Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh


 

KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT

 

Hán dịch: Sa Môn Thật Xoa Nan Đà
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Định

 


QUYỂN 2
 
 

  Xem Kinh dạng pdf




Mục lục
 
        
Lời tựa
 
Quyển 11
 
PhÄm Tỳ Lô Giá Na thứsáu........................................15
 
         Quyển 12
 
Phẩm danh hiệu Như Lai thứ bảy...............................58
Phẩm bốn Thánh Đế thứ tám......................................85
 
         Quyển 13
 
PhÄm quang minh giác thÙ chín................................111
Phẩm Bồ Tát vấn minh thứ mười..............................148
 
         Quyển 14
 
Phẩm tịnh hạnh thứ mười một...................................177
 
         Quyển 15
 
Phẩm Hiền Thủ thứ mười hai....................................211
 
         Quyển 16
 
Phẩm thăng lên đỉnh Tu Di thứ mười ba..................304
Phẩm kệ khen ngợi trên đỉnh Tu Di thứ mười bốn...310
Phẩm Thập Trụ thứ mười lăm...................................355
 
         Quyển 17
 
Phẩm Phạm hạnh thứ mười sáu.................................378
Phẩm công đức ban đầu phát tâm thứ mười bảy.......385
 
         Quyển 18
 
Phẩm minh pháp thứ mười tám.................................446
Phẩm thăng lên cung trời Dạ Ma thứ mười chín......488
 
         Quyển 19
 
Phẩm kệ khen ngợi trong cung Dạ Ma thứ hai mươi...495
Phẩm Thập Hạnh thứ hai mươi mốt..........................520

 
 
 
Lời tựa
 
Bộ Kinh Hoa Nghiêm là bộ Kinh dài nhất trong Phật giáo, cũng là bộ Kinh cao thâm nhất trong Đại Tạng Kinh. Kinh Hoa Nghiêm là bộ Kinh đức Phật nói đầu tiên, sau khi Ngài vừa thành đạo. Ngài nói trong vòng hai mươi mốt ngày thì xong bộ Kinh Hoa Nghiêm.
 
Bộ Kinh Hoa Nghiêm tương truyền được Long Vương thỉnh về cất giữ ở dưới Long cung. Sau này Bồ Tát Long Thọ đọc hết những Kinh sách trên thế gian, không còn Kinh sách gì để đọc, bèn xuống dưới Long cung thì đọc được bộ Kinh Hoa Nghiêm. Bộ Kinh Hoa Nghiêm gồm có quyển thượng, quyển trung và quyển hạ. Quyển thượng gồm có bất khả tư nghì vô số bài kệ, dài vô cùng vô tận, căn cơ chúng sinh không thể nào hiểu được. Quyển trung thì có khoảng mười vạn bài kệ, cũng rất dài và chúng sinh cũng không dễ gì hiểu hết được, còn quyển hạ thì có mười ngàn bài kệ, nhưng mới dịch ra Hán văn được khoảng bốn ngàn năm trăm bài kệ, còn khoảng năm ngàn năm trăm bài kệ vẫn chưa được dịch ra Hán văn. Bộ Kinh Hoa Nghiêm mà chúng ta có ngày hôm nay là quyển hạ, nhưng chỉ mới dịch ra được gần phân nửa mà thôi.
 
Bộ Kinh Hoa Nghiêm thâm sâu áo diệu không thể nghĩ bàn, nói rõ cảnh giới tu hành Bồ Tát hạnh, từ phàm phu trải qua các bậc Bồ Tát, phước huệ đầy đủ rồi mới đạt đến cảnh của bậc Diệu Giác tức là thành Phật. Trong thời gian khoảng giữa, lúc nào cũng thực hành hạnh Bồ Tát, trải qua kiếp số nhiều như số hạt bụi các cõi nước, phổ độ chúng sinh, tu hành thập độ Ba La Mật, rốt ráo cuối cùng mới thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Mười phương ba đời chư Phật từ quá khứ, hiện tại và vị lai đều trải qua con đường nầy. Nhờ chúng sinh, mà các Bồ Tát mới thành Phật. Cho nên chúng sinh là đối tượng quan trọng trợ duyên rất lớn để Bồ Tát tu tập, thực hành, tích luỹ căn lành công đức, vượt qua sự chướng ngại, thử thách, và cuối cùng là đạt được quả vị Phật.
 
Kinh Hoa Nghiêm là những cảnh giới rất thiết thực, đã trải qua của chư vị Bồ Tát trong quá khứ đã thực hành, tu tập viên mãn, từ nhiều đời, nhiều kiếp, để soi sáng con đường cho chúng ta chúng sinh, hoặc những vị Bồ Tát hiện tại và vị lai noi theo đó mà tu tập, tích luỹ căn lành công đức, từng đời, từng kiếp, cho đến khi nào công viên quả mãn, phước huệ đầy đủ thì sẽ thành tựu quả vị vô thượng bồ đề.
 
Những người có căn lành thâm sâu đã từng gieo trồng trong quá khứ, thì họ đã từng thọ trì, đọc tụng, tu tập nghĩa lý trong Kinh Hoa Nghiêm, nên đời nầy họ rất thích đọc tụng nghiên cứu tu tập nghĩa lý của Kinh Hoa Nghiêm. Còn những người trong quá khứ chưa từng gieo trồng căn lành Phật giáo đại thừa, thì tương lai khi nào đủ duyên lành, họ cũng sẽ đọc hiểu được bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, không những họ hiểu được, mà họ còn tu tập theo nghĩa lý của Kinh Hoa Nghiêm nầy. Kinh Hoa Nghiêm nầy đức Phật nói cho tất cả chúng sinh, nhưng tuỳ theo căn cơ, nhân duyên của mỗi người, chứ không hẳn chỉ dành cho hàng Bồ Tát. Pháp của Phật nói ra giống như nước mưa xuống, cây lớn rễ lớn thì hấp thụ nhiều, cây nhỏ rễ nhỏ thì hấp thụ ít. Pháp của Phật cũng thế, ai có căn lành trí huệ thâm sâu thì tiếp thọ được những pháp lớn, ai căn lành kém cỏi thì tiếp thụ những pháp nhỏ. Nói chung con đường đi đến giác ngộ, thành Phật, tuỳ theo sự tu tập, nguyện lực, hành trì, của mỗi người. Tu nhân nào thì sẽ được quả đó, nhân lớn thì quả lớn, nhân nhỏ thì quả nhỏ, không gieo nhân thì không có quả.
 
Kinh Hoa Nghiêm là pháp bảo vô thượng, không thể nghĩ bàn, thọ trì đọc tụng, thâm nhập được nghĩa lý, thì như uống cam lồ. Nếu người nào không có nhân duyên với bộ Kinh Hoa Nghiêm thì sẽ cảm thấy rất khô khan, nhàm chán, khó hiểu. Nói chung tuỳ căn cơ, nhân duyên trước sau của mỗi người mà thôi.
 
Nam Mô Hoa Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ Tát
 
Dịch giả

Tỳ Kheo Thích Minh Định
 
 

 
 
Tán Phật
 
Nguyện đem lòng thành kính,
Gởi theo đám mây hương.
Phảng phất khắp mười phương.
Cúng dường ngôi Tam Bảo,
Thề trọn đời giữ đạo,
Theo tự tánh làm lành,
Cùng pháp giới chúng sanh,
Cầu Phật từ gia hộ,
Tâm Bồ đề kiên cố,
Xa bể khổ nguồn mê,
Chóng quay về bờ giác.
 
Ðấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời nguời
Cha lành chung bốn loại
Quy y tròn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận.
 
 
 
 
 
 
 

Ðảnh lễ
 
       Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam Bảo. (1 Lạy)
 
        Chí tâm đảnh lễ : Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Ðiều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Ðương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Ðại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Ðại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 Lạy)
 
        Chí tâm đảnh lễ : Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Ðà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Ðại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát. (1Lạy)
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Kệ Khai Kinh
 
Pháp vi diệu thâm sâu vô thượng
Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được
Nay con thấy nghe được thọ trì
Nguyện hiểu nghĩa chân thật của Như Lai.
 
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
(3 lần).
 
Nam Mô Hoa Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần).
 
 

 
KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
 
QUYỂN MƯỜI MỘT
 
PHẨM TỲ LÔ GIÁ NA THỨ SÁU
 
      Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền lại bảo đại chúng rằng: Các Phật tử ! Về thuở xa xưa, trải qua các số kiếp nhiều như hạt bụi thế giới, lại gấp bội hơn số đó, có thế giới hải tên là Phổ Văn Tịnh Quang Minh.

      Trong thế giới hải đó, có thế giới tên là Thắng Âm, nương biển lưới hoa ma ni mà trụ. Có các thế giới nhiều như số hạt bụi núi Tu Di làm quyến thuộc, hình trạng thế giới đó tròn, mặt đất có đủ vô lượng thứ trang nghiêm. Có ba trăm tầng cây báu và núi Luân Vi cùng bao bọc chung quanh. Lại có tất cả mây báu che phủ phía trên, thuần nhất thanh tịnh, chẳng có sự dơ bẩn, quang minh chiếu sáng. Thành ấp cung điện như núi Tu Di. Quần áo, thức ăn uống, đều tùy theo tâm niệm của chúng sinh mà đến. Kiếp đó tên là Chủng Chủng Trang Nghiêm.

      Các Phật tử ! Trong thế giới Thắng Âm đó, có biển hương thủy tên là Thanh Tịnh Quang Minh. Trong biển đó, xuất hiện núi Tu Di hoa sen lớn, tên là Hoa diễm phổ trang nghiêm tràng. Có mười lan can báu bao bọc chung quanh.

      Trên núi đó, có một khu rừng lớn tên là Ma Ni Hoa Chi Luân, có vô lượng hoa lầu các, vô lượng đài quán báu, bày la liệt khắp chung quanh. Lại có vô lượng tràng diệu hương, vô lượng tràng núi báu, đặc biệt trang nghiêm. Lại có vô lượng hoa báu phân đà lợi, khắp nơi nở rộ xinh tươi. Có vô lượng lưới hoa sen hương ma ni, giăng bủa khắp nơi. Có âm nhạc rất êm tai. Lại có mây hương chiếu sang, mỗi thứ số lượng đều vô lượng vô biên, không thể tính đếm. Có trăm vạn ức Na Do Tha thành quách bao bọc chung quanh. Lại có đủ loại chúng sinh sống ở trong thành.

      Các Phật tử ! Phía đông khu rừng đó, có một thành lớn tên là Diễm Quang Minh, là kinh đô của vua Chuyển Luân Thánh Vương ở. Có trăm vạn ức Na Do Tha thành bao bọc chung quanh. Thành lớn đó, dùng diệu báu thanh tịnh làm thành, bề dài bề rộng đều bảy ngàn do tuần. Có quách làm bằng bảy báu, lầu mái cự địch thảy đều cao đẹp. Có sông báu bảy tầng, nước thơm tràng đầy. Lại có hoa ưu bát la, hoa ba đầu ma, hoa câu vật đầu, hoa phân đà lợi, đều do các báu làm thành, khắp nơi nở rộ, dùng để trang trí nghiêm sức.

      Có cây báu đa la, có bảy tầng bao bọc. Cung điện lầu gác, đều dùng các thứ báu để trang nghiêm. Có đủ thứ lưới đẹp, giăng bủa phía trên. Lại có hương rải hoa. Có trăm ngàn vạn ức Na do tha cửa, đều dùng các thứ báu trang nghiêm. Trước mỗi mỗi cửa, đều có bốn mươi chín tràng báu thi la, thứ lớp thẳng hàng. Lại có trăm vạn ức vườn rừng, bao bọc chung quanh. Trong vườn rừng đó, đều có đủ thứ hương thơm, có hương thơm cây ma ni tỏa ra khắp nơi. Có các thứ chim cùng hót, khiến cho người nghe, đều hoan hỉ vui vẻ.

      Trong thành lớn đó, hết thảy mọi người, đều thành tựu nghiệp báo thần túc thông, có thể đi đứng trên không, giống như chư Thiên. Tâm ý muốn gì, thảy đều được như ý.

      Về phía nam của thành đó, có một thành của người trời, tên là Thụ Hoa Trang Nghiêm. Kế đó vòng về bên phải, có thành của loài rồng tên là Cứu Kính. Kế lại có thành của loài Dạ Xoa, tên là Kim Cang Thắng Diệu Tràng. Kế lại có thành của Càn Thác Bà, tên là Diệu Cung. Kế lại có thành của A Tu La, tên là Bảo Luân. Kế lại có thành của Ca Lâu La, tên là Diệu Bảo Trang Nghiêm. Kế lại có thành của Khẩn Na La, tên là Du Hí Khoái Lạc. Kế lại có thành của Ma Hầu La Già, tên là Kim Cang Tràng. Kế lại có thành của Phạm Thiên Vương, tên là Chủng Chủng Diệu Trang Nghiêm. Có các thành như vậy, nhiều hàng trăm vạn ức Na do tha.

      Mỗi mỗi thành đó, đều có trăm vạn ức Na do tha lầu các, cùng bao bọc chung quanh, mỗi lầu các, đều có vô lượng sự trang nghiêm.

      Các Phật tử ! Trong rừng lớn Ma Ni Hoa Chi Luân đó, có một đạo tràng, tên là Bảo Hoa Biến Chiếu, dùng các thứ báu để trang nghiêm. Lại có vòng hoa ma ni, nở rộ đầy khắp mọi nơi. Ðốt đèn dầu thơm, đầy đủ các màu sắc báu. Có mây rực rỡ che phủ, lưới quang minh chiếu soi khắp mọi nơi. Các đồ trang nghiêm, thường phóng ra ánh sáng màu sắc diệu báu. Trong tất cả âm nhạc, luôn tấu lên tiếng êm tai. Trong báu vương ma ni, hiện ra thân hình Bồ Tát. Lại có đủ thứ hoa quý đầy khắp mười phương.

      Trước đạo tràng đó, có một biển lớn, tên là Hương Ma Ni Kim Cang, sinh ra hoa sen lớn, tên là Hoa Nhụy Diễm Luân. Hoa sen đó, rộng lớn hàng trăm ức do tuần. Thân, lá, tua, đài hoa sen đó, đều là diệu báu. Có mười bất khả thuyết trăm ngàn ức Na Do Tha hoa sen, cùng bao bọc chung quanh, thường phóng ra quang minh. Luôn vang ra tiếng hay vi diệu, đến khắp mười phương.

      Các Phật tử ! Thế giới Thắng Âm đó, trong kiếp ban đầu, có các Như Lai xuất hiện ra đời, nhiều như số hạt bụi mười núi Tu Di. Vị Phật thứ nhất ra đời, hiệu là Nhất Thiết Công Ðức Sơn Tu Di Thắng Vân Phật.

      Các Phật tử ! Nên biết, khi đức Phật đó xuất hiện ra đời, thì trước một trăm năm, trong rừng lớn Ma Ni Hoa Chi Luân đó, tất cả đều trang nghiêm, khắp nơi đều thanh tịnh.

      Đó là: Xuất hiện mây báu rực rỡ không thể nghĩ bàn. Vang ra âm thanh ca ngợi công đức của Phật. Diễn nói vô số âm thanh của Phật. Phóng quang minh giăng bủa như lưới, che phủ khắp mười phương. Cung điện lầu các, cùng nhau chiếu sáng. Quang minh hoa báu phóng lên tụ lại thành mây. Lại vang ra âm thanh vi diệu, diễn nói căn lành rộng lớn của tất cả chúng sinh, đã thực hành trong đời quá khứ, diễn nói danh hiệu của tất cả chư Phật ba đời, diễn nói con đường hạnh nguyện cứu kính của các Bồ Tát, diễn nói đủ thứ lời lẽ, chuyển diệu pháp luân của các Như Lai. Hiện ra các tướng như vậy, để hiển rõ Như Lai sẽ xuất hiện ra đời.

      Trong thế giới đó, tất cả các ông vua do thấy được các tướng đó, nên căn lành thành thục, đều muốn thấy Phật mà đến đạo tràng.
 
      Bấy giờ, đức Phật Nhất Thiết Công Ðức Sơn Tu Di Thắng Vân, đột nhiên xuất hiện trong đạo tràng hoa sen lớn.

      Thân của Ngài cùng khắp, đồng chân pháp giới. Tất cả cõi Phật, đều thị hiện đức Phật đó sinh ra. Hết thảy đạo tràng, đều đến nơi đạo tràng đó. Vô biên sắc đẹp đầy đủ thanh tịnh. Tất cả ánh sáng thế gian, không thể nào chiếu sáng hơn được. Ðạo tràng đó đầy đủ các tướng báu, mỗi mỗi tướng báu phân biệt rõ ràng. Tất cả cung điện đều hiện ra hình tượng đức Phật đó. Hết thảy chúng sinh đều thấy thân Phật. Lại có vô biên hóa Phật từ trong thân của Ngài hóa hiện ra, có đủ thứ màu sắc quang minh đầy đủ pháp giới.

      Như trong biển hương thủy Thanh Tịnh Quang Minh, trên đỉnh núi Hoa Diễm Trang Nghiêm Tràng Tu Di, trong rừng lớn Ma Ni Hoa Chi Luân, xuất hiện ra thân Phật, ngồi trên tòa sư tử. Trong thế giới Thắng Âm, có sáu mươi tám ngàn ức đỉnh núi Tu Di cũng đều như thế, hiện thân mà ngồi trên tòa sư tử.

      Bấy giờ, ở giữa chân mày của đức Phật đó, phóng ra luồng đại quang minh. Quang minh đó tên là Phát Khởi Tất Cả Thiện Căn Âm, có các quang minh nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật làm quyến thuộc, đầy dẫy tất cả cõi nước trong mười phương.

      Nếu có chúng sinh đáng được điều phục, thì quang minh đó chiếu đến, liền lập tức khai ngộ, tiêu diệt các mê hoặc nhiệt não, dẹp sạch lưới năm cái, phá tan các núi chướng ngại, thanh tịnh các cấu trược, phát sinh tâm tin hiểu rộng lớn, sinh ra căn lành thù thắng. Vĩnh viễn xa lìa tất cả các nạn khủng bố, diệt trừ tất cả khổ não của thân tâm, khởi tâm gặp Phật, hướng về Nhất thiết trí.

      Lúc đó, tất cả các ông vua và vô lượng trăm ngàn các quyến thuộc, được quang minh của Phật chiếu đến, nên được khai ngộ, đều cùng nhau đi đến chốn Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân đức Phật.
 
      Các Phật tử ! Trong thành lớn Diễm Quang Minh đó, có ông vua tên là Hỉ Kiến Thiện Huệ, thống lãnh trăm vạn ức Na do tha thành.

      Phu nhân thể nữ ba vạn bảy ngàn người, phu nhân Phước Cát Tường làm thượng thủ. Vua có năm trăm người con, thái tử Ðại Oai Quang làm thượng thủ. Thái tử Ðại Oai Quang có mười ngàn bà phu nhân, phu nhân Diệu Kiến làm thượng thủ.
 
      Bấy giờ, thái tử Ðại Oai Quang thấy quang minh của Phật rồi, nhờ sức căn lành tu hành trong quá khứ, lập tức chứng được mười pháp môn.

      Những gì là mười ? Ðó là : Chứng được tam muội công đức luân của tất cả chư Phật. Chứng được tất cả Phật pháp phổ môn đà la ni. Chứng được tạng Bát Nhã Ba La Mật phương tiện rộng lớn. Chứng được đại trang nghiêm đại từ điều phục tất cả chúng sinh. Chứng được phổ vân âm đại bi. Chứng được tâm đại hỉ sinh vô biên công đức tối thắng. Chứng được như thật giác ngộ tất cả pháp đại xả. Chứng được tạng đại thần thông phương tiện bình đẳng rộng lớn. Chứng được sức đại nguyện tin hiểu tăng trưởng. Chứng được pháp môn biện tài vào khắp tất cả trí quang minh.
 
      Bấy giờ, thái tử Ðại Oai Quang đắc được các pháp quang minh như vậy rồi, bèn nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp đại chúng, mà nói bài kệ rằng:

      Thế Tôn ngồi đạo tràng
      Phóng quang minh thanh tịnh
      Ví như ngàn mặt trời
      Chiếu khắp cõi hư không.
      Vô lượng ức ngàn kiếp
      Phật mới hiện ra đời
      Nay Phật đến thế gian
      Nơi tất cả chiêm ngưỡng.
      Hãy quán Phật quang minh
      Hóa Phật không nghĩ bàn
      Trong tất cả cung điện
      Tịch nhiên mà nhập định.
      Quán sát Phật thần thông
      Lỗ lông hiện mây sáng
      Chiếu soi trong thế gian
      Quang minh vô cùng tận.
      Hãy nên quán thân Phật
      Lưới quang rất thanh tịnh
      Hiện hình đồng tất cả
      Ðầy khắp trong mười phương.
      Diệu âm khắp thế gian
      Người nghe đều hoan hỉ
      Tùy tiếng các chúng sinh
      Khen ngợi công đức Phật.
      Quang minh Phật chiếu đến
      Chúng sinh đều an lạc
      Có khổ đều trừ diệt
      Sinh tâm đại hoan hỉ.
      Quán các chúng Bồ Tát
      Mười phương đến đạo tràng
      Ðều phóng mây ma ni
      Vang tiếng khen ngợi Phật.
      Ðạo tràng vang tiếng diệu
      Tiếng đó rất sâu xa
      Hay diệt khổ chúng sinh
      Ðó là Phật thần lực.
      Tất cả đều cung kính
      Tâm sinh đại hoan hỉ
      Cùng ở trước Thế Tôn
      Chiêm ngưỡng đấng Pháp Vương.
 
      Các Phật tử ! Khi thái tử Ðại Oai Quang nói bài kệ đó, thì nhờ thần lực của Phật, nên tiếng nói đó vang khắp thế giới Thắng Âm. Lúc đó, ông vua Hỉ Kiến Thiện Huệ nghe bài kệ đó rồi, tâm sinh đại hoan hỉ, quán sát các quyến thuộc mà nói bài kệ rằng:

      Hãy mau mau triệu tập
      Tất cả các vương chúng
      Vương tử và đại thần
      Thành ấp tể quan thảy.
      Khắp bảo trong các thành
      Hãy mau đánh trống lên
      Triệu tập hết mọi người
      Cùng đi đến gặp Phật.
      Tất cả ngã tư đường
      Hãy đánh chuông báu lên
      Vợ con và quyến thuộc
      Cùng đến gặp Như Lai.
      Tất cả các thành quách
      Hãy làm cho sạch sẽ
      Khắp treo tràng phan đẹp
      Ma ni dùng nghiêm sức.
      Màng la các lưới báu
      Âm nhạc vang khắp nơi
      Nghiêm bị trong hư không
      Nơi nơi đều đầy dẫy.
      Ðường xá đều nghiêm tịnh
      Khắp mưa y phục đẹp
      Ngồi trên xe báu đẹp
      Với ta đến gặp Phật.
      Mỗi mỗi theo sức mình
      Khắp mưa đồ trang nghiêm
      Tất cả bủa như mây
      Ðầy khắp trong hư không.
      Mây sáng lọng hoa sen
      Chuỗi báu hình bán nguyệt
      Và vô số y đẹp
      Các ông đều mưa khắp.
      Tu Di biển hương thủy
      Luân ma ni thượng diệu
      Và chiên đàn thanh tịnh
      Mưa đầy khắp hư không.
      Các báu hoa chuỗi ngọc
      Trang nghiêm sạch chẳng dơ
      Và dùng đèn ma ni
      Ðều khiến trụ trên không.
      Tất cả hướng về Phật
      Tâm sinh đại hoan hỉ
      Vợ con và quyến thuộc
      Cùng đến gặp Thế Tôn.
 
      Bấy giờ, ông vua Hỉ Kiến Thiện Huệ, với ba vạn bảy ngàn phu nhân thể nữ, phu nhân Phước Cát Tường làm thượng thủ. Năm trăm vương tử, thái tử Ðại Oai Quang làm thượng thủ. Sáu vạn quan đại thần, đại thần Huệ Lực làm thượng thủ. Cả thảy bảy mươi bảy trăm ngàn ức Na Do Tha chúng như vậy, vây quanh trước sau, từ thành lớn Diễm Quang Minh xuất phát. Nhờ thần lực của vua, nên tất cả đại chúng đều đi trên hư không. Tất cả đồ cúng dường đều đầy khắp hư không. Ðến chỗ đức Phật, đều đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi về một bên.

      Lại có thành Diệu Hoa, Thiên Vương Thiện Hóa Tràng, với mười ức Na do tha quyến thuộc tụ lại.
      Lại có thành Cứu Kính, Long Vương Tịnh Quang, với hai mươi lăm ức quyến thuộc tụ lại.
      Lại có thành Kim Cang Thắng Tràng, Dạ Xoa Vương Mãnh Kiện, với bảy mươi bảy ức quyến thuộc tụ lại.
      Lại có thành Vô Cấu, Càn Thác Bà Vương Hỉ Kiến, với chín mươi bảy ức quyến thuộc tụ lại.
      Lại có thành Diệu Luân, A Tu La Vương Tịnh Sắc Tư Duy, với năm mươi tám ức quyến thuộc tụ lại.
      Lại có thành Diệu Trang Nghiêm, Ca Lâu La Vương Thập Lực Hành, với chín mươi chín ngàn quyến thuộc tụ lại.
      Lại có thành Du Hí Khoái Lạc, Khẩn Na La Vương Kim Cang Ðức, với mười tám ức quyến thuộc tụ lại.
      Lại có thành Kim Cang Tràng, Ma Hầu La Già Vương Bảo Xưng Tràng, với ba ức trăm ngàn Na do tha quyến thuộc tụ lại.
      Lại có thành Tịnh Diệu Trang Nghiêm, Phạm Vương Tối Thắng, với mười tám ức quyến thuộc tụ lại.
      Có trăm vạn ức Na do tha như vậy, tất cả các ông vua và quyến thuộc, đều cùng nhau đi đến chỗ đức Như Lai Nhất Thiết Công Ðức Tu Di Thắng Vân, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi qua một bên.
 
      Bấy giờ, đức Như Lai đó, vì muốn điều phục các chúng sinh, nên ở trong biển chúng hội đạo tràng, nói pháp Tu Ða La tự tại, của tất cả chư Phật ba đời, có các Tu Ða La, nhiều như số hạt bụi thế giới làm quyến thuộc. Tùy theo tâm của chúng sinh, đều khiến cho họ đắc được pháp ích.

      Lúc đó, Bồ Tát Ðại Oai Quang nghe pháp đó rồi, lập tức đắc được sở tập pháp hải quang minh, đời quá khứ của đức Phật Nhất Thiết Công Ðức Tu Di Thắng Vân.
      Ðó là: Đắc được trí quang minh nhất thiết pháp tụ bình đẳng tam muội. Trí quang minh tất cả pháp đều vào trụ ở trong tâm bồ đề ban đầu. Trí quang minh thập phương pháp giới phổ quang minh tạng thanh tịnh nhãn. Trí quang minh quán sát tất cả Phật pháp đại nguyện hải. Trí quang minh vào vô biên biển công đức thanh tịnh hạnh. Trí quang minh thú hướng bất thoái chuyển đại lực tốc tật tạng. Trí quang minh trong pháp giới vô lượng biến hóa lực xuất ly luân. Trí quang minh quyết định vào vô lượng biển công đức viên mãn. Trí quang minh biết rõ tất cả Phật quyết định giải biển trang nghiêm thanh tịnh. Trí quang minh biết rõ pháp giới vô biên Phật hiện thần thông trước tất cả biển chúng sinh. Trí quang minh biết rõ tất cả pháp Phật lực vô sở úy.
 
      Bấy giờ, Bồ Tát Ðại Oai Quang đắc được vô lượng trí quang minh như vây rồi, bèn nương oai lực của đức Phật, mà nói bài kệ rằng:

      Con nghe diệu pháp Phật
      Mà được trí quang minh
      Nhờ vậy thấy sở tu
      Của Phật trong quá khứ.
      Tất cả nơi sinh ra
      Danh hiệu thân khác nhau
      Và cúng dường chư Phật
      Như vậy con đều thấy.
      Thuở xưa ở chỗ Phật
      Hết thảy đều hầu hạ
      Vô lượng kiếp tu hành
      Nghiêm tịnh các biển cõi.
      Xả thí thân của mình
      Rộng lớn chẳng bờ mé
      Tu trị hạnh tối thắng
      Nghiêm tịnh các biển cõi.
      Tai mũi đầu tay chân
      Và tất cả cung điện
      Xả bỏ vô số lượng
      Nghiêm tịnh biển cõi nước.
      Trong mỗi mỗi cõi nước
      Ức kiếp không nghĩ bàn
      Tu tập hạnh bồ đề
      Nghiêm tịnh biển cõi nước.
      Sức đại nguyện Phổ Hiền
      Trong tất cả biển cõi
      Tu hành vô lượng hạnh
      Nghiêm tịnh biển cõi nước.
      Giống như mặt trời chiếu
      Vẫn thấy được mặt trời
      Con nhờ Phật trí quang
      Thấy đạo của Phật hành.
      Con quán biển cõi Phật
      Thanh tịnh đại quang minh
      Tịch tĩnh chứng bồ đề
      Chu biến khắp pháp giới.
      Con sẽ như Thế Tôn
      Rộng tịnh biển cõi nước
      Nhờ thần lực của Phật
      Tu tập hạnh bồ đề.
 
      Các Phật tử ! Lúc đó, Bồ Tát Đại Oai Quang, nhờ thấy được đức Phật Nhất Thiết Công Ðức Sơn Tu Di Thắng Vân, mà thừa sự cúng dường, ở chỗ đức Phật tâm được khai ngộ.

      Vì tất cả thế gian mà hiển bày biển hạnh thuở xưa của Như Lai tu. Hiển bày phương tiện thuở xưa của Bồ Tát tu. Hiển bày tất cả biển công đức của Phật. Hiển bày trí thanh tịnh khắp vào tất cả pháp giới. Hiển bày sức tự tại thành Phật trong tất cả đạo tràng. Hiển bày Phật lực vô úy trí vô sai biệt. Hiển bày khắp thị hiện thân Như Lai. Hiển bày thần thông biến hóa của Phật không thể nghĩ bàn. Hiển bày vô lượng cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh. Hiển bày hết thảy hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền.

      Khiến cho các chúng sinh, nhiều như số hạt bụi núi Tu Di phát tâm bồ đề. Các chúng sinh nhiều như hạt bụi cõi Phật, đều thành tựu cõi nước Như Lai thanh tịnh.

      Bấy giờ, đức Phật Nhất Thiết Công Ðức Sơn Tu Di Thắng Vân, vì Bồ Tát Ðại Oai Quang, mà nói kệ rằng:

      Lành thay Đại Oai Quang
      Phước tạng rộng đồn khắp
      Vì lợi ích chúng sinh
      Phát hướng đạo bồ đề.
      Ông được trí quang minh
      Pháp giới đều đầy khắp
      Phước huệ đều rộng lớn
      Sẽ được biển trí sâu.
      Trong một cõi tu hành
      Trải số kiếp hạt bụi
      Như ông nay thấy ta
      Sẽ được trí như vậy.
      Chẳng phải người tu hành
      Chẳng biết phương tiện đó
      Ðược sức đại tinh tấn
      Mới tịnh biển cõi được.
      Trong mỗi mỗi hạt bụi
      Vô lượng kiếp tu hành
      Người đó mới đắc được
      Các cõi Phật trang nghiêm.
      Ông vì mỗi chúng sinh
      Luân hồi trải biển kiếp
      Nhưng tâm chẳng mệt mỏi
      Sẽ thành Thế Tôn Sư.
      Cúng dường mỗi vị Phật
      Hết thuở vị lai tế
      Tâm chẳng chút nhàm mỏi
      Sẽ thành vô thượng đạo.
      Ba đời tất cả Phật
      Sẽ cùng mãn nguyện ông
      Trong tất cả pháp hội
      Thân ông đều an trụ.
      Tất cả các Như Lai
      Thệ nguyện chẳng bờ mé
      Người đại trí thông đạt
      Biết được phương tiện nầy.
      Ðại Quang cúng dường ta
      Nên được đại oai lực
      Khiến hạt bụi chúng sinh
      Thành thục hướng bồ đề.
      Tu các hạnh Phổ Hiền
      Bồ Tát danh đồn khắp
      Trang nghiêm biển cõi Phật
      Khắp cùng hết pháp giới.
 
      Các Phật tử ! Các ông nên biết, trong kiếp đại trang nghiêm đó, có các tiểu kiếp, nhiều như số các sông Hằng, tuổi thọ con người là hai tiểu kiếp.

      Các Phật tử ! Ðức Phật Nhất Thiết Công Ðức Sơn Tu Di Thắng Vân, tuổi thọ là năm mươi ức kiếp.
      Sau khi đức Phật đó diệt độ rồi, có vị Phật ra đời, hiệu là Ba La Mật Thiện Nhãn Trang Nghiêm Vương, cũng ở trong rừng lớn Ma Ni Hoa Chi Luân đó, mà thành Chánh Giác.
      Bấy giờ, đồng tử Ðại Oai Quang, thấy đức Như Lai đó thành Đẳng Chánh Giác, hiện sức thần thông.
      Lập tức đắc được niệm Phật tam muội, tên là Vô Biên Hải Tạng Môn. Ðắc được đà la ni tên là Đại Trí Lực Pháp Uyên. Ðắc được đại từ tên là Khắp Tùy Chúng Sinh Điều Phục Độ Thoát. Ðắc được đại bi tên là Mây Che Khắp Tất Cả Cảnh Giới. Ðắc được đại hỉ tên là Tất Cả Phật Công Đức Hải Oai Lực Tạng. Ðắc được đại xả tên là Pháp Tánh Hư Không Bình Đẳng Thanh Tịnh. Ðắc được Bát Nhã Ba La Mật tên là Tự Tánh Lìa Cấu Pháp Giới Thanh Tịnh Thân. Ðắc được thần thông tên là Vô Ngại Quang Tùy Hiện Khắp. Ðắc được biện tài tên là Thiện Nhập Vô Cấu Uyên. Ðắc được trí quang tên là Nhất Thiết Pháp Tạng Thanh Tịnh. Có mười ngàn pháp môn như vậy, đều được thông đạt.
 
      Bấy giờ, đồng tử Ðại Oai Quang nương oai lực của đức Phật, vì các quyến thuộc mà nói bài kệ rằng:

      Trong ức kiếp không thể nghĩ bàn
      Thế Tôn minh sư khó gặp được
      Cõi đó chúng sinh nhiều lợi lành
      Nên khiến thấy được Phật thứ hai.
      Thân Phật khắp phóng đại quang minh
      Sắc tướng vô biên rất thanh tịnh
      Như mây đầy khắp tất cả cõi
      Nơi nơi ca ngợi công đức Phật.
      Quang minh chiếu đến đều hoan hỉ
      Chúng sinh có khổ đều trừ diệt
      Khiến họ cung kính khởi tâm từ
      Ðó là dụng tự tại của Phật.
      Biến hóa ra mây không nghĩ bàn
      Phóng lưới quang minh vô lượng màu
      Mười phương cõi nước đếu đầy dẫy
      Ðó là thần thông Phật đó hiện.
      Tất cả lỗ lông hiện mây quang
      Khắp trong hư không vang tiếng lớn
      Hết thảy đen tối đâu chẳng chiếu
       Các khổ điạ ngục đều khiến diệt.
      Diệu âm Như Lai khắp mười phương
      Tất cả lời lẽ đều diễn đủ
      Tùy nghiệp lực xưa của chúng sinh
      Ðó là thần biến của Như Lai.
      Vô lượng vô biên biển đại chúng
      Phật đều xuất hiện ở nơi đó
      Khắp chuyển vô tận diệu pháp luân
       Ðiều phục tất cả các chúng sinh.
        Thần thông của Phật chẳng bờ mé
      Trong tất cả cõi đều xuất hiện
      Thiện Thệ như vậy trí vô ngại
      Vì lợi chúng sinh thành Chánh Giác.
      Các vị nên sinh tâm hoan hỉ
      Hớn hở vui thích tôn kính Phật
      Tôi với các vị cùng đến đó
      Thấy được Như Lai các khổ diệt.
      Phát tâm hồi hướng về bồ đề
      Từ niệm tất cả các chúng sinh
      Ðều trụ đại nguyện của Phổ Hiền
      Sẽ được tự tại như Pháp Vương.
 
      Các Phật tử ! Khi đồng tử Ðại Oai Quang nói bài kệ đó, thì nhờ thần lực của đức Phật, mà âm thanh vô ngại. Tất cả thế giới đều nghe được, vô lượng chúng sinh đều phát tâm bồ đề.

      Lúc đó, vương tử Ðại Oai Quang cùng với cha mẹ và các quyến thuộc, và vô lượng trăm ngàn ức Na Do Tha chúng sinh, vây quanh trước sau. Các lọng báu như mây che khắp hư không. Tất cả mọi người đều cùng nhau đi đến chỗ đức Như Lai Ba La Mật Thiện Nhãn Trang Nghiêm Vương.

      Ðức Phật đó nói Kinh Thể Tánh Pháp Giới Thanh Tịnh Trang Nghiêm, có các Kinh nhiều như số hạt bụi biển thế giới làm quyến thuộc.

      Các đại chúng đó, nghe kinh đó rồi, đều đắc được trí huệ thanh tịnh, tên là: Vào tất cả tịnh phương tiện. Ðắc được thập địa tên là Ly cấu quang minh. Ðắc được luân Ba La Mật tên là Thị hiện tất cả thế gian ái lạc trang nghiêm. Ðắc được hạnh luân tăng trưởng tên là Khắp vào tất cả cõi vô biên quang minh thanh tịnh kiến. Ðắc được hạnh luân thú hướng tên là Ly cấu phước đức vân quang minh tràng. Ðắc được chứng luân tùy vào tên là Tất cả biển pháp quang minh rộng lớn. Ðắc được hạnh phát thú chuyển thâm tên là Đại trí trang nghiêm. Ðắc được biển trí huệ quán đảnh tên là Vô công dụng tu cực diệu kiến. Ðắc được hiển rõ đại quang minh tên là Như Lai công đức hải tướng quang ảnh biến chiếu. Ðắc được trí thanh tịnh sinh ra nguyện lực tên là Vô lượng nguyện lực tín giải tạng.
 
      Bấy giờ, đức Phật đó vì Bồ Tát Ðại Oai Quang, mà nói kệ rằng:

      Lành thay biển công đức trí huệ
      Phát tâm hướng về đại bồ đề
      Ông sẽ thành Phật không nghĩ bàn
      Khắp vì chúng sinh làm nơi tựa.
      Ông đã sinh ra biển đại trí
      Tất thấu rõ hết tất cả pháp
      Sẽ dùng phương tiện khó nghĩ bàn
        Vào cảnh vô tận của Phật hành.
       Ðã thấy mây công đức chư Phật
      Ðã vào địa trí huệ vô tận
      Các Ba la mật biển phương tiện
       Bậc Đại Danh Xưng sẽ đầy đủ.
        Ðã được phương tiện môn tổng trì
      Và dùng môn biện tài vô tận
      Ðủ thứ hạnh nguyện đều tu tập
      Sẽ thành vô đẳng đại trí huệ.
      Ông đã sinh ra các biển nguyện
      Ông đã vào trong biển tam muội
      Sẽ đủ các thứ đại thần thông
      Các Phật pháp không thể nghĩ bàn.
      Cứu kính pháp giới không nghĩ bàn
      Thâm tâm rộng lớn đã thanh tịnh
      Khắp thấy mười phương tất cả Phật
        Lìa cấu trang nghiêm các biển cõi.
      Ông đã vào hạnh đại bồ đề
      Thuở xưa bổn sự biển phương tiện
      Như ta tu hành đều tịnh trị
      Diệu hạnh như vậy ông đều ngộ.
      Ta trong vô lượng mỗi cõi nước
      Cúng dường đủ thứ các biển Phật
      Như đó tu hành đã đắc quả
      Trang nghiêm như vậy ông đều thấy.
      Biển kiếp rộng lớn chẳng cùng tận
      Trong tất cả cõi tu tịnh hạnh
      Thệ nguyện kiên cố không nghĩ bàn
      Sẽ được thần lực Như Lai đó.
       Cúng dường chư Phật trọn không thừa
      Cõi nước trang nghiêm đều thanh tịnh
      Trong tất cả kiếp tu diệu hạnh
      Ông sẽ thành Phật đại công đức.
 
      Các Phật tử ! Khi đức Như Lai Ba La Mật Thiện Nhãn Trang Nghiêm Vương vào Niết Bàn rồi, thì vua Hỉ Kiến Thiện Huệ cũng qua đời. Ðồng tử Ðại Oai Quang lên ngôi Chuyển Luân Vương.
      Trong rừng lớn Ma Ni Hoa Chi Luân đó, đức Như Lai thứ ba xuất hiện ra đời, hiệu là Phật Tối Thắng Công Ðức Hải.
      Bấy giờ, Chuyển Luân Thánh Vương thấy tướng của đức Như Lai đó thành Phật, bèn cùng với quyến thuộc và bốn binh chúng, thành ấp tụ lạc, tất cả nhân dân, đều cầm bảy báu, cùng nhau đi đến chốn Phật. Ðem lầu các lớn tất cả hương ma ni trang nghiêm dâng cúng cho đức Phật.
      Bấy giờ, đức Như Lai đó, ở trong rừng Ma Ni Hoa Chi Luân nói Kinh Bồ Tát Phổ Nhãn Quang Minh Hạnh, có các Kinh nhiều như số hạt bụi thế giới làm quyến thuộc.
      Bấy giờ, Bồ Tát Ðại Oai Quang nghe pháp đó rồi, đắc được tam muội tên là Đại phước đức phổ quang minh. Nhờ đắc được tam muội đó, cho nên biết rõ biển phước đức và nghiệp báo của tất cả Bồ Tát, tất cả chúng sinh đời quá khứ, hiện tại và vị lai.
      Bấy giờ, đức Phật đó vì Bồ Tát Ðại Oai Quang mà nói bài kệ rằng:
      Lành thay phước đức Ðại Oai Quang
      Các ông nay đến nơi chỗ ta
      Thương xót tất cả biển chúng sinh
       Phát thắng bồ đề tâm nguyện lớn.
      Ông vì tất cả khổ chúng sinh
      Khởi tâm đại bi khiến giải thoát
      Sẽ làm chỗ tựa cho quần mê
      Là tên Bồ Tát hạnh phương tiện.
      Nếu có Bồ Tát tâm kiên cố
      Tu các thắng hạnh chẳng nhàm mỏi
      Tối thắng tối thượng vô ngại giải
      Như vậy sẽ được diệu trí kia.
      Tu phước đức quang có phước tràng
      Người phước đức ở đều phước hải
       Do tu hạnh nguyện của Phổ Hiền
      Ðây ông Ðại Quang hướng vào được.
      Ông hay dùng nguyện rộng lớn nầy
        Vào biển chư Phật không nghĩ bàn
      Biển phước chư Phật chẳng bờ mé
        Ông dùng diệu giải đều thấy được.
      Ông ở trong cõi nước mười phương
      Ðều thấy vô lượng vô biên Phật
      Phật đó thuở xưa tu biển hạnh
      Như vậy tất cả ông đều thấy.
      Nếu trụ ở biển phương tiện nầy
      Tất vào được trong địa trí huệ
      Ðây là tùy thuận học chư Phật
      Quyết định sẽ thành Nhất thiết trí.
      Ông ở trong tất cả biển cõi
      Biển kiếp hạt bụi tu các hạnh
      Tất cả biển hạnh của Như Lai
      Ông đều đã học sẽ thành Phật.
      Như chỗ ông thấy trong mười phương
      Tất cả biển cõi rất nghiêm tịnh
      Cõi ông nghiêm tịnh cũng như vậy
       Phát nguyện vô biên sẽ đắc được.
        Nay biển chúng hội đạo tràng nầy
      Nghe nguyện ông rồi sinh vui mừng
      Ðều vào thừa Phổ Hiền rộng lớn
      Phát tâm hồi hướng về bồ đề.
      Trong vô biên mỗi mỗi cõi nước
      Ðều vào tu hành trải biển kiếp
      Dùng các nguyện lực để viên mãn
      Tất cả hạnh Bồ Tát Phổ Hiền.
      Các Phật tử ! Trong rừng lớn Ma Ni Hoa Chi Luân đó, lại có đức Phật ra đời, hiệu là Xưng Phổ Văn Liên Hoa Nhãn Tràng.
      Bấy giờ, Ðại Oai Quang qua đời, bèn sinh vào trong thành Tu Di Sơn Thượng Tịch Tĩnh Bảo Cung Thiên, làm đại Thiên Vương, tên là Ly Cấu Phước Ðức Tràng, cùng các Thiên chúng đi đến chốn Phật, mưa rải xuống mây hoa báu để cúng dường.
      Bấy giờ, đức Như Lai đó, nói Kinh Quảng Ðại Phương Tiện Phổ Môn Biến Chiếu, có các kinh nhiều như số hạt bụi thế giới hải làm quyến thuộc.
      Bấy giờ, chúng Thiên Vương nghe kinh đó rồi, bèn đắc được tam muội tên là Phổ môn hoan hỉ tạng. Nhờ sức tam muội mà vào được biển thật tướng của tất cả các pháp. Ðắc được pháp ích rồi, cùng nhau rời khỏi đạo tràng trở về chốn cũ.
 
