc biệt chú ý, đừng để lỡ cơ hội!" Nói xong, ông già biến mất. Quả Thuấn nghe theo lời ông già, trở về doanh trại chờ đợi.
Khoảng chừng hai tuần sau, Quả Thuấn mộng thấy ông già râu tóc bạc phơ ấy nói với y rằng: "Hôm nay là thời cơ đào thoát của con. Ngoài cửa có một con chó trắng, con hãy đi theo nó. Tuyệt đối không được sơ hở. Con hãy nhớ kỹ! Hãy nhớ kỹ!" Quả Thuấn thức giấc, vừa mừng vừa sợ. Ra tới ngoài cửa thì thấy quả nhiên có con chó trắng đứng chờ; y bèn làm theo lời căn dặn của ông già, để con chó đi trước, còn y thì bám sát đằng sau. Khi tới chỗ hàng rào điện, con chó nhanh nhẹn phóng mình nhảy qua. Ðộng tác ấy như gợi ý cho Quả Thuấn, y liền bắt chước theo cách của con chó. Quả Thuấn lúc bấy giờ là "phước chí tâm linh" (khi vận may đến thì tâm trí tự nhiên sáng suốt, nhạy bén), y lanh trí lấy bao cói đang dùng khoác cho đỡ lạnh để lên trên hàng rào điện, rồi trườn qua rào. Ðược bình yên vô sự thoát khỏi hang cọp rồi, y quay lại nhìn thì không còn thấy con chó trắng đâu nữa, có lẽ là thần nhân đã giúp đỡ y vậy.
Ðể tránh sự truy nã của lính Nhật, ban ngày Quả Thuấn phải lẩn trốn trong rừng rú, khát thì uống nước khe nước suối, đói thì ăn cỏ ăn lá, đợi đến đêm mới dám đi tiếp. Trải qua nhiều ngày gian khổ như thế y mới về lại được làng cũ. Sau lần chịu đựng bao sợ hãi, cực nhọc ấy, y cảm thấy đời người là đau khổ nên quyết chí xuất gia tu Ðạo. Y tìm đến các chùa nhưng không nơi nào chịu thâu nhận y cả. Khi y tới chùa Tam Duyên, bởi thấy y ăn mặc rách rưới nên người ta cho rằng y là kẻ ăn mày và đến xin xuất gia là vì cuộc sống; do đó cũng không muốn thâu nhận y.
Chính vào lúc Quả Thuấn đang lâm vào tình trạng "chùa lớn không thâu, chùa nhỏ không nhận" ấy, thì bỗng đâu xuất hiện một "quái nhân," trông giống như một kẻ ăn mày vậy. Quái nhân tự xưng là một kẻ tu hành lão luyện, biết pháp thuật "36 Thiên cang, 72 Ðịa sát," có thể cỡi mây cỡi mưa, có thể kêu mưa gọi gió, có thể chữa trị mọi nan y tạp chứng, có thuật "diệu thủ hồi xuân," làm cho người chết sống lại... Y tự quảng cáo, khoe khoang khoác lác một hồi mà chẳng có người nào tin cả. Song le, Quả Thuấn lại tin tưởng và tôn anh ta làm thầy; rồi đem tiền bạc mà y kiếm được bằng những thủ đoạn bất chánh để cung phụng anh ta. Sau một thời gian, phát hiện ra anh ta không có bản lãnh gì cả và chỉ là một tên vô lại, Quả Thuấn bèn bỏ đi.
Có một hôm, tôi đến làng Ðại Nam Câu để chữa bệnh cho mẹ của cư sĩ Cao Ðức Phước. Bệnh tình của bà ta rất trầm trọng, cả Trung y lẫn Tây y đều đành chịu bó tay, không chữa trị được. Tôi bèn dùng thần chú gia trì, kết quả là không thuốc mà lành. Cả làng đều biết được tin này và cho đó là một thần tích. Lão Diêu (tức Quả Thuấn) biết được chuyện ấy liền tìm đến và quỳ trước mặt tôi, không chịu đứng dậy, cầu xin tôi thâu nhận y làm đệ tử xuất gia. Lúc ấy tôi không chú ý gì tới y, cứ ngồi day mặt vào tường. Chừng một tiếng đồng hồ sau, tôi quay lại nhìn thì thấy y vẫn còn quỳ ở đó. Tôi hỏi y: "Chú làm gì vậy?"
Y đáp: "Bạch Thầy, xin Thầy từ bi thâu nạp con làm đệ tử."
Tôi nói: "Chú muốn theo tôi xuất gia ư? Thế nhưng tôi không có đức hạnh, cũng chẳng có công phu gì để truyền dạy cho chú cả; e rằng chỉ làm cho chú thất vọng mà thôi!"
Y nói: "Bạch Thầy, chỉ cần Thầy chịu thâu nhận con làm đệ tử là con mãn nguyện rồi. Con không cầu mong điều gì khác."
Tôi nói: "Xuất gia là việc khổ sở lắm, phải nhẫn nhục những chuyện người khác không thể nhẫn nhục được, phải nhường nhịn những điều người khác không thể nhường nhịn được, phải cam chịu những vất vả nhọc nhằn mà người khác không thể cam chịu được, phải chịu đựng những sự ngược đãi mà người khác không thể chịu đựng nổi, chú có thể chịu được chăng? Nếu chú chịu được thì tôi sẽ nhận chú làm đệ tử; còn nếu chú làm không được thì đừng theo tôi xuất gia!"
Lão Diêu lập tức trả lời chẳng chút đắn đo: "Bạch Thầy! Mọi cực khổ, vất vả con đều có thể nhẫn chịu được cả. Xuất gia tuy là khổ, nhưng con tin chắc là không thể nào khổ bằng sống trong trại lao động. Con tin rằng con có thể chịu đựng được!"
Qua cuộc đối đáp ấy, tôi nhận thấy y quả có thể chịu khổ được; do đó, tôi đưa y về Chùa Tam Duyên, cho xuất gia làm Sa Di, và bảo y làm việc trong nhà bếp. Quả Thuấn làm việc rất cẩn thận, và cũng rất siêng năng dụng công tu học. Song le, vì y không có thiện duyên với các sư huynh và sư đệ đồng tu nên thường bị họ ức hiếp. Quả Thuấn bèn nói với tôi: "Bạch Thầy! Các sư huynh sư đệ cứ vô duyên vô cớ mà la mắng con; vậy con phải làm sao?"
Tôi trả lời: "Nếu đã chịu không nổi nữa thì con có thể tu hành một mình vậy."
Cạnh ngôi miếu Long Vương dưới chân núi Tây Sơn, làng Ðại Nam Câu, có một khoảnh đất trống nên Quả Thuấn tự dựng một căn nhà tranh tại đó để làm nơi tu hành. Ngày làm xong nhà tranh, Quả Thuấn tới Chùa Tam Duyên mời tôi đến khai quang tượng Phật. Tôi dẫn theo vài đệ tử cùng đi. Ðến tối thì có mười con rồng (hóa thành người) tới xin quy y. Lúc đó là vào đầu mùa hạ, thời tiết khô khan, không có mưa, nên đồng khô cỏ cháy, lúa mạ úa vàng. Các nông dân- những người chỉ biết trông cậy vào trời để có miếng ăn - đều ngao ngán, than khổ; lắm lúc lại thầm hỏi trời xanh, khẩn cầu trời cao từ bi thương xót ban bố cho vài giọt nước "cam lồ."
Tôi hỏi các vị Rồng: "Việc của các vị là làm mưa, vậy mà tại sao trời lại khô hạn như vậy? Vì sao không có mưa xuống?"
Các vị Rồng đáp rằng: "Bạch Thầy! Không có lệnh của Ngọc-Hoàng Thượng Ðế thì chúng tôi không dám làm mưa. Nếu chúng tôi cãi lệnh thì sẽ bị trừng phạt."
Tôi nói: "Các vị hãy đến Linh Tiêu Bảo Ðiện của Ngọc Hoàng Thượng Ðế, xin Ðại Ðế từ bi cho mưa xuống nội trong bốn mươi dặm chung quanh nơi này. Nếu ngày mai trời mưa thì ngày mốt các vị được quy y. Ðó là điều kiện trao đổi của chúng tôi!"
Qua hôm sau, quả nhiên có cơn mưa trút xuống trong chu vi bốn mươi dặm, lúa mạ được thấm nhuần nước mưa nên trở nên tươi tốt, lương thực thu hoạch vào mùa thu còn được nhiều hơn cả các năm trước. Hôm sau nữa, những vị Rồng đến nhà tranh và ra trước chánh điện để thọ Tam Quy Y. Ðể kỷ niệm sự việc này, tôi mới đặc biệt đặt tên căn nhà tranh ấy là "Long Vũ Mao Bồng" (Nhà Tranh Rồng Làm Mưa), và viết tên lên tấm biển cho treo trước cửa.
Sau đó, Quả Thuấn phát nguyện đốt thân để cúng dường chư Phật. Y tự chuẩn bị củi và xăng, rồi ngồi trên giàn củi tự châm lửa vào xăng, thân thể bốc cháy thành tro. Ngày hôm sau, dân trong làng phát hiện ra là Long Vũ Mao Bồng đã bị thiêu hủy nên đến nơi để xem xét thì thấy thân thể của Quả Thuấn tuy đã thành tro nhưng quả tim vẫn còn nguyên vẹn, không bị lửa thiêu mất. Mọi người đều tán thán không ngớt; và sau đó đem tro cốt với quả tim của Quả Thuấn mai táng tại chỗ.
Mọi thứ trên thế gian đều phải trải qua giai đoạn Thành, Trụ, Hoại, Không - sanh ra rồi tồn tại, biến hoại đi, và cuối cùng tiêu tan mất - cứ tuần hoàn như thế, không gián đoạn. Nếu thấu triệt được đạo lý này thì các bạn sẽ không vì bất kỳ sự việc gì trên cõi đời này mà sanh chấp trước hoặc khởi phiền não. Hể các bạn có thể "nhìn xuyên thủng" rồi buông bỏ hết, thì sẽ chẳng có vấn đề gì cả!
Nhân Duyên Khiến
Quả Năng Xuất Gia
Vào mùa đông một năm nọ, tôi vì Phật sự nên phải _tới nam thành phố Hợp Nhĩ Tân. Ngang qua một quán trọ, vì người chủ quán trọ ấy là đệ tử quy y của tôi nên tôi ghé vào thăm. Ông ta nói với tôi: "Bạch Sư phụ! Trong quán trọ của con có một khách trọ ăn chay trường, anh ta muốn xuất gia tu hành nhưng chưa tìm được chùa nào cả. Chẳng hay Sư Phụ có thể thâu nhận anh ta làm đệ tử chăng?"
Tôi hỏi: "Vì sao anh ta muốn xuất gia?"
Ông ta đáp: "Bạch Sư Phụ! Anh ta là người Sơn Ðông, làm nghề thợ may, và chung sống với một cô gái nghiện thuốc phiện. Có một hôm, nhân lúc anh ta đi vắng, cô gái kia lấy trọn số tiền dành dụm của anh ta rồi trốn đi. Tối đến, anh về nhà thì mới hay cả người lẫn của đều mất! Bởi bị một vố nặng nề như thế nên anh ta sanh ra chán nản, cảm thấy đời người vô vị, chỉ muốn xuất gia tu hành. Anh ta đến Chùa Cực Lạc ở Nam Cương, thành phố Hợp Nhĩ Tân, định xin xuất gia với Thầy Như Quang, song Thầy Như Quang không muốn thâu nhận anh ta làm đệ tử. Anh ta bất đắc dĩ phải ở trọ trong quán của con, suốt ngày mặt mày ủ dột, rầu rĩ không vui, chẳng hề chuyện trò với ai cả; thật là đáng thương!"
Nghe vậy, tôi bảo người chủ quán: "Hãy bảo anh ta ra đây!" Chủ quán liền đi gọi, nhưng anh ta không chịu ra, có lẽ vì thấy tôi ăn mặc rách rưới, trông chẳng có vẻ một ông Hòa Thượng có chùa! Gọi đến lần thứ hai thì anh ta mới miễn cưỡng đi ra; mở miệng là hỏi liền: "Thầy gọi tôi đến để làm gì?" (Người Sơn Ðông thường lòng ngay dạ thẳng, nghĩ sao nói vậy.)
