Khai Thị Tại Thiền Đường
Quý vị thường đến cầu thỉnh khai thị, khiến tôi cảm thấy rất xấu hổ. Quý vị ngày ngày khổ nhọc, chặt củi cuốc đất, san bằng đất đai, vác ngói mang gạch. Tuy bận rộn từ sáng đến tối, nhưng không quên mất tâm niệm tu hành, mà luôn ân cần, chú trọng vào đạo, thật khiến cho người khác phải cảm động. Hư Vân tôi rất xấu hổ, chẳng có đạo, chẳng có đức, chẳng có thể nói lời khai thị cao vọng, chỉ lập lại lời dư thừa của người xưa, để đối đáp cùng quý vị.
1/ Phương pháp dụng công nhập đạo. Phương pháp dụng công tu đạo rất nhiều. Hiện tại bàn thảo tóm lược. A/ Điều kiện tiên quyết của việc tu đạo. a/ Tin Sâu Lý Nhân Quả *Người muốn dụng công tu đạo, việc đầu tiên là phải tin sâu lý nhân quả. Nếu không tin nhân quả, thì làm những việc hàm hồ. Chẳng những việc tu đạo khó thành công mà ba đường ác cũng không thể thiếu mình.
Phật bảo: - Muốn biết nhân đời trước, phải nhìn đời này mình thọ quả báo gì. Muốn biết quả đời tương lai, phải xem đời này mình đang gieo nhân gì. Phật lại bảo: - Giả sử nghiệp tội đã tạo trong trăm ngàn kiếp chưa tan, khi nhân duyên đến, quả báo phải tự thọ *Kinh Lăng Nghiêm nói: "Nhân địa bất chân chánh, thì phải chiêu quả cong vậy Trồng nhân thiện thì kết quả lành. Trồng nhân ác thì kết quả xấu. Trồng dưa được dưa, hay trồng đậu thì được đậu. Đây là đạo lý tự nhiên. Đàm luận về lý nhân quả, tôi sẽ đơn cử hai câu chuyện xưa để chứng minh. *Chuyện thứ nhất là việc vua Lưu Ly diệt chúng tộc họ Thích.
Trước thời Phật Thích Ca, trong thành Ca Tỳ La Vệ có một thôn xóm chuyên môn đánh cá. Trong thôn xóm có một hồ lớn. Khi ấy, thời tiết hạn hán, nước khô cạn. Tất cả cá lớn nhỏ đều bị dân làng bắt ăn hết, duy chỉ còn một con cá lớn nhất, gần bị thiêu chết. _Trong làng có một đồng tử xưa nay chưa từng ăn thịt cá, nhưng trong ngày ấy lại giỡn chơi, lấy cây côn đập trên đầu cá ba lần.
Sau này, trong thời Phật Thích Ca ra đời, có vua Ba Tư Nặc rất tin tưởng sùng phụng Phật Pháp. Ông ta lấy bà hoàng hậu vốn thuộc dòng nô tỳ của họ Thích Ca. Bà ta hạ sanh được một thái tử, tên là Lưu Ly. Lúc nhỏ, vua Lưu Ly thường ở thành Ca Tỳ La Vệ học hành. Ngày nọ, vì giỡn chơi, thái tử Lưu Ly leo lên tòa ngồi của Phật, nên bị người thuộc dòng dõi Thích Ca mắng chủi đuổi xuống.
Do đó, ông ta oán hận trong tâm. Đến khi lên ngôi vua, ông ta liền thống lãnh đại binh đánh chiếm thành Ca Tỳ La Vệ, tàn sát hết dân chúng trong thành. Khi đó, Phật bị nhức đầu dữ dội trong ba ngày liền. -Chư đại đệ tử đều thỉnh Phật thiết pháp giải cứu dòng họ Thích Ca, nhưng Ngài bảo rằng định nghiệp khó mà chuyển nồi. -Tôn giả Mục Kiền Liên dùng thần thông, bỏ năm trăm thân tộc dòng họ Thích Ca vào bình bát rồi bay lên hư không, để giải cứu họ.