 
 
 
 

 
KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
 
QUYỂN MƯỜI HAI
 
PHẨM DANH HIỆU NHƯ LAI THỨ BẢY
 
      Bấy giờ, đức Thế Tôn ở tại nước Ma Kiệt Ðề, trong A Lan Nhã Pháp Bồ Dề Tràng, ban đầu thành Chánh Giác. Ở tại điện Phổ Quang Minh, ngồi trên tòa hoa sen tạng sư tử.
Diệu ngộ đều viên mãn, hai hạnh đã vĩnh viễn đoạn tuyệt. Ðạt được pháp vô tướng, trụ ở chỗ Phật trụ. Ðắc được sự bình đẳng của Phật. Ðến được chỗ không chướng ngại. Bất khả chuyển pháp. Sở hành vô ngại. Lập bất tư nghì. Thấy khắp ba đời.
Với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, đều còn một đời nữa, sẽ được bổ xứ Phật vị, đều từ phương khác cùng nhau vân tập đến. Khéo quán sát khắp các cõi chúng sinh, pháp giới, thế giới, cõi Niết Bàn, các nghiệp quả báo, tâm hành thứ lớp, tất cả văn nghĩa, thế gian, xuất thế gian, hữu vi, vô vi, quá khứ, hiện tại và vị lai.
 
      Bấy giờ, các Bồ Tát bèn suy tư như vầy: Nếu đức Thế Tôn thương xót chúng ta, thì xin nguyện đức Thế Tôn tùy theo sở thích, khai thị cõi Phật, Phật trụ, cõi Phật trang nghiêm, Phật pháp tánh, cõi Phật thanh tịnh, pháp của Phật nói, cõi Phật thể tánh, uy đức của Phật, cõi Phật thành tựu, Phật đại bồ đề.
Như mười phương tất cả thế giới chư Phật Thế Tôn, vì thành tựu tất cả Bồ Tát. Vì khiến cho chủng tánh của Như Lai chẳng đoạn tuyệt. Vì cứu hộ tất cả chúng sinh. Vì khiến cho các chúng sinh vĩnh viễn lìa khỏi tất cả khổ não. Vì biết rõ tất cả các hạnh. Vì diễn nói tất cả các pháp. Vì tịnh trừ tất cả nhiễm ô. Vì vĩnh viễn đoạn trừ tất cả lưới nghi. Vì dứt trừ tất cả hy vọng. Vì phá tan tất cả ái trước xứ.
Nói các Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Tạng, Thập Địa, Thập Nguyện, Thập Định, Thập Thông, Thập Đảnh. Và nói địa vị của Như Lai. Cảnh giới của Như Lai. Thần lực của Như Lai. Sở tu hành của Như Lai. Lực của Như Lai. Sự vô úy của Như Lai. Tam muội của Như Lai. Thần thông của Như Lai. Sự tự tại của Như Lai. Sự vô ngại của Như Lai. Mắt của Như Lai. Tai của Như Lai. Mũi của Như Lai. Lưỡi của Như Lai. Thân của Như Lai. Ý của Như Lai. Biện tài của Như Lai. Trí huệ của Như Lai. Sự tối thắng của Như Lai. Xin đức Phật Thế Tôn cũng vì con mà nói.
 
      Bấy giờ, đức Thế Tôn biết tâm niệm của các Bồ Tát, tùy theo mỗi loài mà hiện thần thông.
Hiện thần thông rồi, ở phương đông, trải qua các thế giới, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, có thế giới tên là Kim Sắc. Ðức Phật hiệu là Bất Ðộng Trí. Trong thế giới đó, có Bồ Tát hiệu là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, cùng nhau đi đến chốn Phật. Ðến rồi làm lễ đức Phật, bèn ở phương đông, hóa làm tòa sư tử liên hoa tạng, mà ngồi kiết già trên đó.
      Ở phương nam, trải qua các thế giới, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, có thế giới tên là Diệu Sắc. Ðức Phật hiệu là Vô Ngại Trí. Thế giới đó, có Bồ Tát hiệu là Giác Thủ, với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật tụ lại, cùng nhau đi đến chốn Phật. Ðến rồi làm lễ đức Phật, bèn ở phương nam, hóa làm tòa sư tử liên hoa tạng, mà ngồi kiết già trên tòa đó.
Ở phương tây, trải qua các thế giới, nhiều nhu số hạt bụi mười cõi Phật, có thế giới tên là Liên Hoa Sắc. Ðức Phật hiệu là Diệt Ám Trí. Thế giới đó có Bồ Tát hiệu là Tài Thủ, với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật tụ lại, cùng nhau đi đến chốn Phật. Ðến rồi làm lễ đức Phật, bèn ở phương tây hóa làm tòa sư tử liên hoa tạng, mà ngồi kiết già trên đó.
      Ở phương bắc, trải qua các thế giới, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, có thế giới tên Ðảm Bặc Hoa Sắc. Ðức Phật hiệu là Oai Nghi Trí. Thế giới đó có Bồ Tát hiệu là Bảo Thủ, với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật tụ lại, cùng nhau đi đến chốn Phật. Ðến rồi làm lễ đức Phật, bèn ở phương bắc hóa làm tòa sư tử liên hoa tạng, mà ngồi kiết già trên đó.
      Phương đông bắc, trải qua các thế giới, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, có thế giới tên là Ưu Bát La Hoa Sắc. Ðức Phật hiệu là Minh Tướng Trí. Thế giới đó có Bồ Tát hiệu là Công Ðức Thủ, với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật tụ lại, cùng nhau đi đến chốn Phật. Ðến rồi làm lễ đức Phật, bèn ở phương đông bắc, hóa làm tòa sư tử liên hoa tạng, mà ngồi kiết già trên đó.
      Phương đông nam, trải qua các thế giới nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, có thế giới tên là Kim Sắc. Ðức Phật hiệu là Cứu Kính Trí. Thế giới đó có vị đại Bồ Tát hiệu là Mục Thủ, với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật tụ lại, cùng nhau đi đến chốn Phật. Ðến nơi rồi làm lễ đức Phật, bèn ở phương đông nam hóa làm tòa sư tử liên hoa tạng, mà ngồi kiết già trên đó.
      Phương tây nam, trải qua các thế giới nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, có thế giới tên là Bảo Sắc. Ðức Phật hiệu là Tối Thắng Trí. Thế giới đó có Bồ Tát hiệu là Tinh Tấn Thủ. Ngài cùng với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật tụ lại, cùng nhau đi đến chốn Phật, đến rồi làm lễ đức Phật. Bèn ở phương tây nam, hóa làm tòa sư tử liên hoa tạng, mà ngồi kiết già trên đó.
      Phương tây bắc, trải qua các thế giới, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, có thế giới tên là Kim Cang Sắc. Ðức Phật hiệu là Tự Tại Trí. Thế giới đó có Bồ Tát hiệu là Pháp Thủ, Ngài cùng với các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật tụ lại, cùng nhau đi đến chốn Phật. Ðến rồi làm lễ đức Phật, sau đó ở phương tây bắc hóa làm tòa sư tử liên hoa tạng, mà ngồi kiết già trên đó.
      Phương dưới, trải qua các thế giới, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, có thế giới tên là Pha Lê Sắc. Ðức Phật hiệu là Phạm Trí. Thế giới đó có Bồ Tát tên là Trí Thủ, với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật tụ lại, cùng nhau đi đến chốn Phật. Ðến rồi làm lễ đức Phật, bèn ở phương dưới hóa làm tòa sư tử liên hoa tạng, mà ngồi kiết già trên đó.
Phương trên, trải qua các thế giới, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, có thế giới tên là Bình Ðẳng Sắc. Ðức Phật hiệu là Quán Sát Trí. Thế giới đó có Bồ Tát hiệu là Hiền Thủ, với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật tụ lại, cùng nhau đi đến chốn Phật. Ðến rồi làm lễ đức Phật, bèn ở phương trên, hóa làm tòa sư tử liên hoa tạng, mà ngồi kiết già trên đó.
 
      Bấy giờ, đại Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, nương oai lực của đức Phật, quán sát tất cả chúng hội Bồ Tát, mà nói rằng: Các Bồ Tát đó rất là hi hữu.
Các Phật tử ! Cõi Phật không thể nghĩ bàn, Phật trụ, cõi Phật trang nghiêm, Phật pháp tánh, cõi Phật thanh tịnh, Phật nói pháp, Phật xuất hiện, cõi Phật thành tựu, Phật A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, đều không thể nghĩ bàn.
      Tại sao ? Các Phật tử ! Mười phương thế giới, tất cả chư Phật biết sự ưa thích của các chúng sinh khác nhau. Tùy theo căn tánh của họ, mà nói pháp để điều phục, như vậy cho đến khắp pháp giới, hư không giới.
      Các Phật tử ! Như Lai ở thế giới Ta Bà nầy, các bốn thiên hạ đều hiện ra đủ thứ thân, có đủ thứ danh hiệu, đủ thứ sắc tướng, đủ thứ thân cao thấp, đủ thứ thọ lượng, đủ thứ xứ sở, đủ thứ các căn, đủ thứ nơi sinh, đủ thứ lời lẽ và văn tự, đủ thứ quán sát, khiến cho chúng sinh đều đắc được tri kiến khác nhau.
 
      Các Phật tử ! Như Lai ở trong bốn thiên hạ nầy, hoặc danh hiệu là Nhất Thiết Nghĩa Thành, hoặc hiệu là Viên Mãn Nguyệt, hoặc hiệu là Sư Tử Hống, hoặc hiệu là Thích Ca Mâu Ni, hoặc hiệu là Ðệ Nhất Tiên, hoặc hiệu là Tỳ Lô Giá Na, hoặc hiệu là Cù Ðàm Thị, hoặc hiệu là Ðại Sa Môn, hoặc hiệu là Tối Thắng, hoặc hiệu là Ðạo Sư. Có mười ngàn danh hiệu như vậy, khiến cho các chúng sinh đều đắc được tri kiến khác nhau.
 
      Các Phật tử ! Phương đông bốn thiên hạ, lại có thế giới tên là Thiện Hộ. Như Lai ở đó, hoặc hiệu là Kim Cang, hoặc hiệu là Tự Tại, hoặc hiệu là Hữu Trí Tuệ, hoặc hiệu là Nan Thắng, hoặc hiệu là Vân Vương, hoặc hiệu là Vô Tránh, hoặc hiệu là Năng Vi Chủ, hoặc hiệu là Tâm Hoan Hỉ, hoặc hiệu là Vô Dữ Ðẳng, hoặc hiệu là Ðoạn Ngôn Luận. Có mười ngàn danh hiệu như vậy, khiến cho chúng sinh đều đắc được tri kiến khác nhau.
 
      Các Phật tử! Phương nam bốn thiên hạ đó, lại có thế giới tên là Nan Nhẫn. Như Lai ở đó, hoặc hiệu là Ðế Thích. Hoặc hiệu là Bảo Xưng. Hoặc hiệu là Ly Cấu. Hoặc hiệu là Thật Ngữ. Hoặc hiệu là Năng Ðiều Phục. Hoặc hiệu là Cụ Túc Hỉ. Hoặc hiệu là Ðại Danh Xưng. Hoặc hiệu là Năng Lợi Ích. Hoặc hiệu là Vô Biên. Hoặc hiệu là Tối Thắng. Có mười ngàn danh hiệu như vậy, khiến cho các chúng sinh, đều đắc được tri kiến khác nhau.
      Các Phật tử! Phương tây bốn thiên hạ đó, lại có thế giới tên là Thân Huệ. Như Lai ở đó, hoặc hiệu là Thủy Thiên. Hoặc hiệu là Hỉ Kiến. Hoặc hiệu là Tối Thắng Vương. Hoặc hiệu là Ðiều Phục Thiên. Hoặc hiệu là Chân Thật Huệ. Hoặc hiệu là Ðáo Cứu Kính. Hoặc hiệu là Hoan Hỉ. Hoặc hiệu là Pháp Huệ. Hoặc hiệu là Sở Tác Dĩ Biện. Hoặc hiệu là Thiện Trụ. Có mười ngàn danh hiệu như vậy, khiến cho các chúng sinh, đều đắc được tri kiến khác nhau.
 
      Các Phật tử ! Phía bắc bốn thiên hạ đó, lại có thế giới tên là Hữu Sư Tử, Như Lai ở đó, hoặc hiệu là Ðại Mâu Ni. Hoặc hiệu là Khổ Hạnh. Hoặc hiệu là Thế Sở Tôn. Hoặc hiệu là Tối Thắng Ðiền. Hoặc hiệu là Nhất Thiết Trí. Hoặc hiệu là Thiện Ý. Hoặc hiệu là Thanh Tịnh. Hoặc hiệu là Kề La Bạt Na. Hoặc hiệu là Tối Thượng Thí. Hoặc hiệu là Khổ Hạnh Ðắc. Có mười ngàn danh hiệu như vậy, khiến cho các chúng sinh, đều đắc được tri kiến khác nhau.
 
      Các Phật tử ! Phương đông bắc của bốn thiên hạ đó, lại có thế giới tên là Diệu Quán Sát. Như Lai ở thế giới đó, hoặc hiệu là Ðiều Phục Ma. Hoặc hiệu là Thành Tựu. Hoặc hiệu là Tức Diệt. Hoặc hiệu là Hiền Thiên. Hoặc hiệu là Ly Tham. Hoặc hiệu là Thắng Huệ. Hoặc hiệu là Tâm Bình Ðẳng. Hoặc hiệu là Vô Năng Thắng. Hoặc hiệu là Trí Huệ Âm. Hoặc hiệu là Nan Xuất Hiện. Có mười ngàn danh hiệu như vậy, khiến cho các chúng sinh, đều đắc được tri kiến khác nhau.
 
      Các Phật tử ! Phương đông nam của bốn thiên hạ đó, lại có thế giới tên là Hỉ Lạc. Như Lai ở thế giới đó, hoặc hiệu là Cực Oai Nghiêm. Hoặc hiệu là Quang Diễm Tụ. Hoặc hiệu là Biến Tri. Hoặc hiệu là Bí Mật. Hoặc hiệu là Giải Thoát. Hoặc hiệu là Tánh An Trụ. Hoặc hiệu là Như Pháp Hành. Hoặc hiệu là Tịnh Nhãn Vương. Hoặc hiệu là Ðại Dũng Kiện. Hoặc hiệu là Tinh Tấn Lực. Có mười ngàn danh hiệu như vậy, khiến cho các chúng sinh đều đắc được tri kiến khác nhau.
 
      Các Phật tử ! Phương tây nam bốn thiên hạ đó, lại có thế giới tên là Thâm Kiên Lao. Như Lai ở thế giới đó, hoặc hiệu là An Trụ. Hoặc hiệu là Trí Vương. Hoặc hiệu là Viên Mãn. Hoặc hiệu là Bất Ðộng. Hoặc hiệu là Diệu Mãn. Hoặc hiệu là Ðảnh Vương. Hoặc hiệu là Tự Tại Âm. Hoặc hiệu là Nhất Thiết Thí. Hoặc hiệu là Trì Chúng Tiên. Hoặc hiệu là Thắng Tu Di. Có mười ngàn danh hiệu như vậy, khiến cho các chúng sinh đều đắc được tri kiến khác nhau.
 
      Các Phật tử ! Phương tây bắc bốn thiên hạ đó, lại có thế giới tên là Diệu Ðịa. Như Lai ở đó, hoặc hiệu là Phổ Biến. Hoặc hiệu là Quang Diễm. Hoặc hiệu là Ma Ni Kế. Hoặc hiệu là Khả Ðức Niệm. Hoặc hiệu là Vô Thượng Nghĩa. Hoặc hiệu là Thường Hỉ Lạc. Hoặc hiệu là Tánh Thanh Tịnh. Hoặc hiệu là Viên Mãn Quang. Hoặc hiệu là Tu Tí. Hoặc hiệu là Trụ Bổn. Có mười ngàn danh hiệu như vậy, khiến cho các chúng sinh đều đắc được tri kiến khác nhau.
      Các Phật tử ! Kế phương dưới bốn thiên hạ đó, lại có thế giới tên là Diễm Huệ. Như Lai ở thế giới đó, hoặc hiệu là Tập Thiện Căn. Hoặc hiệu là Sư Tử Tướng. Hoặc hiệu là Mãnh Lợi huệ. Hoặc hiệu là Kiêm Sắc Diễm. Hoặc hiệu là Nhất Thiết Tri Thức. Hoặc hiệu là Cứu Kính Âm. Hoặc hiệu là Tác Lợi Ích. Hoặc hiệu là Ðáo Cứu Kính. Hoặc hiệu là Chân Thật Thiện. Hoặc hiệu là Phổ Biến Thắng. Có mười ngàn danh hiệu như vậy, khiến cho các chúng sinh đều đắc được tri kiến khác nhau.
 
      Các Phật tử ! Kế phương trên bốn thiên hạ đó, có thế giới tên là Trì Địa. Như Lai ở thế giới đó, hoặc hiệu là Hữu Trí Huệ. Hoặc Hiệu là Thanh Tịnh Diện. Hoặc hiệu là Giác Huệ. Hoặc hiệu là Thượng Thủ. Hoặc hiệu là Hạnh Trang Nghiêm. Hoặc hiệu là Phát Hoan Hỉ. Hoặc hiệu là Ý Thành Mãn. Hoặc hiệu là Như Thạnh Hỏa. Hoặc hiệu là Trì Giới. Hoặc hiệu là Nhất Đạo. Có mười ngàn danh hiệu như vậy, khiến cho các chúng sinh, đều đắc được tri kiến khác nhau.
 
      Các Phật tử ! Thế giới Ta Bà này, có trăm ức bốn thiên hạ. Như Lai ở trong đó, có trăm ức vạn đủ thứ danh hiệu, khiến cho các chúng sinh đều đắc được tri kiến khác nhau.
      Các Phật tử ! Phương đông thế giới Ta Bà nầy, lại có thế giới tên là Mật Huấn. Như Lai ở thế giới đó, hoặc hiệu là Bình Ðẳng. Hoặc hiệu là Thù Thắng. Hoặc hiệu là An Úy. Hoặc hiệu là Khai Hiểu ý. Hoặc hiệu là Văn Huệ. Hoặc hiệu là Chân Thật Ngữ. Hoặc hiệu là Ðắc Tự Tại. Hoặc hiệu là Tối Thắng Thân. Hoặc hiệu là Ðại Dũng Mãnh. Hoặc hiệu là Vô Ðẳng Trí. Có trăm ức vạn đủ thứ danh hiệu như vậy, khiến cho các chúng sinh đều đắc được tri kiến khác nhau.
      Các Phật tử ! Phương nam thế giới Ta Bà nầy, lại có thế giới tên là Phong Ích. Như Lai ở thế giới đó, hoặc hiệu là Bổn Tánh. Hoặc hiệu là Cần Ý. Hoặc hiệu là Vô Thượng Tôn. Hoặc hiệu là Ðại Trí Cự. Hoặc hiêu là Vô Sở Y. Hoặc hiệu là Quang Minh Tạng. Hoặc hiệu là Trí Huệ Tạng. Hoặc hiệu là Phước Ðức Tạng. Hoặc hiệu là Thiên Trung Thiên. Hoặc hiệu là Ðại Tự Tại. Có trăm vạn ức đủ thứ danh hiệu như vậy, khiến cho các chúng sinh đều đắc được tri kiến khác nhau.
      Các Phật tử ! Phương tây thế giới Ta Bà nầy, lại có thế giới tên là Ly Cấu. Như Lai ở thế giới đó, hoặc hiệu là Ý Thành. Hoặc hiệu là Tri Ðạo. Hoặc hiệu là An Trụ Bổn. Hoặc hiệu là Năng Giải Phược. Hoặc hiệu là Thông Ðạt Nghĩa. Hoặc hiệu là Lạc Phân Biệt. Hoặc hiệu là Tối Thắng Kiến. Hoặc hiệu là Ðiều Phục Hành. Hoặc hiệu là Chúng Phổ Hạnh. Hoặc hiệu là Cụ Túc Lực. Có trăm ức vạn đủ thứ danh hiệu như vậy, khiến cho các chúng sinh đều đắc được tri kiến khác nhau.
 
      Các Phật tử ! Phương bắc thế giới Ta Bà nầy, lại có thế giới tên là Phong Lạc. Như Lai ở thế giới đó, hoặc hiệu là Ðảm Bặc Hoa Sắc. Hoặc hiệu là Nhật Tạng. Hoặc hiệu là Thiện Trụ. Hoặc hiệu là Hiện Thần Thông. Hoặc hiệu là Tánh Siêu Mại. Hoặc hiệu là Huệ Nhật. Hoặc hiệu là Vô Ngại. Hoặc hiệu là Như Nguyệt Hiện. Hoặc hiệu là Tấn Tật Phong. Hoặc hiệu là Thanh Tịnh Thân. Có trăm ức vạn đủ thứ danh hiệu như vậy, khiến cho các chúng sinh đều đắc được tri kiến khác nhau.
      Các Phật tử ! Phương đông bắc thế giới Ta Bà nầy, lại có thế giới tên là Nhiếp Thủ. Như Lai ở thế giới đó, hoặc hiệu là Vĩnh Ly Khổ. Hoặc hiệu là Phổ Giải Thoát. Hoặc hiệu là Ðại Phục Tạng. Hoặc hiệu là Giải Thoát Trí. Hoặc hiệu là Quá Khứ Tạng. Hoặc hiệu là Bảo Quang Minh. Hoặc hiệu là Ly Thế Gian. Hoặc hiệu là Vô Ngại Ðịa. Hoặc hiệu là Tịnh Tín Tạng. Hoặc hiệu là Tâm Bất Ðộng. Có trăm vạn ức đủ thứ danh hiệu như vậy, khiến cho các chúng sinh đều đắc được tri kiến khác nhau.
      Các Phật tử ! Phương đông nam thế giới Ta Bà nầy, lại có thế giới tên là Nhiêu Ích. Như Lai ở thế giới đó, hoặc hiệu là Hiện Quang Minh. Hoặc hiệu là Tận Trí. Hoặc hiệu là Mỹ Âm. Hoặc hiệu là Thắng Căn. Hoặc hiệu là Trang Nghiêm Cái. Hoặc hiệu là Tinh Tấn Căn. Hoặc hiệu là Ðáo Phân Biệt Bỉ Ngạn. Hoặc hiệu là Thắng Ðịnh. Hoặc hiệu là Giản Ngôn Từ. Hoặc hiệu là Trí Huệ Hải. Có trăm vạn ức đủ thứ danh hiệu như vậy, khiến cho các chúng sinh đều đắc được tri kiến khác nhau.
 
      Các Phật tử ! Phương tây nam thế giới Ta Bà nầy, lại có thế giới tên là Tiển Thiểu. Như Lai ở thế giới đó, hoặc hiệu là Mâu Ni Chủ. Hoặc hiệu là Cụ Chúng Bảo. Hoặc hiệu là Thế Giải Thoát. Hoặc hiệu là Biến Tri Căn. Hoặc hiệu là Thắng Ngôn Từ. Hoặc hiệu là Minh Liễu Kiến. Hoặc hiệu là Căn Tự Tại. Hoặc hiệu là Ðại Tiên Sư. Hoặc hiệu là Khai Ðạo Nghiệp. Hoặc hiệu là Kim Cang Sư Tử. Có trăm ức vạn đủ thứ danh hiệu như vậy, khiến cho các chúng sinh đều đắc được tri kiến khác nhau.
 
      Các Phật tử ! Phương tây bắc thế giới Ta Bà nầy, lại có thế giới tên là Hoan Hỉ. Như Lai ở thế giới đó, hoặc hiệu là Diệu Hoa Tụ. Hoặc hiệu là Chiên Ðàn Cái. Hoặc hiệu là Liên Hoa Tạng. Hoặc hiệu là Siêu Việt Chư Pháp. Hoặc hiệu là Pháp Bảo. Hoặc hiệu là Xuất Sinh. Hoặc hiệu là Tịnh Diệu Cái. Hoặc hiệu là Quảng Ðại Nhãn. Hoặc hiệu là Hữu Thiện pháp. Hoặc hiệu là Chuyên Niệm Pháp. Hoặc hiệu là Võng Tạng. Có trăm ức vạn đủ thứ danh hiệu như vậy, khiến cho các chúng sinh đều đắc được tri kiến khác nhau.
 
      Các Phật tử ! Phương trên thế giới Ta Bà nầy, lại có thế giới tên là Quan Thược. Như Lai ở thế giới đó, hoặc hiệu là Phát Khởi Diễm. Hoặc hiệu là Ðiều Phục Ðộc. Hoặc hiệu là Ðế Thích Cung. Hoặc hiệu là Vô Thường Sở. Hoặc hiệu là Giác Ngộ Bổn. Hoặc hiệu là Ðoạn Tăng Trưởng. Hoặc hiệu là Ðại Tốc Tật. Hoặc hiệu là Thường Lạc Trí. Hoặc hiệu là Phân Biệt Ðạo. Hoặc hiệu là Thôi Phục Tràng. Có trăm ức vạn đủ thứ danh hiệu như vậy, khiến cho các chúng sinh đều đắc được tri kiến khác nhau.
 
      Các Phật tử ! Kế phương trên thế giới Ta Bà nầy, có thế giới tên là Chấn Âm. Như Lai ở thế giới đó, hoặc hiệu là Dũng Mãnh Tràng. Hoặc hiệu là Vô Lượng Bảo. Hoặc hiệu là Lạc Ðại Thí. Hoặc hiệu là Thiên Quang. Hoặc hiệu là Cát Hưng. Hoặc hiệu là Siêu Cảnh Giới. Hoặc hiệu là Nhất Thiết Chủ. Hoặc hiệu là Bất Thoái Luân. Hoặc hiệu là Ly Chúng Ác. Hoặc hiệu là Nhất Thiết Trí. Có trăm ức vạn đủ thứ danh hiệu như vậy, khiến cho các chúng sinh, đều đắc được tri kiến khác nhau.
 
      Các Phật tử ! Như vậy ở phương đông thế giới Ta Bà, có trăm ngàn ức, vô số, vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, tận pháp giới, hư không giới, trong các thế giới, danh hiệu của Như Lai đủ thứ khác nhau. Phương nam, phương tây, phương bắc, bốn hướng trên dưới cũng lại như thế.
      Như đức Thế Tôn thuở xưa làm Bồ Tát, thì dùng đủ thứ đàm luận, đủ thứ lời nói, đử thứ âm thanh, đủ thứ nghiệp, đủ thứ báo, đủ thứ nơi chốn, đủ thứ phương tiện, đủ thứ căn, đủ thứ tín giải, đủ thứ địa vị, mà được thành thục, cũng khiến cho chúng sinh đắc được tri kiến như thế, mà vì họ nói pháp.
 
 
 
 
 

 
KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
 
PHẨM BỐN THÁNH ÐẾ THỨ TÁM
 
      Bấy giờ, đại Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi bảo các Bồ Tát rằng: Các Phật tử ! Khổ Thánh đế, ở thế giới Ta Bà nầy, tên là tội. Hoặc tên là bức bách. Hoặc tên là biến dị. Hoặc tên là phan duyên. Hoặc tên là tụ. Hoặc tên là trái. Hoặc tên là y căn. Hoặc tên là hư dối. Hoặc tên là ung thương xứ. Hoặc tên là ngu phu hành.
      Các Phật tử ! Khổ tập Thánh đế ở thế giới Ta Bà nầy, hoặc tên là trói buộc. Hoặc tên là hoại diệt. Hoặc tên là ái trước nghĩa. Hoặc tên là vọng giác niệm. Hoặc tên là thú nhập. Hoặc tên là quyết định. Hoặc tên là võng. Hoặc tên là hí luận. Hoặc tên là tùy hành. Hoặc tên là điên đảo căn.
      Các Phật tử ! Khổ diệt Thánh đế, ở thế giới Ta Bà nầy, hoặc tên là vô tránh. Hoặc tên là ly trần. Hoặc tên là tịch tĩnh. Hoặc tên là vô tướng. Hoặc tên là vô một. hoặc tên là vô tự tánh. Hoặc tên là vô chướng ngại. Hoặc tên là diệt. Hoặc tên là thể chân thật. Hoặc tên là trụ tự tại.
      Các Phật tử ! Khổ diệt đạo Thánh đế, ở thế giới Ta Bà nầy, hoặc tên là nhất thừa. Hoặc tên là thú tịch. Hoặc tên là đạo dẫn. Hoặc tên là cứu kính vô phân biệt. Hoặc tên là bình đẳng. Hoặc tên là xả đảm. Hoặc tên là vô sở thú. Hoặc tên là tùy thánh ý. Hoặc tên là tiên nhân hành. Hoặc tên là thập tạng.
      Các Phật tử ! Thế giới Ta Bà nầy, nói về bốn Thánh đế, có như vậy cả thảy bốn trăm ức mười ngàn danh từ, tùy theo tâm của chúng sinh, mà khiến cho họ đều điều phục.
      Các Phật tử ! Thế giới Ta Bà nói về khổ Thánh đế, có nhiều thứ tên khác nhau. Ở thế giới Mật Huấn, hoặc tên là dinh cầu căn. Hoặc tên là không ra khỏi. Hoặc tên là gốc trói buộc. Hoặc tên là làm điều không nên làm. Hoặc tên là khắp đấu tranh. Hoặc tên là phân tích tất vô lực. Hoặc tên là tác sở y. Hoặc tên là cực khổ. Hoặc tên là táo động. Hoặc tên là hình trạng vật.
      Các Phật tử ! Nói về khổ tập Thánh đế, ở thế giới Mật Huấn đó, hoặc tên là thuận sinh tử. Hoặc tên là nhiễm trước. Hoặc tên là thiêu đốt. Hoặc tên là lưu chuyển. Hoặc tên là bại hoại căn. Hoặc tên là tục các cõi. Hoặc tên là ác hạnh. Hoặc tên là ái trước. Hoặc tên là nguồn bệnh. Hoặc tên là phần số.
      Các Phật tử ! Nói về khổ diệt Thánh đế, ở thế giới Mật Huấn, hoặc tên là đệ nhất nghĩa. Hoặc tên là ra khỏi. Hoặc tên là đáng khen ngợi. Hoặc tên là an ổn. Hoặc tên là khéo hướng vào. Hoặc tên là điều phục. Hoặc tên là một phần. Hoặc tên là vô tội. Hoặc tên là lìa tham. Hoặc tên là quyết định.
      Các Phật tử ! Nói về khổ diệt đạo Thánh đế, ở thế giới Mật Huấn đó, hoặc tên là mãnh tướng. Hoặc tên là thượng hạnh. Hoặc tên là vượt khỏi. Hoặc tên là có phương tiện. Hoặc tên là bình đẳng nhãn. Hoặc tên là ly biên. Hoặc tên là liễu ngộ. Hoặc tên là nhiếp lấy. Hoặc tên là tối thắng nhãn. Hoặc tên là quán phương.
      Các Phật tử ! Ở thế giới Mật Huấn, nói về bốn Thánh đế, có như vậy cả thảy bốn trăm ức mười ngàn danh từ, tùy tâm chúng sinh, đều khiến cho họ được điều phục.
      Các Phật tử ! Thế giới Ta Bà nầy, nói về khổ Thánh đế có rất nhiều danh từ. Ở thế giới Tối Thắng, hoặc tên là khủng bố. Hoặc tên là phân đoạn. Hoặc tên là đáng chán ghét. Hoặc tên là phải thừa sự. Hoặc tên là biến dị. Hoặc tên là chiêu dẫn oán. Hoặc tên là hay khi đoạt. Hoặc tên là khó cộng sự. Hoặc tên là vọng phân biệt. Hoặc tên là có thế lực.
      Các Phật tử ! Nói về khổ tập Thánh đế, ở thế giới Tối Thắng đó, hoặc tên là bại hoại. Hoặc tên là si căn. Hoặc tên là đại oán. Hoặc tên là bén nhọn. Hoặc tên là diệt vị. Hoặc tên là cừu dối. Hoặc tên là phi kỷ vật. Hoặc tên là ác đạo dẫn. Hoặc tên là tăng hắc ám. Hoặc tên là hoại thiện lợi.
      Các Phật tử ! Nói về khổ diệt Thánh đế, ở thế giới Tối Thắng, hoặc tên là đại nghĩa. Hoặc tên là Nhiêu Ích. Hoặc tên là nghĩa trung nghĩa. Hoặc tên là vô lượng. Hoặc tên là chỗ nên thấy. Hoặc tên là lìa phân biệt. Hoặc tên là tối thượng điều phục. Hoặc tên là thường bình đẳng. Hoặc tên là khả đồng trụ. Hoặc tên là vô vi.
      Các Phật tử ! Nói về khổ diệt đạo Thánh đế, ở thế giới Tối Thắng đó, hoặc tên là hay thiêu đốt. Hoặc tên là phẩm tối thượng. Hoặc tên là quyết định. Hoặc tên là không thể phá. Hoặc tên là thâm phương tiện. Hoặc tên là xuất ly. Hoặc tên là không hạ liệt. Hoặc tên là thông đạt. Hoặc tên là tánh giải thoát. Hoặc tên là hay độ thoát.
      Các Phật tử ! Thế giới Tối Thắng, nói về bốn Thánh đế, có các danh từ như vậy, cả thảy là bốn trăm ức mười ngàn danh từ. Tùy tâm của chúng sinh, đều khiến cho họ được điều phục.
      Các Phật tử ! Thế giới Ta Bà nầy, nói về khổ Thánh đế có rất nhiều danh từ. Ở thế giới Ly Cấu đó, hoặc tên là hối hận. Hoặc tên là tư đãi. Hoặc tên là triển chuyển. Hoặc tên là trụ thành. Hoặc tên là nhất vị. Hoặc tên là phi pháp. Hoặc tên là cư trạch. Hoặc tên là vọng trước xứ. Hoặc tên là hư vọng kiến. Hoặc tên là vô hữu số.
      Các Phật tử ! Nói về khổ tập Thánh đế, ở thế giới Ly Cấu đó, hoặc tên là vật không thật. Hoặc tên là đãn hữu ngữ. Hoặc tên là chẳng trắng sạch. Hoặc tên là sinh địa. Hoặc tên là chấp lấy. Hoặc tên là bỉ tặc. Hoặc tên là tăng trưởng. Hoặc tên là gánh nặng. Hoặc tên là năng sinh. Hoặc tên là thô bạo.
      Các Phật tử ! Nói về khổ diệt Thánh đế. Ở thế giới Ly Cấu, hoặc tên là chẳng gì bằng. Hoặc tên là khắp trừ sạch. Hoặc tên là ly cấu. Hoặc tên là căn tối thắng. Hoặc tên là xưng hội. Hoặc tên là vô tư đãi. Hoặc tên là diệt hoặc. Hoặc tên là tối thượng. Hoặc tên là tất kính. Hoặc tên là phá noãn.
      Các Phật tử ! Nói về khổ diệt đạo Thánh đế, ở thế giới Ly Cấu, hoặc tên là vật kiên cố. Hoặc tên là phương tiện phần. Hoặc tên là giải thoát bổn. Hoặc tên là bổn tánh thật. Hoặc tên là bất khả hủy tí. Hoặc tên là tối thanh tịnh. Hoặc tên là chư hữu biên. Hoặc tên là thọ kí toàn. Hoặc tên là tác cứu kính. Hoặc tên là tịnh phân biệt.
      Các Phật tử ! Thế giới Ly Cấu, nói về bốn Thánh đế, có các danh từ như vậy, cả thảy bốn trăm ức mười ngàn danh từ. Tùy tâm chúng sinh, đều khiến cho được điều phục.
      Các Phật tử ! Thế giới Ta Bà nầy, nói về khổ Thánh đế có rất nhiều danh từ. Ở thế giới Phong Ích, hoặc tên là ái nhiễm xứ. Hoặc tên là hiểm hại căn. Hoặc tên là hữu hải phần. Hoặc tên là tích tập thành. Hoặc tên là sai biệt căn. Hoặc tên là tăng trưởng. Hoặc tên là sinh diệt. Hoặc tên là chướng ngại. Hoặc tên là đao kiếm bổn. Hoặc tên là số sở thành.
Các Phật tử ! Nói về khổ tập Thánh đế, ở thế giới Phong Ích, hoặc tên là khả ác. Hoặc tên là danh tự. Hoặc tên là vô tận. Hoặc tên là phần số. Hoặc tên là khả ái. Hoặc tên là hay bắt cắn. Hoặc tên là vật thô bỉ. Hoặc tên là ái trước. Hoặc tên là khí. Hoặc tên là động.
      Các Phật tử ! Nói về khổ diệt Thánh đế, ở thế giới Phong Ích, hoặc tên là tương tục đoạn. Hoặc tên là khai hiển. Hoặc tên là không văn tự. Hoặc tên là vô sở tu. Hoặc tên là vô sở kiến. Hoặc tên là vô sở tác. Hoặc tên là tịch diệt. Hoặc tên là đã thiêu sạch. Hoặc tên là xả gánh nặng. Hoặc tên là đã trừ hoại.
      Các Phật tử ! Nói về khổ diệt đạo Thánh đế, ở thế giới Phong Ích, hoặc tên là hành tịch diệt. Hoặc tên là hạnh xuất ly. Hoặc tên là siêng tu chứng. Hoặc tên là đi an ổn. Hoặc tên là vô lượng thọ. Hoặc tên là khéo biết rõ. Hoặc tên là đạo cứu kính. Hoặc tên là khó tu tập. Hoặc tên là đến bờ kia. Hoặc tên là vô năng thắng.
        Các Phật tử ! Thế giới Phong Ích, nói về bốn Thánh đế, có các danh từ như vậy cả thảy bốn trăm ức mười ngàn danh từ. Tùy tâm chúng sinh đều khiến cho được điều phục.
      Các Phật tử ! Thế giới Ta Bà nầy, nói về khổ Thánh đế, có rất nhiều danh từ. Ở thế giới Nhiếp Thủ, hoặc tên là hay kiếp đoạt. Hoặc tên là bạn chẳng tốt. Hoặc tên là nhiều sợ sệt. Hoặc tên là đủ thứ hí luận. Hoặc tên là tánh địa ngục. Hoặc tên là nghĩa chẳng thật. Hoặc tên là gánh tham dục. Hoặc tên là căn sâu nặng. Hoặc tên là tùy tâm chuyển. Hoặc tên là căn bổn không.
      Các Phật tử ! Nói về khổ tập Thánh đế ở thế giới Nhiếp Thủ đó, hoặc tên là tham trước. Hoặc tên là ác thành biện. Hoặc tên là quá ác. Hoặc tên là mau lẹ. Hoặc tên là hay chấp lấy. Hoặc tên là tưởng. Hoặc tên là có quả. Hoặc tên là không thể nói. Hoặc tên là không thể lấy. Hoặc tên là lưu chuyển.
      Các Phật tử ! Nói về khổ diệt Thánh đế, ở thế giới Nhiếp Thủ, hoặc tên là không thối chuyển. Hoặc tên là lìa nói năng. Hoặc tên là chẳng tướng trạng. Hoặc tên là đáng vui mừng. Hoặc tên là kiên cố. Hoặc tên là thượng diệu. Hoặc tên là lìa ngu si. Hoặc tên là diệt tận. Hoặc tên là xa lìa ác. Hoặc tên là ra khỏi.
      Các Phật tử ! Nói về khổ diệt đạo Thánh đế, ở thế giới Nhiếp Thủ đó, hoặc tên là lìa lời lẽ. Hoặc tên là vô tránh. Hoặc tên là giáo đạo. Hoặc tên là thiện hồi hướng. Hoặc tên là đại thiện xảo. Hoặc tên là phương tiện khác nhau. Hoặc tên là như hư không. Hoặc tên là hạnh tịch diệt. Hoặc tên là thắng trí. Hoặc tên là năng liễu nghĩa.
      Các Phật tử ! Thế giới Nhiếp Thủ nói về bốn Thánh đế, có các danh từ như vậy, cả thảy bốn trăm ức mười ngàn danh từ. tùy theo tâm của chúng sinh mà khiến cho được điều phục.
      Các Phật tử ! Ở thế giới Ta Bà nầy, nói về khổ Thánh đế có rất nhiều danh từ. Ở thế giới Nhiêu Ích, hoặc tên là gánh nặng. Hoặc tên là không vững chắc. Hoặc tên là như tặc. Hoặc tên là già chết. Hoặc tên là ái sở thành. Hoặc tên là lưu chuyển. Hoặc tên là mệt nhọc. Hoặc tên là tướng trạng ác. Hoặc tên là sinh trưởng. Hoặc tên là bén nhọn.
      Các Phật tử ! Nói về khổ tập Thánh đế, ở thế giới Nhiêu Ích, hoặc tên là bại hoại. Hoặc tên là hỗn trược. Hoặc tên là thối thất. Hoặc tên là không có sức. Hoặc tên là tán mất. Hoặc tên là trái ngược. Hoặc tên là không hòa hợp. Hoặc tên là sở tác. Hoặc tên là lấy. Hoặc tên là ý dục.
      Các Phật tử ! Nói về khổ diệt Thánh đế, ở thế giới Nhiêu Ích đó, hoặc tên là ra ngục. Hoặc tên là chân thật. Hoặc tên là lìa nạn. Hoặc tên là che hộ. Hoặc tên là lìa ác. Hoặc tên là tùy thuận. Hoặc tên là căn bổn. Hoặc tên là bỏ nhân. Hoặc tên là vô vi. Hoặc tên là không tương tục.
      Các Phật tử ! Nói về khổ diệt đạo Thánh đế, ở thế giới Nhiêu Ích đó, hoặc tên là đạt vô sở hữu. Hoặc tên là nhất thiết ấn. Hoặc tên là tam muội tạng. Hoặc tên là được quang minh. Hoặc tên là pháp bất thối. Hoặc tên là năng tận hữu. Hoặc tên là đường rộng lớn. Hoặc tên là hay điều phục. Hoặc tên là có an ổn. Hoặc tên là căn không lưu chuyển.
      Các Phật tử ! Thế giới Nhiêu Ích, nói về bốn Thánh đế, có các danh từ như vậy, cả thảy bốn trăm ức mười ngàn danh từ. Tùy tâm của chúng sinh đều khiến cho được điều phục.
      Các Phật tử ! Thế giới Ta Bà nầy, nói về khổ Thánh đế, có rất nhiều danh từ. Ở thế giới Tiên Thiểu, hoặc tên là dục lạc hiểm. Hoặc tên là nơi trói buộc. Hoặc tên là tà hạnh. Hoặc tên là tùy thọ. Hoặc tên là không hổ thẹn. Hoặc tên là gốc tham dục. Hoặc tên là sông hằng chảy. Hoặc tên là thường phá hoại. Hoặc tên là tánh lửa lớn. Hoặc tên là nhiều ưu não.
      Các Phật tử ! Nói về khổ tập Thánh đế, ở thế giới Tiên Thiểu, hoặc tên là đất rộng. Hoặc tên là năng thú. Hoặc tên là viễn huệ. Hoặc tên là lưu nạn. Hoặc tên là sợ hãi. Hoặc tên là phóng dật. Hoặc tên là nhiếp lấy. Hoặc tên là trước xứ. Hoặc tên là chủ nhà. Hoặc tên là trói lại.
      Các Phật tử ! Nói về khổ diệt Thánh đế, ở thế giới Tiên Thiểu, hoặc tên là sung mãn. Hoặc tên là không chết. Hoặc tên là vô ngã. Hoặc tên là không tự tánh. Hoặc tên là hết phân biệt. Hoặc tên là trụ an lạc. Hoặc tên là vô hạn lượng. Hoặc tên là đoạn lưu chuyển. Hoặc tên là nơi tuyệt hành. Hoặc tên là không hai.
      Các Phật tử ! Nói về khổ diệt đạo Thánh đế, ở thế giới Tiên Thiểu đó, hoặc tên là đại quang minh. Hoặc tên là diễn thuyết hải. Hoặc tên là giản trạch nghĩa. Hoặc tên là pháp hòa hợp. Hoặc tên là lìa thủ trước. Hoặc tên là đoạn tương tục. Hoặc tên là đường rộng lớn. Hoặc tên là nhân bình đẳng. Hoặc tên là tịnh phương tiện. Hoặc tên là thấy thù thắng.
      Các Phật tử ! Thế giới Tiên Thiểu, nói về bốn Thánh đế, có các danh từ như vậy, cả thảy là bốn trăm ức mười ngàn danh từ. Tùy theo tâm của chúng sinh, đều khiến cho được điều phục.
      Các Phật tử ! Thế giới Ta Bà nầy, nói về khổ Thánh đế có rất nhiều danh từ. Ở thế giới Hoan Hỉ đó, hoặc tên là lưu chuyển. Hoặc tên là sinh ra. Hoặc tên là mất lợi. Hoặc tên là nhiễm trước. Hoặc tên là gánh nặng. Hoặc tên là khác nhau. Hoặc tên là trong hiểm. Hoặc tên là tập hội. Hoặc tên là nhà ác. Hoặc tên là tánh khổ não.
Các Phật tử ! Nói về khổ tập Thánh đế, ở thế giới Hoan Hỉ đó, hoặc tên là đất. Hoặc tên là phương tiện. Hoặc tên là phi thời. Hoặc tên là pháp chẳng thật. Hoặc tên là không đáy. Hoặc tên là nhiếp lấy. Hoặc tên là lìa giới. Hoặc tên là pháp phiền não. Hoặc tên là thấy hạn hẹp. Hoặc tên là cấu tụ.
Các Phật tử ! Nói về khổ diệt Thánh đế, ở thế giới Hoan Hỉ đó, hoặc tên là phá y chỉ. Hoặc tên là không phóng dật. Hoặc tên là chân thật. Hoặc tên là bình đẳng. Hoặc tên là thiện tịnh. Hoặc tên là không bệnh. Hoặc tên là không cong. Hoặc tên là vô tướng. Hoặc tên là tự tại. Hoặc tên là không sinh.
Các Phật tử ! Nói về khổ diệt đạo Thánh đế, ở thế giới Hoan Hỉ đó, hoặc tên là vào thắng giới. Hoặc tên là đoạn tập. Hoặc tên là siêu đẳng loại. Hoặc tên là tánh rộng lớn. Hoặc tên là hết phân biệt. Hoặc tên là thần lực đạo. Hoặc tên là các phương tiện. Hoặc tên là chánh niệm hành. Hoặc tên là đường thường tịch. Hoặc tên là nhiếp giải thoát.
      Các Phật tử ! Thế giới Hoan Hỉ, nói về bốn Thánh đế, có các danh từ như vậy, cả thảy là bốn trăm ức mười ngàn danh từ. Tùy theo tâm của chúng sinh mà khiến cho được điều phục.
      Các Phật tử ! Ở thế giới Ta Bà nầy, nói về khổ Thánh đế có rất nhiều danh từ. Ở thế giới Quan Thược đó, hoặc tên là tướng bại hoại. Hoặc tên là như bôi khí. Hoặc tên là ngã sở thành. Hoặc tên là các thú thân. Hoặc tên là số lưu chuyển. Hoặc tên là các cửa ác. Hoặc tên là tánh khổ. Hoặc tên là xả bỏ. Hoặc tên là vô vị. Hoặc tên là đến đi.
      Các Phật tử ! nói về khổ tập Thánh đế, ở thế giới Quan Thược, hoặc tên là hạnh. Hoặc tên là phẫn độc. Hoặc tên là hòa hợp. Hoặc tên là thọ chi. Hoặc tên là ngã tâm. Hoặc tên là tạp độc. Hoặc tên là hư xưng. Hoặc tên là trái ngược. Hoặc tên là nhiệt não. Hoặc tên là kình hãi.
      Các Phật tử ! Nói về khổ diệt Thánh đế, ở thế giới Quan Thược, hoặc tên là không tích tập. Hoặc tên là bất khả đắc. Hoặc tên là thuốc diệu. Hoặc tên là không thể hoại. Hoặc tên là vô trước. Hoặc tên là vô lượng. Hoặc tên là rộng lớn. Hoặc tên là giác phần. Hoặc tên là lìa nhiễm. Hoặc tên là không chướng ngại.
      Các Phật tử ! Nói về khổ diệt đạo Thánh đế, ở thế giới Quan Thược, hoặc tên là hành an ổn. Hoặc tên là lìa dục. Hoặc tên là thật cứu kính. Hoặc tên là vào nghĩa. Hoặc tên là tánh cứu kính. Hoặc tên là tịnh hiện. Hoặc tên là nhiếp niệm. Hoặc tên là hướng giải thoát. Hoặc tên là cứu tế. Hoặc tên là thắng hạnh.
      Các Phật tử ! Thế giới Quan Thược, nói về bốn Thánh đế, có các danh từ như vậy, cả thảy bốn trăm ức mười ngàn danh từ. Tùy theo tâm của chúng sinh, mà khiến cho họ đều được điều phục.
      Các Phật tử ! Thế giới Ta Bà nầy, nói về khổ Thánh đế có rất nhiều danh từ. Ở thế giới Chấn Âm, hoặc tên là giấu lỗi. Hoặc tên là thế gian. Hoặc tên là sở y. Hoặc tên là kiêu mạn. Hoặc tên là tín nhiễm trước. Hoặc tên là chảy nhanh. Hoặc tên là không thể vui. Hoặc tên là che giấu. Hoặc tên là diệt nhanh. Hoặc tên là khó điều phục.
      Các Phật tử ! Nói về khổ tập Thánh đế, ở thế giới Chấn Âm đó, hoặc tên là nên chế phục. Hoặc tên là tâm hướng. Hoặc tên là hay trói. Hoặc tên là theo niệm khởi. Hoặc tên là đến phía sau. Hoặc tên là cùng hòa hợp. Hoặc tên là phân biệt. Hoặc tên là cửa. Hoặc tên là thổi động. Hoặc tên là ẩn che.
      Các Phật tử ! Nói về khổ diệt Thánh đế, ở thế giới Chấn Âm, hoặc tên là không chỗ nương. Hoặc tên là không thể lấy. Hoặc tên là quay về. Hoặc tên là lìa tranh luận. Hoặc tên là nhỏ. Hoặc tên là lớn. Hoặc tên là thiện tịnh. Hoặc tên là vô tận. Hoặc tên là rộng lớn. Hoặc tên là vô đẳng giá.
      Các Phật tử ! Nói về khổ diệt đạo Thánh đế, ở thế giới Chấn Âm đó, hoặc tên là quán sát. Hoặc tên là hay phá địch. Hoặc tên là ấn biết rõ. Hoặc tên là tánh hay vào. Hoặc tên là khó đối địch. Hoặc tên là nghĩa vô hạn. Hoặc tên là trí vào được. Hoặc tên là đạo hòa hợp. Hoặc tên là luôn không động. Hoặc tên là nghĩa thù thắng.
      Các Phật tử ! Thế giới Chấn Âm, nói về bốn Thánh đế, có các danh từ như vậy, cả thảy bốn trăm ức mười ngàn danh từ. Tùy theo tâm của chúng sinh, mà khiến cho đều được điều phục.
      Các Phật tử ! Như ở thế giới Ta Bà nầy, nói về bốn Thánh đế, có bốn trăm ức mười ngàn danh từ. Như vậy phương đông, trăm ngàn ức, vô số, vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lường, bất khả thuyết. Khắp pháp giới, hư không giới, hết thảy thế giới. Trong một thế giới đó, nói bốn Thánh đế cũng có bốn trăm ức mười ngàn danh từ. Tùy theo tâm của chúng sinh, đều khiến cho được điều phục. Như phương đông, phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế.
      Các Phật tử ! Như thế giới Ta Bà, có mười phương thế giới như nói ở trên. Tất cả các thế giới đó, cũng có mười phương thế giới như vậy. Mỗi mỗi thế giới, nói về khổ Thánh đế, có trăm ức vạn danh từ. Nói về tập Thánh đế, diệt Thánh đế, đạo Thánh đế, mỗi thế giới, cũng đều có trăm ức vạn danh từ. Đều tùy theo tâm ưa thích của chúng sinh, khiến cho họ đều được điều phục.
 