Tôi bảo anh ta: "Tôi tới đây chính là để tìm chú!"
Anh ta vô cùng kinh ngạc, hỏi lại rằng: "Thầy có biết tôi sao?"
Tôi nói: "Hãy khoan nói tới chuyện đó. Chú có muốn xuất gia không? Chùa tôi hiện cần một người lo việc cơm nước; chú có thể lấy đó làm cơ hội để tu khổ hạnh. Ở đó thì có cơm cho chú ăn, có phòng cho chú ở; nhưng không có tiền cho chú tiêu dùng. Thế nào, chú có muốn đến đó chăng?"
Vì nghe tôi nói bằng lòng nhận anh ta làm đệ tử nên anh ta vui mừng đáp: "Con sẵn sàng đi ngay!" Anh ta lập tức theo tôi về chùa và lo việc nấu ăn trong chùa. Sau đó anh ta thọ Giới Sa Di, Pháp danh là Quả Năng.
Một hôm, Quả Năng nổi cơn bốc đồng, tự ý làm một cái kháng15 trong một căn phòng nhỏ mà không xin phép người trong chùa trước. Lúc bấy giờ tôi hoàn toàn không rõ nội tình, song có người nói bóng gió trước mặt tôi rằng: "Thâu đệ tử mà dạy dỗ không nổi; thật là mất mặt! Làm đệ tử chưa xong đã muốn làm Tổ Sư!" Tôi lấy làm lạ, bèn ra nhà sau xem gì thì gặp một huynh đệ, thầy ấy nói với tôi: "Ðệ tử của ông làm loạn, không giữ quy củ của chùa, chưa được phép mà đã tự ý làm riêng một cái kháng!"
Tôi bèn tới phòng Quả Năng thì quả nhiên thấy anh ta đang ngồi thiền trên kháng. Trông thấy tôi, anh ta liền bước xuống đảnh lễ. Tôi hỏi: "Ai bảo con làm cái kháng này?"
Quả năng đáp: "Không ai bảo cả!"
Tôi nói: "Ðã không ai bảo thì sao con lại tự tiện như vậy? Con đã phạm quy củ rồi đó!"
Quả Năng không nói gì, chỉ lẳng lặng quỳ xuống. Tôi bảo: "Con hãy ra trước điện Phật mà sám hối, quỳ cho đến khi tàn nén hương!"
Sau khi tôi đi rồi, Quả Năng không ra điện Phật quỳ hương mà lại lên kháng ngồi vá áo quần. Nữa giờ sau, tôi tới chánh điện không thấy Quả Năng quỳ hương ở đó. Tôi lại tới phòng Quả Năng và hỏi: "Quả Năng! Tại sao con không quỳ hương?"
Quả Năng đáp: "Chờ một chút!"
Tôi nói: "Con không quỳ hương thì Thầy sẽ quỳ thay cho con vậy!" Thế là tôi ra trước điện Phật thắp hương và quỳ trên gạch. Thấy tôi quỳ, Quả Năng không có cách gì khác hơn là tới sau lưng tôi và khẩn khoản: "Sư Phụ! Con biết lỗi rồi, xin Sư Phụ tha thứ cho con. Xin Sư Phụ hãy đứng dậy, con đang quỳ đây này!"
Tôi nói: "Tôi dạy đệ tử không nổi, song le, tôi vẫn có thể dạy chính tôi!" Kể từ sau lần giáo huấn ấy, Quả Năng luôn luôn tuân giữ quy củ và dụng công tu hành. Quả Năng có dũng khí "biết lỗi, chịu sửa." Tôi hy vọng các bạn cũng đều có đức tánh biết nhận lỗi và chịu sửa đổi!
Không Thể Phung Phí Của Trời!
Có người hỏi tôi: "Theo Thầy thì Pháp Hội Quán Thế Âm Bồ Tát Thành Ðạo lần này sẽ có bao nhiêu thiện nam tín nữ đến tham gia?" Tôi trả lời: "Có lẽ chỉ ba, bốn người mà thôi!" Hôm nay tôi đếm thử thì thấy có hơn bốn trăm người đến dự Pháp-hội; người ấy bèn hỏi lại tôi: "Có phải Thầy nói một người là ngụ ý một trăm người?" Tôi nói: "Tôi không biết!"
Pháp Hội Quán Âm năm nay, đại chúng có phần thành tâm hơn những năm qua. Những năm trước trong Pháp-hội, lúc dùng cơm mọi người đều nói năng ồn ào, không tuân theo quy củ của Trai Ðường. Ðã vậy, nhiều người lại vất bỏ cơm và thức ăn thừa vào thùng rác; hoặc ăn xong thì không tùy hỷ công đức mà lại bỏ đi. Năm nay tình hình nói chung đã cải thiện rất nhiều, mọi người không nói chuyện ồn ào mà cũng không phí phạm vật thực, và cũng rất ít người vội vã trở về San Francisco, đó là điều đáng mừng!
Sau này, những khi có Pháp-hội, thì cần phải nhắc nhở mọi người không nên nói chuyện trong giờ ăn và phải biết quý vật thực, chớ nên phí phạm, vất bỏ thức ăn. Cổ nhân có bài thơ như sau:
Sừ hòa nhật đương ngọ,
Hãn trích hòa hạ thổ,
Thùy tri bàn trung xan
Lạp lạp giai tân khổ!
Nghĩa là:
Bừa đất dưới nắng trưa,
Mồ hôi đẫm bông lúa,
Bưng bát cơm ai biết,
Mỗi hạt mỗi gian khổ!
Ða số người đời không biết đến đạo lý "mỗi hạt mỗi gian khổ," do đó họ mặc sức phí phạm của trời, tha hồ hủy hoại thức ăn. Các bạn nên biết rằng lý do nhiều người không có cơm ăn trên thế giới này là vì xưa kia họ đã phí phạm thực phẩm, nên kiếp này họ phải gánh chịu quả báo là không có cơm ăn. Tôi cần phải nói ra đạo lý đơn giản này cho mọi người hiểu rõ để sau không còn phung phí thực phẩm một cách vô lý nữa.
Những người quản lý nhà bếp cần phải sáng suốt, đồ ăn thức uống chuẩn bị cho đại chúng cần đủ dinh dưỡng và phải hợp vệ sinh. Các bạn phục vụ đại chúng thì công đức vô lượng. Mỗi ngày đều phải kiểm soát tủ lạnh, xem loại thực phẩm nào dễ hư thì dùng trước, loại nào lâu hư thì giữ gìn cho tươi tốt để dùng sau; không được để thực phẩm hư thối rồi vất vào thùng rác vì như thế là tạo tội, gây nghiệp. Mọi người cần phải cẩn thận về điểm này!
Coi sóc việc ăn uống của đại chúng, biết điều hòa cho thích đáng thì có công đức; nếu điều hòa không khéo thì sẽ mang tội. Lập công thì dễ, vì chỉ do cách làm việc của mình, hợp quy tắc thì có công, không hợp quy tắc thì có tội. Nói tóm lại, công hay tội đều do một tay mình mà ra, biết quý, không phí phạm thực vật, thì có công; làm hư thối, vứt bỏ vật thực một cách vô lý, thì sẽ mang tội!
(Vạn Phật Thánh Thành,
ngày 24 tháng 7 năm 1983)
Cần Phải Kiểm Tra Những Sách Xuất Bản
Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới và trường Ðại-học Pháp Giới Phật Giáo đã xuất bản rất nhiều sách về Phật-giáo; song le, có một số sách chưa đạt tới chỗ tận thiện tận mỹ. Từ nay về sau, bất luận là sách do ai giảng giải hoặc soạn thảo, tất cả đều phải được kiểm tra cẩn thận trước khi ấn hành. Sau khi được sự đồng ý của mọi người, chắc chắn là sách không còn sai sót gì nữa, thì mới được đem in.
Từ nay về sau, tất cả mọi việc ở Vạn Phật Thánh Thành đều phải được tiến hành với tác phong dân chủ, chí công vô tư, công minh chính trực, không thiên vị, và với tinh thần cầu tiến theo chiều hướng chân, thiện, mỹ. Các sách do chúng ta ấn hành đều không còn có sai sót gì cả; bởi vì nếu có sai sót thì sẽ ảnh hưởng xấu cho mọi người, và còn bị phê bình nữa. Do đó, hy vọng mọi người hãy nổ lực, cố gắng làm cho hoàn hảo, đến nơi tận thiện tận mỹ.
Kinh Phật chứa đựng những lời giáo huấn từ chính kim khẩu của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra, do đó, một từ cũng không được sửa, một chữ cũng không được sót, nếu không, chẳng những là không có công mà ngược lại, còn mang tội nữa. Cổ nhân dạy rằng:
Y văn giải nghĩa,
Tam thế Phật oan,
Ly Kinh nhất tự,
Tức đồng ma thuyết.
Nghĩa là:
Giảng nghĩa theo văn:
Oan ba đời Phật.
Rời Kinh một chữ:
Thành lời ma nói.
Từ đó chúng ta có thể thấy rằng phiên dịch kinh điển không phải là một công việc dễ dàng. Hy vọng mọi người đều dốc hết năng lực để phiên dịch nên những bộ kinh hoàn toàn phù hợp với ý chỉ của chư Phật, không có khuyết điểm. Như thế, một khi được truyền bá rộng rãi, các bộ kinh sách ấy sẽ giúp cho độc giả hưởng được sự ích lợi của Phật Pháp!
Tu Ðạo Cần Phải
"Quý Phước, Cầu Huệ"
Tín đồ Phật Giáo chúng ta khi chưa thành Phật thì _cần phải biết "quý phước, cầu huệ." Hễ biết quý phước thì phước báu gia tăng, còn cầu huệ thì trí huệ tăng trưởng.
Các bạn hãy nhìn xem: Người đời có vô số hoàn cảnh khác nhau. Có những người được phước báu rất lớn, không cần phải làm gì cả mà lại được vạn sự như ý, mọi thứ đều có sẵn, đời sống rất sung túc; họ không buồn không lo, sung sướng vô cùng, đó là nhờ khi trước họ đã từng tu phước rất nhiều, nên nay mới được hưởng phước báo lớn lao như thế! Có những người thì lại có trí nhớ rất tốt, chỉ xem qua một lần là không bao giờ quên. Họ vừa thông minh vừa khoẻ mạnh, và còn có biện tài vô ngại; khi họ thuyết Pháp thì có hiện tượng "trời mưa hoa xuống, đất trồi sen vàng" xảy ra. Vì sao họ có khả năng ấy? Là vì khi xưa họ đã từng tu huệ rất nhiều!
Làm thế nào để tu huệ và tu từ đâu? Trước hết, hãy bắt đầu từ Ðại Thừa, đọc tụng kinh điển Ðại Thừa, nghiên cứu Tam Tạng cho thật thấu đáo, cho tới mức viên mãn, miệng có thể đọc thuộc, tâm có thể nghĩ suy. Sáng cũng như chiều, ngày ngày dùi mài Tam Tạng16 cho làu thông, thấu triệt, thì đại trí huệ khai mở, kiếp sau nhất định sẽ vừa thông minh vừa biện tài.
Chúng ta đã biết thế nào là "quý phước, cầu huệ" thì cần phải quý tiếc đồ vật, không nên làm hư hại vật dụng. Làm những công việc như sửa cầu, đắp đường, cất chùa, dựng tháp, bố thí y phục, bố thí vật thực, cứu giúp người nghèo khổ tức là tu phước, tạo phước điền. Còn giảng Kinh thuyết Pháp, in kinh sách để truyền bá, phiên dịch kinh điển, tô vẽ tranh Phật... là thuộc về pháp môn tu huệ. Giả sử các bạn không muốn có phước báo và cũng không muốn có trí huệ, thì chẳng còn lời gì để nói. Song, nếu các bạn muốn có phước báo, muốn có trí huệ, thì hãy mau mau tu phước, cầu huệ. Không được lãng phí phước báo và cũng không được bỏ trí huệ một cách tùy tiện! "Quý phước, cầu huệ" là một công việc lớn lao, tất yếu mà mọi tín đồ Phật giáo cần phải thực hành!