Sau khi đến nơi khác, định bỏ họ xuống, nhưng Tôn Giả nhìn lại trong bình bát, thì thấy toàn là máu. Chư đại đệ tử thỉnh hỏi Phật về nhân duyên của việc này. Đức Phật liền kể lại câu chuyện dân làng trong thành Ca Tỳ La Vệ ăn thịt cá thuở xưa. Khi ấy, vua Lưu Ly là tiền thân của con cá lớn nhất. -Quân sĩ binh lính của ông ta tức là những cá trong hồ lúc xưa. Dân chúng thuộc dòng họ Thích Ca bị vua Lưu Ly giết, tức là dân làng ăn thịt cá thuở xưa. -Tiền thân của đức Phật là đồng tử. Vì giỡn chơi, đánh trên đầu con cá lớn nhất nên bị quả báo bệnh nhức đầu ba ngày. -Định nghiệp thật khó trồn chạy. Năm trăm vị thân tộc họ Thích Ca, tuy được tôn giả Mục Kiền Liên cứu thoát, nhưng tánh mạng vẫn tiêu tan, không thể lẫn trốn. Sau này vua Lưu Ly bị đọa địa ngục. Oan oan tương báo, chẳng hẹn ngày giờ. Nhân quả thật đáng sợ.
*Chuyện thứ hai: là việc tố Bá Trượng cứu độ con hồ ly. Ngày nọ, sau khi tổ Bá Trượng giảng kinh xong, mọi người đều giải tán, nhưng đơn độc còn lại một ông lão chưa chịu ra về. Tổ Bá Trượng thấy vậy liền hỏi nguyên do. Ông lão liền đáp: - Con chẳng phải là người, mà vốn là hồ ly tinh. Đời trước vốn tu hành ở nơi đây. Ngày nọ, có người hỏi con rằng đại tu hành nhân còn bị lạc vào nhân quả hay không? Khi ấy con đáp là không lạc vào nhân quả. Nhân vì câu trả lời đó mà bị đọa lạc làm thân hồ ly tinh trải qua năm trăm năm, không cách nào giải thoát được. Nay thỉnh Hòa Thượng từ bi khai thị chỉ dạy. Tổ Bá Trượng bảo: - Nay ông hãy hỏi lại ta câu đó đi. - Thỉnh vấn Hòa Thượng. Người tu hành lâu năm có bị lạc vào nhân quả hay không? - Không lầm nhân quả. *Nghe lời này ông lão liền đại ngộ, bèn lễ bái cảm tạ: - Nhờ lời dạy của Hòa Thượng, nay con đã thoát được thân hồ ly tinh. Con vốn ở trong hang đá sau núi. Xin thỉnh Hòa Thượng ngày mai làm lễ theo cách thức an táng một vị tăng.
*Ngày kế, tổ Bá Trượng ra hang sau núi, thấy xác chết của một con hồ ly tinh, nên liền làm lễ an táng giống như một vị tăng. *Chúng ta nghe đến hai câu chuyện này, biết rõ nhân quả thật đáng sợ. Tuy đã thành Phật rồi nhưng chẳng miễn quả báo đau đầu. Báo ứng chẳng sai chạy tơ hào. Định nghiệp thật khó trốn thoát. Vì vậy, thời thời chúng ta phải nên cần trọng, chớ tạo nhân xấu. b/ Nghiêm Trì Giới Luật *Công phu tu đạo, đầu tiên phải trì giới. Giới là gốc của đạo Bồ Đề vô thượng. Nhân giới mà sanh định. Nhân định mà phát huệ. Nếu không trì giới mà muốn tu hành, thì không thể được.
*Kinh Lăng Nghiêm nói đến việc đức Phật răn nhắc chúng ta về bốn loại thanh tịnh. Chẳng trì giới mà muốn tu tam muội thì không thể nào xuất khỏi trần lao. Lại nữa, dầu có phát sanh trí huệ hay thiền định hiện tiền, nhưng vẫn bị lạc vào tà ma ngoại đạo. Vì vậy, biết rõ việc trì giới rất quan trọng. Người trì giới luôn được chư long thần ủng hộ, tà ma ngoại đạo kính phục nể sợ. *Người phá giới, thì quỷ gọi là kẻ cướp, nên chúng thường đi theo xóa dấu chân họ. *Xưa kia, nơi cạnh vương thành của nước Kế Tân, có một ngôi già lam. Gần đó có một con rồng độc, thường hiện ra hại người địa phương. Thế nên, năm trăm vị A La Hán trong chùa đó, hợp lại nhau, dùng lực thiền định để đuổi con rồng độc này đi, nhưng không thể được. Sau này, có một tăng nhân chẳng từng nhập định, chỉ nói với con rồng độc câu: - Ngài Hiền Thiện! Xin hãy rời khỏi chỗ này. Nghe thế, rồng độc liền bay đi nơi khác. Chúng tăng A La Hán hỏi vị tăng kia rằng dùng thần thông gì mà đuổi được rồng độc. Vị tăng kia đáp: - Tôi không biết dùng thần lực thiền định, nhưng chỉ chân chánh trì giới cần mật. Hộ trì giới khinh cũng như giới trọng. *Chúng ta hãy suy nghĩ xem, lực thiền định của năm trăm vị A La Hán, không thể sánh bằng một vị tăng nghiêm thủ giới luật.