 
 
 
 

 

 
 
KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
                                        
QUYỂN MƯỜI BA
 
PHẨM QUANG MINH GIÁC THỨ CHÍN
 
      Bấy giờ, dưới hai bàn chân của đức Thế Tôn, phóng ra trăm ức quang minh, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Có trăm ức cõi Diêm Phù Đề. Trăm ức cõi Phất Bà Đề. Trăm ức cõi Cù Gia Ni. Trăm ức cõi Uất Đơn Việt. Trăm ức biển lớn. Trăm ức núi Luân Vi. Trăm ức Bồ Tát thọ sinh. Trăm ức Bồ Tát xuất gia. Trăm ức Như Lai thành Chánh Giác. Trăm ức Như Lai chuyển pháp luân. Trăm ức Như Lai vào Niết Bàn. Trăm ức núi Tu Di. Trăm ức Thiên chúng trời Tứ Thiên Vương. Trăm ức trời Tam Thập Tam. Trăm ức trời Dạ Ma. Trăm ức trời Đâu Suất. Trăm ức trời Hóa Lạc. Trăm ức trời Tha Hóa Tự Tại. Trăm ức trời Phạm chúng. Trăm ức trời Quang Âm. Trăm ức trời Biến Tịnh. Trăm ức trời Quảng Quả. Trăm ức trời Sắc Cứu Kính. Hết thảy trong đó, thảy đều hiện rõ.
      Như nơi nầy, thấy đức Phật Thế Tôn ngồi trên tòa sư tử liên hoa tạng, có các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, cùng vây quanh đức Phật. Ở trong trăm ức cõi Diêm Phù Đề, cũng có trăm ức đức Như Lai ngồi như vậy.
      Do nhờ thần lực của Phật, nên mỗi phương trong mười phương, đều có một vị đại Bồ Tát. Mỗi vị Bồ Tát, đều cùng với các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, tụ lại đi đến chốn Phật. Tên của các Ngài là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ Tát Giác Thủ, Bồ Tát Công Đức Thủ, Bồ Tát Mục Thủ, Bồ Tát Tinh Tấn Thủ, Bồ Tát Pháp Thủ, Bồ Tát Trí Thủ, Bồ Tát Hiền Thủ.
      Các Bồ Tát đó, đến từ các cõi nước, đó là : Thế giới Kim Sắc, thế giới Diệu Sắc, thế giới Liên Hoa Sắc, thế giới Đảm Bặc Hoa Sắc, thế giới Ưu Bát La Hoa Sắc, thế giới Kim Sắc, thế giới Bảo Sắc, thế giới Kim Cang Sắc, thế giới Pha Lê Sắc, thế giới Bình Đẳng Sắc.
      Các Bồ Tát đó, đều ở chỗ các đức Phật, tu phạm hạnh thanh tịnh. Đó là : Phật Bất Động Trí, Phật Vô Ngại Trí, Phật Giải Thoát Trí, Phật Oai Nghi Trí, Phật Minh Tướng Trí, Phật Cứu Kính Trí, Phật Tối Thắng Trí, Phật Tự Tại Trí, Phật Phạm Trí, Phật Quán Sát Trí.
      Bấy giờ, tất cả mọi nơi, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi đều ở chỗ đức Phật, đồng thời phát ra tiếng, nói bài kệ rằng:
      Nếu thấy được Chánh Giác
      Giải thoát lìa các lậu
      Không chấp tất cả đời
      Đó chẳng chứng đạo nhãn.
      Nếu biết được Như Lai
      Thể tướng chẳng chỗ có
      Tu tập thấu rõ được
      Người đó sớm thành Phật.
      Hay thấy thế giới nầy
      Mà tâm chẳng giao động
      Nơi  thân Phật cũng thế
      Sẽ thành bậc Thắng Trí.
      Nếu nơi Phật và pháp
      Mà tâm hiểu bình đẳng
      Hai niệm không hiện tiền
      Sẽ đạt được Phật vị.
      Nếu thấy Phật và thân
      Bình đẳng mà an trụ
      Không trụ không chỗ vào
      Sẽ thành bậc Khó Gặp.
      Sắc thọ chẳng có số
      Tưởng hành thức cũng thế
      Nếu biết được như vậy
      Sẽ làm Đại Mâu Ni.
      Thấy thế và xuất thế
      Tất cả đều siêu việt
      Khéo biết tất cả pháp
      Sẽ thành Đại Quang Diệu.
      Nếu nơi Nhất thiết trí
      Phát sinh tâm hồi hướng
      Thấy tâm không chỗ sinh
      Sẽ được Đại Danh Xưng.
Chúng sinh chẳng có sinh
Cũng lại không có hoại
Nếu được trí như vậy
Sẽ thành Vô Thượng Đạo.
      Trong một hiểu vô lượng
      Trong vô lượng hiểu một
      Biết rõ cùng sinh khởi
      Sẽ thành Vô Sở Úy.
 
      Bấy giờ, quang minh vượt qua thế giới đó, chiếu khắp phương đông mười cõi Phật. Phương tây, nam, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế. Trong mỗi thế giới, đều có trăm ức cõi Diêm Phù Đề, cho đến trăm ức trời Sắc Cứu Kính. Hết thảy trong đó, đều thấy hiện rõ, như thấy đức Phật Thế Tôn ở nơi đây, ngồi trên tòa sư tử liên hoa tạng, có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, cùng nhau vây quanh.
      Trong mỗi thế giới đó, đều có trăm ức cõi Diêm Phù Đề, trăm ức đức Như Lai, cũng ngồi như thế. Đều nhờ thần lực của Phật, nên mỗi phương trong mười phương, đều có một vị đại Bồ Tát, cùng với các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, tụ lại cùng đến chốn Phật. Những vị đại Bồ Tát đó, tức là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi .v.v... từ cõi nước của Ngài đến .v.v… Đó là thế giới Kim Sắc .v.v... Đức Phật ở thế giới đó, hiệu là Bất Động Trí Như Lai .v.v...
Bấy giờ, tất cả mọi nơi, đều có Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở chỗ đức Phật, đồng thời phát ra tiếng, nói bài kệ rằng:
      Chúng sinh không trí huệ
      Bị ái độc làm hại
      Vì đó cầu bồ đề
      Các Phật pháp như vậy.
      Khắp thấy nơi các pháp
      Hai bên đều xả lìa
      Thành đạo vĩnh chẳng lùi
      Chuyển pháp luân vô đẳng.
      Kiếp không thể nghĩ bàn
      Tinh tấn tu các hạnh
      Vì độ các chúng sinh
      Đây là sức Đại Tiên.
      Đạo Sư hàng các ma
      Dũng kiện vô năng thắng
      Trong quang diễn diệu nghĩa
      Từ bi nên như vậy.
      Phật dùng tâm trí huệ
      Phá các phiền não chướng
      Một niệm thấy tất cả
      Đó là thần lực Phật.
      Đánh vang trống chánh pháp
      Giác ngộ mười phương cõi
      Đều khiến hướng bồ đề
      Sức tự tại được vậy.
      Chẳng động vô biên cảnh
      Mà đến các ức cõi
      Nơi có chẳng chấp trước
      Đó tự tại như Phật.
      Trong mỗi mỗi địa ngục
      Trải qua vô lượng kiếp
      Vì độ các chúng sinh
      Mà nhẫn được khổ đó.
      Không tiếc thân mạng mình
      Thường hộ các Phật pháp
      Vô ngã tâm điều nhu
      Đắc được đạo Như Lai.
 
      Bấy giờ, quang minh vượt qua mười  thế giới, chiếu khắp trăm thế giới ở phương đông. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế. Trong các thế giới đó, đều có trăm ức cõi Diêm Phù Đề, cho đến trăm ức cõi trời Sắc Cứu Kính, hết thảy đều hiện ra trong đó.
      Trong mỗi cõi Diêm Phù Đề đó, đều thấy đức Như Lai ngồi trên tòa sư tử liên hoa tạng, có các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, cùng nhau vây quanh. Do nhờ thần lực của Phật, mà mỗi phương trong mười phương, đều có một vị đại Bồ Tát, cùng với các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, tụ lại đi đến chốn Phật. Các đại Bồ Tát đó là : Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi .v.v… đến từ thế giới Kim Sắc .v.v… đức Phật ở thế giới đó, hiệu là Bất Động Trí Như Lai .v.v…
      Bấy giờ, tất cả mọi nơi, đều có Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, ở chỗ đức Phật, đồng thời phát ra tiếng, nói bài kệ rằng:
      Phật rõ pháp như huyễn
      Thông đạt không chướng ngại
      Tâm tịnh lìa chấp trước
      Điều phục các quần sinh.
      Hoặc thấy Phật sơ sinh
      Sắc đẹp như núi vàng
      Trụ thân cuối cùng này
      Vĩnh làm Nhân Trung Nguyệt.
      Hoặc thấy Phật bước đi
      Đủ vô lượng công đức
      Phước huệ đều thiện xảo
      Trượng Phu Sư Tử bước.
      Hoặc thấy mắt xanh biếc
      Quán sát khắp mười phương
      Có lúc hiện mỉm cười
      Vì thuận ý chúng sinh.
      Hoặc thấy sư tử hống
      Thân thù thắng vô tỉ
      Thị hiện sinh lần cuối
      Nói pháp đều chân thật.
      Hoặc thấy Phật xuất gia
      Giải thoát mọi ràng buộc
      Tu trị các hạnh Phật
      Thường ưa quán tịch diệt.
      Hoặc thấy ngồi đạo tràng
      Giác biết tất cả pháp
      Công đức đến bờ kia
      Sạch si tối phiền não.
      Hoặc thấy Thắng Trượng Phu
      Đầy đủ tâm đại  bi
      Chuyển pháp luân thượng diệu
      Độ vô lượng chúng sinh.
      Hoặc thấy Sư Tử Hống
      Oai quang tối thù thắng
      Vượt  tất cả thế gian
      Sức thần thông vô đẳng.
      Hoặc thấy tâm tịch tĩnh
      Như thế đăng vĩnh diệt
      Hiện đủ thứ thần thông
      Thập Lực làm như vậy.
 
Bấy giờ, quang minh vượt qua trăm thế giới, chiếu khắp phương đông ngàn thế giới. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế. Trong mỗi thế giới đó, đều có trăm ức cõi Diêm Phù Đề, cho đến trăm ức cõi trời Sắc Cứu Kính, hết thảy đều hiện rõ trong đó.
Trong mỗi cõi Diêm Phù Đề đó, đều thấy đức Như Lai ngồi trên tòa sư tử liên hoa tạng, có các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật cùng vây quanh. Do nhờ thần lực của Phật, nên mỗi phương trong mười phương, đều có một đại Bồ Tát, đều cùng với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, tụ lại cùng đi đến chốn Phật. Các vị đại Bồ Tát đó, là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi .v.v... đến từ thế giới Kim Sắc .v.v.... đức Phật ở thế giới đó, hiệu là Bất Động Trí Như Lai .v.v...
      Bấy giờ, tất cả Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, ở chỗ các đức Phật, đều đồng thời phát ra tiếng, nói bài kệ rằng:
      Phật nơi pháp thâm sâu
      Thông đạt không ai bằng
      Chúng sinh không biết được
      Phật khai thị thứ lớp.
      Ta tin chưa từng có
      Cái ta cũng đều không
      Sao lại các Như Lai
      Đắc được thân có hình.
      Minh hạnh bậc giải thoát
      Vô số không ai bằng
      Các nhân lượng thế gian
      Tìm lỗi không thể được.
      Phật chẳng thế gian uẩn
      Pháp sinh tử xứ giới
      Số pháp không thể thành
      Nên hiệu Nhân Sư Tử.
      Phật tánh vốn vắng lặng
      Trong ngoài đều giải thoát
      Lìa tất cả vọng niệm
      Pháp vô đẳng như vậy.
      Thể tánh thường không động
      Không ta không đến đi
      Mà giác ngộ thế gian
      Vô biên đều điều phục.
      Phật thường quán tịch diệt
      Một tướng chẳng có hai
      Tâm Phật chẳng tăng giảm
      Hiện vô lượng thần lực.
      Không làm các chúng sinh
      Nghiệp báo nhân duyên hành
      Mà thấu rõ vô ngại
      Pháp Thiện Thệ như vậy.
      Đủ thứ các chúng sinh
      Lưu chuyển trong mười phương
      Như Lai chẳng phân biệt
      Độ thoát vô biên loài.
      Chư Phật sắc vàng thật
      Chẳng có khắp các cõi
      Tùy tâm chúng sinh thích
      Vì nói pháp tịch diệt.
 
      Bấy giờ, quang minh vượt qua ngàn thế giới, chiếu khắp phương đông mười ngàn thế giới. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế. Trong mỗi thế giới đó, đều có trăm ức cõi Diêm Phù Đề, cho đến trăm ức trời Sắc Cứu Kính, hết thảy đều hiện ra trong đó.
      Trong mỗi cõi Diêm Phù Đề đó, đều thấy Như Lai ngồi trên tòa sư tử liên hoa tạng. Có các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, đều cùng vây quanh. Do nhờ thần lực của Phật, nên mỗi phương trong mười phương, đều có một vị đại Bồ Tát, cùng với các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, tụ lại cùng đi đến chốn Phật. Các đại Bồ Tát đó, tức là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi .v.v… đến từ thế giới Kim Sắc .v.v… đức Phật ở thế giới đó, hiệu là Bất Động Trí Như Lai .v.v...
      Bấy giờ, tất cả mọi nơi, đều có Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở chỗ đức Phật, đồng thời phát ra tiếng, nói bài kệ rằng:
      Phát khởi tâm đại bi
      Cứu hộ các chúng sinh
      Ra hẳn chúng trời người
      Nghiệp như vậy nên làm.
      Ý thường tin ưa Phật
      Tâm đạo không thối chuyển
      Gần gũi các Như Lai
      Nghiệp như vậy nên làm.
      Chí ưa công đức Phật
      Tâm họ vĩnh không lùi
      Trụ nơi huệ thanh lương
      Nghiệp như vậy nên làm.
      Trong tất cả oai nghi
      Thường nhớ công đức Phật
      Ngày đêm không  gián đoạn
      Nghiệp như vậy nên làm.
      Quán vô biên ba đời
      Học công đức Phật đó
      Tâm thường không nhàm mỏi
      Nghiệp như vậy nên làm.
      Quán thân như thật tướng
      Tất cả đều tịch diệt
      Lìa ngã chẳng chấp ngã
      Nghiệp như vậy nên làm.
      Đẳng quán tâm chúng sinh
      Chẳng khởi các phân biệt
      Vào trong cảnh chân thật
      Nghiệp như vậy nên làm.
      Quán sát vô biên giới
      Khắp uống tất cả biển
      Thần thông đại trí lực
      Nghiệp như vậy nên làm.
      Tư duy các cõi nước
      Sắc với chẳng sắc tướng
      Tất cả đều biết được
      Nghiệp như vậy nên làm.
      Bụi mười phương cõi nước
      Một bụi là một Phật
      Đều biết được số đó
      Nghiệp như vậy nên làm.
 
      Bấy giờ, quang minh vượt qua mười ngàn thế giới, chiếu khắp phương đông trăm ngàn thế giới. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế. Trong mỗi thế giới đó, đều có ức cõi Diêm Phù Đề, cho đến trăm ức cõi trời Sắc Cứu Kính, hết thảy đều hiện rõ trong đó.
      Trong mỗi cõi Diêm Phù Đề, đều thấy Như Lai ngồi trên tòa sư tử liên hoa tạng, có các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, cùng nhau vây quanh. Nhờ thần lực của Phật, nên mỗi phương trong mười phương, đều có một vị đại Bồ Tát, cùng với các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, tụ lại cùng nhau đi đến chốn Phật. Các đại Bồ Tát đó, tức là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi .v.v... đến từ thế giới Kim Sắc .v.v… đức Phật ở thế giới đó, hiệu là Bất Động Trí Như Lai .v.v...
      Bấy giờ, tất cả mọi nơi, đều có Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở chỗ đức Phật, đồng thời phát ra tiếng, nói bài kệ rằng:
      Nếu dùng uy đức sắc chủng tộc
      Để thấy nhân trung Điều Ngự Sư
      Đó là bệnh mắt thấy điên đảo
      Người đó không biết pháp tối thắng.
      Sắc hình các tướng Như Lai thảy
      Tất cả thế gian không dò được
      Ức Na Do kiếp cùng suy lường
      Sắc tướng uy đức chuyển vô biên.
      Như Lai không dùng tướng làm thể
      Nhưng vô tướng là pháp tịch diệt
       Thân tướng oai nghi đều đầy đủ
        Tùy thế gian thích đều thấy được.
      Phật pháp vi diệu khó lường được
      Tất cả lời nói không diễn được
      Chẳng phải hòa hợp chẳng không hợp
      Thể tánh tịch diệt không sắc tướng.
        Thân Phật không sinh vượt hí luận
        Chẳng phải uẩn tụ pháp khác biệt
      Được sức tự tại sẽ thấy Phật
      Sở hành vô úy lìa lời lẽ.
      Thân tâm đều bình đẳng
      Trong ngoài đều giải thoát
      Vĩnh kiếp trụ chánh niệm
      Không chấp không ràng buộc.
      Người ý tịnh quang minh
      Sở hành chẳng nhiễm trước
      Trí nhãn đâu chẳng đến
      Lợi chúng sinh rộng lớn.
      Một thân làm vô lượng
      Vô lượng lại làm một
      Biết rõ các thế  gian
      Hiện hình khắp tất cả.
      Thân nầy chẳng hình tướng
      Cũng chẳng chỗ tích tụ
      Vì chúng sinh phân biệt
      Thấy Phật đủ thứ thân.
      Tâm phân biệt thế gian
      Tâm đó chẳng chỗ có
      Như Lai biết pháp nầy
      Như vậy thấy thân Phật.
 
      Bấy giờ, quang minh vượt qua trăm ngàn thế giới, chiếu khắp phương đông trăm vạn thế giới. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế. Trong mỗi thế giới đó, đều có trăm ức cõi Diêm Phù Đề, cho đến trăm ức trời Sắc Cứu Kính, hết thảy trong đó đều hiện rõ.
      Trong mỗi cõi Diêm Phù Đề đó, đều thấy Như Lai ngồi trên tòa sư tử liên hoa tạng, có các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, tụ lại cùng đến chốn Phật. Các vị Bồ Tát đó, là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi .v.v.... đến từ thế giới Kim Sắc .v.v... đức Phật ở thế giới đó, hiệu là Bất Động Trí Như Lai .v.v…
      Bấy giờ, khắp tất cả mọi nơi, đều có Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở chỗ đức Phật, đồng thời phát ra tiếng, nói bài kệ rằng:
      Như Lai tự tại nhất
      Hơn đời chẳng chỗ nương
      Đủ tất cả công đức
      Độ thoát nơi các cõi.
      Không nhiễm không chấp trước
      Không tưởng không y chỉ
      Thể tánh không thể lường
      Thấy được đều khen ngợi.
      Quang minh khắp thanh tịnh
      Trần lũy đều tẩy sạch
      Chẳng động lìa hai bên
      Đây là trí Như Lai.
      Nếu thấy được Như Lai
      Thân tâm lìa phân biệt
      Tức nơi tất cả pháp
      Dứt hẳn các nghi trệ.
      Trong tất cả thế gian
      Nơi nơi chuyển pháp luân
      Không tin không chỗ chuyển
      Đạo Sư phương tiện nói.
      Nơi pháp chẳng nghi ngại
      Dứt hẳn các hí luận
      Không sinh tâm phân biệt
      Là niệm Phật bồ đề.
      Biết rõ pháp khác biệt
      Chẳng chấp nơi lời nói
      Không có một với nhiều
      Gọi là tùy Phật giáo.
      Trong nhiều không một tánh
      Một cũng không có nhiều
      Như vậy hai đều xả
      Khắp vào công đức Phật.
      Chúng sinh và cõi nước
      Tất cả đều tịch diệt
      Không nương không phân biệt
      Vào được Phật bồ đề.
      Chúng sinh và cõi nước
      Một khác bất khả đắc
      Khéo quán sát như vậy
      Gọi biết nghĩa Phật pháp.
 
      Bấy giờ, quang minh vượt qua trăm vạn thế giới, chiếu khắp phương đông một ức thế giới. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế. Trong mỗi thế giới đó, đều có trăm ức cõi Diêm Phù Đề, cho đến trăm ức trời Sắc Cứu Kính, hết thảy trong đó, thảy đều hiện rõ.
      Trong mỗi cõi Diêm Phù Đề, đều thấy Như Lai ngồi trên tòa sư tử liên hoa tạng. Có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, cùng vây quanh Phật. Do nhờ thần lực của Phật, nên mỗi phương trong mười phương, đều có một vị đại Bồ Tát, cùng với các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, tụ lại cùng nhau đi đến chốn Phật. Các vị Bồ Tát đó, tức là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi .v.v... đức Phật ở thế giới đó, tức là Bất Động Trí Như Lai .v.v...
      Bấy giờ, tất cả mọi nơi, đều có Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở chỗ đức Phật, đồng thời phát ra tiếng, nói bài kệ rằng:
      Trí huệ vô đẳng pháp vô biên
      Vượt các biển cõi đến bờ kia
       Thọ lượng quang minh đều vô tỉ
        Là sức phương tiện bậc Công Đức.
      Hết thảy Phật pháp đều thấy rõ
      Thường quán ba đời chẳng nhàm mỏi
      Tuỳ duyên cảnh giới chẳng phân biệt
      Đây sức phương tiện bậc Nan Tư.
       Thích quán chúng sinh chẳng sinh tưởng
      Thấy khắp các cõi không tưởng cõi
        Luôn trụ thiền tịch chẳng buộc tâm
        Đây sức phương tiện Vô Ngại Huệ.
      Khéo léo thông đạt tất cả pháp
      Chánh niệm siêng tu đường Niết Bàn
      Vui nơi giải thoát lìa bất bình
      Đây sức phương tiện bậc Tịch Diệt.
      Hay khuyên người hướng Phật bồ đề
      Hướng Nhất thiết trí như pháp giới
       Khéo hóa chúng sinh vào diệu đế
        Đây sức phương tiện trụ tâm Phật.
      Pháp của Phật nói đều thâm nhập
        Trí huệ rộng lớn chẳng chướng ngại
      Tất cả xứ hành đều viên mãn
Đây sức phương tiện Tự Tại tu.
      Hằng trụ Niết Bàn như hư không
       Tùy tâm hóa hiện đâu chẳng đến
        Đây nương vô tướng mà làm tướng
      Đây phương tiện bậc Đáo Nan Đáo.
      Ngày đêm năm tháng và số kiếp
      Thế giới thủy chung tướng thành hoại
      Như vậy nghĩ nhớ đều biết rõ
Đây phương tiện bậc Thời Số Trí.
      Tất cả chúng sinh có sinh diệt
      Sắc với phi sắc tưởng phi tưởng
      Hết thảy danh từ đều biết rõ
      Đây phương tiện của bậc Nan Tư.
      Đời quá khứ hiện tại vị lai
      Hết thảy lời nói đều biết rõ
      Nên biết ba đời đều bình đẳng
      Đây phương tiện bậc Vô Tỉ Giải.
 
      Bấy giờ, quang minh vượt qua một ức thế giới, chiếu khắp phương đông mười ức thế giới. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế. Trong mỗi thế giới đó, đều có trăm ức cõi Diêm Phù Đề, cho đến trăm ức trời Sắc Cứu Kính, hết thảy ở trong đó, thảy đều hiện rõ.
      Trong mỗi cõi Diêm Phù Đề, đều thấy Như Lai ngồi trên toà sư tử liên hoa tạng. Có các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, cùng nhau vây quanh Phật. Nhờ thần lực của Phật, nên mỗi phương trong mười phương, đều có một vị đại Bồ Tát, cùng với các Bồ Tát, nhiều như số hại bụi mười cõi Phật, tụ lại cùng nhau đi đến chốn Phật. Các đại Bồ Tát đó, tức là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi .v.v... đến từ thế giới Kim Sắc .v.v... đức Phật ở thế giới đó, hiệu là Bất Động Trí Như Lai .v.v...
Bấy giờ, tất cả mọi nơi, đều có Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở chỗ đức Phật, đồng thời phát ra tiếng, nói bài kệ rằng:
Khổ hạnh rộng lớn đều tu tập
Ngày đêm tinh siêng chẳng nhàm mỏi
Đã độ khó độ sư tử hống
Khắp hoá chúng sinh là hạnh Phật.
      Chúng sinh lưu chuyển biển ái dục
      Lưới vô minh che lo bức bách
      Chí nhân dũng mãnh đều đoạn trừ
        Đương nhiên thệ cũng là hạnh Phật.
        Thế gian phóng dật chấp năm dục
      Chẳng thật phân biệt thọ các khổ
       Phụng hành Phật giáo thường nhiếp tâm
       Thệ độ chúng sinh là hạnh Phật.
       Chúng sinh chấp ngã vào sinh tử
      Cầu bờ mé kia không thể được
      Khắp thờ Như Lai được diệu pháp
      Vì họ diễn nói là hạnh Phật.
      Chúng sinh không tựa bệnh ràng buộc
      Thường chìm đường ác tăng ba độc
      Lửa lớn dữ dội luôn thiêu đốt
      Tịnh tâm độ họ là hạnh Phật.
      Chúng sinh mê hoặc mất chánh đạo
        Thường hành đường tà vào nhà tối
      Vì họ đốt đèn lớn chánh pháp
      Luôn luôn chiếu sáng là hạnh Phật.
      Chúng sinh chìm nổi các biển cõi
      Sầu khổ vô bờ chẳng biết về
      Vì họ kiến tạo thuyền pháp lớn
      Đều khiến độ được là hạnh Phật.
       Thấy chúng sinh tại đường hiểm
      Khổ già bệnh chết luôn bức bách
      Tu các phương tiện chẳng hạn lượng
      Thệ sẽ độ hết là hạnh Phật.
      Nghe pháp tin hiểu chẳng nghi hoặc
      Rõ tánh không tịch chẳng sợ hãi
      Theo hình sáu nẻo khắp mười phương
      Khắp dạy quần mê là hạnh Phật.
 
      Bấy giờ, quang minh của Phật vượt qua mười ức thế giới, chiếu khắp phương đông trăm ức thế giới, ngàn ức thế giới, trăm ngàn ức thế giới, Na Do Tha ức thế giới, trăm Na Do Tha thế giới, ngàn Na Do Tha thế giới, trăm ngàn Na Do Tha thế giới. Như vậy, vô số, vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lường, bất khả thuyết. Tận pháp giới, hư không giới, hết thảy thế giới. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế.
      Trong mỗi thế giới đó, đều có trăm ức cõi Diêm Phù Đề, cho đến trăm ức trời Sắc Cứu Kính, hết thảy trong đó, đều hiện rõ ràng.
      Trong mỗi cõi Diêm Phù Đề đó, đều thấy Như Lai ngồi trên tòa sư tử liên hoa tạng. Có các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, cùng vây quanh Phật. Do nhờ thần lực của Phật, nên mỗi phương trong mười phương, đều có một vị đại Bồ Tát, đều cùng với các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, tụ lại cùng nhau đi đến chốn Phật. Các vị đại Bồ Tát đó, tức là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi .v.v... đến từ thế giới Kim Sắc .v.v... đức Phật ở thế giới đó, là Bất Động Trí Như Lai .v.v...
      Bấy giờ, tất cả mọi nơi, đều có Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở chỗ đức Phật, đồng thời phát ra tiếng, nói bài kệ rằng:
      Một niệm quán khắp vô lượng kiếp
        Không đến không đi cũng không ở
      Như vậy biết rõ việc ba đời
       Vượt các phương tiện thành Thập Lực.
      Mười phương vô tỉ Thiện Danh Xưng
      Vĩnh lìa các nạn thường hoan hỉ
      Khắp đến tất cả các cõi nước
      Rộng vì tuyên dương pháp như vậy.
      Vì lợi chúng sinh cúng dường Phật
      Như ý đó được quả tương tự
      Nơi tất cả pháp đều thuận biết
       Khắp trong mười phương hiện thần lực.
Ban sơ cúng Phật ý nhu nhẫn
      Vào sâu thiền định quán pháp tánh
        Khắp khuyên chúng sinh phát đạo tâm
      Nhờ đó sớm thành quả vô thượng.
       Mười phương cầu pháp lòng không đổi
      Vì tu công đức khiến đầy đủ
      Có, không hai tướng đều diệt trừ
      Người nầy thấy Phật đúng chân thật.
Đến khắpmười phương các cõi nước
        Rộng nói diệu pháp hưng nghĩa lợi
      Trụ nơi thật tế chẳng giao động
      Người nầy công đức đồng với Phật.
        Như Lai chuyển bánh xe diệu pháp
      Tất cả đều là bồ đề phần
      Nếu nghe rồi ngộ pháp tánh
      Như vậy người đó thường thấy Phật.
       Chẳng thấy thập lực không như huyễn
      Tuy thấy chẳng thấy như mù thấy
      Phân biệt chấp tướng chẳng thấy Phật
      Rốt ráo lìa chấp mới thấy được.
       Chúng sinh theo nghiệp đều khác nhau
       Mười phương trong ngoài khó thấy hết
      Thân Phật vô ngại khắp mười phương
      Không thể thấy hết cũng như vậy.
       Ví như trong không vô lượng cõi
       Không đến không đi khắp mười phương
      Sinh thành diệt hoại chẳng chỗ nương
      Phật khắp hư không cũng như thế.
       
 

 
 
KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
 
QUYỂN 13
 
PHẨM BỒ TÁT VẤN MINH THỨ MƯỜI
       
        Bấy giờ, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Bồ Tát Giác Thủ rằng : Phật tử ! Tâm tánh là một, sao lại thấy có đủ thứ sự khác nhau ? Nào là hướng về đường lành, đường ác, các căn đủ thiếu, thọ sinh khác nhau, xinh đẹp xấu xí, khổ vui khác nhau. Nghiệp chẳng biết tâm, tâm chẳng biết nghiệp. Thọ chẳng biết báo, báo chẳng biết thọ. Tâm chẳng biết thọ, thọ chẳng biết tâm. Nhân chẳng biết duyên, duyên chẳng biết nhân. Trí chẳng biết cảnh, cảnh chẳng biết trí?
      Bấy giờ, Bồ Tát Giác Thủ dùng kệ đáp rằng :
      Nay Ngài hỏi nghĩa nầy
      Vì tỏ ngộ quần mê
      Tôi theo lý tánh đáp
      Xin Ngài hãy lắng nghe.    
      Các pháp chẳng tác dụng
      Cũng chẳng có thể tánh
      Nên đó đây tất cả
      Thảy đều chẳng biết nhau.
              Ví như nước trong sông
      Các dòng đua nhau chảy
      Đó đây chẳng biết nhau
      Các pháp cũng như vậy.
        Cũng như đống lửa lớn
      Lửa dữ cùng lúc cháy
      Đó đây chẳng biết nhau
      Các pháp cũng như thế.
      Lại như gió mạnh thổi
      Lay động các sự vật
      Đó đây chẳng biết nhau
      Các pháp cũng như vậy.
      Lại như các đất đai
      Lay chuyển vì nương trụ
      Đó đây chẳng biết nhau
      Các pháp cũng như vậy.
      Mắt tai mũi lưỡi thân
      Tâm ý các tình căn
      Do đây thường lưu chuyển
      Mà không thể chuyển được.
      Pháp tánh vốn không sinh
      Thị hiện mà có sinh
      Trong đó không thể hiện
      Cũng không chỗ hiện vật.
      Theo lý mà quán sát
      Tất cả đều không tánh
      Pháp nhãn không nghĩ bàn
      Đây thấy chẳng điên đảo.
      Hoặc thật hoặc không thật
      Hoặc vọng hoặc không vọng
      Thế gian xuất thế gian
      Chỉ có nói lời giả.
 
        Bấy giờ, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Bồ Tát Tài Thủ rằng: Phật tử ! Tất cả chúng sinh chẳng phải chúng sinh. Sao Như Lai tùy thời, tùy tuổi thọ, tùy thân, tùy hạnh, tùy hiểu biết, tùy ngôn luận, tùy tâm ưa thích, tùy phương tiện, tùy sự suy nghĩ, tùy sự quán sát. Như vậy ở trong các chúng sinh, mà hiện thân hình để giáo hóa điều phục?
      Bấy giờ, Bồ Tát Tài Thủ dùng kệ đáp rằng:  
      Đây là vui vắng lặng
      Cảnh giới bậc đa văn
      Tôi vì Ngài diễn nói
      Xin Ngài hãy lắng nghe.
Phân biệt quán trong thân
Trong đó ai là ta
Nếu hiểu đuợc như thế
Đạt được chẳng có ta.
      Thân nầy giả an lập
      Trụ xứ chẳng chỗ có
      Người xét rõ thân nầy
      Trong đây chẳng chấp trước.
      Nơi thân khéo quán sát
      Tất cả đều thấy rõ
      Biết pháp đều hư vọng
      Chẳng khởi tâm phân biệt.
      Tuổi thọ do ai khởi
      Lại do ai tan diệt
      Giống như vòng lửa quay
      Trước sau chẳng biết được.
      Bậc trí hay quan sát
      Tất cả đều vô thường
      Các pháp không vô ngã
      Vĩnh lìa tất cả tướng.
      Các báo tùy nghiệp sinh
      Như mộng chẳng chân thật
      Niệm niệm luôn diệt mất
      Như trước sau cũng vậy.
      Chỗ thấy pháp thế gian
      Nhưng dùng tâm làm chủ
      Tùy hiểu chấp các tướng
      Điên đảo chẳng như thật.
Lời lẽ của thế gian
Tất cả là phân biệt
Chưa từng có một pháp
Được vào nơi pháp tánh.
Sức năng duyên sở duyên
Đủ thứ pháp sinh ra
Mau diệt chẳng tạm ngừng
Niệm niệm đều như thế.
 
      Bấy giờ, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Bồ Tát Bảo Thủ rằng: Phật tử ! Tất cả chúng sinh đều có bốn đại. Chẳng có cái ta, chẳng có của ta. Sao lại có chịu khổ, hưởng vui, tốt đẹp, xấu xí, trong tốt, ngoài tốt, thọ ít, thọ nhiều, hoặc thọ báo đời nầy, hoặc thọ báo đời sau, mà trong pháp giới, chẳng có tốt, chẳng có xấu?
      Bấy giờ, Bồ Tát Bảo Thủ dùng kệ trả lời rằng:
Tùy theo nghiệp tạo ra
Như vậy quả báo sinh
Người làm chẳng có ai
Đây lời chư Phật nói.
Ví như gương sạch sáng
Tùy theo sự đối diện
Hiện hình đều khác nhau
Tánh nghiệp cũng như vậy.
      Cũng như ruộng hạt giống
      Thảy đều chẳng biết nhau
      Tự nhiên mà sinh ra
      Tánh nghiệp cũng như vậy.
      Lại như nhà huyễn thuật
      Ở tại ngã tư đường
      Thị hiện các sắc tướng
      Tánh nghiệp cũng như vậy.
      Như là người máy gỗ
      Vang ra các thứ tiếng
      Nó vô ngã phi ngã
      Tánh nghiệp cũng như vậy.
      Cũng như các loài chim
      Từ trứng mà sinh ra
      Tiếng hót đều khác nhau
Tánh nghiệp cũng như vậy.
      Ví như trong thai tạng
      Các căn đều thành tựu
      Thể tướng chẳng chỗ đến
      Tánh nghiệp cũng như vậy.
      Lại như tại địa ngục
      Đủ thứ các sự khổ
      Đó đều chẳng từ đâu
      Tánh nghiệp cũng như vậy.
      Ví như Chuyển Luân Vương
      Thành tựu thắng bảy báu
Chỗ đến chẳng thể được
      Tánh nghiệp cũng như vậy.
Lại như các thế giới
Lửa lớn thảy thiêu đốt
Lửa đó chẳng chỗ đến
Tánh nghiệp cũng như vậy.
 