Tính Nóng Nảy Là Nhân Duyên Chướng Ngại Việc Tu Ðạo
Có câu rằng: "Phiền não là Bồ-đề." Có người hỏi: "Thế thì, nếu không sanh phiền não phải chăng sẽ không có Bồ-đề?" Không phải! Bởi vì bản thân của phiền não chính là Bồ-đề! Thế nào là Bồ-đề? Bồ-đề tức là không sanh phiền não! Nếu con người chỉ sanh ra phiền não mà thôi, thì phiền não vẫn cứ là phiền não và Bồ-đề vẫn cứ là Bồ-đề, do đó, các bạn đừng hiểu lầm ý nghĩa của câu trên.
Các bạn phải biết rằng một khi chính bản thân mình đạt tới cảnh giới thật sự không còn phiền não, không còn vô minh, không còn vọng tưởng, không còn dục niệm nữa, thì dầu có nóng tánh đôi chút cũng vẫn có thể tha thứ được. Song, đương nhiên tốt nhất là không còn tánh nóng nảy, cùng với mọi người chung sống một cách vui vẻ, hòa thuận, đoàn kết, khiến cho ai nấy đều cảm thấy thân thiết.
Người tu Ðạo nên dùng đức hạnh để cảm hóa kẻ khác, chứ không nên dùng thế lực để áp bức người ta. Ðối với bất cứ người nào các bạn cũng nên nói đạo lý, để cho ai nấy đều hết lòng cảm phục, khâm phục các bạn là người có tài cán, có đạo đức, có học vấn, có lòng từ bi. Bằng không, nếu các bạn bị vướng vào vòng danh lợi, thì sẽ cách xa con đường của Phật tới mười vạn tám ngàn dặm, các bạn cần phải đặc biệt chú ý điểm này.
Xuất gia tu Ðạo là tu đạo gì? Là tu Ðạo Nhẫn Nhục. Người nào nổi nóng tức giận là đi ngược với Ðạo, vĩnh viễn không thể có sự tương ưng với Ðạo được. Nổi nóng là một tánh rất xấu, và cũng là nhân duyên chướng ngại trên bước đường tu Ðạo. Hy vọng mọi người đều thận trọng, tuyệt đối không nên phạm lỗi lầm này!
Người xuất gia tu Ðạo khi chưa nắm vững được căn bản của vấn đề thì sự tu hành ấy cũng giống như "nấu cát mà mong thành cơm," dù có nấu bao lâu đi nữa thì cát cũng không thể nào thành cơm được! Nếu các bạn không có "lửa" vô minh thì dục niệm sẽ ngừng dứt. Vì sao vậy? Các bạn có dục niệm là vì trong lòng có "lửa giận." Do đó các bạn cứ cảm thấy thế này là "không được," thế nọ cũng "không được," rất nhiều vấn đề "không được" xảy đến cho các bạn. Vì vậy, người tu Ðạo cần phải dứt sạch phiền não thì mọi rắc rối, chướng ngại, mới không còn!
(Ngày 25 tháng 7 năm 1983)
Cảnh Giới của Bậc
A La Hán Chứng Ðạo
Trong phẩm Tựa, phẩm thứ nhất của Kinh Pháp Hoa, có chép rằng:
"A La Hán, chư lậu dĩ tận, vô phục phiền não, đãi đắc kỷ lợi, tận chư hữu kết, tâm đắc tự tại."
("Bậc A La Hán, đã hết các lậu, không còn phiền não, đạt tới chỗ lợi mình, hết mọi 'hữu, kết,' tâm được tự tại.")
Ðó là cảnh giới của bậc A-la-hán chứng đạo. Bây giờ chúng ta hãy tìm hiểu sơ lược ý nghĩa của đoạn văn trên.
"Chư lậu dĩ tận" (đã hết các lậu). "Chư lậu" ở đây bao gồm sự nói nhiều, nghe nhiều, nhìn hình sắc nhiều, khởi vọng tưởng nhiều. Thế nào là "bất lậu," hoặc "không lậu?" Nói một cách vắn tắt thì bất lậu tức là:
Phi lễ vật thị,
Phi lễ vật thính,
Phi lễ vật ngôn,
Phi lễ vật động.
Nghĩa là:
Trái với lễ giáo thì đừng nhìn,
Trái với lễ giáo thì đừng nghe,
Trái với lễ giáo thì đừng nói,
Trái với lễ giáo thì đừng làm.
Ở đây, "lễ" tức là quy củ, phép tắc; mà quy củ, phép tắc thì cũng chính là Giới-luật. Nếu các bạn không nhìn những gì trái với lễ nghĩa thì căn mắt của các bạn được thanh tịnh, không nghe những gì trái với lễ nghĩa thì căn tai của các bạn được thanh tịnh, không nói những lời trái ngược với lễ nghĩa thì căn lưỡi của các bạn được thanh tịnh, không làm những điều trái ngược với lễ nghĩa thì căn thân của các bạn được thanh tịnh. Khi sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) đều thanh tịnh thì không còn lậu nữa. Có lậu, thì cũng giống như chiếc bình đựng nước có một lổ làm cho nước trong bình chảy ra ngoài, khiến bình vĩnh viễn không thể nào chứa đầy nước được. Ðối với việc tu Ðạo, lậu chính là phiền não, và tánh nóng nảy, sân hận. Nếu các bạn tu được một chút công đức mà lại bị "lửa" vô minh đốt sạch, thì các bạn vĩnh viễn không thành Ðạo quả. Mọi người cần phải lưu ý điểm này và phải tu hành một cách thận trọng!
Ngoài thì như như bất động trong thì không có dục niệm, đó là trạng thái không còn lậu. Nếu bề ngoài tuy là "bất động" nhưng bên trong vẫn còn bị động, như thế tức là vẫn còn lậu. Nói cách khác, nếu còn ý tưởng về dục niệm, còn hành động theo dục vọng, là còn lậu; nếu không còn, là vô lậu. Tu Ðạo tức là "tu vô lậu," là tu tập công phu phản bổn hoàn nguyên, trở về với bản thể trong sạch lúc ban đầu.
Các bậc Ðại A La Hán đã lọc sạch hết những thứ cặn bã, chỉ còn lại tinh hoa mà thôi, do đó mới nói là các Ngài đã hoàn toàn không còn các lậu nữa.
"Vô phục phiền não" (không còn phiền não). Bậc A La Hán thì không còn phiền não nữa. Làm thế nào để hết phiền não? Phương pháp rất đơn giảnỦđó chính là không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ! Bậc A La Hán chính nhờ làm được như thế nên hết sạch các lậu và không còn phiền não nữa.
"Ðãi đắc kỷ lợi" (đạt tới chỗ lợi mình). Bậc A La Hán đã đạt được sự lợi ích của "Thiền duyệt vi thực, Pháp hỷ sung mãn" (lấy niềm vui trong thiền định làm thức ăn, và tràn đầy sự an lạc nơi Phật Pháp) Các Ngài cũng đều đạt được Vô Tranh Tam Muội, dứt hẳn tâm thích hơn thua. Có bài kệ rằng:
Tranh thị thắng phụ tâm,
Dữ Ðạo tương vi bội,
Tiện sanh Tứ Tướng Tâm,
Do hà đắc Tam-muội?
Nghĩa là:
Tranh là tâm hơn thua,
Ði ngược lại với Ðạo,
Sanh ra bốn tướng tâm
Làm sao được Tam-muội?
"Tận chư hữu kết" (hết mọi 'hữu,' 'kết'). "Hữu"17 là hai mươi lăm cảnh hữu-tình18 trong Tam Giới. "Kết"19 là do phiền não mà kết tập sanh tử. Do có kiến hoặc, tư hoặc, trần sa hoặc, vô minh hoặc mà việc xuất ly Tam Giới của chúng ta bị chướng ngại. Nếu chúng ta có thể dẹp hết thói hư tật xấu, trừ sạch những phiền não đã kết tập lại với nhau, và dứt hết mọi vấn đề trong Tam Hữu,20 tức là chúng ta đã "hết mọi hữu, kết," chấm dứt được Phân Ðoạn Sanh Tử!21
"Tâm đắc tự tại" (tâm được tự tại). Vì sao được như vậy? Vì tâm được an lạc, tự tại! Vì sao tâm được an vui tự tại? Là vì "đã hết các lậu, không còn phiền não, đạt tới chỗ lợi mình, hết mọi hữu, kết." Các bậc Ðại A La Hán đã đạt tới cảnh giới:
Chư lậu dĩ tận, Phạm-hạnh dĩ lập,
Sở tác dĩ biện, bất thọ hậu hữu.
(Các lậu đã hết, Phạm-hạnh22 đã thành,
Mọi việc đã xong, không còn đầu thai.)
Tâm của chúng ta là tha tại chứ không phải là tự tại. "Tha tại" có nghĩa là thân thì ở đây nhưng tâm lại không ở đây, không nghĩ về Nam triều thì cũng tới Bắc quốc, không nhớ đông tây thì cũng mơ nam bắc, từ đầu đến cuối chẳng có lúc nào ngừng nghĩ cả. Những vọng tưởng lăng xăng ấy đã đuổi "chủ nhà" đi và để cho "vị khách" trần lao từ bên ngoài vào nắm quyền làm chủ, cho nên tâm không tự tại. "Tự tại" tức là tâm không còn tạp niệm, tự tánh tỏa ánh sáng rực rỡ soi tỏ trời đất, thân tâm đầu thanh tịnh, thanh thản, tự do.
Ðoạn kinh văn trên vô cùng quan trọng cho nên chúng ta cần phải ghi nhớ, không được lãng quên. Nếu nghiên cứu phần kinh văn ấy cho tường tận, thấu đáo, tôi cam đoan rằng các bạn sẽ được liễu thoát sanh tử, chứng đắc được cảnh giới giống như các bậc A La Hán vậy. Không chứng được quả vị A La Hán thì tâm không thể tự tại được. Chỉ khi nào chứng được quả A La Hán, đuổi được khách trần, dẹp bỏ được phiền não rồi, thì lúc ấy tâm mới tự tại vậy!
Vì Sao Cần Phải Niệm Phật?
Vì sao lúc bình thường chúng ta cần phải niệm Phật? Lúc bình thường chúng ta thường niệm Phật là để chuẩn bị cho lúc lâm chung.
Thế thì tại sao không đợi đến lúc lâm chung rồi hãy niệm Phật? Tập quán là thói quen được huân tập qua nhiều ngày, nhiều tháng. Cho nên, nếu bình thường các bạn không có tập quán niệm Phật thì đến lúc lâm chung các bạn sẽ không nhớ ra là mình cần phải niệm Phật. Do đó, lúc bình thường mình cần phải học niệm Phật, tu Pháp-môn Tịnh Ðộ, đến lúc lâm chung mới không hoảng hốt, luống cuống, mà trái lại, sẽ an nhiên vãng sanh Thế Giới Cực-lạc!
Vì sao chúng ta cần phải vãng sanh về Thế Giới Cực Lạc? Là vì khi Ðức Phật A Di Ðà ở nhân địa tu hành làm thầy tỳ kheo, Ngài đã từng phát bốn mươi tám đại nguyện mà trong đó có nói rằng:
"Sau khi tôi thành Phật, nếu trong mười phương có chúng sanh nào niệm 'A-Di-Ðà Phật,' danh hiệu của tôi, thì tôi nhất định sẽ tiếp dẫn người đó tới thế giới của tôi, và trong tương lai, vị ấy sẽ được thành Phật. Ở thế giới của tôi, ai ai cũng đều hóa sanh từ hoa sen, nên thân thể của họ hoàn toàn thanh tịnh vô nhiễm."
Bởi Ðức Phật A Di Ðà đã phát nguyện lớn như vậy, nên tất cả chúng sanh đều nên tu Pháp-môn Niệm Phật, một pháp-môn rất hợp với căn cơ của mọi người và cũng rất dễ tu. Trong Kinh còn dạy:
Ðời Mạt Pháp, một ức người tu hành hiếm khi có được một người đắc Ðạo; duy có tu Pháp-môn Niệm Phật là ai cũng được độ thoát.