Có người bảo Lục Tổ thường dạy: - Tâm bình thì nhọc gì trì giới. Tâm hành chất trực thì cần gì tham thiền? *Tôi xin hỏi rằng quý vị đã đạt đến tâm bình, chất trực chưa? Nếu có một cô hằng nga thân hồng, lõa thể ôm chầm lẩy mình, quý vị có động tâm không? Nếu có người vô cớ nhục mạ đánh đẩm, quý vị có sanh tâm sân hận không? Quý vị có thể không sanh tâm phân biệt oán thân thương ghét, thị phi mình người không? Thuần thục làm được như thể thì mới nên to tiếng. Bằng ngược lại, chớ nói lời trống rỗng.
c/ Tín Tâm Kiên Cố *Muốn dụng công tu đạo, đầu tiên phải có tín tâm kiên cố. Niềm tin là mẹ của tất cả công đức. *Dầu việc gì, nếu không có tín tâm thì làm không thể xong. Chúng ta nếu muốn thoát khỏi sanh tử, thì phải cần có tín tâm kiên cố. Phật bảo rằng đại địa chúng sanh đều có đức tướng trí huệ của Như Lai. Chỉ vì vọng tưởng chấp trước, nên không thể chứng đắc. Vì thế , Phật mới thuyết bao loại pháp môn, để đối trị tâm bệnh của chúng sanh. Chúng ta phải tin tưởng rằng lời Phật dạy chẳng bao giờ là hư ngữ rỗng tuếch. Phải tin rằng chúng sanh đều có thể thành Phật. Tại sao chúng ta chưa có thể thành Phật? Nhân vì chúng ta chẳng y theo pháp mà quyết chí hạ thủ công phu. Ví như tuy biết rằng hạt đậu nành có thể làm ra đậu hủ, nhưng nếu chẳng làm thì hạt đậu nành không thể biến thành đậu hủ.
Thế nên, phải làm phải tạo. Nếu bỏ thạch cao không đúng lượng thì không thể thành đậu hủ. Nếu đúng như pháp mà nấu chín, lọc cặn bả, rồi bỏ thạch cao đúng phân lượng, thì quyết định sẽ thành đậu hủ. Tu đạo cũng như thế. Không dụng công phu kiên cố hay đúng pháp thì không thể thành Phật. Nếu tu hành đúng như giáo pháp, không thối thất không hối hận, thì quyết định sẽ thành Phật. Vì vậy, phải nên thâm tín chúng ta vốn sẽ là Phật, rồi y theo giáo pháp của Phật dạy mà tu hành, thì quyết định sẽ thành Phật.
Thiền sư Vĩnh Gia bảo: - Chứng thật tướng, không nhân pháp. Trong khoảng sát na, liền diệt nghiệp A Tỳ. Nếu dùng lời vọng ngữ dối chúng sanh, thì tự chiêu nghiệp cắt lưỡi hằng sa kiếp. *Thiền Sư vì lòng từ bi, muốn kẻ hậu lai có tín tâm kiên cố, nên phát hoằng thệ như thể d/ Quyết Định Hành Trì Một Pháp Môn *Có tín tâm đầy đủ rồi, thì phải chọn lựa ra một pháp môn để tu trì. Không thể sáng qua nước Tần, tối lại đến nước Sở. Niệm Phật cũng được. Trì chú cũng hay. Tham thiền cũng tốt. Nói chung, điều quan trọng là phải quyết chọn một pháp môn, rồi vận dụng hết tài năng mà tu tập, mãi mãi không thối thất hay hối hận. Hôm nay chưa thành công, nhưng ngày mai sẽ được. Năm nay chưa thành công, nhưng năm sau sẽ thành. Đời nay chưa thành tụu, nhưng đời sau sẽ thành.
Ngài Quy Sơn bảo: - Đời đời nếu không thối chuyển thì quả vị Phật chắc chắn sẽ có kỳ. Có nhiều người không chú ý điều này. Hôm nay nghe thiện tri thức này bảo niệm Phật rất hay, liền đi niệm Phật hai ngày liền.