      Bấy giờ, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Bồ Tát Đức Thủ rằng : Phật tử ! Chỗ Như Lai ngộ, chỉ là một pháp, sao lại nói vô lượng các pháp, hiện vô lượng cõi nước, giáo hóa vô lượng chúng, diễn nói vô lượng âm thanh, thị hiện vô lượng thân. Biết vô lượng tâm, hiện vô lượng thần thông, chấn động khắp vô lượng thế giới. Thị hiện vô lượng sự thù thắng trang nghiêm. Hiển thị vô biên đủ thứ cảnh giới, mà trong pháp tánh, tướng khác biệt nầy đều bất khả đắc?
      Bấy giờ, Bồ Tát Đức Thủ dùng kệ đáp rằng:
      Những nghĩa Phật tử hỏi
      Thâm sâu khó hiểu rõ
      Bậc trí mới biết được
      Thường ưa công đức Phật.
      Ví như tánh đất một
      Chúng sinh ở khác nhau
      Đất chẳng nghĩ một khác
      Pháp chư Phật như vậy.
      Cũng như tánh lửa một
      Hay thiêu tất cả vật
      Ngọn lửa chẳng phân biệt
      Pháp chư Phật như vậy.
      Cũng như tánh gió một
      Hay thổi tất cả vật
      Gió chẳng nghĩ một khác
      Pháp chư Phật như vậy.
      Cũng như mây sấm lớn
      Mưa khắp hết tất cả
      Thấm nhuần chẳng khác biệt
      Pháp chư Phật như vậy.    
      Cũng như đất một tánh
      Hay sinh đủ thủ mầm
      Đất chẳng có gì khác
      Pháp chư Phật như vậy.
      Như mặt trời không mây
      Chiếu khắp nơi mười phương
      Ánh sáng chẳng khác tánh
      Pháp chư Phật như vậy.
      Như mặt trăng trên không
      Thế gian thảy đều thấy
      Mặt trăng chẳng đến đi
      Pháp chư Phật như vậy.
      Ví như Đại Phạm Thiên
      Ứng hiện đầy tam thiên
      Mà thân chẳng khác biệt
      Pháp chư Phật như vậy.
 
      Bấy giờ, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Bồ Tát Mục Thủ rằng : Phật tử ! Ruộng phước của Như Lai bình đẳng không khác, mà sao thấy chúng sinh bố thí quả báo chẳng giống nhau. Nào là đủ thứ sắc, đủ thứ hình, đủ thứ nhà, đủ thứ căn tánh, đủ thứ tài, đủ thứ chủ nhân, đủ thứ quyến thuộc, đủ thứ chức quan, đủ thứ công đức, đủ thứ trí huệ, mà Phật đối với những nơi đó, tâm đều bình đẳng, chẳng nghĩ riêng khác?
 
      Bấy giờ, Bồ Tát Mục Thủ dùng kệ đáp rằng:
      Ví như đất là nột
      Theo loài giống sinh mầm
      Đất chẳng có oán thân
      Ruộng phước Phật cũng vậy.
      Lại như nước một vị
      Do đồ chứa khác nhau
      Ruộng phước Phật cũng vậy
      Vì tâm chúng sinh khác.
      Cũng như nhà huyễn thuật
      Hay khiến người hoan hỉ
Phước điền Phật cũng vậy
Khiến chúng sinh kính vui.
      Như có vua tài trí
      Hay khiến đại chúng vui
      Phước điền Phật cũng vậy
      Khiến chúng đều an lạc.
      Ví như gương sáng sạch
      Theo màu mà hiện hình
      Ruộng phước Phật cũng vậy
      Theo tâm được các báo.
      Như thuốc A Yết Đà
      Chữa khỏi tất cả độc
      Ruộng phước Phật cũng vậy
      Diệt các độc phiền não.
      Cũng như mặt trời mọc
      Chiếu sáng nơi thế gian
      Ruộng phước Phật cũng vậy
      Diệt trừ các đen tối.
Như mặt trăng tròn sáng
Chiếu khắp nơi đại địa
      Ruộng phước Phật cũng vậy
      Bình đẳng khắp mọi nơi.
      Ví như gió Tỳ Lam
      Chấn khắp nơi đại địa
      Ruộng phước Phật cũng vậy
      Động ba cõi chúng sinh.
      Ví như lửa lớn cháy
      Thiêu hết tất cả vật
      Ruộng phước Phật cũng vậy
      Thiêu hết pháp hữu vi.
 
      Bấy giờ, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Bồ Tát Cần Thủ rằng : Phật tử ! Phật giáo là một, sao có chúng sinh thấy được, chẳng lập tức đoạn trừ tất cả các phiền não trói buộc, để được giải thoát? Nhưng nơi sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn, dục giới, sắc giới, vô sắc giới, vô minh tham ái, chẳng có khác biệt. Vậy thì Phật giáo đối với các chúng sinh, hoặc có lợi ích, hoặc không có lợi ích?
      Bấy giờ, Bồ Tát Cần Thủ dùng kệ đáp rằng:
      Phật tử khéo lóng nghe
      Nay tôi như thật đáp
      Có người sớm giải thoát
      Có người khó thoát khỏi.
      Nếu muốn cầu trừ diệt
      Vô lượng các tội ác
      Nên ở trong Phật pháp
Dũng mãnh thường tinh tấn.
      Ví như đốm lửa nhỏ
      Củi ướt khiến lửa tắt
      Ở trong giáo pháp Phật
      Người giải đãi cũng thế.
      Như dùi cây lấy lửa
      Chưa được mà dừng nghỉ
Tánh lửa theo đó diệt
Người giải đãi cũng vậy.
      Như người cầm ngọc châu
      Không dùng vật tiếp bóng
      Trọn không thể được lửa
      Người giải đãi cũng vậy.
      Như mặt trời nắng gắt
      Trẻ con nhắm đôi mắt
      Bảo lạ sao không thấy
      Người giải đãi cũng vậy.
      Như người không tay chân
      Muốn dùng cỏ làm tên
      Bắn phá khắp đại địa
      Người giải đãi cũng vậy.
      Như dùng một sợi lông
      Để lấy hết nước biển
      Muốn khiến cạn sạch khô
      Người giải đãi cũng vậy.
      Lại như kiếp lửa cháy
      Muốn dùng chút nước mắt
      Ở trong nơi Phật pháp
      Người giải đãi cũng vậy.
      Như người nhìn hư không
      Ngồi yên chẳng lay động
      Mà nói bay đi khắp
      Người giải đãi cũng vậy.
 
      Bấy giờ, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Bồ Tát Pháp Thủ rằng : Phật tử ! Như Phật nói, nếu có chúng sinh thọ trì chánh pháp, tất sẽ dứt trừ tất cả phiền não. Tại sao có người thọ trì chánh pháp, mà chẳng dứt trừ phiền não? Theo thế lực của tham sân si, theo ngạo mạn, theo sự che đậy, theo sự căm phẫn, theo sự oán hận, theo sự đố kị, theo sự keo kiệt, theo sự lừa dối, theo sự xiểm nịnh xoay chuyển, không rời nơi tâm, người hay thọ trì pháp, tại sao lại ở trong tâm hành khởi các phiền não ?
      Bấy giờ, Bồ Tát Pháp Thủ dùng kệ đáp rằng:
      Phật tử khéo lắng nghe
      Ngài hỏi như thật nghĩa
      Chẳng phải là đa văn
      Vào được pháp Như Lai.
      Như người trôi trong nước
      Sợ chìm mà chết khát
      Nơi pháp chẳng tu hành
      Đa văn cũng như vậy.
      Như người bày cỗ ngon
      Mình đói mà chẳng ăn
      Nơi pháp chẳng tu hành
      Đa văn cũng như vậy.
      Như người khéo chế thuốc
      Mình bệnh chẳng cứu được
      Nơi pháp chẳng tu hành
      Đa văn cũng như vậy.
      Như người đếm châu báu
      Mình chẳng có một đồng
      Nơi pháp chẳng tu hành
      Đa văn cũng như vậy.
      Như người sinh cung vua
      Mà chịu đói chịu lạnh
      Nơi pháp chẳng tu hành
      Đa văn cũng như vậy.
      Như điết tấu âm nhạc
      Người nghe mình chẳng nghe
      Nơi pháp chẳng tu hành
      Đa văn cũng như vậy.
      Như mù vẽ hình tượng
      Họ thấy mình chẳng thấy
      Nơi pháp chẳng tu hành
Đa văn cũng như vậy.
      Ví như người lái thuyền
      Mà chết ở trong biển
      Nơi pháp chẳng tu hành
      Đa văn cũng như vậy.
      Như nơi ngã tư đường
      Rộng nói những điều tốt
      Mình chẳng có thật đức
      Chẳng tu cũng như vậy.
      Bấy giờ, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Bồ Tát Trí Thủ rằng: Phật tử ! Ở trong Phật pháp, trí là trên hết. Tại sao Như Lai, hoặc vì chúng sinh khen ngợi bố thí, hoặc khen ngợi trì giới, hoặc khen ngợi nhẫn nhục, hoặc khen ngợi tinh tấn, hoặc khen ngợi thiền định, hoặc khen ngợi trí huệ, hoặc lại khen ngợi từ bi hỷ xả, mà chẳng chỉ dùng một pháp để được giải thoát, thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác?
      Bấy giờ, Bồ Tát Trí Thủ dùng kệ đáp rằng:
      Phật tử rất hy hữu
      Biết được tâm chúng sinh
      Theo nghĩa Ngài đã hỏi
      Lắng nghe nay tôi nói.
      Các Đạo Sư quá khứ
      Hiện tại và vị lai
      Chẳng có nói một pháp
      Mà khiến người đắc đạo.
      Phật biết tâm chúng sinh
      Căn tánh đều khác nhau
      Tùy theo sự độ được
      Như vậy mà nói pháp.
      Người tham khen bố thí
      Người huỷ phạm khen giới
      Người nhiều sân khen nhẫn
      Người lười khen tinh tấn.
      Ý loạn khen thiền định
      Ngu si khen trí huệ
      Bất nhân khen từ mẫn
      Nộ hại khen đại bi.
      Sầu lo thời khen hỉ
      Tâm cong khen ngợi xả
      Lần lược tu như vậy
      Dần đủ các Phật pháp.
      Như trước xây nền móng
      Sau đó tạo nhà cửa
      Thí và giới cũng vậy
      Là gốc hạnh Bồ Tát.
      Ví như xây thành quách
      Để bảo hộ dân chúng
      Nhẫn và tấn cũng vậy
      Phòng hộ các Bồ Tát.
      Ví như đại lực vương
      Cả nước đều nguỡng vọng
      Định huệ cũng như vậy
      Chỗ Bồ Tát nương tựa.
      Cũng như Chuyển Luân Vương
      Ban vui cho tất cả
      Bốn lượng tâm cũng vậy
      Ban vui các Bồ Tát.
 
      Bấy giờ, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Bồ Tát Hiền Thủ rằng : Phật tử ! Các đức Phật Thế Tôn, chỉ dùng một thừa mà được giải thoát. Tại sao nay thấy tất cả cõi Phật, có đủ thứ sự khác nhau, nào là thế giới, chúng sinh giới, thuyết pháp, điều phục, thọ lượng, quang minh, thần thông, chúng hội, giáo nghĩa, pháp trụ thế, đều khác nhau? Không có vị nào không đủ tất cả Phật pháp, mà thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác?
      Bấy giờ, Bồ Tát Hiền Thủ dùng kệ đáp rằng.
      Văn Thù pháp thường vậy
      Pháp Vương chỉ một pháp
      Tất cả bậc Vô Ngại
      Một thừa dứt sinh tử.
      Thân tất cả chư Phật
      Chỉ là một pháp thân
      Một tâm một trí huệ
      Sức vô uý cũng vậy.
      Như gốc hướng bồ đề
      Hết thảy tâm hồi hướng
Được cõi nước như vậy
      Chúng hội và thuyết pháp.
      Tất cả các cõi Phật
      Trang nghiêm đều viên mãn
      Tùy chúng sinh tu khác
      Như vậy thấy khác nhau.
      Cõi Phật và thân Phật
      Chúng hội và lời nói
      Các Phật pháp như vậy
      Chúng sinh chẳng thấy được.
      Khi tâm đã thanh tịnh
      Các nguyện đều đầy đủ
      Người thấu suốt như vậy
      Mới thấy được nơi đây.
        Tùy tâm chúng sinh thích
      Và nhờ sức nghiệp quả
      Thấy khác nhau như vậy
      Do oai thần của Phật.
      Cõi Phật chẳng phân biệt
      Chẳng ghét cũng chẳng thương
      Chỉ tùy tâm chúng sinh
      Thấy đặc thù như vậy.
      Do đó nơi thế giới
      Chỗ thấy đều khác nhau
      Chẳng phải các Như Lai
      Bậc Đại Tiên có lỗi.
      Tất cả các thế giới
      Người đáng được giáo hóa
      Thấy được đức Như Lai
      Các Phật pháp như vậy.
 
      Bấy giờ, các Bồ Tát nói với Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi rằng: Phật tử ! Chúng tôi đã tự nói chỗ hiểu biết của mình rồi. Xin Ngài hãy dùng diệu biện tài, diễn nói hết thảy cảnh giới của Như Lai. Như thế nào là cảnh giới của Phật. Thế nào là nhân cảnh giới của Phật. Thế nào là độ cảnh giới của Phật. Thế nào là vào cảnh giới của Phật. Thế nào là trí cảnh giới của Phật. Thế nào là pháp cảnh giới của Phật. Thế nào là nói cảnh giới của Phật. Thế nào là biết cảnh giới của Phật. Thế nào là chứng cảnh giới của Phật. Thế nào hiện cảnh giới của Phật. Thế nào là sự rộng lớn cảnh giới của Phật ?
      Bấy giờ, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi dùng kệ đáp rằng :
      Cảnh giới Như Lai sâu
      Lượng đồng như hư không
      Tất cả chúng sinh vào
      Mà thật chẳng chỗ vào.
      Cảnh giới Như Lai sâu
      Hết thảy nhân thắng diệu
      Ức kiếp thường diễn nói
      Cũng nói chẳng hết được.
      Tùy theo tâm trí huệ
      Khuyên tấn đều lợi ích
      Độ chúng sinh như vậy
      Là cảnh giới chư Phật.
      Thế gian các cõi nước
      Tất cả đều tùy vào
      Trí thân chẳng có sắc
      Họ chẳng thể thấy được.
      Chư Phật trí tự tại
      Ba đời chẳng chướng ngại
      Cảnh giới huệ như vậy
      Bình đẳng như hư không.
      Pháp giới chúng sinh giới
      Cứu kính chẳng khác biệt
      Tất cả đều biết rõ
      Đây là cảnh Như Lai.
      Trong tất cả thế gian
      Hết thảy các âm thanh
      Phật trí đều tùy rõ
      Cũng chẳng có phân biệt.
      Chẳng nghiệp chẳng phiền não
      Không vật không chỗ trụ
      Không chiếu không chỗ hành
      Bình đẳng hành thế gian.
      Tất cả tâm chúng sinh
      Khắp ở trong ba đời
      Như Lai nơi một niệm
      Tất cả đều thấu rõ.
 
      Bấy giờ, ở trong thế giới Ta Bà nầy, tất cả chúng sinh, hết thảy pháp khác biệt, nghiệp khác biệt, thế giới khác biệt, thân khác biệt, căn tánh khác biệt, thọ sinh khác biệt, quả trì giới khác biệt, quả phạm giới khác biệt, quả cõi nước khác biệt. Nhờ thần lực của Phật, thảy đều hiện rõ.
      Như vậy phương đông, trăm ngàn ức Na do tha, vô số, vô lượng, vô biên, vô đẳng, không thể tánh, không thể đếm, không thể nghĩ, không thể lường, không thể nói, tận pháp giới hư không giới, trong tất cả thế giới, hết thảy pháp chúng sinh khác nhau, cho đến quả cõi nước khác nhau, đều nhờ thần lực của Phật, hiển hiện rõ ràng. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng trên dưới, cũng lại như thế.
 
 
 
 
 
 
 
 

 
 
 

 
 

KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
 
QUYỂN MƯỜI BỐN
 
PHẨM TỊNH HẠNH THỨ MƯỜI MỘT
 
Bấy giờ, Bồ Tát Trí Thủ hỏi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi rằng: Phật tử ! Bồ Tát làm thế nào để được thân lời ý nghiệp chẳng lỗi lầm. Làm thế nào để được không hại thân lời ý nghiệp. Làm thế nào để được không thể hủy thân lời ý nghiệp. Làm thế nào để được không thể hoại thân lời ý nghiệp. Làm thế nào để được thân lời ý nghiệp không thối chuyển. Làm thế nào để được thân lời ý nghiệp không thể động. Làm thế nào để được thân lời ý nghiệp thù thắng. Làm thế nào để được thân lời ý nghiệp thanh tịnh. Làm thế nào để được thân lời ý nghiệp chẳng ô nhiễm. Làm thế nào để thân lời ý nghiệp được trí dẫn đạo?
        Làm thế nào để được sinh vào nơi đầy đủ, chủng tộc đầy đủ, nhà đầy đủ, sắc đầy đủ, tướng đầy đủ, niệm đầy đủ, huệ đầy đủ, hành đầy đủ, vô úy đầy đủ, giác ngộ đầy đủ?
        Làm thế nào để được thắng huệ, đệ nhất huệ, tối thượng huệ, tối thắng huệ, vô lượng huệ, vô số huệ, bất tư nghì huệ, vô dữ đẳng huệ, bất khả lường huệ, bất khả thuyết huệ?
Làm thế nào để được nhân lực, dục lực, phương tiện lực, duyên lực, sở duyên lực, căn lực, quán sát lực, xa ma tha lực, tỳ bát xá na lực, tư duy lực?
Làm thế nào để được uẩn khéo léo, giới khéo léo, xứ khéo léo, duyên khởi khéo léo, dục giới khéo léo, sắc giới khéo léo, vô sắc giới khéo léo, quá khứ khéo léo, vị lai khéo léo, hiện tại khéo léo?
      Làm thế nào khéo tu tập niệm giác phần, trạch pháp giác phần, tinh tấn giác phần, hỉ giác phần, y giác phần, định giác phần, xả giác phần, không, vô tướng, vô nguyện ?
      Làm thế nào để được viên mãn bố thí Ba la mật, giới Ba la mật, nhẫn nhục Ba la mật, tinh tấn Ba la mật, thiền na Ba la mật, Bát Nhã Ba la mật, và viên mãn từ bi hỉ xả?
Làm thế nào để được trí lực phi xứ. Trí lực quá khứ, vị lai, hiện tại nghiệp báo. Trí lực căn thắng liệt. Trí lực đủ thứ giới. Trí lực đủ thứ giải. Trí lực nhất thiết chí xứ đạo. Trí lực thiền giải thoát tam muội nhiễm tịnh. Trí lực túc trụ niệm. Trí lực vô chướng ngại thiên nhãn. Trí lực đoạn các tập ?
      Làm thế nào thường được Thiên Vương, Long Vương, Dạ Xoa Vương, Càn Thát Bà Vương, A Tu La Vương, Ca Lâu La Vương, Khẩn Na La Vương, Ma Hầu La Vương, Nhân Vương, Phạm Vương, bảo hộ và cung kính cúng dường?
      Làm thế nào để được chỗ nương tựa, cứu hộ, quy y, hướng về, đuốc sáng, đèn sáng, chiếu soi, dẫn đạo, thắng đạo, phổ đạo, của tất cả chúng sinh?
      Làm thế nào là đệ nhất, là lớn, là thắng, là tối thắng, là diệu, là cực diệu, là thượng, là vô thượng, là vô đẳng, là vô đẳng đẳng, ở trong tất cả chúng sinh ?
        Bấy giờ, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói với Bồ Tát Trí Thủ rằng : Lành thay Phật tử ! Nay ông vì muốn được nhiều lợi ích, nhiều sự an ổn, thương xót thế gian, lợi lạc trời người, nên hỏi nghĩa nầy.
      Phật tử ! Nếu các Bồ Tát khéo dụng tâm, thì sẽ hoạch được tất cả công đức thù thắng vi diệu. Nơi các Phật pháp tâm chẳng chướng ngại. Trụ ở đạo của chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai. Tùy thuận chúng sinh mà trụ, luôn luôn không xa lìa. Như các pháp thật tướng, thảy đều thông đạt. Ðoạn trừ tất cả điều ác, đầy đủ các điều lành, sẽ giống như sắc tượng bậc nhất của Bồ Tát Phổ Hiền. Tất cả hạnh nguyện đều được đầy đủ. Nơi tất cả pháp thảy đều tự tại, mà làm Đạo Sư thứ hai của chúng sinh.
      Phật tử ! Dụng tâm như thế nào, để đắc được tất cả công đức thù thắng vi diệu?
      Bồ Tát tại nhà
      Xin nguyện chúng sinh
      Biết nhà tánh không
      Khỏi bị bức bách.
      Hiếu thuận cha mẹ
      Xin nguyện chúng sinh
      Cúng dường đến Phật
      Hộ dưỡng tất cả.
      Vợ con hội họp
      Xin nguyện chúng sinh
      Oán thân bình đẳng
      Vĩnh lìa tham trước.
      Nếu được năm dục
      Xin nguyện chúng sinh
      Dứt trừ tên dục
      Rốt ráo an ổn.
      Tụ họp ca nhạc
      Xin nguyện chúng sinh
      Lấy pháp làm vui
      Biết nhạc chẳng thật.
      Nếu ở hoàng cung
      Xin nguyện chúng sinh
      Vào nơi Thánh địa
      Vĩnh trừ uế dục.
      Khi đeo anh lạc
      Xin nguyện chúng sinh
      Bỏ các đồ giả
      Đến nơi chân thật.
      Đi lên lầu các
      Xin nguyện chúng sinh
      Lên lầu chánh pháp
      Thấu triệt tất cả.
      Nếu có bố thí
      Xin nguyện chúng sinh
      Xả được tất cả
      Tâm chẳng tham chấp.
      Tụ tập chúng hội
      Xin nguyện chúng sinh
      Xả các pháp tụ
      Thành Nhất thiết trí.
      Nếu tại hiểm nạn
      Xin nguyện chúng sinh
      Tùy ý tự tại
      Sở thành vô ngại.
      Khi bỏ tục gia
      Xin nguyện chúng sinh
      Xuất gia vô ngại
      Tâm được giải thoát.
      Vào Tăng già lam
      Xin nguyện chúng sinh
      Diễn nói các pháp
      Không tranh luận pháp.
      Đến thầy lớn nhỏ
      Xin nguyện chúng sinh
      Khéo phụng sư trưởng
      Tập tu pháp lành.
      Cầu xin xuất gia
      Xin nguyện chúng sinh
      Được pháp bất thối
      Tâm chẳng chướng ngại.
      Cởi bỏ tục y
      Xin nguyện chúng sinh
      Siêng tu căn lành
      Xả các tội phạm.
      Cạo bỏ râu tóc
      Xin nguyện chúng sinh
      Vĩnh lìa phiền não
      Cứu kính tịch diệt.
      Đắp y Cà sa
      Xin nguyện chúng sinh
      Tâm chẳng nhiễm trước
      Đủ đạo Đại Tiên.
      Khi vừa xuất gia
      Xin nguyện chúng sinh
      Cùng Phật xuất gia
      Cứu hộ tất cả.
      Về nương tựa Phật
      Xin nguyện chúng sinh
      Rạng rỡ giống Phật
      Phát tâm vô thượng.
      Về nương tựa pháp
      Xin nguyện chúng sinh
      Vào sâu tạng Kinh
      Trí huệ như biển.
      Về nương tựa Tăng
      Xin nguyện chúng sinh
      Thống lý đại chúng
      Hết thảy vô ngại.
      Khi thọ học giới
      Xin nguyện chúng sinh
      Khéo học giới luật
      Không làm điều ác.
      Thọ A Xà Lê
      Xin nguyện chúng sinh
      Đầy đủ oai nghi
      Làm đều chân thật.
      Thọ hòa thượng dạy
      Xin nguyện chúng sinh
      Vào trí vô sinh
      Đến chỗ không nương.
      Thọ giới cụ túc
      Xin nguyện chúng sinh
      Đủ các phương tiện
      Được pháp tối thắng.
      Nếu vào giảng đường
      Xin nguyện chúng sinh
      Lên đường vô thượng
      An trụ bất động.
      Nếu bày giường tòa
      Xin nguyện chúng sinh
      Mở bày pháp lành
      Thấy tướng chân thật.
      Thân ngồi ngay thẳng
      Xin nguyện chúng sinh
      Ngồi tòa bồ dề
      Tâm chẳng chấp trước.
      Khi ngồi kiết già
      Xin nguyện chúng sinh
      Căn lành kiên cố
      Đắc được bất động.
      Tu hành thiền định
      Xin nguyện chúng sinh
      Dùng định phục tâm
      Rốc ráo hết tập.
      Nếu tu chỉ quán
      Xin nguyện chúng sinh
      Thấy lý như thật
      Vĩnh viễn không tranh.
      Khi xả kiết già
      Xin nguyện chúng sinh
      Quán các pháp hành
      Quy về tan diệt.
      Khi hạ chân xuống
      Xin nguyện chúng sinh
      Tâm được giải thoát
      An trụ chẳng động.
      Nếu cất chân lên
      Xin nguyện chúng sinh
      Thoát biển sanh tử
      Ðủ các pháp lành.
      Nếu mặc quần dưới
      Xin nguyện chúng sinh
      Mặc các căn lành
      Đầy đủ hổ thẹn.
      Khi cột y áo
      Xin nguyện chúng sinh
      Kiểm thảo căn lành
      Đừng để mất mát.
      Nếu mặc áo trên
      Xin nguyện chúng sinh
      Được thắng căn lành
      Đến bờ bên kia.
      Khoác Tăng già lê
      Xin nguyện chúng sinh
      Vào vị bậc nhất
      Được pháp bất động.
      Tay cầm cành dương
      Xin nguyện chúng sinh
Đều được diệu pháp
      Rốt ráo thanh tịnh.
      Khi nhai cành dương
      Xin nguyện chúng sinh
      Tâm điều thanh tịnh
      Nhai cắn phiền não.
      Khi đại tiểu tiện
      Xin nguyện chúng sinh
      Bỏ tham sân si
      Quét sạch tội pháp.
      Việc rồi đến nước
      Xin nguyện chúng sinh
      Trong pháp xuất thế
      Mau sinh tịnh độ.
      Rửa sạch hình dơ
      Xin nguyện chúng sinh
      Thanh tịnh điều nhu
      Rốt ráo chẳng dơ.
      Dùng nước rửa tay
      Xin nguyện chúng sinh
      Được tay thanh tịnh
      Thọ trì Phật pháp.
      Dùng nước rửa mặt
      Xin nguyện chúng sinh
      Được pháp môn tịnh
      Vĩnh chẳng nhiễm dơ.
      Tay cầm tích trượng
      Xin nguyện chúng sinh
      Lập hội thí lớn
      Bày đạo như thật.
      Ôm cầm bình bát
      Xin nguyện chúng sinh
      Thành tựu pháp khí
      Thọ trời người cúng.
      Phát tâm hướng đạo
      Xin nguyện chúng sinh
      Theo đạo Phật tu
      Vào chỗ không nương.
      Nếu đi trên đường
      Xin nguyện chúng sinh
      Đi trên Phật đạo
      Hướng pháp Vô Dư.
      Khi đi qua đường
      Xin nguyện chúng sinh
      Đến tịnh pháp giới
      Tâm chẳng chướng ngại.
      Khi lên đường cao
      Xin nguyện chúng sinh
      Vĩnh lìa ba cõi
      Tâm chẳng khiếp nhược.
      Khi xuống đường thấp
      Xin nguyện chúng sinh
      Tâm tánh khiêm nhường
      Lớn căn lành Phật.
      Thấy đường quanh co
      Xin nguyện chúng sinh
      Bỏ đạo bất chánh
      Vĩnh trừ tà kiến.
      Nếu thấy đường thẳng
      Xin nguyện chúng sinh
      Tâm họ chánh trực
      Chẳng nịnh chẳng dối.
      Thấy đường nhiều bụi
      Xin nguyện chúng sinh
      Xa lìa họp bụi
      Được pháp thanh tịnh.
      Thấy đường không bụi
      Xin nguyện chúng sinh
      Thường hành từ bi
      Tâm được thấm nhuần.
      Nếu thấy đường hiểm
      Xin nguyện chúng sinh
      Trụ chánh pháp giới
      Lìa các tội nạn.
Nếu thấy chúng hội
Xin nguyện chúng sinh
Nói pháp thâm sâu
Tất cả hòa hợp.
      Nếu thấy cây lớn
      Xin nguyện chúng sinh
      Lìa tâm tranh luận
      Chẳng có phẫn hận.
      Nếu thấy tùng lâm
      Xin nguyện chúng sinh
      Các trời và người
      Đều nên kính lễ.
      Nếu thấy núi cao
      Xin nguyện chúng sinh
      Căn lành vượt trội
      Chẳng ai đến đỉnh.
      Thấy cây gai đâm
      Xin nguyện chúng sinh
      Đâm phải ba độc
      Mau được quét sạch.
      Thấy cây sum sê
      Xin nguyện chúng sinh
      Dùng định giải thoát
      Làm bóng sáng che.
      Nếu thấy hoa nở
      Xin nguyện chúng sinh
      Thần thông các pháp
      Như hoa khai nở.
      Nếu thấy cây hoa
      Xin nguyện chúng sinh
      Các tướng như hoa
      Đủ ba mươi hai.
      Nếu thấy trái thật
      Xin nguyện chúng sinh
      Được pháp thù thắng
      Chứng đạo bồ đề.
      Nếu thấy sông lớn
      Xin nguyện chúng sinh
      Được vào dòng pháp
      Vào biển trí Phật.
      Nếu thấy đầm trạch
      Xin nguyện chúng sinh
      Mau ngộ một vị
      Pháp của chư Phật.
      Nếu thấy ao hồ
      Xin nguyện chúng sinh
      Lời nghiệp đầy đủ
      Khéo về diễn nói.
      Nếu thấy giếng nước
      Xin nguyện chúng sinh
      Đầy đủ biện tài
      Nói tất cả pháp.
      Nếu thấy suối vọt
      Xin nguyện chúng sinh
      Phương tiện tăng trưởng
      Căn lành vô tận.
      Nếu thấy cầu đường
      Xin nguyện chúng sinh
      Rộng độ tất cả
      Như là cầu lương.
      Nếu thấy nước chảy
      Xin nguyện chúng sinh
      Được ý muốn thiện
      Tẩy trừ cấu hoặc.
      Thấy người làm vườn
      Xin nguyện chúng sinh
      Cạo bỏ cỏ ái
      Trong vườn năm dục.
      Thấy rừng vô ưu
      Xin nguyện chúng sinh
      Vĩnh lìa tham ái
      Chẳng sinh lo sợ.
      Nếu thấy vườn tược
      Xin nguyện chúng sinh
      Siêng tu các hạnh
      Hướng Phật bồ đề.
      Thấy người nghiêm sức
      Xin nguyện chúng sinh
      Được ba hai tướng
      Dùng để trang nghiêm.
      Thấy chẳng nghiêm sức
      Xin nguyện chúng sinh
      Xả các trang sức
      Đủ hạnh đầu đà.
      Thấy người chấp vui
      Xin nguyện chúng sinh
      Lấy pháp làm vui
      Hoan hỉ chẳng bỏ.
      Thấy chẳng chấp vui
      Xin nguyện chúng sinh
      Trong việc hữu vi
      Tâm chẳng chỗ vui.
      Thấy người an vui
      Xin nguyện chúng sinh
      Thường được an lạc
      Ưa cúng dường Phật.
      Thấy người khổ não
      Xin nguyện chúng sinh
      Được trí căn bản
      Diệt trừ các khổ.
      Thấy người không bệnh
      Xin nguyện chúng sinh
      Vào trí chân thật
      Vĩnh chẳng bệnh não.
      Thấy người bệnh tật
      Xin nguyện chúng sinh
      Biết thân không tịch
      Lìa khỏi tranh luận.
      Thấy người xinh đẹp
      Xin nguyện chúng sinh
      Nơi Phật Bồ Tát
      Thường sinh tịnh tín.
      Thấy người xấu xí
      Xin nguyện chúng sinh
      Nơi việc chẳng lành
      Đừng sinh vui chấp.
      Thấy người báo ân
      Xin nguyện chúng sinh
      Nơi Phật Bồ Tát
      Nên biết ân đức.
      Thấy người bội ân
      Xin nguyện chúng sinh
      Với người tội ác
      Đừng thêm báo thù.
      Nếu thấy Sa Môn
      Xin nguyện chúng sinh
      Điều nhu vắng lặng
      Rốt ráo bậc nhất.
      Thấy Bà la môn
      Xin nguyện chúng sinh
      Luôn giữ phạm hạnh
      Lìa tất cả ác.
      Thấy người khổ hạnh
      Xin nguyện chúng sinh
      Nương nơi khổ hạnh
      Đến nơi rốt ráo.
      Thấy người giữ hạnh
      Xin nguyện chúng sinh
      Kiên trì chí hạnh
      Không bỏ Phật đạo.
      Thấy người mặc giáp
      Xin nguyện chúng sinh
Thường mặc giáp lành
      Hướng pháp vô sư.
      Thấy không mặc giáp
      Xin nguyện chúng sinh
      Vĩnh lìa tất cả
      Những nghiệp bất thiện.
      Thấy người luận nghị
      Xin nguyện chúng sinh
Nơi các dị luận
Đều hàng phục được.
Thấy người chánh mạng
Xin nguyện chúng sinh
Được mạng thanh tịnh
Chẳng giả oai nghi.
Nếu thấy ông vua
Xin nguyện chúng sinh
Được làm Pháp Vương
Luôn chuyển chánh pháp.
Nếu thấy thái tử
Xin Nguyện chúng sinh
Từ pháp hóa sinh
Mà làm Phật tử.
Nếu thấy trưởng giả
Xin nguyện chúng sinh
Khéo sự phán quyết
Chẳng làm điều ác.
Nếu thấy đại thần
Xin nguyện chúng sinh
Luôn giữ chánh niệm
Tập làm điều lành.
Nếu thấy thành quách
Xin nguyện chúng sinh
Được thân kiên cố
Tâm chẳng khuất phục.
Nếu thấy kinh đô
Xin nguyện chúng sinh
Công đức cùng tụ
Tâm luôn vui mừng.
Thấy nơi rừng chằm
Xin nguyện chúng sinh
Nên vì trời người
Làm chỗ khen ngưỡng.
Vào làng khất thực
Xin nguyện chúng sinh
Vào sâu pháp giới
Tâm chẳng chướng ngại.
Đến cửa nhà người
Xin nguyện chúng sinh
Vào khắp tất cả
Các môn Phật pháp.
Vào nhà người rồi
Xin nguyện chúng sinh
Được vào Phật thừa
Ba đời bình đẳng.
Thấy người chẳng xả
Xin nguyện chúng sinh
Thường chẳng bỏ lìa
Pháp thắng công đức.
Thấy người hay xả
Xin nguyện chúng sinh
Vĩnh được xả lìa
Khổ ba đường ác.
Nếu thấy bát không
Xin nguyện chúng sinh
Tâm được thanh tịnh
Không có phiền não.
Nếu thấy bát đầy
Xin nguyện chúng sinh
Đầy đủ thành mãn
Tất cả pháp lành.
Nếu được cung kính
Xin nguyện chúng sinh
Cung kính tu hành
Tất cả Phật pháp.
Không được cung kính
Xin nguyện chúng sinh
Chẳng làm tất cả
Các pháp bất thiện.
Thấy thức ăn ngon
Xin nguyện chúng sinh
Đầy đủ ước nguyện
Tâm chẳng dục vọng.
Được thức ăn dở
Xin nguyện chúng sinh
Thảy đều đắc được
Các vị tam muội.
Được thức ăn mềm
Xin nguyện chúng sinh
Huân tập đại bi
Tâm ý mềm mại.
Được thức ăn cứng
Xin nguyện chúng sinh
Tâm chẳng nhiễm trước
Dứt tham ái đời.
Thấy người hổ thẹn
Xin nguyện chúng sinh
Đủ hạnh hổ thẹn
Che hộ các căn.
Thấy chẳng hổ thẹn
Xin nguyện chúng sinh
Bỏ chẳng hổ thẹn
Trụ đạo đại từ.
Khi lúc ăn cơm
Xin nguyện chúng sinh
Thiền duyệt vi thực
Pháp hỷ sung mãn.
Nếu lúc thọ vị
Xin nguyện chúng sinh
Được thượng vị Phật
Cam lồ đầy đủ.
Khi ăn cơm xong
Xin nguyện chúng sinh
Sự việc đều xong
Đủ các Phật pháp.
Nếu khi nói pháp
Xin nguyện chúng sinh
Được biện vô tận
Rộng nói pháp mầu.
Lúc ra khỏi nhà
Xin nguyện chúng sinh
Vào sâu trí Phật
Vĩnh thoát ba cõi.
Nếu lúc vào nước
Xin nguyện chúng sinh
Vào Nhất thiết trí
Biết rõ ba đời.
Tắm rửa thân thể
Xin nguyện chúng sinh
Thân tâm chẳng dơ
Trong ngoài sáng sạch.
Mùa nắng nóng độc
Xin nguyện chúng sinh
Lìa bỏ khổ não
Tất cả đều sạch.
Hết nóng đến mát
Xin nguyện chúng sinh
Chứng pháp vô thượng
Rốt ráo mát mẻ.
Lúc đọc tụng Kinh
Xin nguyện chúng sinh
Thuận pháp Phật nói
Tổng trì chẳng quên.
Nếu được thấy Phật
Xin nguyện chúng sinh
Được mắt vô ngại
Thấy tất cả Phật.
Lúc chiêm ngưỡng Phật
Xin nguyện chúng sinh
Đều như Phổ Hiền
Trang nghiêm xinh đẹp.
Khi thấy tháp Phật
Xin nguyện chúng sinh
Tôn trọng như tháp
Thọ trời người cúng.
Cung kính nhìn tháp
Xin nguyện chúng sinh
Được các trời người
Thảy đều chiêm ngưỡng.
Lúc đảnh lễ tháp
Xin nguyện chúng sinh
Tất cả trời người
Chẳng thấy được đảnh.
Nhiễu phải bên tháp
Xin nguyện chúng sinh
Làm đều không nghịch
Thành Nhất thiết trí.
Nhiễu tháp ba vòng
Xin nguyện chúng sinh
Siêng cầu Phật đạo
Tâm chẳng giải đãi.
Khen công đức Phật
Xin nguyện chúng sinh
Các đức đều đủ
Khen ngợi không hết.
        Khen Phật tướng tốt
Xin nguyện chúng sinh
Thành tựu thân Phật
Chứng pháp vô tướng.
Nếu lúc rửa chân
Xin nguyện chúng sinh
Đủ sức thần túc
Đi đều vô ngại.
Vào lúc đi ngủ
Xin nguyện chúng sinh
Thân được an ổn
Tâm chẳng động loạn.
Ngủ vừa thức dậy
Xin nguyện chúng sinh
Tất cả trí giác
Trông khắp mười phương.
 
Phật tử ! Nếu các Bồ Tát dùng tâm như vậy, thì sẽ đắc được công đức thù thắng vi diệu. Tất cả thế gian chư Thiên, ma, Phạm, Sa môn, Bà La Môn, Càn Thát Bà, A Tu La .v.v… và tất cả Thanh Văn, Duyên Giác, thảy đều chẳng lay động được.
 
 

 
 
KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
 
QUYỂN MƯỜI LĂM
 
PHẨM HIỀN THỦ THỨ MƯỜI HAI
 
Bấy giờ, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi nói hạnh thanh tịnh đại công đức chẳng đục loạn rồi, vì muốn hiển bày công đức tâm bồ đề, cho nên dùng kệ hỏi Bồ Tát Hiền Thủ rằng:
Nay tôi đã vì các Bồ Tát
Nói hạnh thanh tịnh Phật tu rồi
Ngài cũng ở trong pháp hội này
Diễn nói thắng công đức tu hành.
 