Ý nói rằng trong số một ức người tu hành, hiếm hoi lắm mới có một người đắc Ðạo; chỉ có Pháp-môn Niệm Phật là có thể giúp mọi người vãng sanh về Thế Giới Cực Lạc và do đó được độ thoát. Ðặc biệt là trong thời Mạt Pháp hiện tại, niệm Phật chính là pháp môn hợp với căn cơ của mọi người nhất.
Song, Âu Mỹ hiện nay không phải đang ở vào thời đại Mạt Pháp mà có thể nói là đang ở vào thời đại Chánh Pháp. Vì sao nói Âu Mỹ đang ở vào thời đại Chánh Pháp? Vì Phật Pháp vừa mới được truyền tới các nước ở phương Tây và hiện đang vào lúc hưng thịnh. Do đó, hiện tại ở Mỹ quốc có rất nhiều người rất thích tham Thiền, tịnh tọa; đó cũng là biểu hiện của Chánh Pháp.
Thời Chánh Pháp, ai cũng có thể tu Pháp-môn Niệm Phật. Thời Mạt Pháp mọi người cũng có thể tu Pháp-môn Niệm Phật, ở bất cứ thời đại nào mình cũng có thể tu pháp môn này. Nếu như có người đối với các pháp môn khác không thể dụng công được, thì nên tu Pháp Niệm Phật. Thiền-sư Vĩnh Minh Diên Thọ có nói rằng:
Hữu Thiền, hữu Tịnh Ðộ,
Do như đái giác hổ.
(Có Thiền, có Tịnh-Ðộ,
Như hổ mọc thêm sừng.)
Những người vừa tham Thiền và vừa niệm Phật thì giống như cọp mà mọc thêm sừng, oai thế vô cùng. Họ có thể:
Hiện thế vi nhân sư,
Tương lai tác Phật Tổ.
(Ðời này làm Thầy mọi người,
Tương lai thành Phật, làm Tổ.)
Do đó, người chân chánh tham Thiền tức là người chân chánh niệm Phật, người chân chánh niệm Phật cũng chính là người chân chánh tham Thiền. Nói sâu một chút nữa, người chân chánh trì Giới chính là người chân chánh tham Thiền, và người chân chánh tham Thiền cũng là người chân chánh trì Giới. Thế thì, người chân chánh giảng Kinh thuyết Pháp, tức là người thật sự vì giảng Kinh mà giảng Kinh, thì cũng là người chân chánh tham Thiền!
Trong Chứng Ðạo Ca, Ðại-sư Vĩnh Gia có nói rằng:
Tông diệc thông, Thuyết diệc thông,
Ðịnh, Huệ viên minh bất trệ không.
(Tông cũng thông, Thuyết cũng thông,
Ðịnh, Huệ sáng tròn chẳng trệ không.)
Vậy, người vừa biết tham Thiền lại vừa biết giảng Kinh là người thông suốt cả tông lẫn thuyết. Nói sâu một chút nữa, thì người chân chánh trì Chú, chân chánh tu Mật Tông, cũng là người chân chánh tham Thiền. Vì lẽ đó, tuy nói Thiền, Giáo, Luật, Mật, Tịnh là năm pháp môn, nhưng nếu xét đến ngọn nguồn thì tất cả chỉ là một chứ không phải là sai khác. Nếu giảng sâu thêm chút nữa thì ngay cả "một" cũng chẳng còn, thì làm gì mà có "năm" được chứ? Người chân chánh học Phật Pháp cần phải hiểu điểm này cho rõ ràng.
Những kẻ có khuynh hướng phân chia tông phái thì cho rằng Pháp-môn Niệm Phật cao nhất, còn Tham Thiền là không đúng; cũng có người nói Tham Thiền là pháp cao nhất, còn Niệm Phật là sai lầm, những ai có quan niệm như thế đều là những người chưa hiểu rõ Phật Pháp. Phải biết rằng:
Nhất thiết giai thị Phật Pháp, giai bất khả đắc.
(Tất cả đều là Phật Pháp, đều không thể chứng đắc.)
Ðã "không có pháp gì có thể chứng đắc được," hà tất phải chấp trước thêm những thứ không nên chấp trước, đương không có chuyện lại tìm thêm chuyện, hoặc gây ra chuyện.
Nếu các bạn thật sự hiểu rõ pháp, thì "không có pháp gì có thể chứng đắc được." Song le, đối với những ai không hiểu Phật Pháp mà mình nói rằng cái gì cũng hoàn toàn không có cả thì họ sẽ thất vọng. Do đó, Ðức Phật dạy Quyền Pháp23 để đưa về Thực Pháp24 và thuyết giảng Quyền Trí để dẫn về Thực Trí.
Vậy, Thực Trí là gì? Thực Trí là một "quy vô sở đắc," trở về lại chỗ không chứng đắc. Thứ tướng chân thật, không có hình tướng, nhưng cũng chẳng có "không có hình tướng," mới chính là trí huệ chân thật vậy!
Con Người Có Cần Trọn
Ðạo Hiếu Hay Chăng?
Hôm nay chúng ta hãy nghiên cứu vấn đề này: Con người vì sao cần phải hiếu thảo với cha mẹ? Cần hiếu thảo với cha mẹ hay không cần hiếu thảo với cha mẹ? Vấn đề có hai cách giải thích. Ðứng trên lập trường pháp xuất thế gian thì không cần thiết phải hiếu thảo với cha mẹ. Tôi tin rằng ai nghe tôi nói câu này cũng hết sức kinh ngạc, bởi vì từ xưa tới nay chưa hề nghe qua lời này. Mình vẫn biết, là người nào cũng cần phải hiếu thảo với cha mẹ, chưa hề nghe ai nói rằng không cần trọn đạo hiếu cả. Do đó bạn cảm thấy kinh ngạc. Nhưng nếu căn cứ vào chân lý thì mình có thể nói như vậy: Ðứng trên lập trường pháp thế gian đương nhiên chúng ta cần làm tròn chữ hiếu. Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên25 do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởng là đạo lý của trời đất.
Nhưng nếu căn cứ vào pháp xuất thế mà nói chúng ta cần nỗ lực tu hành, dụng công học tập, phát đại tâm Bồ-đề thì đó là trọn vẹn đại hiếu, không phải là tiểu hiếu. Làm sao giải thích câu này? Bởi vì khi mình tu hành được thành công thì có thể siêu độ được bảy đời cha mẹ, khiến họ sanh lên cõi trời. Rằng: "Nhất tử thành Phật, cửu tổ thăng thiên." Nghĩa là khi một người con thành Phật thì chín đời tổ tiên được sanh lên trời. Ðó gọi là đại hiếu.
Ðạo hiếu có bốn thứ: một là đại hiếu, hai là tiểu hiếu, ba là viễn hiếu, bốn là cận hiếu. Thế nào là đại hiếu? Tức là báo đền ơn cha mẹ của mình trong nhiều đời về trước, báo đền ơn của sư trưởng. Thế nào là tiểu hiếu? Tức là hiếu thảo với cha mẹ trong đời này mà thôi; lo lắng, chăm sóc làm cho cha mẹ vui vẻ, phụng dưỡng, an ủi, đó tức là cung kính cha mẹ, cúng dường cha mẹ. Thế nào gọi là viễn hiếu? Tức là kính trọng các bậc thánh hiền xưa kia, lấy mỗi lời nói mỗi công hạnh của họ làm gương sáng để mình bắt chước noi theo. Thế nào là cận hiếu? Tức là ngoại trừ hiếu thảo với cha mẹ mình, thì cũng cần phải hiếu thảo với cha mẹ người khác. Rằng: "lão ngô lão, dĩ cập nhân chi lão," tức là tôn trọng những huynh trưởng, tiền bối của mình rồi cũng tôn trọng những bậc tiền bối của kẻ khác. Mình cần có tư tưởng và hành động hiếu thảo như vậy.
Pháp xuất thế chân chính thì vượt qua đạo hiếu, do đó tôi mới nói rằng: Không nên chấp trước hiếu đạo. Nếu chấp trước về sự hiếu thảo với cha mẹ thì mình vẫn còn tư tưởng và tình cảm thương yêu. Ðó chỉ là vọng niệm. Cả ngày chỉ tưởng nhớ tới cha mẹ thì làm sao tu đạo? Do đó theo chân lý thì không nên trọn đạo hiếu. Khi tôi giảng tới đây, có người không hiểu, có người hiểu, do đó mọi người hãy nghiên cứu vấn đề này một cách sâu xa.
Hiện tại lòng người mỗi ngày mỗi sa sút, phẩm hạnh mỗi ngày một tệ hại. "Nhân tâm bất cổ," lòng người không như xưa. Vì sao vậy? Bởi vì người đời vốn phải hiếu thảo với cha mẹ, song le họ lại bất hiếu. Họ cho rằng hiếu thảo là tư tưởng lạc hậu, rằng cha mẹ có bổn phận nuôi nấng con cái. Do đó họ không có hiếu với cha mẹ mình. Họ không phụng dưỡng phải chăng để tu hành? Cũng không phải. Nếu ai chân chính tu hành thì không cần thiết phải phụng dưỡng cha mẹ mà cũng được xem là đại hiếu. Tương lai sẽ siêu độ cha mẹ mình. Nhưng nếu đã không hiếu thảo với cha mẹ, cũng không tu hành, chỉ chuyên tạo đủ thứ ác nghiệp thì tương lai nhất định sẽ đọa vào ba đường ác. Ðiều này không còn nghi ngờ gì nữa. Bạn hãy xem! Hiện tại nhiều thanh niên nam nữ học thói hèn hạ, nếu không giết người đốt nhà cũng làm chuyện gian dâm tà đạo, không có chuyện ác gì mà họ chẳng làm. Họ nghĩ rằng làm chuyện phóng đãng, không chính đáng như vậy là được tự do. Họ cho rằng không cần phải hiếu thảo với cha mẹ mà nên học những điều xấu xa. Tư tưởng như vậy thật là sai lầm! Tuy mình không thể vơ đũa cả nắm, nhưng đại khái phần lớn hanh niên đều phạm những lỗi lầm như vậy.
Người tu hành tuy không trọn đạo hiếu với cha mẹ, nhưng có khả năng cứu cha mẹ ra khỏi biển khổ để thăng lên cõi trời. Nhưng cũng có những người không hiếu thảo với cha mẹ, cũng không tu hành. Hằng ngày cứ làm chuyện không có đạo đức, hoặc phá hoại gia đình mình, hoặc nhiễu loạn quốc gia xã hội, làm mất an ninh trật tự. Ðó tức là tự mình chặt gốc, càng chặt gốc thì càng không còn chỗ đứng, tương lai không biết sẽ ra sao. Những việc làm xấu xa như thế là những hành vi tội lỗi khó mà tha thứ được.
Trên đây tôi có nói là tu hành có thể buông bỏ sự chấp trước vào cha mẹ, chuyên tâm nhất trí mà tu hành thì đó là điều đúng. Song le nếu không tu hành cũng không làm tròn đạo hiếu thì đó là sai. Ðiểm này các bạn hãy nhận cho rõ ràng bởi vì: "Vạn ác dâm vi thủ, bách thiện hiếu vi tiên," trong vạn điều ác thì dâm dục là đứng đầu, trong một trăm điều lành thì hiếu thảo là trước hết.
(Vạn Phật Thánh Thành,
ngày 29 tháng 7 năm 1983 )
Thế Nào Là Thiện Tri Thức
Nói một cách đơn giản, Thiện-tri-thức tức là người có trí huệ, ác tri thức tức là người ngu si. Thiện-tri-thức thì có chính tri chính kiến, ác tri thức thì có tà tri tà kiến, hiểu biết sai lầm, tà vạy. Nếu điều gì hợp với Phật Pháp thì đó là chính tri chính kiến, hiểu biết chân chính. Nếu điều gì không hợp với Phật Pháp thì là tà tri tà kiến. Thiện-tri-thức là người dựa vào Phật Pháp mà tu hành, ác tri-thức thì dựa vào ma pháp để tu hành. Thiện, ác khác nhau, phân biệt là ở chỗ này.