Kế đến, nghe vị thiện tri thức khác bảo tham thiền rất tốt, thì liên ngôi thiên thêm hai ngày nữa. Đùa giỡn bên đông, lại giỡn cợt bên tây. Đùa giỡn cả đời cho đên chêt. Mãi giỡn chơi khinh nhờn, có uông đời tu lăm không! e/ Phương Pháp Tham Thiền *Pháp môn dụng công tuy nhiều, nhưng chư Phật Tổ đều dùng pháp môn vi diệu vô thượng này. *Trong pháp hội Lăng Nghiêm, Phật bảo Bồ Tát Văn Thù chọn lựa pháp môn viên thông. Đại sĩ Văn Thù liền chọn pháp môn Nhĩ Căn Viên Thông của Bồ Tát Quán Âm làm bậc nhất. *Chúng ta nghe lại tự tánh của mình. Đó chính là tham thiền.
Trong thiền đường, nay tôi phải giảng về pháp môn tham thiền. g/ Người Ngồi Thiền Phải Biết *Khi làm mọi công việc hằng ngày, phải luôn hướng tâm vào đạo. Nếu được như thế, thì nơi nào lại không phải là đạo tràng? Dụng công vốn chẳng nên chấp trước thiền đường này nọ. Chẳng phải ngồi mới gọi là thiền. Gọi thiền đường hay tọa thiền, bất quá chỉ lập ra vì chướng sâu trí huệ cạn của chúng ta trong đời mạt pháp.
*Ngồi thiền phải biết cách điều dưỡng thân tâm cho hay. Không biết cách điều dưỡng, nếu ít thì sẽ bị bệnh tật, còn nếu nhiều thì bị gặp ma chướng. Thật tiếc lắm thay! Trong thiền đường, tọa hương hành hương, phải dụng ý nơi việc điều dưỡng thâm tâm. Phương pháp điều dưỡng thâm tâm có rất nhiều. Nay đơn lược bàn luận.
*Lúc xếp bằng, phải ngồi thẳng người một cách tự nhiên. Chẳng nên khởi tâm tác ý, đưa đẩy eo lưng nghiêng về phía trước. Nếu làm như thế, thì sẽ khiến khí hỏa bốc lên. Kết quả, sau khi ngồi thiền, nước mắt chảy tràn trề, mũi miệng thở khi, ăn uống mất mùi vị, thậm chí có thể bị ói mửa ra máu. Lại nữa, không nên đây cọ lưng nghiêng về phía sau, hoặc rụt vai rút đầu, vì sẽ dễ dàng bị lạc vào hôn trầm.
Lúc bị hôn trầm, phải mở mắt to ra, kéo thẳng eo lưng lại, nới rộng dây lưng, lung lay động đậy thân nhè nhẹ, thì hôn trầm sẽ tự biến mất. *Nếu dụng công quá gấp gáp, thân tâm sẽ cảm giác phiền muộn khô khan. Khi đó phải xả bỏ muôn duyên, ngay cả công phu cũng xả bỏ. Nghĩ ngơi chừng nửa cây nhang, vừa cảm thấy thoải mái dê chịu, liên tiếp tục đê khởi công phu. Ngược lại thì ngày tháng tích lũy, khiên tánh biên thành cộc căn dễ giận, thậm chí gặp ma cảnh liên phát điên cuông. *Ngồi thiền đến lúc được đôi chút thọ dụng, thì cảnh giới hiện ra rất nhiều, kể không thể hết. *Điều cần thiết là quý vị chớ chấp truớc vào chúng, thì chúng không thể tạo chướng ngại cho mình. Người thế tục có câu: "Thấy quái vật nhưng không cho là kỳ quái, thì quái vật tự tiêu tán." *Tuy thấy yêu ma quỷ quái đến quấy nhiễu chọc phá, nhưng quý vị chớ màng để ý đến chúng, hoặc chớ sợ hãi. Ngay cả thấy Phật Thích Ca đến dùng tay xoa đầu thọ ký, quý vị cũng chớ để ý đến, hay khởi tâm vui mừng.
*Kinh Lăng Nghiêm nói: "Nếu không khởi tâm thánh, tức gọi là cảnh giới lành. Nếu khởi tâm thánh giải, tức thọ quẩn tà."
Thiền Sư Hư Vân
_________________
Hoang Nguyen gởi