Bấy giờ, Bồ Tát Hiền Thủ dùng kệ đáp rằng:
Lành thay mong Ngài hãy lắng nghe
Các công đức đó không thể lường
Nay tôi theo sức nói ít phần
Như một giọt nước của biển cả.
Nếu có Bồ Tát mới phát tâm
Thệ cầu sẽ chứng Phật bồ đề
Công đức người đó chẳng bờ mé
Không thể xưng lường chẳng gì bằng.
Hà huống vô lượng vô biên kiếp
Tu đủ địa độ các công đức
Mười phương tất cả các Như Lai
Thảy đều khen ngợi chẳng hết được.
Như vậy vô biên công đức lớn
Nay tôi nói ít phần trong đó
Ví như dấu chim bay trong không
Cũng như hạt bụi nơi đại địa.
Bồ Tát phát tâm cầu bồ đề
Chẳng phải không nhân không có duyên
Nơi Phật Pháp Tăng sinh tịnh tín
Nhờ đó mà sinh tâm rộng lớn.
Chẳng cầu năm dục và ngôi vua
Giàu có sung sướng danh đồn khắp
Chỉ vì vĩnh diệt khổ chúng sinh
Lợi ích thế gian mà phát tâm.
Thường muốn lợi lạc các chúng sinh
Trang nghiêm cõi nước cúng dường Phật
Thọ trì các pháp tu các trí
Vì chứng bồ đề mà phát tâm.
Tâm tin hiểu sâu thường thanh tịnh
Cung kính tôn trọng tất cả Phật
Nơi pháp và Tăng cũng như vậy
Chí thành cúng dường mà phát tâm.
Tin sâu nơi Phật và Phật pháp
Cũng tin Phật tử sở hành đạo
Và tin vô thượng đại bồ đề
Bồ Tát nhờ đó mới phát tâm.
Tin là nguồn đạo mẹ công đức
Nuôi lớn tất cả các pháp lành
Dứt trừ lưới nghi thoát biển ái
Mở bày Niết Bàn đạo vô thượng.
Tin không dơ đục tâm thanh tịnh
Diệt trừ kiêu mạn cung kính gốc
Cũng là pháp tạng đệ nhất tài
Làm tay thanh tịnh thọ các hạnh.
Tin hay huệ thí tâm không sẻn
Tin hay hoan hỷ vào Phật pháp
Tin hay tăng trưởng trí công đức
Tin mới đến được bậc Như Lai.
Tin khiến các căn tịnh sáng suốt
Sức tin kiên cố không thể hoại
Tin hay vĩnh diệt gốc phiền não
Tin sẽ hướng về công đức Phật.
Tin nơi cảnh giới chẳng chấp trước
Xa lìa các nạn được vô nạn
Tin hay thoát khỏi các đường ma
Thị hiện đạo giải thoát vô thượng.
Tin là công đức giống bất hoại
Tin hay sinh trưởng cây bồ đề
Tin hay tăng ích trí tối thắng
Tin hay thị hiện tất cả Phật.
Do đó nương hành nói thứ lớp
Tin ưa tối thắng rất khó được
Ví như trong tất cả thế gian
Mà có diệu bảo châu như ý.
Nếu thường tin phụng các đức Phật
Thì hay giữ giới tu học xứ
Nếu thường giữ giới tu học xứ
Thì hay đầy đủ các công đức.
Giới hay khai phát gốc bồ đề
Học là siêng tu các công đức
Nơi giới và học luôn thuận hành
Tất cả Như Lai đều khen ngợi.
Nếu thường tin phụng các đức Phật
Thì hay hưng tập cúng dường lớn
Nếu hay hưng tập cúng dường lớn
Người đó tin Phật không nghĩ bàn.
Nếu thường tin phụng nơi tôn pháp
Tất nghe Phật pháp chẳng nhàm đủ
Nếu nghe Phật pháp chẳng nhàm đủ
Người đó tin pháp không nghĩ bàn.
Nếu thường tin phụng thanh tịnh Tăng
Thì được tâm tin chẳng thối chuyển
Nếu được tâm tin chẳng thối chuyển
Người đó sức tin không thể động.
Nếu được sức tin không lay động
Thì được các căn tịnh sáng suốt
Nếu được các căn tịnh sáng suốt
Thì sẽ xa lìa ác trí thức.
Nếu hay xa lìa ác tri thức
Thì được gần gũi thiện tri thức
Nếu được gần gũi thiện tri thức
Thì hay tu việc lành rộng lớn.
Nếu hay tu việc lành rộng lớn
Người đó thành tựu đại nhân lực
Nếu người thành tựu đại nhân lực
Tất được quyết định giải thù thắng.
Nếu được quyết định giải thù thắng
Thì được các đức Phật hộ niệm
Nếu được các đức Phật hộ niệm
Thì hay phát khởi tâm bồ đề.
Nếu hay phát khởi tâm bồ đề
Thì sẽ siêng tu công đức Phật
Nếu hay siêng tu công đức Phật
Thì được sinh vào nhà Như Lai.
      Nếu được sanh vào nhà Như Lai
Thì khéo tu hành xảo phương tiện
Nếu khéo tu hành xảo phương tiện
Thì được tâm tin ưa thanh tịnh.
Nếu được tâm tin ưa thanh tịnh
Thì được tâm tăng thượng tối thắng
Nếu được tâm tăng thượng tối thắng
Thì thường tu tập Ba la mật.
Nếu thường tu tập Ba la mật
Thì sẽ đầy đủ pháp đại thừa
Nếu sẽ đầy đủ pháp đại thừa
Thì sẽ như pháp cúng dường Phật.
Nếu hay như pháp cúng dường Phật
Thì sẽ niệm Phật thân chẳng động
Nếu hay niệm Phật thân chẳng động
Thì thường thấy được vô lượng Phật.
Nếu thường thấy được vô lượng Phật
Thì thấy thể Như Lai thường trụ
Nếu thấy thể Như Lai thường trụ
Thì sẽ biết pháp vĩnh không diệt.
Nếu hay biết pháp vĩnh không diệt
Thì được biện tài không chướng ngại
Nếu được biện tài không chướng ngại
Thì sẽ khai diễn vô biên pháp.
Nếu hay khai diễn vô biên pháp
Thì sẽ thương xót độ chúng sinh
Nếu hay thương xót độ chúng sinh
Thì được tâm đại bi vững chắc.
Nếu được tâm đại bi vững chắc
Tất hay ưa thích pháp thâm sâu
Nếu hay ưa thích pháp thâm sâu
Tất hay xả lìa lỗi hữu vi.
Nếu hay xả lìa lỗi hữu vi
Tất lìa kiêu mạn và phóng dật
Nếu lìa kiêu mạn và phóng dật
Tất hay lợi ích tất cả chúng.
Nếu hay lợi ích tất cả chúng
Tất nơi sinh tử chẳng nhàm chán
Nếu nơi sinh tử chẳng nhàm chán
Tất hay dũng mãnh vô năng thắng.
Nếu hay dũng mãnh vô năng thắng
Tất sẽ phát sinh đại thần thông
Nếu hay phát sinh đại thần thông
Tất biết tất cả chúng sinh làm.
Nếu biết tất cả chúng sinh làm
Tất sẽ thành tựu các quần sinh
Nếu hay thành tựu các quần sinh
Tất được khéo nhiếp chúng sinh trí.
Nếu được khéo nhiếp chúng sinh trí
Tất sẽ thành tựu bốn pháp nhiếp
Nếu hay thành tựu bốn pháp nhiếp
Sẽ ban chúng sinh lợi vô hạn.
Nếu ban chúng sinh lợi vô hạn
Tất đủ trí phương tiện tối thắng
Nếu đủ trí phương tiện tối thắng
Sẽ trụ dũng mãnh đạo vô thượng.
Nếu trụ dũng mãnh đạo vô thượng
Thì hay phá tan các ma lực
Nếu hay phá tan các ma lực
Thì sẽ vượt khỏi cảnh bốn ma.
Nếu hay vượt khỏi cảnh bốn ma
Thì sẽ đắc được địa bất thối
Nếu hay đắc được địa bất thối
Tất được vô sinh thâm pháp nhẫn.
Nếu được vô sinh thâm pháp nhẫn.
Sẽ được các đức Phật thọ ký
Nếu được các đức Phật thọ ký
Thì tất cả Phật hiện ở trước.
Nếu tất cả Phật hiện ở trước
Tất rõ thần thông dụng tâm mật
Nếu rõ thần thông dụng tâm mật
Tất được chư Phật thường nghĩ nhớ.
Nếu được chư Phật thường nghĩ nhớ
Tất dùng Phật đức tự trang nghiêm
Nếu dùng Phật đức tự trang nghiêm
Sẽ được diệu phước đoan nghiêm thân.
Nếu được diệu phước đoan nghiêm thân
Thì thân sáng chói như núi vàng
Nếu thân sáng chói như núi vàng
Thì được ba hai tướng trang nghiêm.
Nếu tướng trang nghiêm ba mươi hai
Sẽ đủ vẻ đẹp làm nghiêm sức
Nếu đủ vẻ đẹp làm nghiêm sức
Thì thân quang minh không hạn lượng.
Nếu thân quang minh không hạn lượng
Tất quang trang nghiêm không nghĩ bàn
Nếu quang trang nghiêm không nghĩ bàn
Quang đó sẽ hiện các hoa sen.
Nếu quang đó hiện các hoa sen
Tất vô lượng Phật ngồi trên hoa
Thị hiện mười phương khắp hết thảy
Đều hay điều phục các chúng sinh.
Nếu hay điều chúng sinh như thế
Tất hiện vô lượng sức thần thông
Nếu hiện vô lượng sức thần thông
Tất trụ cõi không thể nghĩ bàn.
Diễn nói pháp không thể nghĩ bàn
Khiến bất tư nghì chúng hoan hỷ
Nếu nói pháp không thể nghĩ bàn
Khiến bất tư nghì chúng hoan hỷ.
Tất nhờ sức trí huệ biện tài
Tùy tâm chúng sinh mà hóa dụ
Nếu dùng sức trí huệ biện tài
Tùy tâm chúng sinh mà hóa dụ.
Tất dùng trí huệ làm tiên đạo
Thân ngữ ý nghiệp luôn không lỗi
Nếu dùng trí huệ làm tiên đạo
Thân ngữ ý nghiệp luôn không lỗi.
Tất các nguyện lực được tự tại
Khắp tùy các loài mà hiện thân
Nếu các nguyện lực được tự tại
Khắp tùy các loài mà hiện thân.
Tất lúc vì chúng sinh nói pháp
Âm thanh tùy loài khó nghĩ bàn
Nếu lúc vì chúng sinh nói pháp
Âm thanh tùy loài khó nghĩ bàn.
Hết thảy tất cả tâm chúng sinh
Một niệm đều biết không thừa sót
Nếu nơi tất cả tâm chúng sinh
Một niệm đều biết không thừa sót.
Tất biết phiền não chẳng chỗ khởi
Vĩnh chẳng chìm nổi trong sinh tử
Nếu biết phiền não chẳng chỗ khởi
Vĩnh chẳng chìm nổi trong sinh tử.
Sẽ được công đức thân pháp tánh
Nhờ pháp oai lực hiện thế gian
Nếu được công đức thân pháp tánh
Dùng pháp oai lực hiện thế gian.
Tất được Thập địa mười tự tại
Tu hành các độ thắng giải thoát
Nếu được thập địa mười tự tại
Tu hành các độ thắng giải thoát.
Tất được quán đảnh đại thần thông
Trụ nơi các tam muội tối thắng
Nếu được quán đảnh đại thần thông
Trụ nơi các tam muội tối thắng.
Tất ở chỗ mười phương chư Phật
Được thọ quán đảnh mà thăng vị
Nếu ở chỗ mười phương chư Phật
Được thọ quán đảnh mà thăng vị.
Tất được mười phương tất cả Phật
Tay rưới cam lồ quán đảnh cho
Nếu được mười phương tất cả Phật
Tay rưới cam lồ quán đảnh cho.
Thì thân sung mãn như hư không
An trụ bất động đầy mười phương
Nếu thân sung mãn như hư không
An trụ bất động đầy mười phương.
Sở hành vị đó chẳng thể sánh
Chư thiên loài người chẳng biết được
Bồ Tát siêng tu hạnh đại bi.
Nguyện độ tất cả đều chứng quả
Nếu được thấy nghe hoặc cúng dường
Hết thảy đều khiến được an lạc.
Sức oai thần các Đại Sĩ đó
Pháp nhãn thường đủ chẳng thiếu khuyết
Thập thiện diệu hạnh thảy các đạo
Vô thượng thắng bảo đều khiến hiện.
Ví như biển có kim cang tụ
Nhờ oai lực đó sinh các báu
Không giảm không tăng cũng vô tận
Công đức Bồ Tát tụ cũng thế.
Hoặc có cõi nước không có Phật
Thị hiện nơi đó thành Chánh Giác
Hoặc có cõi nước chẳng biết pháp
Vì nơi đó nói diệu pháp tạng.
Chẳng có phân biệt chẳng công dụng
Nơi một niệm khắp cùng mười phương
Như hình mặt trăng khắp hết thảy
Vô lượng phương tiện hóa quần sinh.
Ở trong mười phương thế giới đó
Niệm niệm thị hiện thành Phật đạo
Chuyển bánh xe pháp vào Niết Bàn
Cho đến rộng phân chia xá lợi.
Hoặc hiện Thanh Văn Độc Giác đạo
Hoặc hiện thành Phật khắp trang nghiêm
Như vậy khai xiển giáo ba thừa
Rộng độ chúng sinh vô lượng kiếp.
       Hoặc hiện thân đồng nam đồng nữ
      Trời rồng cùng với A tu la
      Cho đến Ma hầu la già thảy
      Tùy chỗ họ thích đều khiến thấy.
      Chúng sinh hình tướng đều khác nhau
      Hành nghiệp âm thanh cũng vô lượng
Như vậy tất cả đều hiện ra
Hải ấn tam muội sức oai thần.
        Nghiêm tịnh cõi nước không nghĩ bàn
Cúng dường tất cả các Như Lai
Phóng đại quang minh vô lượng biên
Độ thoát chúng sinh cũng vô hạn.
Trí huệ tự tại không nghĩ bàn
Lời lẽ nói pháp chẳng chướng ngại
Thí giới nhẫn tấn và thiền định
Trí huệ phương tiện thần thông thảy.
Trong một hạt bụi vào tam muội
Thành tựu tất cả hạt bụi định
Mà hạt bụi đó cũng không tăng
Trong đó khắp hiện nan tư cõi.
Trong hạt bụi đó, nhiều cõi nước
Có bụi có Phật, hoặc không Phật
Hoặc là tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh
Hoặc là rộng lớn, hoặc nhỏ hẹp.
Hoặc lại có thành, hoặc có hoại
Hoặc có chánh trụ, hoặc bàng trụ
Hoặc như khoáng dã nhiệt thời diệm
Hoặc như lưới Nhân đà trên trời.
Như trong một bụi đều hiện ra
Tất cả hạt bụi cũng như thế
Đó đại danh xưng các Thánh nhân
Tam muội giải thoát sức thần thông.
Nếu muốn cúng dường tất cả Phật
Vào trong tam muội hiện thần biến
Chỉ dùng một tay khắp tam thiên
Cúng khắp tất cả các Như Lai.
Mười phương hết thảy hoa thắng diệu
Hương đốt hương bột báu vô giá
Như vậy đều từ trong tay ra
Cúng dường chư Phật đồ tối thắng.
Y báu vô giá tạp diệu hương
Tràng phan lọng báu đều nghiêm đẹp
Vàng thật làm hoa, báu làm màn
Thảy đều từ trong tay tuôn ra.
Mười phương hết thảy các vật quý
Đều dâng lên cúng dường vô thượng
Trong tay tuôn ra đều đầy đủ
Trước cội bồ đề dâng cúng Phật.
Mười phương tất cả các kỹ nhạc
Đồng trống cầm sắt chẳng một loại
Đều tấu lên tiếng hay hòa nhã
Đâu chẳng từ trong tay tuôn ra.
Mười phương hết thảy sự khen tụng
Ca ngợi công đức của Như Lai
Như vậy đủ thứ lời lẽ hay
Đều từ trong tay mà diễn tấu.
Tay phải Bồ Tát phóng tịnh quang
Trong quang nước thơm từ không mưa
Khắp nhuần mười phương các cõi Phật
Cúng dường tất cả Chiếu Thế Đăng.
Lại phóng quang minh diệu trang nghiêm
Sinh ra vô lượng hoa sen báu
Hoa đó sắc tướng đều thù diệu
Dùng để cúng dường các đức Phật.
        Lại phóng quang minh hoa trang nghiêm
Đủ thứ hoa đẹp tụ làm màn
Khắp rải mười phương các cõi nước
Cúng dường tất cả đấng Đại Đức.
Lại phóng quang minh hương trang nghiêm
      Đủ thứ hương thơm tụ làm màn
      Khắp rải mười phương các cõi nước
       Cúng dường tất cả Đấng Đại Đức.
Lại phóng quang hương bột trang nghiêm
Đủ thứ hương bột tụ làm màn
Khắp rải mười phương các cõi nước
Cúng dường tất cả đấng Đại Đức.
Lại phóng quang minh y trang nghiêm
Đủ thứ y báu tụ làm màn
Khắp rải mười phương các cõi nước
Cúng dường tất cả đấng Đại Đức.
Lại phóng quang châu báu trang nghiêm
Đủ thứ báu đẹp tụ thành màn
Khắp rải mười phương các cõi nước
Cúng dường tất cả đấng Đại Đức.
Lại phóng quang minh hoa trang nghiêm
Đủ thứ hoa sen tụ thành màn
Khắp rải mười phương các cõi nước
Cúng dường tất cả đấng Đại Đức.
Lại phóng quang minh chuỗi trang nghiêm
Đủ thứ chuỗi ngọc tụ thành màn
Khắp rải mười phương các cõi nước
Cúng dường tất cả đấng Đại Đức.
Lại phóng quang minh tràng trang nghiêm
Tràng đó rực rỡ đủ màu sắc
Đủ thứ vô lượng đều thù đẹp
Dùng để trang nghiêm các cõi Phật.
Đủ thứ các báu trang nghiêm lọng
Các phan lụa đẹp cùng giăng bủa
Chuông lắc ma ni diễn Phật âm
Cầm để cúng dường các Như Lai.
Tay tuôn đồ cúng khó nghĩ bàn
Như vậy cúng dường một Đạo Sư
Tất cả chỗ Phật đều như vậy
Đó thần thông tam muội Đại sĩ.
Bồ Tát trụ ở trong tam muội
Đủ thứ tự tại nhiếp chúng sinh
Đều nhờ pháp công đức tu hành
Vô lượng phương tiện mà dẫn dắt.
Hoặc dùng môn cúng dường Như Lai
Hoặc dùng môn nan tư bố thí
Hoặc dùng môn trì giới đầu đà
Hoặc dùng môn kham nhẫn bất động.
Hoặc dùng môn khổ hạnh tinh tấn
Hoặc dùng môn thiền định vắng lặng
Hoặc dùng môn quyết rõ trí huệ
Hoặc dùng môn tu hành phương tiện.
Hoặc dùng môn phạm trụ thần thông
Hoặc dùng môn tứ nhiếp lợi ích
Hoặc dùng môn phước trí trang nghiêm
Hoặc dùng môn nhân duyên giải thoát.
Hoặc dùng môn căn lực chánh đạo
Hoặc dùng môn Thanh Văn giải thoát
Hoặc dùng môn Độc Giác thanh tịnh
Hoặc dùng môn đại thừa tự tại.
Hoặc dùng môn vô thường các khổ
Hoặc dùng môn không ta thọ mạng
Hoặc dùng môn bất tịnh ly dục
Hoặc dùng môn diệt tận tam muội.
Tùy các chúng sinh bệnh khác nhau
Đều dùng thuốc pháp để đối trị
Tùy tâm ưa thích của chúng sinh
Đều dùng phương tiện làm mãn nguyện.
Tùy các chúng sinh hạnh khác nhau
Đều dùng khéo léo mà thành tựu
Như vậy tam muội thần thông tướng
Tất cả trời người không dò được.
Có diệu tam muội tên Tùy lạc
Bồ Tát trụ vào khắp quán sát
Tùy cơ thị hiện độ chúng sinh
Đều khiến hoan hỷ từ pháp hóa.
Trong kiếp đói khát tỵ nạn thời
Đều hiện thế gian các đồ vui
Tùy theo ý muốn đều khiến đủ
Khắp vì chúng sinh làm lợi ích.
Hoặc dùng ăn uống ngon bậc nhất
Y báu nghiêm sức các vật quý
Cho đến ngôi vua đều thí xả
Khiến người ưa thí theo chánh pháp.
Hoặc dùng tướng tốt trang nghiêm thân
Y phục đẹp nhất chuỗi ngọc báu
Tràng hoa nghiêm sức hương thoa thân
Đầy đủ oai nghi độ chúng sinh.
Tất cả thế gian ưa thích nhất
Sắc tướng dung nhan và y phục
Tùy ứng phổ hiện khiến mãn nguyện
Khiến kẻ ưa sắc đều theo đạo.
Tiếng mỹ diệu Ca lăng tần già
Các tiếng hòa hợp hay vi diệu
Đủ thứ phạm âm đều đầy đủ
Tùy tâm ưa thích mà nói pháp.
Tám vạn bốn ngàn các pháp môn
Chư Phật dùng đây độ chúng sinh
Bồ Tát cũng dùng pháp khác biệt
Tùy thuận thế gian mà hóa độ.
Chúng sinh khổ vui lợi suy thảy
Tất cả các pháp thế gian làm
Thảy đều ứng hiện những đồng sự
Dùng đây phổ độ các chúng sinh.
Tất cả thế gian các khổ hoại
Sâu rộng không bờ như biển cả
Đồng sự với họ đều nhẫn được
Khiến họ lợi ích được an lạc.
Nếu họ không biết pháp thoát ra
Không cầu giải thoát lìa quên loạn
Bồ Tát vì hiện bỏ quốc tài
Thường ưa xuất gia tâm vắng lặng.
Nhà là nơi tham ái trói buộc
Dục khiến chúng sinh chẳng lìa được
Nên bày xuất gia được giải thoát
Nơi các dục lạc chẳng chỗ thọ.
      Bồ Tát bày mười thứ hạnh tu
Cũng tu tất cả pháp đại nhân
      Các tiên tu thảy đều không thừa
      Vì muốn lợi ích các chúng sinh.
      Nếu có chúng sinh thọ vô lượng
      Phiền não vi tế vui đầy đủ
      Bồ Tát trong đó tự tại nhất
      Bày thọ già bệnh chết các hoạn.
      Hoặc có tham dục sân hận si
      Phiền não lửa dữ thường thiêu đốt
      Bồ Tát vì hiện già bệnh chết
Khiến chúng sinh đó đều điều phục.
      Phật có mười lực vô sở úy
Và có mười tám pháp bất cộng
      Hết thảy vô lượng các công đức
      Đều dùng thị hiện độ chúng sinh.
        Ký tâm giáo giới và thần túc
      Đó là Như Lai tự tại dụng
      Các Đại Sĩ đó đều thị hiện
      Hay khiến chúng sinh điều phục hết.
      Bồ Tát đủ thứ môn phương tiện
      Tùy thuận pháp đời độ chúng sinh
      Ví như hoa sen chẳng dính nước
      Như vậy nơi đời khiến tin sâu.
      Là vua thi nhân bậc văn tài
      Ca múa luận bàn mọi người thích
      Tất cả kỹ thuật của thế gian
Ví như huyễn sư đều hiện đủ.
       Hoặc làm trưởng giả chủ trong ấp
        Hoặc làm thương mại chủ buôn bán
      Hoặc làm ông vua và đại thần
      Hoặc làm lương y nhà hùng biện.
      Hoặc nơi hoang dã làm cây to
Hoặc làm thưốc hay các bảo tạng
Hoặc làm châu báu tùy sở cầu
Hoặc dùng chánh đạo bày chúng sinh.
      Nếu thấy thế giới mới thành lập
      Chúng sinh chưa có vật cần dùng
      Lúc đó Bồ Tát làm công thợ
Vì họ bày ra đủ thứ nghề.
Chẳng làm vật bức não chúng sinh
Chỉ nói việc lợi ích thế gian
Các luận chú thuật và cỏ thuốc
Như vậy hết thảy đều nói rành.
      Tất cả tiên nhơn hạnh thù thắng
      Trời người các loài cùng tín ngưỡng
       Như vậy khó hành pháp khổ hạnh
      Bồ Tát tùy ứng đều làm được.
      Hoặc làm người xuất gia ngoại đạo
      Hoặc trong rừng núi tự cần khổ
      Hoặc lõa hình thể chẳng y phục
      Mà trong chúng đó làm sư trưởng.
      Hoặc hiện tà mạng đủ thứ hạnh
      Tập làm phi pháp cho là thắng
      Hoặc hiện Phạm Chí các oai nghi
      Mà trong chúng đó làm thượng thủ.
       Hoặc chịu ngũ nhiệt phơi dưới nắng
      Hoặc giữ giới bò chó và nai
      Hoặc mặc y rách phụng thờ lửa
      Vì độ chúng kia làm sư trưởng.
      Hoặc hiện yết kiến miếu chư Thiên
       Hoặc lại hiện vào nước sông Hằng
      Ăn rễ quả thảy đều làm được
      Nơi đó thường nghĩ pháp tối thắng.
      Hoặc hiện ngồi xổm hoặc co chân
      Hoặc nằm cỏ gai hoặc trên tro
      Hoặc nằm trên chày cầu giải thoát
Mà trong chúng đó làm sư trưởng.
      Như vậy đủ thứ các ngoại đạo
      Quán hiểu tâm họ và đồng sự
      Thị hiện khổ hạnh đời chẳng kham
      Khiến họ thấy rồi đều điều phục.
      Chúng sinh mê hoặc bẩm tà giáo
      Trụ nơi ác kiến thọ các khổ
      Vì dùng phương tiện nói diệu pháp
       Đều khiến hiểu rõ nghĩa chân thật.
      Hoặc biên chú ngữ nói bốn đế
      Hoặc thiện mật ngữ nói bốn đế
      Hoặc nhân trực ngữ nói bốn đế
      Hoặc thiên mật ngữ nói bốn đế.
      Phân biệt văn tự nói bốn đế
      Quyết định nghĩa lý nói bốn đế
      Khéo phá ngoại đạo nói bốn đế
      Ngoại đạo chẳng động nói bốn đế.
Hoặc lời bát bộ nói bốn đế
Hoặc tất cả lời nói bốn đế
Tùy lời lẽ tiếng họ hiểu được
Vì nói bốn đế khiến giải thoát.
Hết thảy tất cả các Phật pháp
Đều nói như vậy đâu chẳng hết
Biết cảnh giới lời không nghĩ bàn
Tên là thuyết pháp tam muội lực.
Có thắng tam muội tên An lạc
Hay khắp cứu độ các quần sinh
Phóng đại quang minh không nghĩ bàn
Khiến cho người thấy đều điều phục.
Quang minh phóng ra tên Thị hiện
Nếu có chúng sinh gặp quang này
Tất được lợi ích chẳng luống uổng
Do đó được thành vô thượng trí.
Quang đó thị hiện nơi chư Phật
Hiện pháp hiện Tăng hiện chánh đạo
Cũng hiện tháp Phật và hình tượng
Do đó được thành quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Chiếu diệu
Sáng lấp tất cả quang chư Thiên
Hết thảy chướng ngại thảy đều trừ
Khắp vì chúng sinh làm lợi ích.
Quang đó giác ngộ tất cả chúng
Khiến cầm đèn sáng cúng dường Phật
Do dùng đèn cúng dường chư Phật
Được thành vô thượng đăng trong đời.
Thắp các đèn dầu và đèn tô
Cũng thắp đủ thứ các đuốc sáng
Các hương thơm, thuốc hay, nến báu
Dùng để cúng Phật được quang này.
Lại phóng quang minh tên Tế độ
Quang đó giác ngộ tất cả chúng
Khiến họ phát được tâm thệ nguyện
Độ thoát quần sinh trong biển dục.
Nếu hay phát được tâm thệ nguyện
Độ thoát quần sinh trong biển dục
Thời vượt qua được bốn dòng nước
Sẽ đến thành vô ưu giải thoát.
Nơi các đường đi có nước lớn
Tạo lập cầu đò và thuyền bè
Chê bai hữu vi khen vắng lặng
Do đó được thành quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Diệt ái
Quang này giác ngộ tất cả chúng
Khiến họ xả lìa nơi năm dục
Chuyên nghĩ vi diệu pháp giải thoát.
Nếu xả lìa được nơi năm dục
Chuyên nghĩ vi diệu pháp giải thoát
Thì hay dùng Phật pháp cam lồ
Khắp diệt các khát ái thế gian.
        Bố thí ao giếng và suối nước
Chuyên cầu đạo bồ đề vô thượng
Chê bai năm dục khen thiền định
Do đó được thành quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Hoan hỷ
Quang này giác ngộ tất cả chúng
Khiến họ ái mộ Phật bồ đề
Phát tâm nguyện chứng đạo vô sư.
Tạo lập tượng đại bi Như Lai
Các tướng trang nghiêm ngồi tòa sen
Luôn khen các công đức tối thắng
Do đó được thành quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Ái lạc
Quang đó giác ngộ tất cả chúng
Khiến tâm họ thích các đức Phật
Và thích ưa pháp thích chúng Tăng.
Nếu tâm thường thích các đức Phật
Và thích tôn pháp thích chúng Tăng
Tức trong chúng hội của Như Lai
Sớm thành thâm pháp nhẫn vô thượng.
Khai ngộ chúng sinh vô số lượng
Đều khiến niệm Phật Pháp Tăng bảo
Và bày phát tâm tu công đức
Do đó được thành quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Phước tụ
Quang này giác ngộ tất cả chúng
Khiến tu đủ thứ vô lượng thí
Dùng đây nguyện cầu đạo vô thượng.
Lập hội đại bố thí vô hạn
Ai đến cầu xin đều thỏa mãn
Chẳng khiến tâm họ có thiếu thốn
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Đủ trí
Quang này giác ngộ tất cả chúng
Khiến cho trong một pháp một niệm
Đều hiểu vô lượng các pháp môn.
Vì các chúng sinh phân biệt pháp
Và dùng quyết rõ nghĩa chân thật
Khéo nói nghĩa pháp chẳng khuyết giảm
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Huệ đăng
Quang này giác ngộ tất cả chúng
Khiến biết tánh chúng sinh vắng lặng
Tất cả các pháp không chỗ có.
Diễn nói các pháp không vô chủ
Như huyễn như diệm trăng trong nước
Cho đến giống như mộng bóng hình
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang tên pháp tự tại
Quang đó giác ngộ tất cả chúng
Khiến được vô tận đà la ni
Đều trì tất cả các Phật pháp.
Người cung kính cúng dường trì pháp
Cung cấp thủ hộ các Thánh hiền
Dùng đủ thứ pháp thí chúng sinh
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Năng xả
Quang đó giác ngộ chúng sinh sẻn
Khiến biết tài bảo đều không thường
Luôn ưa bố thí tâm không chấp.
Tâm sẻn khó điều mà điều được
Hiểu tài như mộng như mây trôi
Tăng trưởng tâm bố thí thanh tịnh
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Trừ nhiệt
Quang đó giác ngộ người phạm giới
Khiến cho họ trì giới thanh tịnh
Phát tâm nguyện chứng đạo vô sư.
Khuyên dắt chúng sinh thọ trì giới
Thập thiện đạo nghiệp đều thanh tịnh
Lại khiến phát tâm hướng bồ đề
Do đó được thành quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Nhẫn nghiêm
Quang đó giác ngộ kẻ sân hận
Khiến họ trừ sân lìa ngã mạn
Thường thích pháp nhẫn nhục nhu hòa.
Chúng sinh bạc ác khó nhẫn được
Vì bồ đề nên tâm không động
Thường thích khen ngợi công đức nhẫn
Do đó được thành quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Dũng mãnh
Quang đó giác ngộ kẻ lười biếng
Khiến họ thường ở trong Tam Bảo
Cung kính cúng dường chẳng nhàm mỏi.
Nếu họ thường ở trong Tam Bảo
Cung kính cúng dường chẳng nhàm mỏi
Thì sẽ thoát khỏi cảnh bốn ma
Sớm thành Phật bồ đề vô thượng.
Khuyên hóa chúng sinh khiến tấn sách
Thường siêng cúng dường nơi Tam Bảo
Lúc pháp muốn diệt chuyên giữ gìn
Do đó được thành quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Tịch tĩnh
Quang đó giác ngộ kẻ loạn tâm
Khiến họ xa lìa tham sân si
Tâm chẳng giao động mà chánh định.
Xả lìa tất cả ác trí thức
Luận đàm vô nghĩa hạnh tạp nhiễm
Khen ngợi thiền định A lan nhã
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Huệ nghiêm
Quang đó giác ngộ kẻ ngu mê
Khiến họ chứng đế hiểu duyên khởi
Các căn trí huệ đều thông đạt.
Nếu chứng bốn đế hiểu duyên khởi
Các căn trí huệ đều thông đạt
Sẽ được pháp tam muội Nhựt đăng
Trí huệ quang minh thành Phật quả.
Quốc tài thân mình đều xả được
Vì bồ đề nên cầu chánh pháp
Nghe rồi chuyên khuyên vì họ nói
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Phật huệ
Quang đó giác ngộ các hàm thức
Khiến thấy vô lượng vô biên Phật
Thảy đều ngồi trên hoa sen báu.
Khen Phật oai đức và giải thoát
Nói Phật tự tại vô số lượng
Hiển bày Phật lực và thần thông
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Vô úy
Quang đó chiếu đến kẻ sợ hãi
Kẻ ác cầm giữ các độc hại
Hết thảy đều khiến sớm tiêu trừ.
Nơi các chúng sinh thí vô úy
Gặp kẻ não hại khuyên dừng lại
Cứu người hiểm nạn cô bần cùng
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang minh tên an ổn
Quang đó chiếu đến kẻ bệnh tật
Khiến trừ tất cả các thống khổ
Đều được vui chánh định tam muội.
Thí dùng thuốc hay cứu các bệnh
Diệu báu sống lâu hương thoa thân
Dầu tô sữa mật làm ăn uống
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Thấy Phật
Quang đó giác ngộ kẻ sắp chết
Khiến họ nhớ niệm thấy Như Lai
Mạng chung được sinh về tịnh độ.
Thấy người lâm chung khuyên niệm Phật
Lại bày Thánh tượng khiến chiêm kính
Khiến nơi chỗ Phật sâu quy ngưỡng
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Lạc pháp
Quang đó giác ngộ tất cả chúng
Khiến nơi chánh pháp thường an lạc
Lắng nghe diễn nói và biên chép.
Lúc pháp sắp diệt hay diễn nói
Khiến người cầu pháp ý sung mãn
Nơi pháp ưa thích siêng tu hành
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Diệu âm
Quang đó khai ngộ các Bồ Tát
Hay khiến hết thảy tiếng ba cõi
Người nghe đều là tiếng Như Lai.
Dùng âm thanh lớn khen ngợi Phật
Và thí linh chuông các âm nhạc
Khắp khiến thế gian nghe tiếng Phật
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang tên Thí cam lồ
Quang đó khai ngộ tất cả chúng
Khiến xả tất cả hạnh phóng dật
Tu tập đầy đủ các công đức.
Nói pháp hữu vi chẳng an ổn
Vô lượng khổ não đều đầy dẫy
Luôn thích khen ngợi vui vắng lặng
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Tối thắng
Quang đó khai ngộ tất cả chúng
Khiến ở chỗ Phật khắp nghe được
Giới định trí huệ pháp tăng thượng.
Luôn thích khen ngợi tất cả Phật
Thắng giới thắng định huệ thù thắng
Như vậy vì cầu đạo vô thượng
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Bảo nghiêm
Quang đó khai ngộ tất cả chúng
Khiến được bảo tạng vô cùng tận
Dùng để cúng dường các Như Lai.
Dùng đủ thứ diệu báu vô thượng
Dâng lên cúng Phật và tháp Phật
Cũng bố thí cho các kẻ nghèo
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Hương nghiêm
Quang đó giác ngộ tất cả chúng
Khiến người ngửi được tâm vui mừng
Quyết định sẽ thành công đức Phật.
Trời người dùng hương thơm thoa đất
Cúng dường tất cả đấng Tối Thắng
Cũng tạo tháp Phật và tượng Phật
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang tên Tạp trang nghiêm
Tràng phan lọng báu vô số lượng
Đốt hương rải hoa tấu âm nhạc
Thành ấp trong ngoài đều đầy dẫy.
Lại dùng âm kỹ nhạc vi diệu
Các hương hoa đẹp tràng lọng thảy
Đủ thứ trang nghiêm cúng dường Phật
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Nghiêm khiết
Khiến đất bằng phẳng như bàn tay
Trang gnhiêm tháp Phật và đạo tràng
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Đại vân
Hay nổi mây thơm mưa nước thơm
Dùng nước rưới tháp và chùa viện
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Nghiêm cụ
Khiến người lõa thể được y phục
Vật tốt nghiêm thân thí cho họ
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Thượng vị
Hay khiến kẻ đói được ăn ngon
Đủ thứ cỗ quý đem bố thí
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Đại tài
Khiến kẻ bần cùng được bảo tàng
Dùng vật vô tận cúng Tam Bảo
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang tên Mắt thanh tịnh
Hay khiến kẻ mù thấy các sắc
Dùng đèn cúng Phật và tháp Phật
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang tên Tai thanh tịnh
Hay khiến kẻ điếc đều được nghe
Trống nhạc cúng Phật và tháp Phật
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang tên Mũi thanh tịnh
Xưa chưa ngửi hương đều được ngửi
Dùng hương cúng Phật và tháp Phật
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang tên Lưỡi thanh tịnh
Hay dùng tiếng hay khen ngợi Phật
Vĩnh trừ lời thô ác bất thiện
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang tên Thân thanh tịnh
Các căn ai thiếu khiến đầy đủ
Dùng thân lễ Phật và tháp Phật
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang tên Ý thanh tịnh
Khiến kẻ mất tâm được chánh niệm
Tu hành tam muội đều tự tại
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang tên sắc thanh tịnh
Khiến thấy Phật sắc không nghĩ bàn
Dùng các sắc đẹp trang nghiêm tháp
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang tên thanh thanh tịnh
Khiến biết thanh tánh vốn vắng lặng
Quán thanh duyên khởi như tiếng vang
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang tên hương thanh tịnh
Khiến chỗ hôi dơ đều thơm sạch
Nước thơm rưới tháp cây bồ đề
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang tên vị thanh tịnh
Hay trừ tất cả vị trúng độc
Luôn cúng Phật Tăng và cha mẹ
Do đây được thành quang minh này.
Lại phóng quang tên xúc thanh tịnh
Hay khiến ác xúc đều nhu nhuyến
Đao mâu kiếm kích từ không mưa
Đều khiến biến thành tràng hoa đẹp.
Bởi xưa từng ở giữa đường xá
Thoa hương, rải hoa, bày y phục
Nghênh đón Như Lai đi trên đó
Do đây nay được quang như vậy.
Lại phóng quang tên pháp thanh tịnh
Hay khiến tất cả các lỗ lông
Đều diễn diệu pháp không nghĩ bàn
Chúng sinh nghe được đều vui ngộ.
Nhân duyên sinh ra chẳng có sinh
Pháp thân chư Phật chẳng phải thân
Pháp tánh thường trụ như hư không
Nhờ nói nghĩa này quang như vậy.
Môn quang minh ví như vậy thảy
Như cát sông Hằng chẳng số lượng
Đều từ lỗ lông Đại Tiên ra
Hết thảy tạo nghiệp đều khác nhau.
Như quang phóng ra một lỗ lông
Vô lượng số như cát sông Hằng
Tất cả lỗ lông đều như vậy
Đó là tam muội của Đại Tiên.
Như bổn hạnh trên được quang minh
Tùy họ túc duyên đồng tu hành
Nay phóng quang minh nên như vậy
Đây là Đại Tiên trí tự tại.
Thuở xưa cùng tu các phước nghiệp
Và có ưa thích hay hoan hỷ
Thấy họ thực hành cũng làm theo
Do đó thấy được quang minh này.
Nếu ai tự tu các phước nghiệp
Cúng dường chư Phật vô lượng số
Nơi công đức Phật thường nguyện cầu
Được quang minh này hay giác ngộ.
Ví như kẻ mù chẳng thấy trời
Chẳng phải mặt trời chẳng mọc lên
Những người có mắt đều thấy rõ
Tùy theo phận mình tu phước nghiệp.
Quang minh Đại Sĩ cũng như vậy
Người có trí huệ đều thấy được
Phàm phu tin tà người hiểu cạn
Nơi quang minh này chẳng thấy được.
Cung điện ma ni và xe kiệu
Báu đẹp hương thơm dùng thoa sáng
Người có phước đức tự nhiên đủ
Người không phước đức không ở được.
Quang minh Đại Sĩ cũng như vậy
Người có trí sâu đều chiếu đến
Người phàm ngu tin tà hiểu cạn
Không thể thấy được quang minh này.
Nếu ai nghe quang này khác nhau
Hay sinh tin hiểu sâu thanh tịnh
Dứt hẳn tất cả các lưới nghi
Sớm thành tràng công đức vô thượng.
Có thắng tam muội hay xuất hiện
Quyến thuộc trang nghiêm đều tự tại
Tất cả mười phương các cõi nước
Phật tử chúng hội không sánh kịp.
Có diệu hoa sen quang trang nghiêm
Lượng đồng ba ngàn cõi đại thiên
Thân Phật ngồi thẳng khắp hoa sen
Do sức thần thông tam muội này.
Lại có mười cõi số hạt bụi
Hoa sen xinh đẹp bao chung quanh
Các chúng Phật tử ngồi trên đó
Trụ sức oai thần tam muội này.
Ðời xưa thành tựu nhân duyên lành
Tu hành đầy đủ công đức Phật
Các chúng sinh đó quanh Bồ Tát
Cùng nhau chắp tay nhìn không chán.
Ví như trăng sáng trong tinh tú
Bồ Tát trong chúng cũng như thế
Pháp Đại Sĩ tu hành cũng vậy
Vào sức oai thần tam muội này.
Như sự thị hiện ở một phương
Các chúng Phật tử cùng vây quanh
Tất cả các phương đều như vậy
Trụ sức oai thần tam muội này.
Có thắng tam muội tên phương võng
Bồ Tát trụ đây rộng khai thị
Trong tất cả phương đều hiện thân
Hoặc hiện nhập định hoặc xuất định.
Hoặc ở phương đông nhập chánh định
Mà ở phương tây từ định xuất
Hoặc ở phương tây nhập chánh định
Mà ở phương đông từ định xuất.
Hoặc ở phương khác nhập chánh định
Hoặc ở phương khác từ định xuất
Nhập xuất như vậy khắp mười phương
Đó gọi Bồ Tát tam muội lực.
Tận cùng phương đông các cõi nước
Hết thảy Như Lai vô lượng số
Đều hiện trước Phật gần gũi khắp
Trụ nơi tam muội yên chẳng động.
Rồi ở phương tây các thế giới
Tất cả chỗ chư Phật Như Lai
Đều hiện từ tam muội xuất định
Rộng tu cúng dường vô lượng Phật.
Tận cùng phương tây các cõi nước
Hết thảy Như Lai vô lượng số
Đều hiện trước Phật gần gũi khắp
Trụ nơi tam muội yên chẳng động.
Rồi ở phương đông các thế giới
Tất cả chỗ chư Phật Như Lai
Đều hiện từ tam muội xuất định
Rộng tu cúng dường vô lượng Phật.
Như vậy mười phương các thế giới
Bồ Tát đều vào chẳng sót thừa
Hoặc hiện tam muội yên chẳng động
Hoặc hiện cung kính cúng dường Phật.
Ở trong căn mắt nhập chánh định
Ở nơi sắc trần từ định xuất
Thị hiện sắc tánh không nghĩ bàn
Tất cả trời người không biết được.
Ở trong sắc trần nhập chánh định
Nơi mắt xuất định tâm chẳng loạn
Nói mắt không sinh không có diệt
Tánh không vắng lặng chẳng tác dụng.
Ở trong căn tai nhập chánh định
Ở trong thanh trần từ định xuất
Phân biệt tất cả tiếng lời lẽ
ChưThiên loài người không biết được.
Ở trong thanh trần nhập chánh định
Nơi tai xuất định tâm chẳng loạn
Nói tai không sinh chẳng có diệt
Tánh không vắng lặng chẳng tác dụng.
Ở trong căn mũi nhập chánh định
Ở trong hương trần từ định xuất
Khắp được tất cả hương thượng diệu
ChưThiên loài người chẳng biết được.
Ở trong hương trần nhập chánh định
Nơi mũi xuất định tâm chẳng loạn
Nói mũi không sinh chẳng có diệt
Tánh không vắng lặng chẳng tác dụng.
Ở trong căn lưỡi nhập chánh định
Ở trong vị trần từ định xuất
Khắp được tất cả vị vô thượng
ChưThiên loài người chẳng biết được.
Ở trong vị trần nhập chánh định
Nơi lưỡi xuất định tâm chẳng loạn
Nói lưỡi không sinh chẳng có diệt
Tánh không vắng lặng chẳng tác dụng.
Ở trong căn thân nhập chánh định
Ở trong xúc trần từ định xuất
Khéo hay phân biệt tất cả xúc
ChưThiên loài người chẳng biết được.
Ở trong xúc trần nhập chánh định
Nơi thân xuất định tâm chẳng loạn
Nói thân không sinh chẳng có diệt
Tánh không vắng lặng chẳng tác dụng.
Ở trong căn ý nhập chánh định
Ở trong pháp trần từ định xuất
Phân biệt tất cả các pháp tướng
ChưThiên loài người chẳng biết được.
Ở trong pháp trần nhập chánh định
Từ ý xuất định tâm chẳng loạn
Nói ý không sinh chẳng có diệt
Tánh không vắng lặng chẳng tác dụng.
Trong thân đồng tử nhập chánh định
Trong thân tráng niên từ định xuất
Trong thân tráng niên nhập chánh định
Trong thân lão niên từ định xuất.
Trong thân lão niên nhập chánh định
Trong thân thiện nữ từ định xuất
Trong thân thiện nữ nhập chánh định
Trong thân thiện nam từ định xuất.
Trong thân thiện nam nhập chánh định
Thân Tỳ Kheo Ni  từ định xuất
Thân Tỳ Kheo Ni nhập chánh định
Trong thân Tỳ Kheo từ định xuất.
Trong thân Tỳ Kheo nhập chánh định
Thân học vô học từ định xuất
Thân học vô học nhập chánh định
Thân Bích Chi Phật từ định xuất.
Thân Bích Chi Phật nhập chánh định
Hiện thân Như Lai từ định xuất
Nơi thân Như Lai nhập chánh định
Trong thân chư Thiên từ định xuất.
Trong thân chư Thiên nhập chánh định
Trong thân đại long từ định xuất
Trong thân đại long nhập chánh định
Trong thân Dạ Xoa từ định xuất.
Trong thân Dạ Xoa nhập chánh định
Trong thân quỷ thần từ định xuất
Trong thân quỷ thần nhập chánh định
Trong một lỗ lông từ định xuất.
Trong một lỗ lông nhập chánh định
Tất cả lỗ lông từ định xuất
Tất cả lỗ lông nhập chánh định
Nơi đầu sợi lông từ định xuất.
Nơi đầu sợi lông nhập chánh định
Trong một hạt bụi từ định xuất
Trong một hạt bụi nhập chánh định
Trong tất cả bụi từ định xuất.
Trong tất cả bụi nhập chánh định
Trong kim cang địa từ định xuất
Trong kim cang địa nhập chánh định
Trên cây ma ni từ định xuất.
Trên cây ma ni nhập chánh định
Trong quang minh Phật từ định xuất
Trong quang minh Phật nhập chánh định
Ở trong sông biển từ định xuất.
Ở Trong sông biển nhập chánh định
Ở trong hỏa đại từ định xuất
Ở trong hỏa đại nhập chánh định
Nơi gió xuất định tâm chẳng động.
Ở Trong phong đại nhập chánh định
Ở trong địa đại từ định xuất
Ở trong địa đại nhập chánh định
Nơi cung điện trời từ định xuất.
Nơi cung điện trời nhập chánh định
Nơi không xuất định tâm chẳng loạn
Đó gọi bậc vô lượng công đức
Tam muội tự tại khó nghĩ bàn.
Mười phương tất cả các Như Lai
Trong vô lượng kiếp nói không hết
Tất cả Như Lai đều cùng nói
Nghiệp báo chúng sinh không nghĩ bàn.
Các rồng biến hóa Phật tự tại
Thần lực Bồ Tát cũng khó nghĩ
Muốn dùng ví dụ để hiển bày
Nhưng không có dụ để dụ này.
Song bậc trí huệ thông đạt được
Do ví dụ nên hiểu nghĩa này
Thanh Văn tâm trụ tám giải thoát
Hết thảy biến hiện đều tự tại.
Hay dùng một thân hiện nhiều thân
Lại dùng nhiều thân làm một thân
Ở trong hư không nhập hỏa định
Đi đứng nằm ngồi trong hư không.
Trên thân ra nước dưới thân lửa
Trên thân ra lửa dưới thân nước
Như vậy đều ở trong một niệm
Đủ thứ tự tại vô biên lượng.
Họ chẳng đầy đủ đại từ bi
Chẳng vì chúng sinh cầu Phật đạo
Còn hiện được việc khó nghĩ đó
Huống đại nhiêu ích tự tại lực.
Ví như trời trăng trên hư không
Hình bóng khắp hết thảy mười phương
Trong nước suối hồ ao đàm chậu
Các báu sông biển thảy đều hiện.
Sắc tượng Bồ Tát cũng như thế
Khắp hiện mười phương không nghĩ bàn
Đó đều tam muội pháp tự tại
Chỉ có Như Lai chứng biết được.
Như trong nước sạch hình bốn binh
Hết thảy khác nhau chẳng xen tạp
Kiếm kích cung tên rất nhiều loại
Mão giáp xe cộ chẳng phải một.
Tùy theo hết thảy tướng khác nhau
Thảy đều hiện ra ở trong nước
Mà nước vốn chẳng có phân biệt
Tam muội Bồ Tát cũng như vậy.
Trong biển có thần tên Thiện Âm
Tiếng đó thuận chúng sinh trong biển
Hết thảy lời nói đều hiểu rõ
Khiến cho tất cả đều vui mừng.
Thần đó có đủ tham sân si
Mà còn khéo hiểu tất cả tiếng
Hà huống tổng trì tự tại lực
Sao không thể khiến chúng hoan hỷ.
Có một phụ nữ tên Biện Tài
Cha mẹ cầu trời mà sinh nàng
Nếu ai lìa ác thích chân thật
Nhập vào thân nàng sinh diệu biện.
Nàng có tham dục sân hận si
Còn cho người theo được biện tài
Hà huống Bồ Tát đủ trí huệ
Sao không thể cho chúng lợi ích.
Ví như huyễn sư biết pháp huyễn
Hay hiện đủ thứ vô lượng sự
Chốc lát hiện làm ngày tháng năm
Thành ấp phong phú đại an lạc.
Huyễn sư có đủ tham sân si
Còn huyễn hóa được vui thế gian
Huống chi sức thiền định giải thoát
Sao không thể khiến chúng hoan hỷ.
Khi trời A tu la đánh nhau
Tu la bị bại bỏ chạy trốn
Binh khí xe cộ và quân lính
Cùng nhau trốn mất không thấy được.
Tu la có tham dục sân si
Còn biến hóa được không nghĩ bàn
Huống bậc trụ thần thông vô úy
Sao lại không thể hiện tự tại.
Thích Đề Hoàn Nhân có voi chúa
Lúc nó biết Thiên chủ muốn đi
Tự hóa làm ba mươi hai đầu
Mỗi đầu sáu ngà đều đầy đủ.
Trên mỗi ngà có bảy ao nước
Mỗi ao đầy nước thơm trong sạch
Trong mỗi ao nước thơm trong sạch
Có bảy hoa sen nghiêm sức đẹp.
Trên mỗi hoa sen nghiêm sức đó
Đều có bảy ngọc nữ cõi trời
Khéo nghề đờn ca tấu âm nhạc
Thảy đều vui chơi với Đế Thích.
Voi đó hoặc lại bỏ hình cũ
Tự hóa ra thân như chư Thiên
Oai nghi đi đứng đều chỉnh tề
Nó có thần thông biến như vậy.
Voi có tham dục sân hận si
Còn hiện được thần thông như vậy
Hà huống bậc đủ trí phương tiện
Mà trong các định chẳng tự tại.
Như A tu la biến hóa thân
Chân đứng trong biển kim cang tế
Nước biển sâu thẳm đến nửa thân
Đầu cao ngang bằng núi Tu Di.
Tu la có tham dục sân si
Còn hiện được đại thần thông đó
Huống phục ma oán chiếu thế đăng
Chẳng có tự tại oai thần lực !
Lúc trời, A tu la đánh nhau
Thần lực Đế Thích không nghĩ bàn
Tùy số quân lính A tu la
Hiện thân đồng số để đánh nhau.
Các A tu la nghĩ như vầy :
Thích đề hoàn nhân đến đánh ta
Tất sẽ bắt ta trói tay chân
Do đó họ đều sinh lo sợ.
Đế Thích hiện thân có ngàn mắt
Tay cầm kim cang tuôn lửa ngọn
Mặc giáp cầm gậy rất oai nghiêm
Tu la xa thấy đều bỏ chạy.
Đế Thích nhờ chút phước đức nhỏ
Còn phá tan được oán địch lớn
Hà huống bậc cứu độ tất cả
Đầy đủ công đức chẳng tự tại !
Trên trời Đao Lợi có trống trời
Do nghiệp báo trời mà sinh ra
Khi biết các chúng trời phóng dật
Trong không tự nhiên vang tiếng rằng:
Tất cả năm dục đều vô thường
Như bọt nước tự tánh như ngụy
Các cõi như mộng như ánh nắng
Cũng như mây trôi trăng trong nước.
Phóng dật là oán là khổ não
Là đường sinh tử chẳng mát mẻ
Nếu ai làm các hạnh phóng dật
Đi vào miệng cá lớn sinh tử.
Hết thảy các gốc khổ thế gian
Tất cả Thánh nhân đều nhàm sợ
Ngũ dục tánh diệt hoại công đức
Ông nên ưa thích pháp chân thật.
Trời Ba Mươi Ba nghe tiếng đó
Cùng nhau đi đến diệu pháp đường
Đế Thích vì họ nói diệu pháp
Đều khiến thuận theo trừ tham ái.
Tiếng đó vô hình chẳng thấy được
Mà hay lợi ích các Thiên chúng
Huống tùy tâm thích hiện sắc thân
Mà không tế độ các quần sinh.
Khi trời, A tu la đánh nhau
Nhờ phước đức chư Thiên thù thắng
Trống trời vang tiếng bảo chúng trời
Các ông không nên có kinh sợ.
Chư Thiên nghe được tiếng trống đó
Đều hết lo sợ thêm sức lực
Lúc đó A tu la tâm khiếp sợ
Hết thảy binh tướng đều bỏ chạy.
Cam lồ diệu định như trống trời
Luôn vang tiếng hàng ma vắng lặng
Đại bi thương xót cứu tất cả
Khắp khiến chúng sinh diệt phiền não.
Thiên đế khắp ứng các Thiên nữ
Chín mươi hai Na do tha thân
Khiến họ ai nấy tâm tự bảo
Vua trời chỉ vui chơi với ta.
Như khắp ứng với các Thiên nữ
Trong Thiện Pháp Đường cũng như vậy
Hay trong một niệm hiện thần thông
Đều đến trước họ mà nói pháp.
Đế Thích có đủ tham sân si
Hay khiến quyến thuộc đều hoan hỷ
Huống bậc phương tiện đại thần thông
Mà không thể khiến tất cả vui !
Tha Hóa Tự Tại Đại Thiên Vương
Ở trong dục giới được tự tại
Dùng nghiệp cảm khổ làm rọ lưới
Trói buộc tất cả các phàm phu.
Ông ta có tham dục sân si
Với chúng sinh còn được tự tại
Huống bậc được mười lực tự tại
Sao không thể khiến chúng cùng tu !
Ba ngàn thế giới vua Đại Phạm
Chỗ ở của tất cả Phạm Thiên
Thảy đều hiện thân ngồi trước họ
Diễn xướng tiếng Phạm âm vi diệu.
Vua Phạm Vương kia ở thế gian
Thiền định thần thông còn như ý
Huống bậc tu hành pháp xuất thế
Nơi thiền giải thoát chẳng tự tại !
Ma Hê Thủ La trí tự tại
Lúc đại hải Long Vương mưa xuống
Đều phân biệt được số giọt mưa
Ở trong một niệm đều biết rõ.
Vô lượng ức kiếp siêng tu học
Đắc được trí vô thượng bồ đề
Sao không thể ở trong một niệm
Khắp biết tất cả tâm chúng sinh.
Nghiệp báo chúng sinh không nghĩ bàn
Dùng sức gió lớn khởi thế gian
Biển rộng các núi cung điện trời
Các báu quang minh vạn loài vật.
Cũng hay nổi mây trút mưa lớn
Cũng hay tan diệt các mây khí
Cũng hay thành thục các ngũ cốc
Cũng hay an lạc các quần sinh.
Gió không thể học Ba La Mật
Cũng không học các công đức Phật
Mà thành việc không thể nghĩ bàn
Hà huống bậc đầy đủ các nguyện.
Người nam người nữ đủ thứ tiếng
Tất cả các tiếng của chim thú
Tiếng biển cả nước chảy sấm chớp
Đều khiến chúng sinh vui hoan hỷ.
Huống bậc biết tiếng tánh như vang
Đắc được diệu biện tài vô ngại
Khắp ứng chúng sinh mà nói pháp
Sao không thể khiến thế gian vui !
Biển có pháp lạ lùng đặc thù
Hay vì tất cả bình đẳng ấn
Chúng sinh báu vật và dòng nước
Thảy đều bao dung chẳng cự tuyệt.
Bậc vô tận thiền định giải thoát
Là bình đẳng ấn cũng như vậy
Phước đức trí huệ các diệu hạnh
Tất cả đều tu chẳng nhàm đủ.
Khi đại hải Long Vương du hí
Khắp thảy mọi nơi đều tự tại
Nổi mây đầy khắp bốn thiên hạ
Mây đó đủ thứ màu trang nghiêm.
Trời Tha Hóa Tự Tại thứ sáu
Nơi đó mây màu như vàng thật
Trên trời Hóa Lạc màu châu đỏ
Trời Đâu Suất Đà màu sương tuyết.
Trên trời Dạ Ma màu lưu ly
Trời Ba Mươi Ba màu mã não
Trời Tứ Thiên Vương màu pha lê
Trên nước biển cả màu kim cang.
Trong Khẩn na la màu diệu hương
Chỗ các rồng ở màu hoa sen
Chỗ Dạ Xoa ở màu hạc trắng
Trong A tu la màu núi đá.
Nơi Uất Đơn Việt màu vàng lửa
Cõi Diêm phù đề màu xanh báu
Hai thiên hạ kia tạp trang nghiêm
Tùy họ ưa thích mà ứng hiện.
Và lại trời Tha Hóa Tự Tại
Trong mây chớp sáng như nhật quang
Trên trời Hóa Lạc như nguyệt quang
Trên trời Đâu Suất vàng Diêm Phù.
Trên trời Dạ Ma màu kha tuyết
Trời Ba Mươi Ba màu vàng lửa
Trời Tứ Thiên Vương màu các báu
Ở trong biển cả màu châu đỏ.
Cõi Khẩn na la màu lưu ly
Chỗ Long vương ở màu bảo tạng
Chỗ Dạ Xoa ở màu pha lê
Cõi A tu la màu mã não.
Cõi Uất Đơn Việt màu hỏa châu
Trong Diêm phù đề màu đế thanh
Hai thiên hạ kia tạp trang nghiêm
Như màu sắc mây chớp cũng vậy.
Tha hóa sấm nổ như Phạm âm
Trong trời Hóa Lạc tiếng trống trời
Trên trời Đâu Suất tiếng ca xướng
Trên trời Dạ Ma tiếng Thiên nữ.
Ở trên trời Ba Mươi Ba kia
Tiếng như Khẩn na la đủ loại
Chỗ chư Thiên Tứ Vương hộ đời
Tiếng như Càn thát bà nói ra.
Trong biển tiếng như hai núi chạm
Trong Khẩn na la tiếng tiêu địch
Trong thành Long Vương tiếng Tần già
Chỗ Dạ Xoa ở tiếng Long nữ.
Trong A tu la tiếng trống trời
Ở trong loài người tiếng hải triều.
Tha Hóa Tự Tại mưa diệu hương
Đủ thứ tạp hoa làm trang nghiêm
Trời Tha Hóa mưa hoa đa la
Hoa mạn đà la và rưới hương.
Trên trời Đâu Suất mưa ma ni
Đầy đủ các thứ báu trang nghiêm
Bảo châu trong tóc như nguyệt quang
Y phục thượng hạng màu vàng thật.
Trời Dạ Ma mưa tràng phan lọng
Tràng hoa hương thoa đồ nghiêm sức
Y thượng hạng màu trân châu đỏ
Cùng với đủ thứ các kỹ nhạc.
Trời  Đao Lợi mưa châu như ý
Hương trầm thủy chiên đàn đen chắc
Uất kim, kê la, và đa ma
Hoa đẹp nước thơm cùng mưa xuống.
Trong thành hộ thế mưa thức ngon
Sắc hương vị đủ sức tăng trưởng
Cũng mưa châu báu khó nghĩ bàn
Thảy đều do Long vương làm ra.
Và lại ở trong biển cả kia
Mưa rào chẳng dứt như trục xe
Lại mưa vô tận đại bảo tạng
Cũng mưa đủ thứ báu trang nghiêm.
Cõi Khẩn na la mưa anh lạc
Y màu hoa sen và các báu
Hương bà lợi sư ca, mạt lợi
Các thứ âm nhạc đều đầy đủ.
Trong thành loài rồng mưa châu đỏ
Trong thành Dạ Xoa mưa ma ni
Cõi A tu la mưa binh gậy
Hàng phục tất cả các oán địch.
Trong Uất Đơn Việt mưa anh lạc
Cũng mưa vô lượng hoa thượng diệu
Phất Bà, Cù Gia hai thiên hạ
Đều mưa đủ thứ đồ trang nghiêm.
Diêm phù đề mưa nước trong sạch
Thấm nhuần tất cả thường phải thời
Nuôi lớn các hoa quả cây thuốc
Thành thục tất cả các lúa mạ.
Như vậy vô lượng diệu trang nghiêm
Đủ thứ mây chớp và sấm mưa
Long vương tự tại đều làm được
Mà thân chẳng động chẳng phân biệt.
Long vương ở trong biển thế giới
Còn hiện được sức khó nghĩ đó
Huống vào biển pháp đủ công đức
Mà không thể hiện đại thần biến.
Môn giải thoát của các Bồ Tát
Tất cả ví dụ không hiển được
Nay tôi dùng các ví dụ này
Lược nói về thần lực tự tại.
Trí huệ bậc nhất huệ rộng lớn
Trí huệ chân thật huệ vô biên
Thắng huệ cùng với huệ thù thắng
Pháp môn như vậy nay đã nói.
Pháp này ít có rất kỳ đặc
Nếu người nghe rồi hay nhẫn được
Hay tin hay thọ hay khen nói
Làm được như vậy rất là khó.
Thế gian tất cả các phàm phu
Người tin pháp này rất khó được
Nếu người siêng tu phước thanh tịnh
Nhờ nhân lành xưa mới tin được.
Tất cả thế gian các quần sinh
Ít người muốn cầu Thanh Văn thừa
Người cầu Độc Giác lại càng ít
Người hướng đại thừa rất khó gặp.
Người hướng đại thừa còn là dễ
Tin được pháp này càng khó hơn
Huống lại trì tụng vì người nói
Như pháp tu hành hiểu chân thật.
Nếu người đem ba ngàn thế giới
Đội đầu một kiếp thân chẳng động
Việc người đó làm chưa là khó
Người tin pháp này mới là khó.
Có người tay bưng mười cõi nước
Đứng trong hư không suốt một kiếp
Việc làm người đó chưa là khó
Tin được pháp này mới là khó.
Số chúng sinh mười cõi hạt bụi
Đều thí đồ vui suốt một kiếp
Phước đức làm đó chưa là thắng
Người tin pháp này là tối thắng.
Nơi Như Lai mười cõi hạt bụi
Đều kính cúng dường suốt một kiếp
Nếu nơi phẩm này hay trì tụng
Được phước tối thắng hơn người kia.
 