Bậc Thiện-tri-thức thì dùng Tứ Nhiếp Pháp để giáo hóa chúng sanh. Thế nào là Tứ Nhiếp Pháp? Tức là bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Bốn pháp này có thể dễ dàng hòa hợp với chúng sanh, làm cho chúng sanh đối với Phật Pháp phát tâm hứng thú, tin sâu nơi Phật Pháp.
1. Bố-thí: Muốn cho người ta tin Phật Pháp thì mình cần phải bố thí vật và giáo lý, làm cho họ đối với mình phát sanh thiện cảm.
2. Ái ngữ: Lời nói không có đi ngược lại với nhân tình, không có đi ngược lại với Phật Pháp, lời mình nói ra thì nhân từ đạo đức.
3. Lợi hành: Lời nói, hành động và suy nghĩ tùy duyên tu hành khiến chúng sanh được lợi ích.
4. Ðồng sự: Ðối với những chúng sanh đáng được độ, thì làm công việc giống như họ để giáo dục họ.
Ðó là bốn Pháp giúp mình gây thiện cảm và tín nhiệm đối với chúng sanh. Nếu lời nói mình nhất trí với hành động, vì lợi ích chung không vì riêng tư, lấy thân làm gương, gặp chuyện nghĩa thì dũng mãnh mà làm, như vậy chúng sanh tự nhiên sẽ tin ở lời nói của mình và cũng tin rằng Phật Pháp chính là con thuyền thoát khỏi biển sanh tử.
Các bạn tới đây để nghe giảng kinh thuyết pháp, mỗi vị ai cũng là bậc đại tri thức. Các bạn nên hiểu rằng Bồ-đề tự tánh xưa nay vốn thanh tịnh. Xưa nay thanh tịnh nghĩa là không có tạo lập một thứ gì, cũng không bị nhiễm ô bởi một thứ gì. Bồ-đề tự tánh này chẳng cần tạo tác thêm, vốn hiện tiền như vậy, vốn đầy đủ xưa nay. Bồ-đề tự tánh này cũng chính là Phật tánh. Ðiểm này xin các bạn đặc biệt chú ý! Mỗi người cũng ai có Phật tánh giống hệt như của Phật vậy, chẳng gì khác biệt. Bất quá mình ngu si nặng nề, bị vô minh vọng tưởng che lấp, nên Phật tánh không thể hiện tiền. Nếu dùng trí huệ để xử lý mọi chuyện thì Phật tánh sẽ hiện tiền. Lúc đó bạn chính là vị Thiện-tri-thức.
Như Người Uống Nước, Nóng Lạnh Tự Biết
Quán Âm Thất lần này đã hoàn thành viên mãn, mọi người hãy trình bày cảnh giới mình đã trải qua để mọi người ở đây coi đó làm gương. Khi niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát, bạn có cảm ứng gì? Có cảnh giới gì hoặc có khai trí huệ chưa? Hoặc là đã đoạn được phiền não chưa? Hoặc là đã phá được chấp trước chưa? Cũng "Như người uống nước, nóng lạnh tự biết," mỗi người tự mình biết cảnh giới của mình người khác không biết được.
Các vị cần hiểu rằng đả thất không phải là một chuyện mình làm hùa theo, làm cho có lệ, làm bởi vì muốn tham gia náo nhiệt. Ðây là một cơ hội để mình định kỳ thủ chứng, cầu chứng ngộ trong một thời gian hạn định. Cho nên mình phải hết sức nổ lực tranh thủ thời gian và dụng công, không được chểnh mảng một giây phút nào.
Trong bảy ngày ở đây, hoặc giả có vị đã thấy Bồ-tát phóng quang, hoặc thấy hoa, hoặc có cảm giác thân tâm khinh an, khoái lạc v.v... Ðó chỉ là cảnh giới mà thôi.
Bớt Nói Chuyện,
Dụng Công Cho Nhiều
Phàm là tham gia Phật Thất, hoặc thiền-thất, hoặc Quán Âm Thất, hoặc Ðịa Tạng Thất đều tốt; các bạn chớ tuyên truyền với người ngoài Vạn Phật Thánh Thành là tốt như vậy như kia. Ðiều tốt của Vạn Phật Thánh Thành, chúng ta không hy vọng người ngoài biết. Vì sao vậy? Nếu bị kẻ khác biết thì bốn phương tám hướng người ta sẽ kéo đến Vạn Phật Thánh Thành, lúc đó Vạn Phật Thánh Thành không cách gì ứng tiếp được. Vạn Phật Thánh Thành luôn im lặng làm việc, mọi người ai cũng chịu cực chịu khổ, chân thật tu hành. Do đó đối với bên ngoài, không nên chú trọng vào việc tuyên truyền quảng cáo. Nếu ở đây là nơi tu hành tốt, các bạn có thể thường xuyên lui tới. Nếu các bạn cảm thấy không tốt thì không nên đi theo con đường này nữa, đó là tông chỉ nhất quán của Vạn Phật Thánh Thành.
Vạn Phật Thánh Thành có sáu đại tông chỉ để hướng dẫn việc tu, tức là không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, và không vọng ngữ. Nếu bạn hiểu rõ sáu tông chỉ này một cách chân thật thì bạn sẽ không uổng đã tới Vạn Phật Thánh Thành. Có một số người rất háo danh, nhưng Vạn Phật Thánh Thành không cần những kẻ đó. Vì sao? Bởi Vạn Phật Thánh Thành muốn dứt trừ ngũ dục: tài, sắc, danh, thực, thùy. Ngũ dục này là gốc của địa ngục, nhưng đa số người đời ưa thích những thứ đó, nhưng Vạn Phật Thánh Thành lại muốn thoát ly những mối dây ràng buộc ấy. Vì vậy Vạn Phật Thánh Thành không muốn nổi danh, cũng không cầu cạnh lợi lộc gì, chỉ dựa vào công phu chân thật để hoằng dương Phật Pháp, tiếp nối Phật huệ mạng. Ðó là tình huống đại khái của Vạn Phật Thánh Thành.
Tham Thiền Cần
Lúc Nào Cũng Nhớ Như Vậy
Kỳ này thiền thất bắt đầu, hy vọng các bạn đem hết tinh thần để tham thiền. Các bạn hãy phát tâm dũng mãnh để tham thiền. Lúc nào cũng nhớ tham thiền, nhớ làm thế nào để liễu thoát sanh tử, và phải quên ăn uống để tham thiền. Nếu chưa khai ngộ thì chưa ngừng nghỉ. Nên có nguyện lực cứng rắn như kim cương vậy.
Nếu có người mắng nhiếc, bạn coi như không nghe thấy gì họ. Nếu có người đánh đập, bạn coi như chẳng có cảm giác gì. Ăn hay không ăn cũng chẳng biết, ngủ hay không ngủ cũng chẳng hay. Nếu bạn đạt được cảnh giới như vậy thì bạn sẽ biết ngay những công phu, những chuyện mình làm xưa kia, chỉ là hời hợt ngoài da. Tới ngày hôm nay bạn mới thật là hiểu rõ tham thiền ra sao.
Bắt đầu thiền thất tôi nói mấy câu thô thiển đơn sơ với các bạn, nhưng nếu các bạn hiểu được thì sẽ có ích lợi lớn. Nếu các bạn không hiểu thì cũng sẽ giúp ích rất nhiều. Có người hỏi: giúp ích như thế nào? Bây giờ tôi chưa thể nói cho các bạn nghe được vì khi các bạn hiểu rồi sẽ lại sanh ra chướng ngại, không thể tiến bộ. Bây giờ tôi nói mấy câu, hy vọng các bạn chú ý nghe. Bốn câu thơ như vầy:
Phạn ngữ thiền na ba-la-mật
Thử vân tịnh lự tế tiến tham
Sơn cao thủy thâm vô sở úy
Thủy tri triên ngoại biệt hữu thiên.
Thiền tiếng Phạn gọi là Thiền-na ba-la-mật. Pháp môn này nếu tu hành tới chỗ viên mãn thì sẽ đưa mình tới bờ bên kia của bể khổ. Trung Quốc dịch là tịnh lự, cũng còn gọi là tư-duy tu (phép rèn luyện sự tư duy). Song le tịnh lự hay tư-duy tu, nếu muốn nghiên cứu một cách tỉ mỉ thì cần phải soi thấu một cách sâu xa. Thế nào là soi thấu? Là tham! Soi thấu câu "Niệm Phật là ai." Dù cho núi có cao, biển có sâu tới mức nào mình cũng không sợ hãi. Tới lúc đó mình mới biết bên ngoài bầu trời này còn có những bầu trời khác trùng trùng vô tận. Do đó mình phải miên mật tham không ngừng, tức là soi vào câu "Niệm Phật là ai." Soi đi soi lại câu đó cho đến khi sơn cùng thủy tận nghi vô lộ, nghĩa là cho tới chỗ mình tưởng rằng núi đã hết, sông đã cùng, không còn chỗ đi nữa, thì khi mình quay trở lại tự nhiên sẽ thấy liễu ám hoa minh hữu nhất thôn, nghĩa là sẽ thấy xuất hiện một thôn trang mà lớm đớm hoa trong tàng liễu.
(Vạn Phật Thánh Thành,
ngày 31 tháng 7 năm 1983)
Vì Sao Không
Tương Ưng Với Ðạo?
"Chúng sanh sở dĩ không đắc được Ðạo chơn thật là vì có vọng tâm giả dối. Khi đã có tâm giả dối thì sẽ kinh động tới thần. Khi thần bị kinh động thì mình sẽ chấp trước vào vạn vật. Khi chấp trước vào vạn vật thì mình sanh ra tham cầu. Khi đã tham cầu thì sẽ sanh phiền não. Phiền não vọng tưởng thì thân tâm khổ đau. Do đó mình mới rớt vào chỗ ô trược, lưu lạc trong sanh tử, trầm luân nơi khổ hải và vĩnh viễn mất đi đạo chân thường. Ðạo chân thường, kẻ ngộ tự mình chứng đắc. Ðắc ngộ Ðạo rồi thì luôn thường thanh tịnh."
Vì sao bất luận mình dụng công thế nào cũng không _tương ưng với Ðạo được, cũng không thể tiến tới được. Ðó là vì nguyên nhân nào vậy? Chỉ vì mình còn có tâm hư vọng, hư ngụy không chân thật. Mình còn thích điều xa xôi vời vợi, cầu danh tham lợi. Ðó tức là những tâm hư vọng, có tâm hư vọng thì đối với tự tánh còn có sự giao động. Ví như một thùng nước, khi không khuấy động thì bao nhiêu cát bùn sẽ tự nó lắng xuống dưới đáy, mặt nước sẽ trở nên thanh tịnh. Nếu dùng một cây que mà quậy thì nước sẽ thành ô trược, cây que ấy ví như cái vọng tâm. Từ đó mình không phân biệt được cái nào giả và cái nào là thiệt, không phân biệt được thiện ác. Lúc ấy con mắt nhìn sự thật (Trạch pháp nhãn) sẽ không đủ mà trí huệ sẽ không hiện tiền. Khi nước ô trược không thanh tịnh thì mình sẽ chấp trước vào vạn vật, tâm thần rối loạn, tìm không ra con đường giải thoát. Vì sao vậy? Bởi vì mình chấp trước vào vạn vật thì sẽ sanh ra tâm tham cầu, cho vạn vật là chân thật. Khi sanh ra tâm tham lam cầu cạnh thì tự mình sanh phiền não. Mình tham cầu không được thì sanh phiền não, tham cầu mà được cũng sanh phiền não, bởi vì phiền não và vọng tưởng liên kết chặt chẽ với nhau. Do đó mình bị chìm ngập trong dòng nước ngũ dục của cõi ngũ trược ác thế này và không thể khôi phục lại được tánh thanh tịnh. Bởi thế cho nên sanh rồi lại chết, chết rồi lại sanh; sanh tử không ngừng và chẳng bao giờ chấm dứt. Lúc sanh ra mà chẳng biết vì sao được sanh, do đó hồ đồ mê muội. Khi chết đi, cũng không biết vì sao mà chết, lại cũng hồ đồ mê muội. Không những lúc sanh bị mê muội mà cho đến lúc chết cũng mơ hồ mê muội. Ngay như lúc sanh cũng là mê muội cả đời, không biết được chuyện gì cho rõ ràng. Vì thế luân hồi sanh tử đánh mất chân tâm, chân tâm đã đánh mất rồi thì mình lặn ngụp trong biển khổ, không ngoi lên, không bơi ra được. Nếu hiểu được đạo lý này thì mình sẽ giác ngộ, không bị những cảnh giới hư vọng làm cho xoay chuyển, mà trí huệ lúc nào cũng hiện tiền. Khi có trí huệ thì không còn điên đảo.
Kinh Lăng Nghiêm nói rằng: "Cuồng tâm đốn hiết, hiết tức bồ đề," tâm điên cuồng hư ngụy chấm dứt thì sự chấm dứt ấy tức là giác ngộ. Vì sao không tương ưng với Ðạo? Là bởi vì tâm điên cuồng hư ngụy chưa ngừng nghỉ. Tâm điên cuồng này cũng chính là tâm không bằng lòng với hiện thực, cũng chính là tâm tham lam không đáy, cũng chính là lòng thương yêu ghen ghét. Nếu dứt được cái tâm này thì đó là trí huệ, cũng chính là giác ngộ, cũng chính là bản thể của Phật tánh. Song le con người ai cũng quên mất đạo lý này, do đó trở nên mê muội. Trong cảnh giới mê muội lại cho rằng sung sướng, khoái lạc, vui vẻ lắm, rồi chẳng tìm cách thoát khỏi biển khổ sanh tử của Tam Giới.
Phải Cẩn Thận Khi
Giảng Kinh Thuyết Pháp
Bất luận là người xuất gia hay tại gia, khi giảng kinh thuyết pháp cần phải mười phần cẩn thận. Trước khi giảng kinh thuyết pháp, phải ngồi tĩnh tọa năm phút, để tâm an định rồi mới mở cuốn kinh ra, chấp tay hết sức cung kính, đọc tụng kinh văn một lần, sau đó mới giải thích cặn kẽ ý nghĩa trong đó. Nếu mình không hiểu kinh mà cứ miễn cưỡng giải thích thì sẽ không hợp với lý. Do đó khi giảng kinh hoặc thuyết pháp, trước tiên mình phải hiểu rõ danh tướng của Kinh Pháp. Trước hết phải đem kinh văn và nghĩa lý nghiên cứu cho rõ ràng, nếu không thì rất dễ giảng giải sai lầm. Mà sai một ly thì đi một dặm, khiến người nghe kinh đã không lĩnh hội được, lại còn cảm thấy mơ hồ khó hiểu.
Người học Phật Pháp đừng nên tham cho mau, bởi vì đồ ăn nuốt ngốn thì chẳng biết mùi vị, nghĩa là cần phải ăn từ từ, nhai chậm chậm thì mới biết được mùi vị của thức ăn. Tham ăn nhiều rồi nhai không kỹ thì ngược lại chỉ hại mình thôi. Khi giảng kinh hãy chú tâm đến nghĩa lý của kinh, vì nếu giảng sai thì không những chẳng được công đức gì mà còn tạo thêm tội. Có câu: "Y văn giải nghĩa, tam thế Phật oan, ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết," nghĩa là theo văn mà giải nghĩa thì oan cho ba đời Phật, nếu rời kinh một chữ tức là ma nói. Hậu quả rất là nghiêm trọng như vậy, do đó hãy cẩn thận.
Ðối với người nghe kinh thì cũng phải ra sức chăm chú để mà nghe. Bất kể Tăng Ni hay cư sĩ giảng kinh hoặc giảng pháp, giảng hay bạn vẫn chú ý nghe, giảng không hay càng phải chú ý nghe. Mình phải nghiên cứu giảng hay là hay ở chỗ nào, giảng dỡ thì dỡ ở chỗ nào. Giảng hay thì mình phải học hỏi, giảng không hay thì mình phải tìm cách để sửa đổi, bởi đó là cái gương để mình tự soi. Có thái độ như vậy thì mới rèn luyện được con mắt tìm sự thật, gọi là Trạch Pháp Nhãn.
Trạch Pháp Nhãn hay là con mắt nhìn vào sự thật thì từ tu giới, tu định, tu huệ, ba phương diện này mà ra. Giới định huệ mà viên dung vô ngại thì đối với tất cả mọi kinh điển mình tự nhiên hiểu rõ, không hề có một chút nào chướng ngại. Lúc ấy giảng kinh thuyết pháp thì chữ nghĩa tuôn trào, thao thao bất tuyệt. Người xưa giảng kinh, có kẻ giảng đến độ hoa trên trời rơi xuống, sen vàng dưới đất vọt lên. Bạn tuy chưa được cảnh giới như vậy nhưng cũng cần nhạo thuyết vô ngại, giảng kinh không bị chướng ngại.
(Vạn Phật Thánh Thành, ngày 11 tháng 8 năm 1983)
Học Gương Người Hiền
Mới Là Bậc Dũng Sĩ
Câu đối ngày hôm nay là:
"Kiến hiền tư tề anh dũng sĩ."
Nghĩa rằng: Thấy người hiền thì hãy nghĩ cách bằng họ mới là bậc anh dũng. Chúng ta phải bắt chước hành vi của các bậc hiền nhân, để làm gương cho mình. Thế nào là người hiền? Người hiền là kẻ có đức độ. Hễ mình gặp người hiền thì nhất định phải làm sao cho bằng vị ấy. Mình phải học hỏi, noi gương của vị đó, phải cần có đạo đức, có phong độ, có học thức như họ vậy. Không phải chỉ suy nghĩ rồi cho qua, mà phải thật sự thực hành, nổ lực học tập. Mỗi cử chỉ hành động của vị đó phải được coi như là khuôn mẫu. Nếu không học hỏi mà chỉ cứ suy nghĩ suông thôi thì không có ích lợi gì. Mình phải chân thật học hỏi thì mới là một dũng sĩ, cũng là một bậc anh hùng, cũng là một vị đại pháp sư.
Bậc anh dũng không phải là kẻ đần độn. Thế nào là đần độn? Nói một cách đơn giản, đần độn có nghĩa là ngu si. Có người nói: "Anh ta là người hiền ư! (chữ hiền trong tiếng Trung Hoa đồng âm với chữ mặn.) Thì anh ta cứ làm người hiền, đâu có liên quan gì với tôi. Anh ta muốn làm người "mặn," thì tôi muốn làm người lạt." Những người mà mặn hay lạt không cần biết, tốt hay xấu chẳng hề hay, chẳng qua đều là thứ ăn no chờ chết, chết rồi là xong chuyện. Ðó là tư tưởng của người biếng nhác, vĩnh viễn không có cách gì cất đầu lên được.
(Vô Ngôn Ðường,
ngày 13 tháng 8 năm 1983)
Sáu Ðại Tông Chỉ của
Vạn Phật Thánh Thành
Các bạn ở xa lại, các vị Thiện-tri-thức ở gần đến! Hôm nay, chúng ta hãy cùng nhau nghiên cứu đạo làm người và để thành Phật. Ðạo làm người thì nhất định phải căn cứ trên tám đức hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ làm tiêu chuẩn. Nếu muốn thành Phật thì phải nới rộng phạm vi của tám đức này, hiếu thảo với toàn thế giới, hòa thuận với toàn thế giới, trung thành với toàn thế giới, thành tín với toàn thế giới; thậm chí nhân đức, nghĩa khí, lễ độ, trí dũng với toàn thế giới. Chúng ta phải dùng tinh thần cởi mở, bao dung, "đại nhi vô ngoại, tiểu nhi vô nội" để tu hành Phật Pháp; song, không dễ gì đạt tới chỗ tận thiện, tận mỹ của tinh thần này.
Hiện tại có nhiều người tu hành cảm thấy tu trì Phật Pháp giống như đánh mất cái gì vậy. Tại sao nói là "giống như đánh mất cái gì?" Bởi không có lợi ích gì cho họ nắm bắt hoặc thọ hưởng, nên họ cảm thấy như bị thua lỗ hay thiệt thòi vậy; rồi vì thế mà họ trở nên uể oải, chán nản, không còn hăng hái dụng công tu trì nữa. Các bạn Thiện-tri-thức hãy chú ý!
Xả bất liễu tử, hoán bất liễu sanh;
Xả bất liễu giả, thành bất liễu chân.
(Buông bỏ không được cái chết thì chẳng đánh đổi được sự sống;
Buông bỏ không được cái giả thì chẳng thành tựu được cái thật!)
Chúng ta nên mở rộng tầm mắt và có tư tưởng phóng khoáng; đừng chỉ biết có cá nhân mình, gia đình mình, hay đất nước mình mà thôi. Chúng ta cần phải làm cho tâm lượng của mình rộng lớn như hư không, bao trùm cả Pháp Giới, và phải nghĩ đến lợi ích của toàn nhân loại, không nên chỉ tính toán hơn thiệt cho riêng bản thân mình!
Ðối với nhân loại chỉ có lợi ích chứ không tổn hại, đó là điều căn bản của việc tu Ðạo. Làm thế nào để mang lợi ích nhân loại? Làm thế nào để không tổn hại đến nhân quần? Phải thực hành Sáu Ðại Tông Chỉ của Vạn Phật Thánh Thành:
1) Thứ nhất, Không Tranh. Chúng ta không tranh chấp với bất cứ người nào. Nếu bạn tranh với tôi, tôi không tranh với bạn; bạn mắng tôi, tôi không mắng bạn; bạn đánh tôi, tôi không đánh bạn; bạn ức hiếp tôi, tôi không ức hiếp bạn. Ðó là tông chỉ từ trước đến nay của Vạn Phật Thánh Thành.
Thuở xưa, khi Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đang là một vị tiên tu hạnh nhẫn nhục, Ngài không tranh chấp với vua Ca Lợi mà chỉ lấy đức để cảm hóa vị vua ấy. Sau khi chém đứt tay chân của tiên nhân, Vua Ca Lợi hỏi: "Ngươi có nổi tâm sân hận chăng?"
Tiên Nhẫn Nhục đáp: "Không! Tôi không sân hận!"
Vua Ca Lợi không tin, nên lại hỏi: "Ngươi lấy gì để chứng minh là ngươi không có tâm sân hận?"
Tiên nhân nói: "Nếu tôi thật sự không có lòng sân hận thì tay chân tôi lập tức sẽ mọc lại!" Nói xong, quả nhiên tay chân Ngài mọc ra lại, bình thường như cũ.
Tiên nhân chẳng những không sanh tâm sân hận mà còn khởi lòng đại từ bi, nói với vua Ca Lợi rằng: "Tương lai khi tôi thành Phật, tôi sẽ độ nhà vua xuất gia tu Ðạo trước nhất." Về sau, tiên nhân thành Phật, tức là Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni. Dựa vào nguyện lực xưa kia, Ngài tới vườn Lộc Uyển để độ Tôn-giả Kiều Trần Như (hậu thân của vua Ca Lợi) xuất gia và Tôn-giả trở thành một trong năm vị Tỳ Kheo đầu tiên.
2) Thứ nhì, Không Tham. Tâm tham lam mà nổi dậy thì đúng là lòng tham vô đáy, bất luận là tham tiền bạc hay vật chất, đều cứ thấy không đủ. Càng tham thì càng thấy không đủ, càng thấy không đủ thì lại càng tham, tham cho tới già mà vẫn chưa tỉnh ngộ! Con người bị chữ "tham" này hại cả đời, cho đến chết cũng còn cảm thấy rằng mình chưa sở hữu được vật này vật nọ, nên hết sức nuối tiếc. Thật là đáng thương biết bao! Tông chỉ thứ hai của Vạn Phật Thánh Thành là không tham bất kỳ tiền bạc, lợi ích, hay danh tiếng tốt đẹp, nói tóm lại là không tham gì cả; mỗi người chỉ theo bổn phận mà hoằng dương Phật Pháp, nối tiếp huệ mạng của Phật mà thôi!