Bấy giờ, Bồ Tát Hiền Thủ nói kệ này rồi, thì mười phương thế giới đều có sáu thứ chấn động, cung ma ẩn khuất, các đường ác dừng nghỉ. Mười phương chư Phật khắp hiện ở trước Bồ Tát Hiền Thủ, đều dùng tay phải xoa đầu, đồng thanh khen ngợi rằng : Lành thay ! Lành thay ! Ông khéo nói pháp này, chúng ta tất cả thảy đều tùy hỷ.
 
 
 
 
 
 
 

 
KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
 
QUYỂN MƯỜI SÁU
 
PHẨM THĂNG LÊN ĐỈNH NÚI TU DI
THỨ MƯỜI BA
 
Bấy giờ, do oai thần lực của Như Lai, mười phương tất cả thế giới, mỗi mỗi tứ Thiên hạ trong cõi Diêm Phù Đề, đều thấy Như Lai ngồi dưới cội bồ đề, đều có Bồ Tát nương thần lực của Phật mà diễn nói pháp, hết thảy đều cho rằng mình luôn ở trước Phật.
Bấy giờ, đức Thế Tôn chẳng lìa khỏi dưới tất cả cội bồ đề, mà thăng lên đỉnh núi Tu Di, hướng về cung điện của trời Đế Thích.
Bấy giờ, trời Đế Thích ở trước điện Diệu Thắng, xa trông thấy đức Phật đến, bèn dùng thần lực, trang nghiêm cung điện đó, trang trí tòa sư tử Phổ quang minh tạng. Tòa đó đều dùng diệu báu làm thành.
Có mười ngàn tầng cấp, rất đẹp trang nghiêm. Mười ngàn lưới vàng, giăng che phía trên. Mười ngàn thứ màn, mười ngàn thứ lọng, bày trí chung quanh. Mười ngàn lụa thêu thòng rũ khắp nơi. Mười ngàn chuỗi châu báu xen kẽ khắp bốn phía. Mười ngàn y phục phô bày khắp trên tòa. Mười ngàn Thiên tử, mười ngàn Phạm Vương vây quanh trước sau. Mười ngàn quang minh chiếu sáng.
Bấy giờ, trời Đế Thích vì Như Lai trang trí tòa xong rồi, cúi mình chắp tay cung kính, hướng về đức Phật mà bạch rằng: Thiện lai đức Thế Tôn ! Thiện lai đức Thiện Thệ ! Thiện lai đức Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác. Xin nguyện Ngài thương xót mà vào cung điện này.
Bấy giờ, đức Thế Tôn thọ nhận lời thỉnh cầu, đi vào điện Diệu Thắng. Trong mười phương tất cả thế giới, cũng đều như thế.
Bấy giờ, Đế Thích nương thần lực của đức Phật, trong các cung điện, hết thảy âm nhạc đều tự nhiên ngừng lại. Liền tự nghĩ nhớ ở chỗ chư Phật quá khứ, trồng các căn lành mà nói kệ rằng:
Ca Diếp Như Lai đủ đại bi
Trong những cát tường vô thượng nhất
Phật đó từng vào cung điện này
Thế nên nơi này cát tường nhất.
Câu Na Mâu Ni thấy vô ngại
Trong những cát tường vô thượng nhất
Phật đó từng vào cung điện này
Thế nên nơi này cát tường nhất.
Ca La Cưu Đà như núi vàng
Trong những cát tường vô thượng nhất
Phật đó từng vào cung điện này
Thế nên nơi này cát tường nhất.
Phật Tỳ Xá Phù sạch ba cấu
Trong những cát tường vô thượng nhất
Phật đó từng vào cung điện này
Thế nên nơi này cát tường nhất.
Thi Khí Như Lai lìa phân biệt
Trong những cát tường vô thượng nhất
Phật đó từng vào cung điện này
Thế nên nơi này cát tường nhất.
Phật Tỳ Bà Thi như trăng rằm
Trong những cát tường vô thượng nhất
Phật đó từng vào cung điện này
Thế nên nơi này cát tường nhất.
Phất Sa thấu rõ đệ nhất nghĩa
Trong những cát tường vô thượng nhất
Phật đó từng vào cung điện này
Thế nên nơi này cát tường nhất.
Đề Xá Như Lai biện vô ngại
Trong những cát tường vô thượng nhất
Phật đó từng vào cung điện này
Thế nên nơi này cát tường nhất.
Phật Ba Đầu Ma tịnh vô cấu
Trong những cát tường vô thượng nhất
Phật đó từng vào cung điện này
Thế nên nơi này cát tường nhất.
Nhiên Đăng Như Lai đại quang minh
Trong những cát tường vô thượng nhất
Phật đó từng vào cung điện này
Thế nên nơi này cát tường nhất.
 
Bấy giờ, đức Thế Tôn vào điện Diệu Thắng ngồi kiết già, thì điện đó bỗng nhiên rộng lớn vô cùng, như chỗ ở của các chư Thiên. Mười phương thế giới cũng đều như thế.
 
 

KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
 
QUYỂN MƯỜI SÁU
 
PHẨM KỆ KHEN NGỢI TRÊN
ĐỈNH TU DI THỨ MƯỜI BỐN
 
Bấy giờ, do thần lực của Phật, mười phương đều có một vị đại Bồ Tát. Mỗi vị đều cùng với các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi cõi Phật tụ lại. Từ ngoài cõi nước nhiều như số hạt bụi trăm cõi Phật, trong các thế giới đồng tụ tập đến.
Tên của các Ngài là: Bồ Tát Pháp Huệ. Bồ Tát Nhất Thiết Huệ. Bồ Tát Thắng Huệ. Bồ Tát Công Đức Huệ. Bồ Tát Tinh Tấn Huệ. Bồ Tát Thiện Huệ. Bồ Tát Trí Huệ. Bồ Tát Chân Thật Huệ. Bồ Tát Vô Thượng Huệ. Bồ Tát Kiên Cố Huệ.
Từ cõi nước đến, đó là: Thế giới Nhân Đà La Hoa. Thế giới Ba Đầu Ma Hoa. Thế giới Bảo Hoa. Thế giới Ưu Bát La Hoa. Thế giới Kim Cang Hoa. Thế giới Diệu Hương Hoa. Thế giới Duyệt Ý Hoa. Thế giới A Lư Na Hoa. Thế giới Na La Đà Hoa. Thế giới Hư Không Hoa.
Các vị Bồ Tát đó, ở chỗ chư Phật tịnh tu phạm hạnh. Đó là: Phật Thù Đặc Nguyệt. Phật Vô Tận Nguyệt. Phật Bất Động Nguyệt. Phật Phong Nguyệt. Phật Thủy Nguyệt. Phật Giải Thoát Nguyệt. Phật Vô Thượng Nguyệt. Phật Tinh Tú Nguyệt. Phật Thanh Tịnh Nguyệt. Phật Minh Liễu Nguyệt.
Các Bồ Tát đó, đến chỗ Phật rồi, đảnh lễ dưới chân Phật, theo phương của mình đến, ai nấy đều hóa làm tòa sư tử Tỳ Lô Giá Na Tạng và ngồi kiết già trên tòa đó.
Như trong thế giới này, trên đỉnh Tu Di, các Bồ Tát đều tụ tập đến. Trong tất cả thế giới, cũng đều như thế. Các Bồ Tát đó, hết thảy danh hiệu, thế giới, danh hiệu Phật, cũng đều giống nhau không khác.
Bấy giờ, đức Thế Tôn từ các ngón chân của hai bàn chân, phóng ra trăm ngàn ức quang minh sắc đẹp, chiếu khắp mười phương tất cả thế giới. Trên đỉnh Tu Di, trong cung điện trời Đế Thích, Phật và đại chúng thảy đều hiện ra.
Bấy giờ, Bồ Tát Pháp Huệ, nương thần lực của đức Phật, quán khắp mười phương mà nói kệ rằng:
Phật phóng tịnh quang minh
Khắp thấy Thế Đạo Sư
Trên đỉnh núi Tu Di
Ngự trong điện Diệu Thắng.
Tất cả trời Đế Thích
Thỉnh Phật vào cung điện
Đều dùng mười kệ hay
Khen ngợi các Như Lai.
Trong các đại hội đó
Hết thảy chúng Bồ Tát
Đều từ mười phương đến
Hóa tòa ngồi trên đó.
Các Bồ Tát hội đó
Danh hiệu đồng chúng tôi
Đến từ các thế giới
Danh từ cũng như vậy.
Cõi nước các Thế Tôn
Danh hiệu cũng đồng nhau
Mỗi vị ở nước mình
Tịnh tu hạnh vô thượng.
Phật tử ! Ông nên quán
Tự tại của Như Lai
Tất cả cõi Diêm Phù
Đều nói Phật trong đó.
Chúng ta nay thấy Phật
Trụ trên đỉnh Tu Di
Mười phương cũng như thế
Sức tự tại Như Lai.
Trong mỗi mỗi thế giới
Phát tâm cầu Phật đạo
Nương vào nguyện như vậy
Tu tập hạnh bồ đề.
Phật dùng đủ loại thân
Du hành khắp thế gian
Pháp giới chẳng gì ngại
Không ai trắc lượng được.
Huệ quang luôn chiếu khắp
Đời tối đều trừ diệt
Tất cả chẳng sánh bằng
Làm sao dò biết được !
 
Bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Huệ, nương oai lực của đức Phật, quán khắp mười phương, mà nói kệ rằng:
Giả sử trăm ngàn kiếp
Thường thấy đức Như Lai
Chẳng nương nghĩa chân thật
Mà quán bậc Cứu Thế.
Người đó trụ các tướng
Tăng thêm lưới si hoặc
Trói chặt ngục sinh tử
Mù tối chẳng thấy Phật.
Quán sát nơi các pháp
Tự tánh chẳng chỗ có
Tướng nó vốn sinh diệt
Chỉ là giả danh nói.
Tất cả pháp không sinh
Tất cả pháp không diệt
Nếu hiểu được như vậy
Chư Phật thường hiện tiền.
Pháp tánh vốn vắng lặng
Không lấy cũng không thấy
Tánh không tức là Phật
Không thể suy lường được.
Nếu biết tất cả pháp
Thể tánh đều như vậy
Thì người đó không bị
Phiền não làm nhiễm trước.
Phàm phu thấy các pháp
Nhưng tùy theo tướng chuyển
Chẳng rõ pháp vô tướng
Do đó chẳng thấy Phật.
Mâu Ni lìa ba đời
Các tướng đều đầy đủ
Trụ nơi chẳng chỗ trụ
Khắp thảy mà chẳng động.
Tôi quán tất cả pháp
Thảy đều thấu rõ hết
Nay thấy nơi Như Lai
Quyết định không có nghi.
Pháp Huệ trước đã nói
Như Lai chân thật tướng
Tôi từ đó biết rõ
Bồ đề khó nghĩ bàn.
 
Bấy giờ, Bồ Tát Thắng Huệ nương thần lực của đứcPhật, quán sát khắp mười phương mà nói kệ rằng:
Như Lai đại trí huệ
Ít có không thể sánh
Tất cả các thế gian
Suy tư chẳng biết được.
Phàm phu vọng quán sát
Giữ tướng chẳng như lý
Phật lìa tất cả tướng
Phàm phu chẳng thấy được.
Người mê hoặc vô tri
Vọng giữ tướng năm uẩn
Chẳng rõ chân tánh đó
Người đó chẳng thấy Phật.
Biết rõ tất cả pháp
Đều chẳng có tự tánh
Hiểu pháp tánh như vậy
Tức thấy Lô Xá Na.
Vì do năm uẩn trước
Uẩn sau khởi liên tục
Nơi tánh này biết rõ
Thấy Phật khó nghĩ bàn.
Ví như báu trong tối
Không đèn chẳng thể thấy
Phật pháp chẳng người nói
Dù huệ chẳng biết được.
Cũng như mắt có màng
Chẳng thấy màu đẹp tịnh
Tâm bất tịnh như vậy
Chẳng thấy pháp chư Phật.
Lại như mặt trời sáng
Kẻ mù chẳng thấy được
Tâm chẳng có trí huệ
Không thấy được chư Phật.
Nếu trừ được màng mắt
Xả lìa nơi sắc tưởng
Chẳng thấy nơi các pháp
Tức thấy được Như Lai.
Nhất Thiết Huệ trước nói
Pháp bồ đề chư Phật
Tôi nghe từ nơi đó
Thấy được Lô Xá Na.
 
Bấy giờ, Bồ Tát Công Đức Huệ nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương mà nói kệ rằng.
Các pháp chẳng chân thật
Vọng giữ tướng chân thật
Do đó các phàm phu
Luân hồi ngục sinh tử.
Lời lẽ nói các pháp
Trí nhỏ vọng phân biệt
Do đó sinh chướng ngại
Chẳng rõ nơi tâm mình.
Không thể rõ tâm mình
Làm sao biết chánh đạo
Đó do điên đảo huệ
Tăng trưởng tất cả ác.
Chẳng thấy các pháp không
Luôn thọ khổ sinh tử
Người đó chưa có được
Pháp nhãn thanh tịnh vậy.
Xưa tôi thọ các khổ
Do tôi chẳng thấy Phật
Nên phải tịnh pháp nhãn
Thấy chỗ đáng được thấy.
Nếu thấy được đức Phật
Mà tâm chẳng thủ giữ
Người đó tức thấy được
Biết pháp của Phật nói.
Nếu thấy thật pháp Phật
Tức gọi bậc đại trí
Người đó có mắt tịnh
Quán sát được thế gian.
Không thấy tức là thấy
Thấy được tất cả pháp
Nếu nơi pháp có thấy
Đó là không chỗ thấy.
Tất cả các pháp tánh
Không sinh cũng không diệt
Lạ thay đại Đạo Sư
Tự giác hay giác tha.
Thắng Huệ trước đã nói
Pháp của Như Lai ngộ
Chúng tôi từ đó nghe
Biết được chân tánh Phật.
Bấy giờ, Bồ Tát Tinh Tấn Huệ nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương mà nói kệ rằng:
Nếu trụ nơi phân biệt
Tức hoại mắt thanh tịnh
Ngu si tà kiến tăng
Vĩnh chẳng thấy chư Phật.
Nếu rõ được pháp tà
Như thật chẳng điên đảo
Biết vọng vốn tự chân
Thấy Phật liền thanh tịnh.
Có thấy tức là cấu
Đó tức là chưa thấy
Xa lìa các sự thấy
Như vậy mới thấy Phật.
Pháp ngôn ngữ thế gian
Chúng sinh vọng phân biệt
Biết đời đều không sinh
Đó là thấy thế gian.
Nếu thấy thấy thế gian
Tức thấy tướng thế gian
Như thật đồng không khác
Đây gọi người thấy thật.
Nếu thấy đồng không khác
Nơi vật chẳng phân biệt
Thấy đó lìa các hoặc
Vô lậu được tự tại.
Pháp chư Phật mở bày
Tất cả pháp phân biệt
Đó đều bất khả đắc
Do đó tánh thanh tịnh.
Pháp tánh vốn thanh tịnh
Như không chẳng có tướng
Tất cả không thể nói
Bậc trí quán như vậy.
Xa lìa nơi pháp tưởng
Chẳng ưa tất cả pháp
Đó cũng không chỗ tu
Thấy được Đại Mâu Ni.
Như chỗ Đức Huệ nói
Đây gọi người thấy Phật
Hết thảy tất cả hạnh
Thể tánh đều vắng lặng.
 
Bấy giờ, Bồ Tát Thiện Huệ, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương mà nói kệ rằng.
Ít có đại dũng kiện
Vô lượng các Như Lai
Lìa cấu tâm giải thoát
Tự độ hay độ họ.
Tôi thấy Thế Gian Đăng
Như thật chẳng điên đảo
Như trong vô lượng kiếp
Chỗ thấy bậc tích trí.
Tất cả phàm phu làm
Thảy đều mau quy tận
Tánh đó như hư không
Nên nói không có tận.
Bậc trí nói vô tận
Đây cũng không chỗ nói
Vì tự tánh vô tận
Được có nan tư tận.
Trong chỗ nói vô tận
Không chúng sinh khả đắc
Biết tánh chúng sinh vậy
Tức thấy Đại Danh Xưng.
Không thấy nói là thấy
Không sinh nói chúng sinh
Nếu thấy, nếu chúng sinh
Biết rõ không thể tánh.
Năng thấy và sở thấy
Người thấy đều trừ bỏ
Chẳng hoại nơi thật pháp
Người đó biết rõ Phật.
Nếu người biết rõ Phật
Và pháp của Phật nói
Tức chiếu được thế gian
Như Phật Lô Xá Na.
Chánh giác khéo khai thị
Một pháp tạo thanh tịnh
Tinh Tấn Huệ đại sĩ
Diễn nói vô lượng pháp.
Hoặc có hoặc không có
Tưởng đó đều trừ diệt
Như vậy thấy được Phật
An trụ nơi thật tế.
 
Bấy giờ, Bồ Tát Trí Huệ, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói kệ rằng:
Tôi nghe giáo tối thắng
Bèn sinh trí huệ quang
Chiếu khắp mười phương giới
Đều thấy tất cả Phật.
Trong đó không chút vật
Chỉ có danh tự giả
Nếu tánh có ta người
Tức là vào đường hiểm.
Phàm phu thủ chấp trước
Chấp thân là thật có
Như Lai chẳng chấp thủ
Họ trọn không thấy được.
Người đó không huệ nhãn
Không thể thấy được Phật
Ở trong vô lượng kiếp
Lưu chuyển biển sinh tử.
Có tranh nói sinh tử
Không tranh tức Niết Bàn
Sinh tử và Niết Bàn
Cả hai bất khả đắc.
Nếu truy danh tự giả
Thủ trước hai pháp này
Người đó chẳng như thật
Chẳng biết Thánh diệu đạo.
Nếu sinh tưởng như vậy
Đây Phật đây tối thắng
Điên đảo chẳng thật nghĩa
Không thấy được Chánh Giác.
Biết được thật thể này
Tướng tịch diệt chân như
Thì thấy đấng Chánh Giác
Vượt khỏi đường ngôn ngữ.
Ngôn ngữ nói các pháp
Không hiển được thật tướng
Bình đẳng mới thấy được
Như pháp Phật cũng thế.
Chánh Giác đời quá khứ
Vị lai và hiện tại
Vĩnh đoạn gốc phân biệt
Cho nên gọi là Phật.
 
Bấy giờ, Bồ Tát Chân Thật Huệ, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương mà nói kệ rằng:
Thà thọ khổ địa ngục
Được nghe tên chư Phật
Không thọ vô lượng vui
Mà chẳng nghe tên Phật.
Cho nên trong quá khứ
Chịu khổ vô số kiếp
Lưu chuyển trong sinh tử
Vì không nghe tên Phật.
Nơi pháp không điên đảo
Như thật mà hiện chứng
Lìa các tướng hòa hợp
Đó gọi Vô Thượng Giác.
Hiện tại chẳng hòa hợp
Khứ lai cũng như thế
Tất cả pháp vô tướng
Đó là chân thể Phật.
Nếu quán sát như vậy
Nghĩa các pháp thâm sâu
Tất thấy tất cả Phật
Tướng pháp thân chân thật.
Nơi thật thấy chân thật
Không thật thấy không thật
Như vậy hiểu rốt ráo
Thề nên gọi là Phật.
Phật pháp không thể giác
Rõ đây gọi giác pháp
Chư Phật tu như vậy
Một pháp không thể được.
Biết do một nên nhiều
Biết do nhiều nên một
Các pháp chẳng chỗ nương
Nhưng từ hòa hợp khởi.
Không năng tác sở tác
Do từ nghiệp tưởng sinh
Sao lại biết như vậy
Vì khác đây không có.
Tất cả pháp không trụ
Định xứ không thể được
Chư Phật trụ nơi đây
Rốt ráo chẳng giao động.
Bấy giờ, Bồ Tát Vô Thượng Huệ, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương mà nói kệ rằng:
Vô thượng Ma Ha Tát
Xa lìa chúng sinh tưởng
Không có ai hơn được
Nên hiệu là Vô Thượng.
Chỗ chư Phật đắc được
Vô tác vô phân biệt
Thô lớn không chỗ có
Vi tế cũng như thế.
Cảnh giới chư Phật hành
Trong đó chẳng có số
Chánh giác xa lìa số
Đây là chân pháp Phật.
Như Lai quang chiếu khắp
Diệt trừ các đen tối
Quang đó chẳng có chiếu
Cũng lại chẳng không chiếu.
Nơi pháp chẳng chấp trước
Không niệm cũng không nhiễm
Không trụ không xứ sở
Chẳng hoại nơi pháp tánh.
Trong đây không có hai
Cũng lại không có một
Bậc đại trí khéo thấy
Như lý khéo an trụ.
Trong không chẳng có hai
Chẳng hai cũng lại không
Ba cõi tất cả không
Đó là chư Phật thấy.
Phàm phu chẳng giác hiểu
Phật khiến trụ chánh pháp
Các pháp chẳng chỗ trụ
Ngộ đây thấy thân mình.
Không thân mà nói thân
Không khởi mà hiện khởi
Không thân cũng không thấy
Là Phật vô thượng thân.
Như vậy Thật Huệ nói
Chư Phật diệu pháp tánh
Nếu người nghe pháp này
Sẽ được mắt thanh tịnh.
 
Bấy giờ, Bồ Tát Kiên Cố Huệ nương oai lưc của đức Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói kệ rằng:
Vĩ đại đấng quang minh
Dũng kiện vô thượng sĩ
Vì lợi ích quần mê
Mà xuất hiện ra đời.
Phật dùng tâm đại bi
Quán khắp các chúng sinh
Thấy ở trong ba cõi
Luân hồi thọ các khổ.
Chỉ trừ Chánh Đẳng Giác
Đấng Đạo Sư đủ đức
Tất cả các người, trời
Không ai cứu hộ được.
Nếu chư Phật Bồ Tát
Chẳng hiện ra thế gian
Chẳng có chúng sinh nào
Đắc được sự an lạc.
Nếu ai thấy Như Lai
Sẽ được lợi lành lớn
Nghe tên Phật liền tin
Tức là pháp thế gian.
Chúng tôi thấy Thế Tôn
Vì được lợi ích lớn
Nghe diệu pháp như vậy
Tất sẽ thành Phật đạo.
Các Bồ Tát quá khứ
Nhờ Phật oai thần lực
Được huệ nhãn thanh tịnh
Rõ cảnh giới chư Phật.
Nay thấy Lô Xá Na
Liền thêm tin thanh tịnh
Trí Phật không bờ mé
Diễn nói không hết được.
Thắng Huệ các Bồ Tát
Và ta Kiên Cố Huệ
Trong vô số ức kiếp
Nói cũng không hết được.
 