Khi Ðức Phật còn tại thế, có một hôm Ngài và Tôn Giả A Nan đang đi thì dọc đường gặp một đống vàng. Phật chẳng nhìn đống vàng ấy, cứ tiếp tục đi. Tôn Giả A Nan vì định lực chưa tới "hỏa hầu" nên còn đưa mắt nhìn một lần nữa rồi mới đi. Phật nói với Ngài A Nan: "Ðấy là con rắn độc!"
Bấy giờ có người nông dân đang làm ruộng gần đấy nghe nói tới rắn độc thì liền đến xem, ngờ đâu lại là một đống vàng! Thế là anh ta sung sướng đem đống vàng ấy về nhà và lập tức trở thành người giàu có. Hàng xóm hoài nghi, không biết do đâu mà anh nông dân có được nhiều tiền như vậy, nên mới trình báo Quốc vương. Quốc vương liền phái người tới bắt anh nông dân để tra hỏi nguyên do sự giàu có đột ngột của anh ta. Anh nông dân bèn thật tình kể rõ tự sự.
Quốc vương lại còn phái người tới khám xét nhà anh nông dân. Phát hiện ra trong nhà có rất nhiều vàng, họ liền tịch thu toàn bộ và trình lên Quốc vương. Trông thấy số vàng, Quốc Vương liền nổi trận lôi đình, bởi số vàng ấy chính là vàng của quốc khố bị mất trộm. Vì cho rằng anh nông dân đúng là kẻ cướp nên Quốc vương hạ lệnh giam anh ta vào ngục tối. Bấy giờ anh nông dân mới chợt hiểu vì sao Ðức Phật lại nói đống vàng ấy là rắn độc. Sự kiện này chứng tỏ rằng chúng ta không nên tham những thứ tài sản đưa đến một cách bất ngờ!
3) Thứ ba, Không Cầu. Chủ trương của Vạn Phật Thánh Thành là không phan duyên, không cầu duyên, và không hóa duyên. "Cầu" và "Tham" vốn không khác nhau mấy, tham là như có mà lại như không, chưa hiện thành ra hành động; còn cầu là sự mong muốn có tính cách thực tiễn, tới đâu cũng chèo kéo, lân la móc nối, dùng mọi thủ đoạn để đạt cho bằng được điều cầu xin. Cầu xin gì? Cầu xin tiền bạc, cầu xin vật chất, nói chung là cầu xin hết thảy lợi ích.
Vạn Phật Thánh Thành thì hướng vào trong chứ không hướng ra ngoài mà cầu. "Nội cầu ư tâm" tức là hướng vào trong để trừ sạch mọi mê muội, vọng, tưởng, cuồng tâm dã tánh, đố kỵ, chướng ngại, tham, sân, si, nơi tâm mình. Không hướng ra ngoài mà tô điểm vẽ vời, chỉ cần làm bên trong được thanh tịnh, trang nghiêm là đủ. Có người nói:
Nhân đáo vô cầu phẩm tự cao.
(Con người khi đạt tới chỗ không mong cầu thì phẩm cách tự nhiên thanh cao.)
Nếu chúng ta không quỵ lụy cầu xin gì ở người khác thì phẩm cách của mình tự nhiên sẽ trở nên thanh cao, không còn những ý tưởng ô trọc nữa.
Khi Ðức Phật còn tại thế, có một cặp vợ chồng nghèo nọ chẳng những không có đất cắm dùi mà cơm ăn cũng bữa có bữa không. Họ trú ngụ trong một sơn động và cả hai người chỉ có một tấm vải che thânỦai đi ra ngoài xin ăn thì khoác tấm vải đó. Họ nghèo tới mức độ nào, không nói nhưng chắc các bạn cũng hiểu. Một hôm, có vị Bích Chi Phật vì muốn thử coi hai vợ chồng nọ có tâm tham cầu hay không, nên Ngài tới sơn động của họ để hóa duyên. Hai vợ chồng mới bàn tính với nhau làm sao để cúng dường vị xuất gia này. Họ thật sự là không có gì có thể cúng dường được cả, nên mới đem tấm vải duy nhất ấy ra cúng dường. Song le, họ không mong cầu bất kỳ điều gì, chỉ một lòng chí thành cúng dường người xuất gia mà thôi.
Vị Bích Chi Phật này lập tức mang tấm vải ấy đến cúng dường Phật. Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni biết rõ lai lịch của tấm vải, nên Ngài mới kể lại đầu đuôi câu chuyện cho đại chúng trong Pháp Hội nghe, đồng thời tán dương công đức của vị thí chủ đã cúng dường tấm vải ấỵ Lúc bấy giờ Quốc vương cũng có mặt tại Pháp Hội. Khi biết được chuyện, Quốc vương cảm thấy vô cùng hổ thẹn, không ngờ ngay trong đất nước mình trị vì lại có người nghèo khó đến như vậy; nên liền phái một vị Ðại thần đem đồ lương thực và áo quần tới tặng cho hai vợ chồng nghèo nọ, đồng thời chu cấp chỗ ở và kiếm việc làm cho họ. Cặp vợ chồng ấy không có lòng mong cầu mà lại được hưởng quả báo như thế, thật đúng là xả nhất đắc vạn báo (bỏ một mà được quả báo vô vàn vậy!)
4) Thứ tư, Không ích Kỷ. Vì sao thế giới suy đồi tới mức độ như ngày nay? Bởi vì con người quá ích kỷ, đối với những việc có lợi cho mình thì tranh nhau mà làm, còn đối với việc gì không có lợi cho mình thì thờ ơ khoanh tay ngồi nhìn, hoặc thản nhiên nói chuyện bâng quơ với tâm trạng "đứng bên kia bờ xem lửa cháy!"
ích kỷ cũng có nhiều thứ: ích kỷ về địa vị, ích kỷ về danh dự, ích kỷ về quyền lợi, ích kỷ về tiền bạc... Nói một cách khái quát, tất cả mọi sự đều do lòng ích kỷ tác quái mà ra. Vì ích kỷ nên mới không nghĩ đến kẻ khác, chỉ lo toan cho riêng mình. Có câu rằng:
Ma ha tát bất quản tha,
Di Ðà Phật các cố các.
(Bậc Ma Ha Tát không nghĩ đến người khác,
A Di Ðà Phật, phần ai nấy lo.)
Ðó là lời nói đùa mang tư tưởng Tiểu Thừa. Nhà Nho cũng từng nói:
Các nhân tự tảo môn tiền tuyết,
Mạc quản tha nhân ngõa thượng sương.
(Tuyết trước cửa nhà mình tự quét,
Sương mái nhà người chớ bận tâm!)
Ðó là tác phong không xen vào chuyện người khác. Làm người ở trần thế thì phải giúp đỡ lẫn nhau, chỉ dẫn cho nhau. Do đó, mọi người nên đề xướng tư tưởng Ðại Thừa, học tập tinh thần Bồ-tát, nghe khổ thì tới cứu, không được có tâm trạng vui sướng trước tai họa của người khác! Người đời nếu không có lòng ích kỷ thì có thể sống chung hòa thuận như trong một nhà vậy. Chính vì có lòng ích kỷ nên mới xảy ra nhiều vấn đề rắc rối. Do đó, Không ích Kỷ là tông chỉ thứ tư của Vạn Phật Thánh Thành.
5) Thứ năm, Không Tự Lợi. Tông chỉ này càng quan trọng hơn cả tông chỉ thứ tư nữa. Ai ai cũng muốn tự lợi; song le, chúng ta nhất định không tự lợi bởi vì có như thế thì thế giới mới trở nên tốt đẹp được. "Không tự lợi" tức là muốn lợi ích cho người khác, quên đi chính mình. Tinh thần "xả kỷ vị nhân" (quên mình vì người) này còn vượt lên trên cả hành vi của Bồ-tát vì Bồ-tát thì tự lợi lợi tha, tự độ độ tha, tự giác giác tha chớ không chỉ lợi tha, chỉ độ tha và chỉ giác tha mà thôi!
6) Thứ sáu, Không Vọng Ngữ. Không vọng ngữ (không nói dối) tức là không cố ý lừa dối người khác. Vì sao người ta nói dối? Chính vì sợ bị mất lợi, sợ bị thua lỗ, nên người ta mới tìm cách dối trá! Nếu các bạn luôn luôn lấy lòng thành thật mà đối đãi với mọi người thì tự nhiên sẽ giữ tròn được tông chỉ thứ sáu Không Vọng Ngữ này.
Có nhiều người nghe nói tới Sáu Ðại Tông Chỉ này thì cảm thấy rất khó chịu, không được vui. Nếu có người nào không vui hoặc không tiếp nhận thì tôi cũng mặc, không chấp nhất. Tôi muốn nói rõ với mọi người rằng: Từ trước đến nay tôi không hề phản đối bất kỳ chuyện gì trên thế giới. Vì sao vậy? Bởi vì tông chỉ của tôi là "Everything's OK"Ủtất cả mọi thứ đều OK. Song, nếu có người phản đối tôi thì tôi hết sức hoan nghinh, tuyệt đối không bác bỏ!
Ngày hôm nay tôi chỉ trình bày sơ lược với các bạn về Sáu Ðại Tông Chỉ của Vạn Phật Thánh Thành; nếu muốn nói cho đầy đủ thì không bao giờ nói hết được. Nếu đem Sáu Tông Chỉ này áp dụng cho bản thân thì sẽ vô cùng lợi ích cho các bạn!
(Ngày 14 tháng 8 năm 1983)
Người Tu Hành
Không Ðược Phan Duyên
Tông chỉ của tôi là:
Ðống tử bất phan duyên,
Ngạ tử bất cầu duyên,
Cùng tử bất hóa duyên,
Tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên
Bảo định ngã môn Tam Ðại Tông Chỉ.
Xả mạng vi Phật sự,
Tạo mạng vi bổn sự,
Chánh mạng vi Tăng sự,
Tức sự minh lý, minh lý tức sự,
Thối hành Tổ Sư nhất mạch tâm truyền.
Nghĩa là:
Dù rét chết, không phan duyên;
Dù đói chết, không van nài;
Dù nghèo chết, không cầu cạnh.
Tùy duyên, không đổi; không đổi, tùy duyên;
Ba Tông Chỉ ấy, ta phải giữ gìn.
Xả thân vì Phật sự,
Tạo mạng vì bổn sự,
Chánh mạng vì Tăng sự.
Hiểu sự, rõ lý; rõ lý, hiểu sự;
Lưu hành mạch phái Tổ Sư đã truyền.
Ðó là bổn phận của chúng ta, mong rằng mọi người đều nổ lực làm tròn.
Người tu hành không nên có tâm phan duyên, mà cần có tâm thanh tịnh, chẳng tham chẳng nhiễm. Tôi thường nói với các bạn rằng phàm là kẻ xuất gia tu hành, một lòng cầu Ðạo, thì cái gì cũng không cần, cái gì cũng không tham, dù là một ngọn cỏ cũng không được tùy tiện đòi lấy và cũng không được tùy tiện mang cho người khác. Có câu:
Nhất giới bất dĩ dữ nhân,
Nhất giới bất dĩ thủ chư nhân.
(Một hạt cải cũng không được biếu cho người,
Một hạt cải cũng không được lấy của người.)
Ðối với "duyên," cần phải phân biệt cho rõ ràng và phải làm cho cái "duyên" này trở nên thanh tịnh, không bị nhiễm ô. Duyên thanh tịnh tức là không có tâm tham lam; duyên nhiễm ô tức là có tâm tham lam. Người xuất gia có thể nhận cúng dường; song le, không được ham đồ cúng dường, không được mưu đồ việc cúng dường, như thế thì mới là đệ tử chân chính của Phật.
Nếu các bạn vốn xứng đáng được nhận đồ cúng dường mà lại không nhận, đó mới là có chí khí, bởi các bạn không phải vì chuyện cơm áo mà xuất gia. Thọ hưởng áo đẹp cơm ngon nhưng không chịu tu hành cho đàng hoàng thì có ích gì? Phàm đối với những vật ở ngoài thân thì phải xem thường, không nên coi trọng. Nên có câu:
Quân tử mưu Ðạo bất mưu thực.