 

 
 
 

 
 

KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
 
QUYỂN MƯỜI SÁU
 
PHẨM THẬP TRỤ THỨ MƯỜI LĂM
 
Bấy giờ, Bồ Tát Pháp Huệ nương oai lực của đức Phật, nhập vào tam muội Bồ Tát vô lượng phương tiện.
Nhờ sức tam muội, mà ngoài các thế giới, nhiều như số hạt bụi ngàn cõi Phật trong mười phương, đều có các đức Phật, nhiều như số hạt bụi ngàn cõi Phật, đều đồng danh hiệu là Pháp Huệ, đều hiện ra ở trước bảo Bồ Tát Pháp Huệ rằng: Lành thay ! Lành thay ! Thiện nam tử ! Ông nhập vào được tam muội Bồ Tát vô lượng phương tiện này.
Thiện nam tử ! Các đức Phật nhiều như số hạt bụi ngàn cõi Phật trong mười phương, đều dùng thần lực cùng gia bị cho ông và oai thần lực, nguyện lực thuở xưa của Như Lai Tỳ Lô Giá Na, cùng với sức căn lành của ông tu, nên nhập vào tam muội này, khiến cho ông nói pháp.
Vì để tăng trưởng trí của Phật. Vì vào sâu pháp giới. Vì khéo biết rõ chúng sinh giới. Vì chỗ nhập vào vô ngại. Vì chỗ thực hành không chướng ngại. Vì được vô đẳng phương tiện. Vì vào tất cả trí tánh. Vì giác ngộ tất cả pháp. Vì biết tất cả căn tánh. Vì hay trì nói tất cả pháp. Đó là phát khởi mười thứ trụ của Bồ Tát.
Thiện nam tử ! Ông hãy nương oai thần lực của Phật, mà diễn nói pháp này.
Bấy giờ, chư Phật liền ban cho Bồ Tát Pháp Huệ, trí vô ngại, trí vô trước, trí vô đoạn, trí vô si, trí vô dị, trí vô thất, trí vô lượng, trí vô thắng, trí vô giải, trí vô đoạt. Tại sao vậy, vì sức tam muội này, pháp như vậy.
Bấy giờ, chư Phật đều duỗi tay phải ra, xoa đảnh Bồ Tát Pháp Huệ. Bồ Tát Pháp Huệ bèn từ định mà dậy, bảo các Bồ Tát rằng: Phật tử ! Trụ xứ của Bồ Tát rộng lớn đồng với pháp giới hư không.
Phật tử ! Bồ Tát trụ nơi nhà ba đời chư Phật. Nay tôi sẽ nói chỗ trụ của Bồ Tát. Các Phật tử ! Chỗ Bồ Tát trụ có mười thứ. Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai, đã nói nay nói và sẽ nói.
Những gì là mười ? Đó là: Ban đầu phát tâm trụ, trị địa trụ, tu hành trụ, sinh quý trụ, cụ túc phương tiện trụ, chánh tâm trụ, bất thối trụ, đồng chân trụ, pháp vương tử trụ, quán đảnh trụ. Đó là tên Thập Trụ của Bồ Tát, quá khứ hiện tại vị lai chư Phật đều nói.
Phật tử ! Thế nào là Bồ Tát phát tâm trụ ? Bồ Tát này thấy Phật Thế Tôn, dung nhan sinh đẹp, sắc tướng viên mãn, người đều ưa thấy, rất khó gặp được, có oai nghi lớn, hoặc thấy thần túc, hoặc nghe thọ ký, hoặc nghe răn dạy, hoặc thấy chúng sinh thọ các sự quá khổ, hoặc nghe Như Lai rộng nói Phật pháp, mà phát tâm bồ đề, cầu nhất thiết trí.
Bồ Tát này duyên mười thứ pháp khó được mà phát tâm. Những gì là mười ? Đó là: Trí xứ phi xứ. Trí thiện ác nghiệp báo. Trí các căn thắng liệt. Trí đủ thứ giải khác biệt. Trí đủ thứ giới khác biệt. Trí nhất thiết chí xứ đạo. Trí các thiền giải thoát tam muội. Trí túc mạng vô ngại. Trí thiên nhãn vô ngại. Trí ba đời lậu đều sạch. Đó là mười.
Phật tử ! Bồ Tát này nên khuyên học mười pháp. Những gì là mười ? Đó là: Siêng cúng dường Phật. Ưa thích trụ nơi sinh tử. Chủ trì dẫn dắt thế gian, khiến cho tiêu trừ nghiệp ác. Dùng diệu pháp thù thắng, để thường hành giáo hóa. Khen ngợi pháp vô thượng. Học công đức của Phật. sinh ở trước chư Phật, luôn được Phật nhiếp thọ. Phương tiện diễn nói, tịch diệt tam muội. Khen ngợi xa lìa sinh tử luân hồi. Vì chúng sinh khổ mà làm chỗ nương tựa.
Tại sao ? Vì muốn khiến cho Bồ Tát ở trong Phật pháp, tâm thêm rộng lớn. những pháp được nghe, liền tự thấu hiểu, chẳng do người khác dạy.
Phật tử ! Thế nào là trị địa trụ ? Bồ Tát này đối với các chúng sinh phát mười thứ tâm. Những gì là mười ? Đó là: Tâm lợi ích. Tâm đại bi. Tâm an lạc. Tâm an trụ. Tâm thương xót. Tâm nhiếp thọ. Tâm thủ hộ. Tâm đồng như mình. Tâm sư. Tâm đạo sư. Đó là mười.
Phật tử ! Bồ Tát này nên khuyên học mười pháp. Những gì là mười ? Đó là: Tụng tập đa văn. Rảnh rang tịch tĩnh. Gần gũi thiện tri thức. Nói lời hòa nhã. Nói phải biết thời. Tâm không khiếp sợ. Thấu rõ các nghĩa. Như pháp tu hành. Xa lìa ngu mê. An trụ chẳng động. Tại sao? Vì muốn khiến cho Bồ Tát đối với các chúng sinh tăng trưởng đại bi. Nếu có nghe pháp, thì tự thấu hiểu, chẳng do họ dạy.
Phật tử ! Thế nào là Bồ Tát tu hành trụ? Bồ Tát này dùng mười thứ hạnh để quán sát tất cả các pháp. Những gì là mười? Đó là: Quán tất cả pháp vô thường. Tất cả pháp khổ. Tất cả pháp không. Tất cả pháp vô ngã. Tất cả pháp vô tác. Tất cả pháp vô vị. Tất cả pháp chẳng như danh. Tất cả pháp không xứ sở. Tất cả pháp lìa phân biệt. Tất cả pháp không kiên thật. Đó là mười.
Phật tử ! Bồ Tát này nên khuyên học mười pháp. Những gì là mười ? Đó là: Quán sát chúng sinh giới. Pháp giới. Thế giới. Quán sát địa giới. Thủy giới. Hỏa giới. Phong giới. Quán sát dục giới. Sắc giới. Vô sắc giới. Tại sao ? Vì muốn khiến cho Bồ Tát trí huệ thấu rõ. Nếu có nghe pháp, thì liền tự khai ngộ hiểu biết, chẳng do người khác dạy.
Phật tử ! Thế nào là Bồ Tát sinh quý trụ. Bồ Tát này sinh từ trong Thánh giáo, thành tựu mười pháp. Những gì là mười ? Đó là: Vĩnh viễn chẳng thối chuyển. Ở chỗ các đức Phật sinh tâm tin thanh tịnh sâu xa. Khéo quán sát pháp. Biết rõ chúng sinh, cõi nước, thế giới, nghiệp hành, quả báo, sinh tử, Niết Bàn. Đó là mười.
Phật tử ! Bồ Tát này nên khuyên học mười pháp. Những gì là mười ? Đó là: Biết rõ tất cả Phật pháp quá khứ, hiện tại, vị lai. Tu tập tất cả Phật pháp quá khứ, vị lai, hiện tại. Viên mãn tất cả Phật pháp quá khứ, vị lai, hiện tại. Biết rõ tất cả chư Phật bình đẳng. Tại sao ? Vì muốn khiến cho tăng tấn trong ba đời tâm được bình đẳng. Nếu có nghe pháp, liền tự hiểu biết, chẳng do người khác dạy.
Phật tử ! Thế nào là Bồ Tát cụ túc phương tiện trụ ? Bồ Tát này tu căn lành, đều vì cứu hộ tất cả chúng sinh. Lợi ích tất cả chúng sinh. An lạc tất cả chúng sinh. Thương xót tất cả chúng sinh. Độ thoát tất cả chúng sinh. Khiến cho tất cả chúng sinh lìa các tai nạn. Khiến cho tất cả chúng sinh thoát khỏi khổ sinh tử. Khiến cho tất cả chúng sinh phát sinh niềm tin thanh tịnh. Khiến cho tất cả chúng sinh đều được điều phục. Khiến cho tất cả chúng sinh đều chứng Niết Bàn.
Phật tử ! Bồ Tát này nên khuyên học mười pháp. Những gì là mười ? Đó là: Biết chúng sinh vô biên. Biết chúng sinh vô lượng. Biết chúng sinh vô số. Biết chúng sinh không nghĩ bàn. Biết chúng sinh vô lượng sắc. Biết chúng sinh không thể lường. Biết chúng sinh là không. Biết chúng sinh không ai làm ra. Biết chúng sinh không chỗ có. Biết chúng sinh không tự tánh. Tại sao ? Vì muốn khiến cho tâm của Bồ Tát này càng tăng thêm thù thắng hơn, chẳng có nhiễm trước. Nếu có nghe pháp thì liền thấu hiểu, chẳng do người khác dạy.
Phật tử ! Thế nào là Bồ Tát chánh tâm trụ ? Bồ Tát này nghe mười pháp mà tâm định chẳng động. Những gì là mười pháp ? Đó là: Nghe khen Phật hay phỉ báng Phật, ở trong Phật pháp tâm định chẳng động. Nghe khen pháp hay phỉ báng pháp, ở trong Phật pháp, tâm định chẳng động. Nghe khen Bồ Tát hay phỉ báng Bồ Tát, ở trong Phật pháp, tâm định chẳng động. Nghe khen hay phỉ báng pháp hành của Bồ Tát, ở trong Phật pháp, tâm định chẳng động. Nghe nói chúng sinh hữu lượng vô lượng, ở trong Phật pháp, tâm định chẳng động. Nghe nói chúng sinh hữu cấu vô cấu, ở trong Phật pháp, tâm định chẳng động. Nghe nói chúng sinh dễ độ khó độ, ở trong Phật pháp, tâm định chẳng động. Nghe nói pháp giới hữu lượng vô lượng, ở trong Phật pháp, tâm định chẳng động. Nghe nói pháp giới có thành có hoại, ở trong Phật pháp, tâm định chẳng động. Nghe nói pháp giới hoặc có hoặc không, ở trong Phật pháp, tâm định chẳng động.
Phật tử ! Bồ Tát này nên khuyên học mười pháp. Những gì là mười ? Đó là: Tất cả pháp không tướng. Tất cả pháp không thể. Tất cả pháp không thể tu. Tất cả pháp chẳng chỗ có. Tất cả pháp không chân thật. Tất cả pháp không. Tất cả pháp không tánh. Tất cả pháp như huyễn. tất cả pháp như mộng. Tất cả pháp không phân biệt. Tại sao ? Vì muốn khiến cho Bồ Tát tâm càng tăng thêm tinh tấn, được không thối chuyển vô sinh pháp nhẫn, nếu có nghe pháp thì liền thấu hiểu, không do người khác chỉ dạy.
Phật tử ! Thế nào là Bồ Tát bất thối trụ ? Bồ Tát này nghe mười pháp, kiên cố bất thối. Những gì là mười ? Đó là:
Nghe có Phật, không có Phật, ở trong Phật pháp, tâm chẳng thối chuyển.
Nghe có pháp, không có pháp, ở trong Phật pháp, tâm chẳng thối chuyển.
Nghe có Bồ Tát, không có Bồ Tát, ở trong Phật pháp, tâm chẳng thối chuyển.
Nghe có Bồ Tát hạnh, không có Bồ Tát hạnh, ở trong Phật pháp, tâm chẳng thối chuyển.
Nghe có Bồ Tát tu hành thoát khỏi, tu hành không thoát khỏi, ở trong Phật pháp, tâm chẳng thối chuyển.
Nghe quá khứ có Phật, quá khứ không có Phật, ở trong Phật pháp, tâm chẳng thối chuyển.
Nghe vị lai có Phật, vị lai không có Phật, ở trong Phật pháp, tâm chẳng thối chuyển.
Nghe hiện tại có Phật, hiện tại không có Phật, ở trong Phật pháp, tâm chẳng thối chuyển.
Nghe trí Phật hữu tận, trí Phật vô tận, ở trong Phật pháp, tâm chẳng thối chuyển.
Nghe ba đời một tướng, ba đời chẳng phải một tướng, ở trong Phật pháp, tâm chẳng thối chuyển. Đó là mười.
Phật tử ! Bồ Tát này nên khuyên học mười pháp rộng lớn. Những gì là mười ? Đó là: Nói một tức nhiều. Nói nhiều tức một. Văn tùy nơi nghĩa. Nghĩa tùy nơi văn. Chẳng có tức có. Có tức chẳng có. Không tướng tức là tướng. Tướng tức là không tướng. Không tánh tức là tánh. Tánh tức là không tánh.
Tại sao ? Vì muốn khiến cho tăng thêm tinh tấn, nơi tất cả pháp khéo thoát khỏi. Nếu có nghe pháp thì tự thấu hiểu, không do người khác chỉ dạy.
 
Phật tử ! Thế nào là Bồ Tát đồng chân trụ? Bồ Tát này trụ mười thứ nghiệp. Những gì là mười ? Đó là: Thân hành không lỗi. Lời hành không lỗi. Ý hành không lỗi. Tùy ý thọ sinh. Biết chúng sinh đủ thứ dục. Biết chúng sinh đủ thứ sự hiểu biết. Biết chúng sinh đủ thứ loài. Biết chúng sinh đủ thứ nghiệp. Biết thế giới thành hoại. Thần túc tự tại, sở hành vô ngại. Đó là mười.
Phật tử ! Bồ Tát này nên khuyên học mười pháp. Những gì là mười ? Đó là: Biết tất cả cõi Phật. Chấn động tất cả cõi Phật. Hộ trì tất cả cõi Phật. Quán sát tất cả cõi Phật. Đến tất cả cõi Phật. Du hành vô số thế giới. Lãnh thọ vô số Phật pháp. Hiện biến hóa thân tự tại. Vang ra âm thanh rộng lớn đầy khắp. Trong một sát na, thừa sự cúng dường vô số các đức Phật.
Tại sao ? Vì muốn khiến cho tăng thêm tinh tấn, nơi tất cả pháp đắc được sự khéo léo. Nếu có nghe pháp thì liền thấu hiểu, chẳng do người khác chỉ dạy.
Phật tử ! Thế nào là Bồ Tát pháp vương tử trụ ? Bồ Tát này khéo biết mười pháp. Những gì là mười pháp ? Đó là: Khéo biết các chúng sinh thọ sanh. Khéo biết các phiền não hiện khởi. Khéo biết tập khí liên tục. Khéo biết sở hành phương tiện. Khéo biết vô lượng pháp. Khéo hiểu biết các oai nghi. Khéo biết thế giới khác nhau. Khéo biết việc trước sau. Khéo biết diễn nói thế đế. Khéo biết diễn nói đệ nhất nghĩa đế. Đó là mười.
Phật tử ! Bồ Tát này nên khuyên học mười pháp. Những gì là mười ? Đó là: Pháp Vương xứ thiện xảo. Pháp Vương xứ quỹ độ. Pháp Vương xứ cung điện. Pháp Vương xứ thú nhập. Pháp Vương xứ quán sát. Pháp Vương quán đảnh. Pháp Vương lực trì. Pháp Vương vô uý. Pháp Vương ngủ nghỉ. Pháp Vương khen ngợi.
Tại sao ? Vì muốn khiến cho tăng thêm tinh tấn, tâm chẳng chướng ngại. Nếu có nghe pháp thì liền tự thấu hiểu, không do người khác chỉ dạy.
Phật tử ! Thế nào là Bồ Tát quán đảnh trụ ? Bồ Tát này được thành tựu mười thứ trí. Những gì là mười trí ? Đó là: Chấn động vô số thế giới. Chiếu sáng vô số thế giới. Trụ trì vô số thế giới. Đi đến vô số thế giới. Nghiêm tịnh vô số thế giới. Khai thị vô số chúng sinh. Quán sát vô số chúng sinh. Biết căn tánh vô số chúng sinh. Khiến cho vô số chúng sinh hướng về. Khiến cho vô số chúng sinh điều phục. Đó là mười.
Phật tử ! Thân của Bồ Tát này và nghiệp thân, thần thông, biến hiện, trí huệ quá khứ, trí huệ vị lai, trí huệ hiện tại, thành tựu cõi Phật, tâm cảnh giới, trí cảnh giới, đều không thể biết được, cho đến Bồ Tát Pháp Vương tử cũng không biết được.
Phật tử ! Bồ Tát này nên khuyên học mười thứ trí của chư Phật. Những gì là mười ? Đó là: Trí ba đời. Trí Phật pháp. Trí pháp giới vô ngại. Trí pháp giới vô biên. Trí sung mãn tất cả thế giới. Trí chiếu khắp tất cả thế giới. Trí biết tất cả chúng sinh. Trí biết tất cả pháp. Trí biết vô biên chư Phật.
Tại sao ? Vì muốn khiến cho tăng trưởng tất cả trí huệ, nếu có nghe pháp, liền tự thấu hiểu, không do người khác chỉ dạy.
Bấy giờ, nhờ thần lực của Phật, trong mười phương, mỗi phương có các thế giới, nhiều như số hạt bụi một vạn cõi Phật, đều sáu thứ chấn động. Đó là: Động, biến động, đẳng biến động. Khởi, biến khởi, đẳng biến khởi. Dũng, biến dũng, đẳng biến dũng. Chấn, biến chấn, đẳng biến chấn. Hống, biến hống, đẳng biến hống. Kích, biến kích, đẳng biến kích.
Mưa xuống hoa trời đẹp. Hương bột trời. Tràng hoa trời. Tạp hương trời. Y báu trời. Mây báu trời. Đồ trang nghiêm trời. Các âm nhạc trời, không tấu mà tự vang lên. Phóng ánh sáng trời và âm thanh vi diệu.
Như ở đỉnh núi Tu Di bốn thiên hạ này, trong điện Đế Thích, nói pháp Thập Trụ, hiện các thần thông biến hóa. Hết thảy tất cả mười phương thế giới cũng đều như thế.
Lại nhờ thần lực của Phật, mỗi phương trong mười phương, qua khỏi các thế giới, nhiều như số hạt bụi vạn cõi Phật. Có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, đều đi đến đây, đầy khắp mười phương, nói như vầy: Lành thay ! Lành thay ! Phật tử ! Khéo nói pháp này.
Chúng tôi mọi người đều đồng hiệu là Pháp Huệ. Đến từ cõi nước đồng tên là Pháp Vân. Đức Như Lai ở cõi đó, đều đồng hiệu là Diệu Pháp. Chúng tôi ở chỗ đức Phật cũng nói Thập Trụ, chúng hội quyến thuộc, văn, câu nghĩa, cũng đều như vậy, chẳng có thêm bớt.
Phật tử ! Chúng tôi nương thần lực của Phật, đến vào hội này để làm chứng minh cho Ngài. Như nơi hội này, mười phương hết thảy tất cả thế giới, cũng đều như thế.
 
Bấy giờ, Bồ Tát Pháp Huệ nương oai lực của đức Phật, quán sát mười phương khắp cùng pháp giới, mà nói kệ rằng:
Thấy Tối Thắng Trí thân tốt đẹp
Tướng tốt trang nghiêm đều đầy đủ
Tôn trọng như vậy rất khó gặp
Bồ Tát dũng mãnh sơ phát tâm.
Thấy đại thần thông không sánh bằng
Nghe nói thọ ký và dạy bảo
Chúng sinh các cõi vô lượng khổ
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Nghe các Như Lai đấng Phổ Thắng
Tất cả công đức đều thành tựu
Ví như hư không chẳng phân biệt
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Ba đời quả báo gọi là xứ
Tự tánh chúng tôi là phi xứ
Đều muốn biết rõ nghĩa chân thật
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Đời quá khứ vị lai hiện tại
Hết thảy tất cả nghiệp thiện ác
Đều muốn biết rõ vô bất tận
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Các thiền giải thoát và tam muội
Tạp nhiễm thanh tịnh vô lượng thứ
Đều muốn biết rõ nhập trụ xuất
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Tùy các chúng sinh căn lợi độn
Như vậy đủ thứ sức tinh tấn
Đều muốn thấu đạt muốn phân biệt
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Tất cả chúng sinh đủ thứ giải
Tâm họ ưa thích đều khác nhau
Như vậy vô lượng dục đều biết
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Chúng sinh các loài đều khác nhau
Tất cả thế gian vô số lượng
Đều muốn biết rõ thể tánh họ
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Tất cả hữu vi các hạnh đạo
Mỗi mỗi đều có chỗ nơi đến
Đều muốn biết rõ thật tánh đó
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Tất cả thế giới các chúng sinh
Tùy nghiệp trôi nổi chẳng tạm ngừng
Muốn được thiên nhãn đều thấy rõ
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Trong đời quá khứ đã từng có
Thể tánh như vậy tướng như vậy
Đều muốn biết rõ đời trước kia
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Tất cả chúng sinh các kiết hoặc
Liên tục hiện khởi và tập khí
Đều muốn biết rõ rốt ráo hết
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Tùy các chúng sinh chỗ an lập
Đủ thứ đàm luận đường ngôn ngữ
Như pháp thế đế đều muốn biết
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Tất cả các pháp lìa lời nói
Tánh không vắng lặng chẳng tạo tác
Đều muốn thông đạt nghĩa thật này
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Đều muốn chấn động mười phương cõi
Nghiêng đổ tất cả các biển cả
Đầy đủ chư Phật đại thần thông
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Muốn một lỗ lông phóng quang minh
Chiếu khắp mười phương vô lượng cõi
Trong mỗi quang minh giác tất cả
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Muốn đem các cõi Phật khó nghĩ
Đều để trong tay mà không động
Biết rõ tất cả như huyễn hóa
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Muốn đem chúng sinh vô lượng cõi
Để đầu sợi lông chẳng đè nén
Đều biết không người không có ta
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Muốn dùng sợi lông chấm nước biển
Tất cả biển cả đều khô cạn
Thảy đều phân biệt biết số giọt
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Không thể nghĩ bàn các cõi nước
Nghiền hết làm bụi không bỏ sót
Đều muốn phân biệt biết số bụi
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Quá khứ vị lai vô lượng kiếp
Tất cả thế gian tướng thành hoại
Đều muốn thông đạt tột bờ mé
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Ba đời hết thảy các Như Lai
Tất cả Độc Giác và Thanh Văn
Muốn biết pháp đó hết không dư
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Vô lượng vô biên các thế giới
Muốn dùng sợi lông để nâng lên
Như thể tướng đó đều biết rõ
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Vô lượng vô số núi Luân Vi
Đều muốn để vào trong lỗ lông
Như núi lớn nhỏ đều biết được
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Muốn dùng một diệu âm tịch tĩnh
Ứng khắp mười phương tùy loại nói
Như vậy đều khiến hiểu thanh tịnh
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Pháp ngôn ngữ tất cả chúng sinh
Một lời diễn nói đều hết cả
Đều muốn biết rõ tự tánh đó
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Tiếng nói thế gian đều nói được
Đều khiến họ hiểu chứng tịch diệt
Muốn được như vậy căn lưỡi diệu
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Muốn khiến mười phương các thế giới
Có tướng thành hoại đều thấy được
Thảy đều biết từ phân biệt sinh
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Tất cả mười phương các thế giới
Vô lượng Như Lai đều thấy khắp
Đều muốn biết rõ pháp Phật đó
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Đủ thứ biến hóa vô lượng thân
Tất cả thế giới nhiều như bụi
Đều muốn thông đạt từ tâm khởi
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Đời quá khứ vị lai hiện tại
Vô lượng vô số các Như Lai
Muốn nơi một niệm đều biết rõ
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Muốn diễn nói đủ một câu pháp
A tăng kỳ kiếp không hết được
Mà khiến văn nghĩa đều khác nhau
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Mười phương tất cả các chúng sinh
Tùy sự lưu chuyển tướng sinh diệt
Muốn nơi một niệm đều thông đạt
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Muốn dùng thân lời và ý nghiệp
Đến khắp mười phương chẳng chướng ngại
Biết rõ ba đời đều không tịch
Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Bồ Tát phát tâm như vậy rồi
Hãy nên đi đến mười phương cõi
Cung kính cúng dường các Như Lai
Nhờ đây khiến cho chẳng thối chuyển.
Bồ Tát dũng mãnh cầu Phật đạo
Trụ nơi sinh tử chẳng nhàm chán
Vì họ khen ngợi khiến thuận hành
Như vậy khiến cho chẳng thối chuyển.
Mười phương thế giới vô lượng cõi
Đều ở trong đó làm tôn chủ
Vì các Bồ Tát nói như vậy
Nhờ đây khiến cho chẳng thối chuyển.
Tối thắng tối thượng tối đệ nhất
Pháp thâm sâu vi diệu thanh tịnh
Khuyên các Bồ Tát nói cho người
Dạy như vậy khiến lìa phiền não.
Tất cả thế gian không gì bằng
Nơi không thể khuynh động thôi phục
Vì họ Bồ Tát thường khen ngợi
Dạy như vậy khiến chẳng thối chuyển.
Phật là đại lực chủ thế gian
Đầy đủ tất cả các công đức
Khiến các Bồ Tát trụ trong đó
Nhờ đây dạy thành thắng trượng phu.
Vô lượng vô biên chỗ chư Phật
Đều được đi đến để gần gũi
Thường được chư Phật luôn nhiếp thọ
Dạy như vậy khiến chẳng thối chuyển.
Hết thảy tịch tĩnh các tam muội
Thảy đều diễn xướng không còn sót
Vì họ Bồ Tát nói như vậy
Nhờ đây khiến họ chẳng thối chuyển.
Phá tan các cõi vòng sinh tử
Chuyển bánh xe diệu pháp thanh tịnh
Tất cả thế gian chẳng chấp trước
Vì các Bồ Tát nói như vậy.
Tất cả chúng sinh đọa đường ác
Vô lượng khổ nặng vây bức bách
Làm chỗ nương tựa cứu hộ họ
Vì các Bồ Tát nói như vậy.
Đây là Bồ Tát phát tâm trụ
Một hướng chí cầu đạo vô thượng
Như pháp dạy bảo tôi vừa nói
Tất cả chư Phật cũng như vậy.
Thứ hai Bồ Tát trị địa trụ
Phải nên phát khởi tâm như vậy
Mười phương tất cả các chúng sinh
Nguyện đều thuận Như Lai giáo hóa.
Tâm lợi ích đại bi an lạc
Tâm an trụ thương xót nhiếp thọ
Thủ hộ chúng sinh đồng tâm mình
Tâm sư cùng với tâm đạo sư.
Mình trụ tâm thắng diệu như vậy
Kế khiến tụng tập cầu đa văn
Thường ưa vắng lặng chánh tư duy
Gần gũi tất cả thiện tri thức.
Nói lời hòa duyệt lìa thô bạo
Nói phải biết thời chẳng sợ hãi
Thấu đạt nơi nghĩa như pháp hành
Xa lìa ngu mê tâm chẳng động.
Đây là ban đầu học hạnh bồ đề
Hay hành hạnh này chân Phật tử
Nay tôi nói hạnh họ nên hành
Như vậy Phật tử nên siêng học.
Bồ Tát tu hành trụ thứ ba
Nên y Phật dạy siêng quán sát
Các pháp vô thường khổ và không
Chẳng có ta người chẳng động tác.
Tất cả các pháp không đáng ưa
Chẳng có danh tự chẳng xứ sở
Chẳng có phân biệt chẳng chân thật
Hay quán như vậy gọi Bồ Tát.
Lại khiến quán sát chúng sinh giới
Và khuyên quán sát nơi pháp giới
Thế giới khác nhau không sót thừa
Nơi đó đều nên khuyên quán sát.
Mười phương thế giới và hư không
Hết thảy đất nước và gió lửa
Dục giới sắc giới vô sắc giới
Đều khuyên quán sát khiến cùng tận.
Quán sát giới đó đều khác nhau
Và thể tánh đó đều rốt ráo
Được dạy như vậy siêng tu hành
Đây tức gọi là chân Phật tử.
Thứ tư Bồ Tát sinh quý trụ
Từ các Thánh giáo mà sinh ra
Thấu suốt các cõi chẳng chỗ có
Vượt qua pháp đó sinh pháp giới.
Tin Phật vững chắc không thể hoại
Quán pháp vắng lặng tâm an trụ
Tùy các chúng sinh đều biết rõ
Thể tánh hư vọng không chân thật.
Cõi nước thế gian nghiệp và báo
Sinh tử Niết Bàn đều như vậy
Phật tử nơi pháp quán như vậy
Từ Phật thân sinh gọi Phật tử.
Đời quá khứ vị lai hiện tại
Trong đó hết thảy các Phật pháp
Biết rõ tích tập và viên mãn
Như vậy tu tập khiến rốt ráo.
Ba đời tất cả các Như Lai
Hay tùy quán sát đều bình đẳng
Đủ thứ khác nhau bất khả đắc
Người quán như vậy thấu ba đời.
Như tôi tán dương khen ngợi họ
Đây là các công đức tứ trụ
Nếu hay y pháp siêng tu hành
Sớm thành Phật bồ đề vô thượng.
Từ đây các Bồ Tát thứ năm
Gọi là cụ túc phương tiện trụ
Vào sâu vô lượng xảo phương tiện
Phát sinh nghiệp công đức rốt ráo.
Các công đức của Bồ Tát tu
Đều vì cứu hộ các quần sinh
Chuyên tâm lợi ích và an lạc
Thương xót hướng về khiến độ thoát.
Vì các thế gian trừ các nạn
Dẫn thoát chúng sinh khiến hoan hỷ
Điều phục hết thảy không bỏ sót
Đều khiến đủ đức hướng Niết Bàn.
Tất cả chúng sinh chẳng bờ mé
Vô lượng vô biên không nghĩ bàn
Cho đến không thể xưng lượng thảy
Nghe thọ pháp Như Lai như vậy.
Đây trụ thứ năm chân Phật tử
Thành tựu phương tiện độ chúng sinh
Tất cả công đức đại trí tôn
Dùng pháp như vậy để khai thị.
Thứ sáu chánh tâm viên mãn trụ
Nơi pháp tự tánh chẳng mê hoặc
Chánh niệm suy gẫm lìa phân biệt
Tất cả trời người không động được.
Nghe khen chê Phật và Phật pháp
Bồ Tát và hạnh Bồ Tát hành
Chúng sinh hữu lượng hoặc vô lượng
Hữu cấu vô cấu độ khó dễ.
Pháp giới lớn nhỏ và thành hoại
Hoặc có hoặc không tâm chẳng động
Quá khứ vị lai và hiện tại
Xét nghĩ suy gẫm luôn quyết định.
Tất cả các pháp đều vô tướng
Không thể không tánh không chẳng thật
Như huyễn như mộng lìa phân biệt
Luôn thích lắng nghe nghĩa như vậy.
Thứ bảy Bồ Tát bất thối chuyển
Nơi Phật và pháp Bồ Tát hạnh
Hoặc có hoặc không thoát không thoát
Tuy nghe nói đó chẳng thối động.
Đời quá khứ hiện tại vị lai
Tất cả chư Phật có hoặc không
Trí Phật hữu tận hoặc vô tận
Ba đời một tướng đủ thứ tướng.
Một tức là nhiều nhiều tức một
Văn tùy nơi nghĩa nghĩa tùy văn
Như vậy tất cả triển chuyển thành
Bậc bất thối đáng vì họ nói.
Nếu pháp có tướng và vô tướng
Nếu pháp có tánh và vô tánh
Đủ thứ khác nhau làm quyến thuộc
Người này nghe rồi được rốt ráo.
Thứ tám Bồ Tát đồng chân trụ
Thân lời ý hành đều đầy đủ
Tất cả thanh tịnh chẳng có lỗi
Tùy ý thọ sinh được tự tại.
Biết các chúng sinh tâm ưa thích
Đủ thứ kiến giải đều khác nhau
Cho đến hết thảy tất cả pháp
Mười phương cõi nước tướng thành hoại.
Đắc được diệu thần thông mau chóng
Trong khắp mọi nơi tùy niệm đến
Nơi chỗ chư Phật lắng nghe pháp
Khen ngợi tu hành chẳng giải đãi.
Biết rõ tất cả các cõi Phật
Chấn động gia trì cũng quán sát
Vượt qua cõi Phật không thể lường
Du hành thế giới vô biên số.
A tăng kỳ pháp đều thưa hỏi
Chỗ muốn thọ thân đều tự tại
Lời lẽ khéo léo sung mãn khắp
Chư Phật vô số đều hầu hạ.
Thứ chín Bồ Tát vương tử trụ
Thấy được chúng sinh thọ sinh khác
Phiền não hiện tập đều biết hết
Sở hành phương tiện đều khéo rõ.
Các pháp đều khác oai nghi khác
Thế giới tiền hậu tế đều khác
Như thế tục đế đệ nhất nghĩa
Đều khéo biết rõ chẳng sót thừa.
Pháp Vương khéo léo nơi an lập
Tùy theo xứ sở hết thảy pháp
Cung điện Pháp Vương hoặc hướng vào
Cho đến quán thấy ở trong đó.
Pháp quán đảnh mà Pháp Vương có
Thần lực gia trì chẳng khiếp sợ
Cung thất yên nghỉ và ngợi khen
Dùng đây chỉ dạy Pháp Vương tử.
Như vậy vì nói ra hết cả
Mà khiến cho tâm chẳng chấp trước
Nơi đây biết rõ tu chánh niệm
Tất cả chư Phật hiện ra trước.
Thứ mười quán đảnh chân Phật tử
Thành mãn pháp bậc nhất tối thượng
Mười phương vô số các thế giới
Thảy đều chấn động quang chiếu khắp.
Trụ trì qua đến cũng không thừa
Thanh tịnh trang nghiêm đều đầy đủ
Khai thị chúng sinh vô số lượng
Quán sát các căn đều biết hết.
Phát tâm điều phục cũng vô biên
Đều khiến hướng về đại bồ đề
Tất cả pháp giới đều quán sát
Mười phương cõi nước đều qua đến.
Trong đó thân và thân sở tác
Thần thông biến hiện khó dò được
Ba đời cõi Phật các cảnh giới
Cho đến vương tử không biết được.
Tất cả ai thấy trí ba đời
Nơi các Phật pháp trí thấu rõ
Pháp giới vô ngại vô biên trí
Sung mãn tất cả thế giới trí.
Trí chiếu sáng thế giới trụ trì
Trí biết rõ chúng sinh các pháp
Và trí biết chánh giác vô biên
Như Lai vì nói ra hết cả.
Như vậy các Bồ Tát Thập Trụ
Đều từ pháp Như Lai hóa sinh
Tùy theo hết thảy hạnh công đức
Tất cả trời người không dò được.
Đời quá khứ vị lai hiện tại
Phát tâm cầu Phật không bờ mé
Mười phương cõi nước đều sung mãn
Sớm sẽ thành tựu nhất thiết trí.
Tất cả cõi nước không bờ mé
Thế giới chúng sinh pháp cũng vậy
Hoặc nghiệp tâm thích đều khác nhau
Nương đó mà phát tâm bồ đề.
Một niệm ban đầu cầu Phật đạo
Thế gian chúng sinh và nhị thừa
Hết thảy cũng không thể biết được
Hà huống các hạnh công đức khác.
Mười phương hết thảy các thế giới
Dùng một sợi lông nâng lên được
Người đó biết được Phật tử này
Hướng về hạnh trí huệ Như Lai.
Mười phương hết thảy các biển cả
Đều dùng đầu lông chấm khô cạn
Người đó biết được Phật tử này
Một niệm sở tu hạnh công đức.
Tất cả thế giới nghiền thành bụi
Đều phân biệt được biết số lượng
Như vậy người đó mới thấy được
Sự hành đạo các Bồ Tát này.
Vị lai hiện tại mười phương Phật
Tất cả Độc Giác và Thanh Văn
Đều dùng đủ thứ diệu biện tài
Khai thị sơ phát bồ đề tâm.
Phát tâm công đức không thể lường
Sung mãn tất cả chúng sinh giới
Chúng trí cùng nói không hết được
Hà huống các diệu hạnh khác kia.
 
 

 
KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
 
QUYỂN MƯỜI BẢY
 
PHẨM PHẠM HẠNH THỨ MƯỜI SÁU
 
Bấy giờ, Thiên Tử Chánh Niệm bạch Bồ Tát Pháp Huệ rằng: Phật tử! Các chúng Bồ Tát trong tất cả thế giới, nương sự chỉ dạy của Như Lai, nhuộm y xuất gia. Làm thế nào để đắc được phạm hạnh thanh tịnh. Từ bậc Bồ Tát mà chứng đắc đạo bồ đề vô thượng ?
Đó là: Thân, thân nghiệp. Lời, lời nghiệp. Ý, ý nghiệp. Phật, Pháp, Tăng, giới. Nên quán như vậy. Thân là phạm hạnh chăng ? Cho đến giới là phạm hạnh chăng ?
Nếu thân là phạm hạnh, thì nên biết phạm hạnh tức chẳng phải thiện, tức chẳng phải pháp, tức là hỗn đục, tức là hôi hám, tức là bất tịnh, tức đáng nhàm, tức là trái ngược, tức là tạp nhiễm, tức là tử thi, tức là trùng tích tụ.
Nếu thân nghiệp là phạm hạnh, thì phạm hạnh tức là đi đứng nằm ngồi, nhìn ngó phải trái, co duỗi cúi ngước.
Nếu lời nói là phạm hạnh, thì phạm hạnh tức là âm thanh, gió thở, môi lưỡi họng mép, nhả ra nuốt vào, đè nén buông ra, cao thấp, trong đục.
Nếu lời nghiệp là phạm hạnh, thì phạm hạnh tức là thưa chào hỏi thăm, nói ban đầu, lược nói rộng, nói ví dụ, nói thẳng, nói khen, nói chê, nói an lập, nói tùy tục, nói hiển rõ.
Nếu ý là phạm hạnh, thì phạm hạnh tức là giác, là quán, là phân biệt, là đủ thứ phân biệt, là nghĩ nhớ, là đủ thứ nghĩ nhớ, là suy gẫm, là đủ thứ suy gẫm, là huyễn thuật, là ngủ mộng.
Nếu ý nghiệp là phạm hạnh, thì nên biết phạm hạnh tức là tư tưởng, nóng lạnh đói khát, khổ vui lo mừng.
Nếu Phật là phạm hạnh, thì sắc là Phật chăng ? Thọ là Phật chăng ? Tưởng là Phật chăng ? Hành là Phật chăng ? Thức là Phật chăng ? Tướng là Phật chăng ? Tốt là Phật chăng ? Thần thông là Phật chăng ? Nghiệp hành là Phật chăng ? Quả báo là Phật chăng ?
Nếu pháp là phạm hạnh, thì vắng lặng là pháp chăng ? Niết Bàn là pháp chăng ? Không sinh là pháp chăng ? Không khởi là pháp chăng ? Không thể nói là pháp chăng ? Không phân biệt là pháp chăng ? Không chỗ hành là pháp chăng ? Không hợp tập là pháp chăng ? Không tùy thuận là pháp chăng ? Không chỗ đắc là pháp chăng ?
Nếu Tăng là phạm hạnh, thì hướng dự lưu là Tăng ? Quả dự lưu là Tăng ? Hướng nhất lai là Tăng ? Quả nhất lai là Tăng ? Hướng bất hoàn là Tăng ? Quả bất hoàn là Tăng ? Hướng A La Hán là Tăng ? Quả A La Hán là Tăng ? Tam minh là Tăng ? Lục thông là Tăng ?
Nếu giới là phạm hạnh, thì đàn tràng là giới chăng ? Hỏi thanh tịnh là giới chăng ? Dạy oai nghi là giới chăng ? Ba lần nói Yết Ma là giới chăng ? Hòa thượng là giới chăng ? A Xà Lê là giới chăng ? Cạo tóc là giới chăng ? Mặc y Cà Sa là giới chăng ? Khất thực là giới chăng ? Chánh mạng là giới chăng ?
Quán như vậy rồi, thì đối với thân chẳng thủ lấy, sự tu chẳng chấp trước, nơi pháp chẳng chỗ trụ. Quá khứ đã diệt, vị lai chưa đến, hiện tại vắng lặng, chẳng ai tạo nghiệp, chẳng ai thọ quả báo, đời này chẳng di động, đời khác chẳng biến đổi.
Trong đây pháp nào gọi là phạm hạnh ? Phạm hạnh từ đâu đến ? Thuộc sở hữu của ai ? Thể là ai ? Do ai làm ? Là có ? Là không ? Là sắc ? Là chẳng phải sắc ? Là thọ ? Là chẳng phải thọ ? Là tưởng ? Là chẳng phải tưởng ? Là hành ? Là chẳng phải hành ? Là thức ? Là chẳng phải thức?
Quán sát như vầy: Vì pháp phạm hạnh không thể được. Vì pháp ba đời đều vắng lặng. Vì ý chẳng chấp lấy. Vì tâm chẳng chướng ngại. Vì chỗ tu hành không hai. Vì phương tiện tự tại. Vì thọ pháp không tướng. Vì quán pháp không tướng. Vì biết Phật bình đẳng. Vì đủ tất cả Phật pháp. Như vậy gọi là phạm hạnh thanh tịnh.
Lại nên tu tạo mười pháp. Những gì là mười ? Đó là: Trí xứ phi xứ. Trí quá hiện vị lai nghiệp báo. Trí các thiền giải thoát tam muội. Trí các căn thắng liệt. Trí đủ thứ giải. Trí đủ thứ giới. Trí nhất thiết chí xứ đạo. Trí thiên nhãn vô ngại. Trí túc mạng vô ngại. Trí vĩnh viễn đoạn tập khí.
Nơi thập lực của Như Lai, mỗi mỗi quán sát. Trong mỗi mỗi lực, có vô lượng nghĩa, đều phải hỏi han.
Nghe rồi nên khởi tâm đại từ bi, quán sát chúng sinh mà chẳng lìa bỏ. Suy gẫm các pháp, chẳng có ngừng nghỉ. Thực hành nghiệp vô thượng, chẳng cầu quả báo. Biết rõ cảnh giới, như huyễn, như mộng, như bóng, như tiếng vang, cũng như biến hóa.
Nếu các Bồ Tát hay quán hành tương ưng như vậy. Ở trong các pháp chẳng sinh hai kiến giải, thì tất cả Phật pháp, sẽ sớm được hiện tiền.
Lúc ban đầu phát tâm, liền được A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Biết tất cả pháp, tức tâm tự tánh, thành tựu huệ thân, chẳng do người khác mà khai ngộ.
 
 
 