(Người quân tử mưu cầu Ðạo,
không mưu cầu ăn uống.)
Nay có thể đổi câu ấy lại là:
Quân tử an bần,
Ðạt nhân tri mạng.
(Người quân tử thì bằng lòng với cái nghèo,
Kẻ thông đạt chuyện đời thì biết an phận.)
Người xuất gia cần phải hiểu rằng trước khi Ðạo nghiệp chưa thành tựu thì không được mắc nợ. Nếu mắc nợ thì sẽ bị ràng buộc, không được giải thoát. Nhất là đối với những thứ duyên không thanh tịnh, chúng có thể hại các bạn đến "rút chân không ra," không đạt được sự tự tại. Thế nhưng, đa số người xuất gia lại thích được cúng dường, thích nhận quà cáp của kẻ khác. Hễ bị duyên bất tịnh ràng buộc thì không dễ gì thoát ra khỏi Tam Giới. "Sợi dây" duyên nhiễm ô ấy quấn chặt lấy các bạn, không cách gì tháo gỡ được. Vì vậy, để tránh mọi rắc rối, các bạn đừng nên tham luyến những thứ không chân thật, không thanh tịnh!
Người xuất gia được phân làm bảy hạng:
1) Hạng người xuất gia thứ nhất thì "một thân nhẹ lâng lâng," cái gì cũng không có cả.
Nhất trần bất nhiễm, vạn duyên giai không.
(Một hạt bụi cũng chẳng dính, mọi nhân duyên đều là không.)
2) Hạng người xuất gia thứ nhì thì tay xách cái đãy bằng vải; trong đãy đựng những gì thì người ngoài không thể biết được.
3) Hạng người xuất gia thứ ba thì vai vác quang gánh. Vì không thể buông bỏ cho nên đi đâu họ cũng gồng gánh bộ tài sản theo cả. Tuy phải gánh nặng (nhiều khi nặng tới cả trăm cân), nhưng họ cam lòng. Ðất nước này không quang gánh, nhưng dùng ba-lô thì ý nghĩa cũng không khác mấy!
4) Hạng người xuất gia thứ tư thì mang đồ đạc theo bằng xe hơi.
5) Hạng người xuất gia thứ năm thì mang đồ đạc theo bằng xe lửa.
6) Hạng người xuất gia thứ sáu thì mang đồ đạc theo bằng tàu thủy.
7) Hạng người xuất gia thứ bảy thì mang đồ đạc bằng máy bay.
Ðó là những khuyết điểm chung mà người xuất gia thường hay mắc phải.
Tôi hy vọng rằng những người theo tôi xuất gia đều được sớm thành Phật Ðạo; nếu không thể thành Phật thì cũng phải thành Bồ-tát. Nói tóm lại, cần phải lợi ích kẻ khác, đừng lợi ích riêng mình. Không được tùy tiện lấy đồ vật của Thường Trụ đem cho người khác, các bạn cho là có công đức, nhưng kỳ thực, đó là ăn cắp đồ vật của Tăng Già! Kết thân với người khác, tự tiện biếu xén riêng, lấy của công dùng cho chuyện tư, đó là hành vi phá hoại quy củ của đạo tràng. Người nào có những hành vi như thế thì phải gấp rút sửa đổi, không được tái phạm; nếu không có, thì phải thận trọng!
(Ngày 15 tháng 8 năm 1983)
Khai Ngũ Nhãn Mới
Thấy Ðược Rồng Thật
Hình dáng của rồng thật sự ra sao? Ngoại trừ các bậc thánh nhân đã khai Ngũ Nhãn, đa số người đời đều không biết mặt mày thật sự của rồng. Trung Quốc người ta vẽ rồng thường là đầu có sừng, mình có vảy, mắt lồi, miệng lớn, có râu mép, có bốn chân, thân hình rất dài, đuôi rất ngắn. Người vẽ rồng chỉ vẽ đầu rồng mà không vẽ đuôi rồng để biểu thị vẽ thần bí, bởi:
Thần long kiến thủ bất hiện vĩ.
(Rồng thần thấy đầu mà chẳng thấy đuôi.)
Vì sao người Trung Quốc vẽ rồng như vậy? Bởi đã có một vị Thiền Sư trong khi nhập định thì trông thấy hình tướng của rồng như thế. Rồng có thần thông, biến hóa khôn lường, có thể biến lớn biến nhỏ, lúc ẩn lúc hiện. Lục Tổ Ðại Sư đã từng dùng bát ăn cơm của Ngài để hàng phục một con rồng lớn và trừ được tai nạn cho Chùa Nam-Hoa.
Rồng là một côn trùng lớn, bởi thuở xưa tu hành thì "Thừa cấp" (mau mắn về tu hành Ðại-thừa) nên có được thần thông, nhưng lại "Giới hoãn" (chậm chạp, không tinh tấn về Giới Luật) nên bị đọa làm súc sanh. Rồng có nhiều chủng loại khác nhau, kim-long (rồng vàng), bạch-long (rồng trắng), thanh-long (rồng xanh) và hắc-long (rồng đen). Rồng có thể được sanh ra từ thai bào, từ trứng, từ sự ẩm thấp, hoặc từ sự biến hóa. Lại còn có cầu-long (rồng có sừng), ưng-long, giao-long (thuồng luồng), ly-long (rồng đen); thiên-long, địa-long, vương-long, nhân-long; và còn có cả ngư-hóa-long (rồng do cá biến hóa thành), mã-hóa-long (rồng do ngựa biến thành), tượng-hóa-long (rồng do voi biến hóa thành), và hạp-hóa-long (rồng do cóc biến hóa thành) nữa.
Giống rồng phải chịu bốn thứ khổ:
1) Bị đại bàng kim sí điểu sở thốn khổ (khổ vì bị chim đại bành kim sí điểu ăn thịt);
2) Giao vĩ biến xà hình khổ (khi giao hợp, rồng bị biến thành rắn, và sự biến thành này vô cùng đau đớn, khổ sở);
3) Tiểu trùng giảo thân khổ (khổ vì bị các loài trùng nhỏ ẩn trong vảy rồng cắn rỉa, hút máu);
4) Nhiệt sa tháng thân khổ (khi trời nắng gắt, những đất cát dính trong vảy rồng đều bị nung nóng bởi ánh nắng mặt trời, làm cho rồng bị ngứa, xót rất khổ sở).
Nhiệm vụ của rồng là "bố vân giáng vũ," giăng mây làm mưa. Tuy nhiên, có năm trường hợp rồng không thể làm mưa được.
1) Hỏa đại tăng thạnh (yếu tố "lửa" gia tăng mạnh mẽ);
2) Phong xuy vân tán (gió thổi làm mây tan);
3) A-tu-la thu vân nhập hải (loài A-tu-la thâu mây vào biển);
4) Vũ sư phóng dật (thần mưa buông lung);
5) Chúng sanh nghiệp trọng (nghiệp chướng của chúng sanh nặng nề).
Các bạn muốn biết hình dáng của rồng ư? Thế thì, các bạn cần phải nổ lực tu hành, dụng công ngồi thiền; khi Ngũ Nhãn khai mở, các bạn sẽ thấy được bản lai diện mục của rồng thật. Bây giờ tôi sẽ kể cho các bạn nghe một công án về rồng. Ðây là một câu chuyện xảy ra cho chính bản thân tôi, hoàn toàn có thật, tuyệt đối không phải là chuyện bịa đặt.
Khi còn ở Ðông Bắc, tôi có thâu nhận một người đệ tử tên là Quả Thuấn. Anh ta rất dụng công tu hành và chưa tới nữa năm đã có thể ngồi Thiền mà nhập Ðịnh được. Trong lúc nhập Ðịnh, anh ta có thể biết được đạo lý nhân quả tuần hoàn báo ứng; công phu tu trì của anh kể như gần tới nơi tới chốn. Về sau, anh ta ra ngoài tự cất một căn nhà tranh làm nơi tu hành. Ngày làm xong nhà tranh, anh mời tôi tới khai quang. Tôi cùng bốn người đệ tử nữa tới đó (trong bốn người ấy có hai người đã mở Ngũ nhãn). Lúc ấy tôi không để ý là bên cạnh nhà tranh có ngôi miếu Long-vương.
Ngày hôm đó thì có chuyện xảy ra: khi chúng tôi sắp ngồi Thiền thì hai người đệ tử đã mở Ngũ nhãn nọ đến nói với tôi: "Bạch Sư phụ! Có mười con rồng đến xin quy y Sư phụ, hiện còn chờ bên ngoài nhà tranh!"
Tôi nói với mấy người đệ tử: "Các ông không được nói bậy! Sao các ông biết họ là rồng? Họ quy y tôi làm gì chứ? Tôi làm sao có thể làm Sư Phụ của họ được? Tôi không có bản lãnh cao cường như họ!"
Họ nói: "Bọn họ tự xưng là rồng, hiện đang quỳ bên ngoài, nhất định xin quy y Sư phụ."
Bấy giờ đang vào mùa hạ, trời hạn hán, không mưa, lúa mạ ngoài đồng gần như chết khô cả. Tôi mới nói với các vị rồng (hóa thành người) ấy rằng: "Các vị muốn quy y tôi cũng được, song tôi có một điều kiện. Các vị là rồng, chuyên lo việc làm mưa, mà hiện tại vùng Hợp Nhĩ Tân đã lâu không có mưa nên khô hạn vô cùng. Ngày mai nếu có mưa, thì ngày mốt tôi sẽ cho các vị thọ Quy Y; nếu không thì tôi không nhận các vị làm đệ tử!"
Chúng đồng thanh đáp: "Bạch Thầy! Ðành rằng nhiệm vụ chúng tôi là làm mưa; nhưng không có lệnh của Ngọc-hoàng Ðại-đế thì chúng tôi không dám làm mưa, vì nếu trái lệnh thì sẽ bị trừng phạt."
Tôi nói: "Các vị hãy tới trước Ngọc-hoàng Ðại-đế thưa rằng: 'Tại Hợp Nhĩ Tân có một người xuất gia thỉnh cầu hãy cho mưa xuống trong vòng bốn mươi dặm xung quanh Hợp Nhĩ Tân.' Ðó là điều kiện của tôi."
Ngày hôm sau quả nhiên trời mưa lớn và hết nạn hạn hán. Khắp nơi trong vòng bốn mươi dặm xung quanh Hợp Nhĩ Tân đều được trận mưa rào. Ngày tiếp theo, tôi cho mười con rồng ấy thọ Quy Y và đặt Pháp danh chung cho chúng là Cấp Tu. Sau khi quy y thì những con rồng ấy ẩn hình, không thấy nữa.
Chúng đã đi hóa độ đồng loại của chúng.
Từ đó về sau, bất luận là tôi đi tới nơi nào thì nơi ấy đều có nước để dùng! Tôi tới Hương Cảng thì Hương Cảng có nước; tôi tới Vạn Phật Thánh Thành thì Vạn Phật Thánh Thành cũng có nước. Ðó không phải là kỳ tích xuất hiện, mà chính là do mười con rồng này cùng quyến thuộc của chúng hộ Pháp.
Có người hỏi: "Bạch Sư phụ! Sư Phụ nhìn thấy mười con rồng ấy hình dạng ra sao?"
Khi đến quy y tôi thì những con rồng ấy điều biến hóa thành người, giống hệt như người thường vậy, chẳng có khác biệt cả; chỉ có người đã mở Ngũ Nhãn thì mới biết đó là rồng thôi. Các bạn muốn biết rồng ra sao ư? Thế thì hãy mau mau dụng công tu Ðạo, chuyên tâm ngồi Thiền, bớt khởi vọng tưởng, đừng nên nổi nóng, và bất luận gặp phải nghịch cảnh hay thuận cảnh thì cũng đều nên nhẫn nại, chớ sanh lòng tham luyến. Khi đạt tới cảnh giới "nhất niệm bất sanh, nhất trần bất nhiễm" (một ý niệm cũng không sanh, một hạt bụi cũng chẳng dính) thì tự nhiên Ngũ Nhãn sẽ khai mở. Bấy giờ, các bạn sẽ thấy tường tận mặt mày của rồng!
Tải về xem