 
KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
 
PHẨM CÔNG ĐỨC BAN ĐẦU PHÁT TÂM
THỨ MƯỜI BẢY
 
Bấy giờ, trời Đế Thích bạch Bồ Tát Pháp Huệ rằng: Phật tử ! Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề, đắc được bao nhiêu công đức ?
Bồ Tát Pháp Huệ nói: Nghĩa này rất thâm sâu, khó nói, khó biết, khó phân biệt, khó tin hiểu, khó chứng, khó hành, khó thông đạt, khó suy gẫm, khó độ lượng, khó hướng vào. Tuy nhiên tôi sẽ nương sức oai thần của đức Phật, để vì ông mà nói.
Phật tử ! Nếu như có người dùng tất cả nhạc cụ, cúng dường hết thảy chúng sinh ở phương đông A tăng kỳ thế giới, trải qua một kiếp. Sau đó dạy khiến cho họ giữ năm giới thanh tịnh. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế.
Phật tử ! Ý của ông thế nào ? Công đức của người đó có nhiều chăng ?
Đế Thích nói: Phật tử ! Công đức của người đó, chỉ có Phật mới biết được. Ngoài ra, tất cả chẳng có ai lường được.
Bồ Tát Pháp Huệ nói: Phật tử ! Công đức người đó, so với công đức Bồ Tát ban đầu phát tâm, chẳng bằng một phần trăm, chẳng bằng một phần ngàn, chẳng bằng một phần trăm ngàn. Như vậy một phần ức, một phần trăm ức, một phần ngàn ức, một phần trăm ngàn ức, một phần Na do tha ức, một phần trăm Na do tha ức, một phần ngàn Na do tha ức, một phần trăm ngàn Na do tha ức, một phần số, một phần ca la, một phần toán, một phần dụ, một phần ưu ba ni sa đà.
Phật tử ! Đừng nói đến ví dụ này. Nếu như có người, đem tất cả nhạc cụ, cúng dường cho hết thảy chúng sinh trong mười phương mười A tăng kỳ thế giới, trải qua trăm kiếp. Sau đó dạy khiến cho họ tu mười điều lành.
Cúng dường như vậy, trải qua ngàn kiếp, sau đó dạy họ trụ ở tứ thiền. Trải qua trăm ngàn kiếp, dạy họ trụ ở bốn tâm vô lượng. Trải qua ức kiếp, dạy họ trụ ở bốn định vô sắc. Trải qua trăm ức kiếp, dạy họ trụ ở quả Tu đà hoàn. Trải qua ngàn ức kiếp, dạy họ trụ ở quả Tư đà hàm. Trải qua trăm ngàn ức kiếp, dạy họ trụ ở quả A na hàm. Trải qua Na do tha ức kiếp, dạy họ trụ ở quả A La Hán. Trải qua trăm ngàn Na do tha ức kiếp, dạy họ trụ ở quả Bích Chi Phật.
Phật tử ! Ý ông thế nào ? Công đức của người đó có nhiều chăng ?
Đế Thích nói: Phật tử ! Công đức của người đó, chỉ có Phật mới biết được.
Bồ Tát Pháp Huệ nói: Phật tử ! Công đức của người đó, so với Bồ Tát ban đầu phát tâm, chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn, cho đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà.
Tại sao ? Phật tử ! Vì tất cả chư Phật ban đầu phát tâm, thì chẳng những đem tất cả nhạc cụ cúng dường hết thảy chúng sinh trong mười phương A tăng kỳ thế giới. Trải qua trăm kiếp, cho đến trăm ngàn Na do tha ức kiếp, mà phát bồ đề tâm. Chẳng những vì dạy những chúng sinh đó tu năm giới, mười điều lành. Giáo hóa họ trụ ở bốn thiền, bốn tâm vô lượng, bốn định vô sắc, cho đến chứng quả Tu đà hoàn, quả Tư đà hàm, quả A na hàm, quả A La Hán, quả Bích Chi Phật, mà phát tâm bồ đề.
Mà vì khiến cho chủng tánh của Như Lai chẳng dứt. Vì đầy khắp tất cả thế giới. Vì độ thoát tất cả thế giới chúng sinh. Vì biết hết tất cả thế giới thành hoại. Vì biết hết chúng sinh cấu tịnh trong tất cả thế giới. Vì biết hết tất cả thế giới tự tánh thanh tịnh. Vì biết hết tất cả tâm chúng sinh sở thích phiền não tập khí. Vì biết hết tất cả chúng sinh chết đây sinh kia. Vì biết hết các căn phương tiện của tất cả chúng sinh. Vì biết hết tâm hành của tất cả chúng sinh. Vì biết hết trí ba đời của tất cả chúng sinh. Vì biết hết cảnh giới bình đẳng của tất cả chư Phật, mà phát tâm vô thượng bồ đề.
Phật tử ! Hãy miễn ví dụ này. Nếu như có người, trong một niệm, có thể đi qua phương đông A tăng kỳ thế giới. Niệm niệm như vậy, hết số kiếp A tăng kỳ. Các thế giới đó không có ai hiểu được.
Và người thứ hai, ở trong một niệm trải qua các thế giới, mà người ở trước đã trải qua A tăng kỳ kiếp. Như vậy cũng hết số kiếp A tăng kỳ. Lần lượt cho đến người thứ mười. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng trên dưới, cũng lại như thế.
Phật tử ! Trong mười phương này, phàm là có một trăm người, mỗi người cũng đều như vậy, trải qua các thế giới. Các thế giới đó, có thể biết được bờ mé, còn Bồ Tát ban đầu phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, đắc được căn lành, chẳng có ai biết được bờ mé.
Tại sao ? Phật tử ! Vì Bồ Tát chẳng giới hạn, nhưng vì biết rõ các thế giới đã trải qua, mà phát tâm bồ đề. Vì muốn biết rõ mười phương thế giới, mà phát tâm bồ đề.
Đó là: Muốn biết rõ thế giới diệu, tức là thế giới thô, thế giới thô tức là thế giới diệu. Thế giới ngửa tức là thế giới úp, thế giới úp tức là thế giới ngửa. Thế giới nhỏ tức là thế giới lớn, thế giới lớn tức là thế giới nhỏ. Thế giới rộng tức là thế giới hẹp, thế giới hẹp tức là thế giới rộng. Một thế giới, tức là bất khả thuyết thế giới, bất khả thuyết thế giới, tức là một thế giới. Bất khả thuyết thế giới vào một thế giới, một thế giới vào bất khả thuyết thế giới. Thế giới dơ tức là thế giới sạch, thế giới sạch tức là thế giới dơ.
Vì muốn biết trong một đầu sợi lông, tất cả thế giới tánh khác biệt, trong tất cả thế giới một đầu sợi lông, một thể tánh. Muốn biết trong một thế giới, sinh ra tất cả thế giới. Muốn biết tất cả thế giới không thể tánh. Muốn dùng một tâm niệm, biết hết tất cả thế giới rộng lớn, chẳng chướng ngại, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Phật tử ! Hãy miễn ví dụ này. Nếu như có người, nơi một tâm niệm, biết được kiếp số thành hoại A tăng kỳ thế giới ở phương đông. Niệm niệm như vậy hết A tăng kỳ kiếp. Các số kiếp đó, chẳng có ai biết được bờ mé.
Có người thứ hai, nơi một tâm niệm, biết được kiếp số của người thứ nhất biết trong A tăng kỳ kiếp. Nói rộng như vậy, cho đến người thứ mười. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng trên dưới, cũng lại như thế.
Phật tử ! Kiếp số thành hoại trong mười phương A tăng kỳ thế giới đó, có thể biết được bờ mé, còn công đức căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, chẳng có ai biết được bờ mé.
Tại sao ? Vì Bồ Tát chẳng giới hạn, nhưng vì muốn biết kiếp số thành hoại của các thế giới đó, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vì muốn biết kiếp số thành hoại, của hết thảy tất cả thế giới không còn sót, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
      Đó là: Biết kiếp dài và kiếp ngắn bình đẳng, kiếp ngắn và kiếp dài bình đẳng. Một kiếp và vô số kiếp bình đẳng, vô số kiếp và một kiếp bình đẳng. Kiếp có Phật và kiếp không có Phật bình đẳng, kiếp không có Phật và kiếp có Phật bình đẳng. Trong kiếp một vị Phật, có bất khả thuyết vị Phật bình đẳng, trong kiếp bất khả thuyết vị Phật, có một vị Phật bình đẳng. Kiếp hữu lượng và kiếp vô lượng bình đẳng, kiếp vô lượng và kiếp hữu lượng bình đẳng. Kiếp bất khả thuyết và một niệm bình đẳng, một niệm và kiếp bất khả thuyết bình đẳng. Tất cả kiếp vào phi kiếp, phi kiếp vào tất cả kiếp.
Muốn ở trong một niệm, biết hết tiền tế, hậu tế và kiếp thành hoại tất cả thế giới hiện tại, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Đây gọi là ban đầu phát tâm đại thệ trang nghiêm, biết rõ tất cả kiếp thần thông trí.
Phật tử ! Hãy thôi ví dụ này. Nếu như có người, nơi một tâm niệm, biết được đủ thứ kiến giải khác nhau, của hết thảy chúng sinh trong A tăng kỳ thế giới ở phương đông. Niệm niệm như vậy, hết số kiếp A tăng kỳ.
Có người thứ hai, nơi một tâm niệm, biết được người ở trước biết các kiến giải của chúng sinh trong A tăng kỳ kiếp. Như vậy cũng hết A tăng kỳ kiếp. Lần lượt cho đến người thứ mười. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng trên dưới, cũng lại như thế.
Phật tử ! Đủ thứ kiến giải khác nhau của chúng sinh trong mười phương đó, có thể biết được bờ mé. Công đức căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm, chẳng có ai biết được bờ mé.
Tại sao ? Phật tử ! Vì Bồ Tát chẳng giới hạn, nhưng vì muốn biết kiến giải của chúng sinh đó, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vì biết hết đủ thứ kiến giải khác nhau, của hết thảy chúng sinh trong tất cả thế giới, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Đó là: Vì muốn biết vô biên kiến giải khác nhau. Vì một chúng sinh kiến giải và vô số chúng sinh kiến giải bình đẳng. Vì muốn được bất khả thuyết kiến giải khác biệt phương tiện trí quang minh. Vì muốn biết hết mỗi mỗi kiến giải khác nhau của biển chúng sinh không thừa sót. Vì muốn biết đủ thứ vô lượng kiến giải thiện, bất thiện của quá khứ, hiện tại vị lai. Vì muốn biết kiến giải tương tợ, chẳng tương tợ. Vì muốn biết tất cả kiến giải, tức là một kiến giải, một kiến giải tức là tất cả kiến giải. Vì muốn được sức kiến giải của Như Lai.
Vì muốn biết hữu thượng kiến giải, vô thượng kiến giải, hữu dư kiến giải, vô dư kiến giải, đẳng kiến giải, bất đẳng kiến giải khác nhau.
Vì muốn biết hữu y kiến giải, vô y kiến giải, cộng kiến giải, bất cộng kiến giải, hữu biên kiến giải, vô biên kiến giải, sai biệt kiến giải, vô sai biệt kiến giải, thiện kiến giải, bất thiện kiến giải, thế gian kiến giải, xuất thế gian kiến giải khác nhau.
Vì muốn ở trong tất cả diệu kiến giải, đại kiến giải, vô lượng kiến giải, chánh lập kiến giải, đắc được trí không chướng ngại giải thoát của Như Lai.
Vì muốn dùng vô lượng phương tiện, thảy đều biết tất cả cõi chúng sinh trong mười phương. Mỗi mỗi chúng sinh hiểu thanh tịnh, hiểu ô nhiễm, hiểu rộng lớn, hiểu giản lược, hiểu vi tế, hiểu thô, không thừa sót.
Vì đều muốn biết giải thâm mật, giải phương tiện, giải phân biệt, giải tự nhiên, giải theo nhân mà khởi lên, giải theo duyên mà khởi lên. Tất cả lưới giải, đều không thừa sót. Mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Phật tử ! Hãy ngưng ví dụ này. Nếu như có người nơi một tâm niệm, biết được các căn khác nhau của tất cả chúng sinh trong vô số thế giới ở phương đông. Niệm niệm đều như vậy, trải qua số kiếp A tăng kỳ.
Có người thứ hai, nơi một tâm niệm, biết được người ở trước biết các căn lành khác nhau trong niệm niệm trải qua số kiếp A tăng kỳ. Nói rộng ra như vậy, cho đến người thứ mười, phương nam tây bắc, bốn hướng trên dưới, cũng lại như thế.
Phật tử ! Các căn khác nhau của hết thảy chúng sinh trong mười phương thế giới đó, có thể biết được bờ mé. Còn công đức căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, chẳng có ai biết được bờ mé.
Tại sao ? Vì Bồ Tát chẳng giới hạn, chỉ vì muốn biết căn tánh của chúng sinh ở trong các thế giới đó, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vì muốn biết hết đủ thứ căn tánh khác nhau của tất cả chúng sinh trong tất cả thế giới, nói rộng ra cho đến muốn biết hết tất cả lưới các căn tánh, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Phật tử ! Hãy ngưng ví dụ này. Nếu như có người, nơi một tâm niệm, biết được đủ thứ sự ưa thích của hết thảy chúng sinh, trong vô số thế giới ở phương đông. Niệm niệm đều như vậy, hết số kiếp A tăng kỳ. Lần lượt nói rộng ra, cho đến người thứ mười. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng trên dưới, cũng lại như thế.
Hết thảy sự ưa thích của chúng sinh trong mười phương, có thể biết được. Công đức căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, chẳng có ai biết được bờ mé.
Tại sao ? Phật tử ! Vì Bồ Tát chẳng giới hạn. Nhưng Bồ Tát vì muốn biết sự ưa thích của chúng sinh đó, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vì muốn biết hết đủ thứ sự ưa thích của hết thảy chúng sinh trong tất cả thế giới, nói rộng ra cho đến vì muốn biết lưới tất cả sự ưa thích, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Phật tử ! Hãy ngưng ví dụ này. Nếu như có người, nơi một tâm niệm, biết được đủ thứ phương tiện của hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới ở phương đông. Nói rộng ra như vậy, cho đến người thứ mười. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế.
Đủ thứ phương tiện của chúng sinh trong mười phương đó, có thể biết được bờ mé. Công đức căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, chẳng ai biết được bờ mé.
Tại sao ? Phật tử ! Vì Bồ Tát chẳng giới hạn. Nhưng vì muốn biết đủ thứ phương tiện của chúng sinh trong những thế giới đó, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vì muốn biết hết đủ thứ phương tiện của hết thảy chúng sinh trong tất cả thế giới, nói rộng ra cho đến vì muốn biết tất cả lưới phương tiện, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Phật tử ! Hãy ngưng ví dụ này. Nếu như có người, nơi một tâm niệm, biết được đủ thứ tâm khác biệt, của hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới ở phương đông. Nói rộng cho đến mười phương thế giới, đủ thứ tâm niệm của hết thảy chúng sinh, đều biết được bờ mé.
Công đức căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, chẳng có ai biết được bờ mé. Tại sao ?
Phật tử ! Bồ Tát không giới hạn, nhưng vì muốn biết tâm của những chúng sinh đó, mà phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì muốn biết hết đủ thứ tâm khác biệt của vô biên chúng sinh trong pháp giới, cho đến muốn biết tất cả lưới tâm, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Phật tử ! Hãy ngưng ví dụ này. Nếu như có người, nơi một tâm niệm, biết được đủ thứ nghiệp khác biệt của hết thảy chúng sinh, trong vô số thế giới ở phương đông. Nói rộng ra cho đến mười phương chúng sinh đủ thứ nghiệp khác biệt, đều có thể biết được bờ mé.
Công đức căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, chẳng có ai biết được bờ mé. Tại sao ?
Phật tử ! Bồ Tát không giới hạn, nhưng vì muốn biết nghiệp của các chúng sinh đó, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vì muốn biết nghiệp của tất cả chúng sinh trong ba đời, cho đến muốn biết tất cả lưới nghiệp, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Phật tử ! Hãy ngưng ví dụ này. Nếu như có người, nơi một tâm niệm, biết được đủ thứ phiền não, của hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới ở phương đông. Niệm niệm đều như vậy, cho đến hết số kiếp A tăng kỳ. Đủ thứ các phiền não khác biệt đó, chẳng có ai biết được bờ mé.
Có người thứ hai, nơi một tâm niệm, biết được người thứ nhất biết các phiền não khác biệt của chúng sinh trong A tăng kỳ kiếp. Như vậy lại hết số kiếp A tăng kỳ. Lần lượt nói rộng ra cho đến người thứ mười. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế.
Phật tử ! Phiền não khác biệt của chúng sinh trong mười phương đó, có thể biết được bờ mé. Công đức căn lành của Bồ Tát phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, chẳng có ai biết được bờ mé. Tại sao ?
Phật tử ! Bồ Tát chẳng giới hạn, nhưng vì muốn biết phiền não của chúng sinh trong những thế giới đó, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vì muốn biết phiền não khác biệt của hết thảy chúng sinh trong tất cả thế giới, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Đó là vì muốn biết phiền não nhẹ, phiền não nặng, phiền não ẩn tàng, phiền não sinh khởi, mỗi mỗi chúng sinh có vô lượng phiền não, đủ thứ khác biệt, đủ thứ giác quán, tịnh trị tất cả các tạp nhiễm.
Vì muốn biết hết vô minh phiền não nương tựa, phiền não ái tương ưng. Dứt trừ tất cả phiền não kết trong các loài.
Vì muốn biết phần phiền não tham, phần phiền não sân, phần phiền não si, phiền não đẳng phần. Đoạn trừ tất cả gốc rễ phiền não.
Vì muốn biết hết phiền não của ngã, phiền não của ngã sở, phiền não ngã mạn. Giác ngộ tất cả phiền não hết không thừa.
Vì muốn biết hết từ điên đảo phân biệt, mà sinh ra gốc rễ phiền não. Tùy phiền não. Vì thấy thân mà sinh ra sáu mươi hai kiến, điều phục tất cả phiền não.
Vì muốn biết hết phiền não che đậy, phiền não chướng, phát tâm đại bi cứu hộ, dứt trừ tất cả lưới phiền não, khiến cho tất cả trí tánh thanh tịnh, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Phật tử ! Hãy tạm ngưng ví dụ này. Nếu như có người, nơi một tâm niệm, dùng đủ thứ thức ăn uống thượng hạng, hương hoa y phục, tràng phan dù lọng và Tăng già lam, cung điện tốt đẹp, màn lưới báu võng, đủ thứ tòa báu sư tử, và các báu đẹp, cúng dường vô số chư Phật ở phương đông, và hết thảy chúng sinh vô số thế giới. Cung kính tôn trọng, lễ lạy khen ngợi, cúi mình chiêm ngưỡng, liên tục không ngừng, trải qua vô số kiếp. Lại khuyên những chúng sinh đó, đều khiến như vậy, cúng dường chư Phật.
Cho đến sau khi Phật diệt độ, mỗi vị Phật đều xây tháp cho rộng. Vô số thế giới đều có tạo thành các bảo tháp bảy báu, có đủ thứ sự trang nghiêm. Trong mỗi tháp đều có vô số hình tượng Như Lai. Quang minh chiếu khắp vô số thế giới, trải qua vô số kiếp. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế.
Phật tử ! Ý ông thế nào ? Công đức của người đó có nhiều chăng ?
Đế Thích nói: Công đức của người đó, chỉ có Phật mới biết được, ngoài ra chẳng có ai lường được.
Phật tử ! Công đức của người đó, so với công đức Bồ Tát ban đầu phát tâm, chẳng bằng một phần trăm, chẳng bằng một phần ngàn, chẳng bằng một phần trăm ngàn, cho đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà.
Phât tử ! Hãy ngưng ví dụ này. Nếu như lại có người thứ hai, nơi một tâm niệm, làm được như người ở trước và cúng dường hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới, trải qua vô số kiếp. Niệm niệm như vậy. Dùng vô lượng các thứ đồ cúng dường, cúng dường vô lượng chư Phật Như Lai, và hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới, trải qua vô lượng kiếp.
Người thứ ba, cho đến người thứ mười cũng đều như vậy. Nơi một tâm niệm, đều đem các đồ cúng dường như người thứ nhất. Niệm niệm cũng đều như vậy. Dùng vô biên, vô đẳng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, bất khả thuyết bất khả thuyết đồ cúng dường. Cúng dường vô biên cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết chư Phật, và hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới, trải qua vô biên cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp. Sau khi Phật diệt độ, đều xây tháp báu. Tháp báu đó cao rộng, cho đến kiếp trụ, cũng lại như thế.
Phật tử ! Công đức của những người cúng dường ở trên, so với công đức Bồ Tát ban đầu phát tâm, chẳng bằng một phần trăm, chẳng bằng một phần ngàn, chẳng bằng một phần trăm ngàn. Cho đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà. Tại sao ?
Phật tử ! Vì Bồ Tát cúng dường chẳng giới hạn bao nhiêu chư Phật đó, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vì cúng dường hết pháp giới hư không giới, bất khả thuyết bất khả thuyết mười phương vô lượng quá khứ vị lai hiện tại, hết thảy các đức Phật, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Phát tâm bồ đề rồi, sẽ biết được quá khứ tất cả chư Phật ban đầu thành Chánh Giác và vào Niết Bàn. Sẽ tin hết thảy căn lành của tất cả chư Phật vị lai. Biết được hết thảy trí huệ của tất cả chư Phật hiện tại.
Hết thảy công đức của chư Phật đó, Bồ Tát này hay tin, hay thọ trì, hay tu tập, hay đắc được, hay biết được, chứng được, thành tựu được, bình đẳng một tánh với chư Phật.
Tại sao ? Vì Bồ Tát này, chẳng dứt tất cả chủng tánh Như Lai mà phát tâm. Vì sung mãn tất cả thế giới mà phát tâm. Vì độ thoát tất cả thế giới chúng sinh mà phát tâm. Vì biết hết tất cả thế giới thành hoại mà phát tâm. Vì biết hết tất cả chúng sinh cấu tịnh mà phát tâm. Vì biết hết tất cả thế giới ba cõi thanh tịnh mà phát tâm. Vì biết hết tất cả chúng sinh tâm ưa thích phiền não tập khí mà phát tâm. Vì biết hết tất cả chúng sinh chết đây sinh kia mà phát tâm. Vì biết hết tất cả chúng sinh các căn phương tiện mà phát tâm. Vì biết hết tất cả chúng sinh tâm hạnh mà phát tâm. Vì biết hết tất cả chúng sinh trí ba đời mà phát tâm.
Vì phát tâm bồ đề, nên thường được tất cả chư Phật ba đời nghĩ nhớ. Sẽ đắc được vô thượng bồ đề của tất cả chư Phật ba đời. Liền được tất cả chư Phật ba đời ban cho diệu pháp. Liền bình đẳng thể tánh với tất cả chư Phật ba đời. Đã tu pháp trợ đạo của tất cả chư Phật ba đời, thì thành tựu sức vô sở úy của tất cả chư Phật ba đời. Trang nghiêm bất cộng Phật pháp của tất cả chư Phật ba đời. Đắc được pháp giới tất cả chư Phật nói pháp trí huệ.
Tại sao ? Vì nhờ phát tâm này mà sẽ được thành Phật. Nên biết người đó liền đồng với chư Phật ba đời. Liền bình đẳng cảnh giới với chư Phật Như Lai ba đời. Liền bình đẳng công đức với chư Phật Như Lai ba đời, đắc được một thân vô lượng thân của Như Lai, cứu kính bình đẳng trí huệ chân thật.
Lúc vừa phát tâm, liền được tất cả chư Phật mười phương cùng khen ngợi. Liền có thể nói pháp, giáo hóa điều phục hết thảy chúng sinh tất cả thế giới. Liền chấn động tất cả thế giới. Liền phóng quang minh chiếu tất cả thế giới. Liền tiêu diệt các đường ác khổ của tất cả thế giới. Liền trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi nước. Liền có thể thị hiện thành Phật trong tất cả thế giới. Liền có thể khiến cho tất cả chúng sinh đều được hoan hỷ. Liền nhập vào tất cả tánh pháp giới. Liền giữ gìn tất cả chủng tánh Phật. Liền đắc được nhất thiết trí huệ quang minh của Phật.
Bồ Tát ban đầu phát tâm đó, chẳng có chút sở đắc nơi ba đời, như là: Chư Phật, hoặc pháp chư Phật. Hoặc Bồ Tát, hoặc pháp Bồ Tát. Hoặc Độc Giác, hoặc pháp Độc Giác. Hoặc Thanh Văn, hoặc pháp Thanh Văn. Hoặc thế gian, hoặc pháp thế gian. Hoặc xuất thế gian, hoặc pháp xuất thế gian. Hoặc chúng sinh, hoặc pháp chúng sinh. Chỉ cầu nhất thiết trí. Nơi các pháp giới, tâm chẳng chấp trước.
Bấy giờ, do thần lực của đức Phật, mỗi phương trong mười phương, đều có các thế giới, nhiều như số hạt bụi một vạn cõi Phật, đều sáu thứ chấn động. Đó là: Động, biến động, đẳng biến động. Khởi, biến khởi, đẳng biến khởi. Dũng, biến dũng, đẳng biến dũng. Chấn, biến chấn, đẳng biến chấn. Hống, biến hống, đẳng biến hống. Kích, biến kích, đẳng biến kích. Mưa xuống các hoa trời, hương trời, hương bột trời, tràng hoa trời, y trời, báu trời, đồ trang nghiêm cõi trời, tấu âm nhạc trời, phóng quang minh trời, và âm thanh trời.
Lúc đó, mỗi phương trong mười phương, qua các thế giới nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, có các vị Phật nhiều như số hạt bụi vạn cõi Phật, đều đồng danh hiệu là Pháp Huệ, thảy đều hiện thân, ở trước Bồ Tát Pháp Huệ, nói như vầy: Lành thay ! Lành thay ! Pháp Huệ ! Ông hôm nay nói pháp này. Chúng ta trong mười phương, mỗi phương có các vị Phật, nhiều như số hạt bụi vạn cõi Phật, cũng nói pháp này, tất cả chư Phật đều nói pháp này.
Khi ông nói pháp này, thì có các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi vạn cõi Phật, phát tâm bồ đề. Hôm nay chúng ta đều thọ ký cho họ, trong đời vị lai, trải qua ngàn bất khả thuyết vô biên kiếp, cùng ở trong một kiếp mà được thành Phật, xuất hiện ra đời, đều hiệu là Thanh Tịnh Tâm Như Lai. Ở các thế giới, đều khác nhau. Chúng ta đều đang hộ trì pháp này, khiến cho đời vị lai, tất cả Bồ Tát, chưa từng được nghe, thảy đều được nghe.
Như trên đỉnh núi Tu Di bốn thiên hạ thế giới Ta Bà này, nói pháp như vậy. Khiến cho các chúng sinh được nghe rồi, thọ sự giáo hóa của Phật. Như vậy mười phương trăm ngàn ức, Na do tha, vô số, vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, tận pháp giới hư không giới, trong các thế giới cũng nói pháp này, giáo hóa chúng sinh.
Những người nói pháp đều đồng danh hiệu là Pháp Huệ. Vì đều nhờ thần lực của Phật. Vì sức bổn nguyện của Thế Tôn. Vì muốn hiển bày Phật pháp. Vì dùng trí huệ quang minh chiếu khắp. Vì muốn khai xiển thật nghĩa. Vì khiến cho chứng được pháp tánh. Vì khiến cho chúng hội đều hoan hỷ. Vì muốn khai thị Phật pháp nhân. Vì được tất cả Phật bình đẳng. Vì thấu rõ pháp giới chẳng hai, mà nói pháp như vậy.
Bấy giờ, Bồ Tát Pháp Huệ, quán sát khắp tận cõi hư không, mười phương cõi nước tất cả chúng hội. Vì muốn thành tựu các chúng sinh. Vì muốn tịnh trị các nghiệp quả báo. Vì muốn khai thị hiển bày pháp giới thanh tịnh. Vì muốn dứt trừ gốc rễ tạp nhiễm. Vì muốn tăng trưởng tin hiểu rộng lớn. Vì muốn khiến cho biết vô lượng căn tánh chúng sinh. Vì muốn khiến cho biết pháp ba đời bình đẳng. Vì muốn khiến cho quán sát cõi Niết Bàn. Vì muốn tăng trưởng căn lành thanh tịnh của mình, bèn nương oai lực của đức Phật mà nói kệ rằng:
Vì lợi thế gian phát tâm lớn
Tâm đó khắp cùng nơi mười phương
Chúng sinh cõi nước pháp ba đời
Phật và Bồ Tát biển tối thắng.
Cứu kính hư không khắp pháp giới
Hết thảy tất cả các thế gian
Như các Phật pháp đều qua đến
Như vậy phát tâm chẳng thối chuyển.
Từ niệm chúng sinh chẳng tạm rời
Lìa các não hại lợi ích khắp
Quang minh chiếu đời làm chỗ tựa
Thập Lực hộ niệm khó nghĩ bàn.
Mười phương cõi nước đều hướng vào
Tất cả sắc hình đều thị hiện
Như Phật phước trí rộng vô biên
Tùy thuận tu nhân chẳng chấp trước.
Có cõi hình ngửa hoặc nghiêng úp
Thô tốt rộng lớn vô lượng thứ
Bồ Tát khi phát tâm tối thượng
Đều hay qua đến chẳng chướng ngại.
Bồ Tát thắng hạnh không thể nói
Đều siêng tu tập chẳng chấp trước
Thấy tất cả Phật thường vui mừng
Khắp vào trong biển pháp thâm sâu.
Thương xót năm nẻo các quần sinh
Khiến trừ dơ bẩn được thanh tịnh
Tiếp tục giống Phật không đoạn tuyệt
Phá tan cung ma chẳng còn sót.
Đã trụ Như Lai tánh bình đẳng
Khéo tu đạo phương tiện vi diệu
Nơi cảnh giới Phật khởi tâm tin
Được Phật quán đảnh tâm chẳng chấp.
Nghĩ nhớ báo ân đấng Lưỡng Túc
Tâm như kim cang không thể hoại
Nơi Phật tu hành chiếu thấu được
Tự nhiên tu tập hạnh bồ đề.
Các cõi khác nhau nghĩ vô lượng
Nghiệp quả và tâm cũng chẳng một
Cho đến căn tánh đủ thứ thù
Khi phát tâm lớn đều thấy rõ.
Tâm đó rộng lớn đồng pháp giới
Không nương không đổi như hư không
Hướng về Phật trí chẳng chấp lấy
Thấu rõ thật tế lìa phân biệt.
Biết tâm chúng sinh không sinh tưởng
Thấu đạt các pháp không pháp tưởng
Tuy khắp phân biệt chẳng phân biệt
Ức Na Do cõi đều qua đến.
Vô lượng chư Phật diệu pháp tạng
Tùy thuận quán sát đều vào được
Chúng sinh căn hạnh thảy đều biết
Đến nơi như vậy như Thế Tôn.
Thanh tịnh đại nguyện luôn tương ưng
Ưa cúng Như Lai chẳng thối chuyển
Trời người thấy được chẳng nhàm đủ
Thường được chư Phật luôn hộ niệm.
Tâm đó thanh tịnh chẳng chỗ nương
Tuy quán pháp sâu mà chẳng chấp
Suy gẫm như vậy vô lượng kiếp
Ở trong ba đời chẳng chấp trước.
Tâm đó kiên cố khó phá hoại
Hướng Phật bồ đề chẳng chướng ngại
Chí cầu diệu đạo trừ mê hoặc
Đi khắp pháp giới chẳng mệt nhọc.
Biết pháp lời lẽ đều vắng lặng
Nhưng vào chân như dứt hiểu khác
Cảnh giới chư Phật đều thuận quán
Thông đạt ba đời tâm chẳng ngại.
Bồ Tát mới phát tâm rộng lớn
Liền qua đến được mười phương cõi
Pháp môn vô lượng không thể nói
Trí quang chiếu khắp đều thấy rõ.
Đại bi rộng độ chẳng gì bằng
Tâm từ khắp cùng đồng hư không
Mà nơi chúng sinh chẳng phân biệt
Thanh tịnh như vậy du thế gian.
Mười phương chúng sinh đều an ủi
Tất cả việc làm đều chân thật
Luôn dùng tâm tịnh lời chẳng khác
Thường được chư Phật cùng gia hộ.
Quá khứ hết thảy đều nghĩ nhớ
Vị lai tất cả đều phân biệt
Khắp vào trong mười phương thế giới
Vì độ chúng sinh khiến thoát khỏi.
Bồ Tát đầy đủ diệu trí quang
Khéo rõ nhân duyên chẳng hoài nghi
Tất cả mê hoặc đều dứt trừ
Như vậy du hành nơi pháp giới.
Cung điện ma vương đều phá tan
Chúng sinh màn lòa đều trừ diệt
Lìa các phân biệt tâm chẳng động
Khéo rõ cảnh giới của Như Lai.
Lưới nghi ba đời đều đã trừ
Ở chỗ Như Lai khởi tin tịnh
Nhờ tin được thành trí bất động
Vì trí thanh tịnh hiểu chân thật.
Vì khiến chúng sinh được thoát khỏi
Tận thuở vị lai khắp lợi ích
Mãi mãi cần khổ tâm chẳng mỏi.
Cho đến địa ngục cũng an thọ.
Phước huệ vô lượng đều đầy đủ
Căn dục chúng sinh đều biết rõ
Và các nghiệp hành đều thấy hết
Như chỗ họ thích vì nói pháp.
Biết rõ tất cả không vô ngã
Từ niệm chúng sinh luôn chẳng bỏ
Dùng một âm đại bi vi diệu
Vào khắp thế gian để diễn nói.
Phóng đại quang minh đủ thứ màu
Chiếu khắp chúng sinh trừ đen tối
Trong quang Bồ Tát ngồi hoa sen
Vì chúng xiển dương pháp thanh tịnh.
Nơi đầu sợi lông hiện các cõi
Các đại Bồ Tát đều đầy dẫy
Chúng hội trí huệ đều khác nhau
Thảy đều thấu rõ tâm chúng sinh.
Mười phương thế giới không thể nói
Một niệm đi khắp hết tất cả
Lợi ích chúng sinh cúng dường Phật
Nơi chỗ chư Phật hỏi nghĩa sâu.
Nơi các Như Lai nghĩ cha lành
Vì lợi chúng sinh tu giác hạnh
Trí huệ khéo léo thông pháp tạng
Vào chỗ trí sâu chẳng chấp trước.
Tùy thuận suy gẫm nói pháp giới
Trải vô lượng kiếp không thể lường
Tuy trí khéo vào chẳng xứ sở
Chẳng có mỏi nhàm chẳng chấp trước.
Sinh trong nhà chư Phật ba đời
Chứng được diệu pháp thân Như Lai
Khắp vì quần sinh hiện các màu
Ví như huyễn sư biến hết thảy.
Hoặc hiện ban đầu tu thắng hạnh
Hoặc hiện sơ sinh và xuất gia
Hoặc hiện dưới cây thành chánh giác
Hoặc vì chúng sinh hiện Niết Bàn.
Bồ Tát trụ chỗ pháp hi hữu
Chỉ cảnh giới Phật chẳng nhị thừa
Thân lời ý tưởng đều đã trừ
Đủ thứ tùy nghi đều hiện được.
Bồ Tát đắc được các Phật pháp
Chúng sinh suy gẫm phát cuồng loạn
Trí vào thật tế tâm vô ngại
Khắp hiện Như Lai tự tại lực.
Đây nơi thế gian chẳng gì bằng
Hà huống lại thêm hạnh thù thắng
Tuy chưa đầy đủ nhất thiết trí
Đã được sức tự tại Như Lai.
Đã trụ một thừa đạo cứu kính
Vào sâu pháp tối thượng vi diệu
Khéo biết chúng sinh thời phi thời
Vì lợi ích mà hiện thần thông.
Phân thân đầy khắp tất cả cõi
Phóng tịnh quang minh diệt đời tối
Ví như Long Vương nổi mây lớn
Mưa khắp pháp vũ đều thấm nhuần.
Quán sát chúng sinh như huyễn mộng
Vì nghiệp lực nên thường lưu chuyển
Đại bi thương xót đều cứu vớt
Vì nói pháp tánh tịnh vô vi.
Phật lực vô lượng đây cũng thế
Ví như hư không chẳng bờ mé
Vì khiến chúng sinh được giải thoát
Ức kiếp siêng tu chẳng nhàm mỏi.
Đủ thứ suy gẫm diệu công đức
Khéo tu nghiệp bậc nhất vô thượng
Nơi các thắng hạnh luôn không bỏ
Chuyên niệm họ thành nhất thiết trí.
Một thân thị hiện vô lượng thân
Tất cả thế giới đều đến khắp
Tâm Ngài thanh tịnh chẳng phân biệt
Một niệm sức tư nghì như vậy.
Nơi các thế gian chẳng phân biệt
Nơi tất cả pháp chẳng vọng tưởng
Tuy quán các pháp chẳng thủ lấy
Luôn cứu chúng sinh chẳng chỗ độ.
Tất cả thế gian chỉ là tưởng
Trong đó đủ thứ đều khác nhau
Biết cảnh giới tưởng hiểm lại sâu
Vì họ hiện thần thông cứu thoát.
Ví như huyễn sư sức tự tại
Thần biến Bồ Tát cũng như vậy
Thân khắp pháp giới và hư không
Tuỳ tâm chúng sinh đều thấy được.
 Năng sở phân biệt hai đều lìa
Tạp nhiễm thanh tịnh chẳng thủ lấy
Hoặc trói hoặc mở trí đều mất
Nhưng nguyện ban vui khắp chúng sinh.
Tất cả thế gian do sức tưởng
Dùng trí mà vào tâm chẳng sợ
Suy gẫm các pháp cũng như thế
Ba đời thôi cầu chẳng thể được.
Hay vào quá khứ xong thuở trước
Hay vào vị lai xong thuở sau
Hay vào hiện tại tất cả nơi
Thường siêng quán sát chẳng chỗ có.
Tùy thuận Niết Bàn pháp vắng lặng
Trụ nơi vô tránh chẳng chỗ nương
Tâm như thật tế chẳng gì bằng
Chuyên hướng bồ đề vĩnh bất thối.
Tu các thắng hạnh chẳng thối sợ
An trụ bồ đề chẳng lay động
Phật và Bồ Tát hiện ra đời
Tận nơi pháp giới đều thấu rõ.
Muốn được đạo đệ nhất tối thắng
Được nhất thiết trí vua giải thoát
Hãy mau chóng phát tâm bồ đề
Vĩnh sạch các lậu lợi quần sinh.
Hướng về bồ đề tâm thanh tịnh
Công đức rộng lớn không thể nói
Vì lợi chúng sinh nên khen thuật
Các ông hiền nhân khéo lắng nghe.
Vô lượng thế giới làm bụi hết
Trong mỗi hạt bụi vô lượng cõi
Trong đó chư Phật đều vô lượng
Thảy đều thấy rõ chẳng thủ lấy.
Khéo biết chúng sinh không sinh tưởng
Khéo biết lời lẽ chẳng lời tưởng
Nơi các thế giới tâm vô ngại
Đều khéo biết rõ chẳng chấp trước.
Tâm lượng rộng lớn như hư không
Sự việc ba đời đều thông đạt
Tất cả nghi hoặc đều trừ diệt
Chánh quán Phật pháp chẳng thủ lấy.
Mười phương vô lượng các cõi nước
Một niệm qua đến tâm chẳng chấp
Thông đạt thế gian các pháp khổ
Đều trụ vô sinh chân thật tế.
Vô lượng nan tư chỗ chư Phật
Đều đến hội đó chiêm lễ Phật
Thường làm thượng thủ hỏi Như Lai
Các hạnh nguyện tu của Bồ Tát.
Tâm thường nghĩ nhớ mười phương Phật
Mà chẳng chỗ nương chẳng thủ lấy
Luôn khuyên chúng sinh trồng căn lành
Trang nghiêm cõi nước khiến thanh tịnh.
Tất cả hướng sinh nơi ba cõi
Dùng mắt vô ngại để quán sát
Hết thảy tập tánh các căn hiểu
Vô lượng vô biên đều thấy rõ.
Chúng sinh tâm thích đều biết rõ
Như vậy tùy nghi vì nói pháp
Nơi các nhiễm tịnh đều thông đạt
Khiến họ tu trị vào trong đạo.
Vô lượng vô biên các tam muội
Bồ Tát một niệm đều vào được
Trong đó tưởng trí và sở duyên
Đều khéo biết rõ được tự tại.
Bồ Tát được trí rộng lớn này
Mau hướng bồ đề chẳng chướng ngại
Vì muốn lợi ích các quần sinh
Nơi nơi tuyên dương pháp đại nhân.
Khéo biết thế gian kiếp dài ngắn
Một tháng nửa tháng và ngày đêm
Cõi nước khác nhau tánh bình đẳng
Thường siêng quán sát chẳng phóng dật.
Đến khắp mười phương các thế giới
Mà các nơi đến chẳng thủ lấy
Nghiêm tịnh cõi nước đều không thừa
Cũng chẳng sinh phân biệt thanh tịnh.
Chúng sinh thị xứ hoặc phi xứ
Cùng với các nghiệp cảm báo khác
Tùy thuận tu đi vào Phật lực
Nơi đó tất cả đều biết rõ.
Tất cả thế gian đủ thứ tánh
Đủ thứ chỗ làm trụ ba cõi
Lợi căn cùng với trung hạ căn
Như vậy tất cả đều quán sát.
Tịnh và bất tịnh đủ thứ hiểu
Thắng liệt và trung đều thấy rõ
Tất cả chúng sinh chỗ đi đến
Ba cõi liên tục đều nói được.
Thiền định giải thoát các tam muội
Nhiễm tịnh nhân khởi đều khác nhau
Cùng với khổ vui thù đời trước
Tịnh tu Phật lực đều thấy được.
Chúng sinh nghiệp hoặc tục các cõi
Dứt các cõi này được vắng lặng
Đủ thứ pháp lậu vĩnh chẳng sinh
Và tập chúng đó đều biết rõ.
Như Lai phiền não đều trừ sạch
Đại trí quang minh chiếu thế gian
Bồ Tát ở trong Phật thập lực
Tuy chưa chứng được cũng chẳng nghi.
Bồ Tát ở trong một lỗ lông
Hiện khắp mười phương vô lượng cõi
Hoặc có tạp nhiễm hoặc thanh tịnh
Đủ thứ nghiệp làm đều rõ được.
Trong một hạt bụi vô lượng cõi
Vô lượng chư Phật và Phật tử
Các cõi khác nhau chẳng tạp loạn
Như một tất cả đều thấy rõ.
Nơi một lỗ lông thấy mười phương
Tận cõi hư không các thế gian
Chẳng có nơi nào không có Phật
Như vậy cõi Phật đều thanh tịnh.
Ở trong lỗ lông thấy cõi Phật
Lại thấy tất cả các chúng sinh
Ba đời sáu nẻo đều khác nhau
Ngày đêm tháng giờ có buộc giải.
Như vậy các Bồ Tát đại trí
Chuyên tâm hướng về bậc Pháp Vương
Chỗ của Phật trụ thuận tư duy
Mà được vô biên đại hoan hỷ.
Bồ Tát phân thân vô lượng ức
Cúng dường tất cả các Như Lai
Thần thông biến hiện thắng vô tỉ
Chỗ hành của Phật đều trụ được.
Chỗ vô lượng Phật đều suy ngưỡng
Hết thảy tạng pháp đều nếm vị
Thấy Phật nghe pháp siêng tu hành
Như uống cam lồ tâm hoan hỷ.
Đã được Như Lai thắng tam muội
Khéo vào các pháp trí tăng trưởng
Tâm tin chẳng động như Tu Di
Khắp làm quần sinh công đức tạng.
Tâm từ rộng lớn khắp chúng sinh
Đều nguyện sớm thành nhất thiết trí
Mà luôn chẳng chấp chẳng chỗ nương
Lìa các phiền não được tự tại.
Thưong xót chúng sinh trí rộng lớn
Khắp nhiếp tất cả đồng như mình
Biết không vô tướng chẳng chân thật
Mà hành tâm nguyện chẳng giải thối.
Bồ Tát phát tâm công đức lượng
Ức kiếp khen ngợi không hết được
Vì sinh tất cả các Như Lai
Độc Giác Thanh Văn đều an lạc.
Mười phương cõi nước các chúng sinh
Thảy đều thí an vô lượng kiếp
Khuyên giữ năm giới và thập thiện
Tứ thiền tứ đẳng các định xứ.
Lại trong nhiều kiếp thí an lạc
Khiến dứt các hoặc thành La Hán
Các phước đức đó tuy vô lượng
Chẳng bằng công đức phát tâm này.
Lại dạy ức chúng thành Duyên Giác
Được vô tánh hành đạo vi diệu
Dùng đó mà sánh tâm bồ đề
Tính đếm ví dụ chẳng bằng được.
Một niệm qua được cõi số bụi
Như vậy trải qua vô lượng kiếp
Các cõi đó đếm còn lường được
Công đức phát tâm chẳng biết được.
Quá khứ vị lai và hiện tại
Hết thảy kiếp số vô biên lượng
Các kiếp đó đếm có thể biết
Công đức phát tâm không dò được.
Dùng tâm bồ đề khắp mười phương
Hết thảy phân biệt đâu chẳng biết
Một niệm ba đời đều thông đạt
Vì lợi ích vô lượng chúng sinh.
Mười phương thế giới các chúng sinh
Muốn hiểu phương tiện ý hành vi
Với bờ mé hư không dò được
Công đức phát tâm khó biết được.
Bồ Tát chí nguyện đồng mười phương
Tâm từ nhuần khắp các quần sinh
Khiến họ tu thành công đức Phật
Cho nên lực đó chẳng bờ mé.
Chúng sinh muốn hiểu tâm ưa thích
Các căn phương tiện hành khác nhau
Ở trong một niệm đều thấu rõ
Nhất thiết trí trí tâm đồng nhau.
Phát tâm hay lìa nghiệp phiền não
Cúng dường tất cả các Như Lai
Nghiệp hoặc sẽ lìa dứt liên tục
Khắp nơi ba đời được giải thoát.
Một niệm cúng dường vô biên Phật
Cũng cúng vô số các chúng sinh
Cũng cúng hương hoa và màn đẹp
Tràng phan lọng báu y phục tốt.
Thức ngon tòa quý nơi kinh hành
Đủ thứ cung điện đều nghiêm đẹp
Tỳ Lô Giá Na châu báu đẹp
Như ý ma ni phát quang chiếu.
Niệm niệm như vậy đem cúng dường
Trải vô lượng kiếp không thể nói
Phước đức người đó tuy rất nhiều
Chẳng bằng đại công đức phát tâm.
Đủ thứ các ví dụ nói ra
Đều không bằng phát tâm bồ đề
Bởi các Nhân Trung Tôn ba đời
Đều từ phát tâm mà sinh ra.
Phát tâm vô ngại chẳng bờ mé
Muốn biết lượng đó không thể được
Nhất thiết trí trí thệ tất thành
Hết thảy chúng sinh vĩnh viễn độ.
Phát tâm rộng lớn đồng hư không
Sinh các công đức đồng pháp giới
Sở hành phổ khắp như chẳng khác
Vĩnh lìa chấp trước Phật bình đẳng.
Tất cả pháp môn thảy đều vào
Tất cả cõi nước đều qua đến
Tất cả trí cảnh đều thông đạt
Tất cả công đức đều thành tựu.
Tất cả xả được luôn liên tục
Tịnh các giới phẩm chẳng chấp trước
Đầy đủ đại công đức vô thượng
Thường siêng tinh tấn chẳng thối lùi.
Vào sâu thiền định luôn suy gẫm
Trí huệ rộng lớn cùng tương ưng
Đây là bậc Bồ Tát tối thắng
Sinh ra tất cả đạo Phổ Hiền.
Ba đời tất cả các Như Lai
Thảy đều hộ niệm sơ phát tâm
Đều dùng tam muội đà la ni
Thần thông biến hóa cùng trang nghiêm.
Mười phương chúng sinh vô số lượng
Thế giới hư không cũng như vậy
Phát tâm vô lượng quá hơn đó
Cho nên hay sinh tất cả Phật.
Tâm bồ đề là gốc mười lực
Cũng là gốc bốn biện vô úy
Mười tám bất cộng cũng từ đó
Thảy đều từ phát tâm mà được.
Thân sắc tướng trang nghiêm chư Phật
Cùng với diệu pháp thân bình đẳng
Trí huệ vô trước sở ứng cúng
Đều nhờ phát tâm mà đắc được.
Tất cả Độc Giác Thanh Văn thừa
Các thiền tam muội vui cõi sắc
Và các tam muội cõi vô sắc
Đều nhờ phát tâm làm cơ bản.
Tất cả trời người tự tại vui
Cùng với các cõi đủ thứ vui
Tấn định căn lực thảy các vui
Hết thảy đều do sơ phát tâm.
Nhờ nhân phát sinh tâm rộng lớn
Tất hay tu hành hạnh lục độ
Khuyên các chúng sinh hành chánh hạnh
Ở trong ba cõi thọ an vui.
Trụ Phật vô ngại trí thật nghĩa
Hết thảy diệu nghiệp đều khai xiển
Hay khiến vô lượng các chúng sinh
Đều dứt hoặc nghiệp hướng Niết Bàn.
Khắp phát vô biên nguyện công đức
Đều ban vui tất cả chúng sinh
Suốt thuở vị lai nương nguyện hành
Thường siêng tu tập độ chúng sinh.
Vô lượng đại nguyện khó nghĩ bàn
Nguyện khiến chúng sinh đều thanh tịnh
Không vô tướng nguyện chẳng chỗ nương
Nhờ nguyện lực nên đều hiểu rõ.
Rõ pháp tự tại như hư không
Tất cả vắng lặng đều bình đẳng
Pháp môn vô số không thể nói
Vì chúng sinh nói chẳng chấp trước.
Như số chúng sinh bao kiếp số
Nói công đức đó không hết được
Nhờ ở nhà Như Lai rộng lớn
Ba cõi các pháp không thể dụ.
Muốn biết tất cả các Phật pháp
Hãy nên mau phát tâm bồ đề
Công đức tâm này tối thắng nhất
Sẽ được trí Như Lai vô ngại.
Tâm hành chúng sinh đếm biết được
Hạt bụi cõi nước cũng như thế
Bờ mé hư không có thể lường
Công đức phát tâm không dò được.
Sinh ra ba đời tất cả Phật
Thành tựu thế gian tất cả vui
Tăng trưởng tất cả thắng công đức
Vĩnh dứt tất cả các nghi hoặc.
Mở bày tất cả diệu cảnh giới
Trừ sạch tất cả các chuớng ngại
Thành tựu tất cả cõi thanh tịnh
Sinh ra tất cả trí Như Lai.
Muốn thấy mười phương tất cả Phật
Muốn thí vô tận tạng công đức
Muốn diệt phiền não của chúng sinh
Hãy nên mau phát tâm bồ đề.

 
 
KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
 
QUYỂN MƯỜI TÁM
 
PHẨM MINH PHÁP THỨ MƯỜI TÁM
 
Bấy giờ, Bồ Tát Tinh Tấn Huệ bạch Bồ Tát Pháp Huệ rằng: Phật tử ! Đại Bồ Tát ban đầu phát tâm cầu nhất thiết trí, thành tựu vô lượng công đức như vậy.
Đủ đại trang nghiêm. Thăng lên tất cả trí thừa. Nhập vào chánh vị Bồ Tát. Xả bỏ các pháp thế gian. Đắc được pháp xuất thế của Phật. Quá khứ, vị lai, hiện tại, chư Phật nhiếp thọ. Quyết định đạt đến nơi cứu kính vô thượng bồ đề.
Các Bồ Tát đó ở trong Phật giáo tu tập như thế nào ? Khiến cho các Như Lai đều sinh hoan hỷ. Nhập vào nơi trụ xứ của các Bồ Tát. Tất cả đại hạnh đều được thanh tịnh. Hết thảy đại nguyện đều khiến cho đầy đủ. Đắc được tạng rộng lớn của các Bồ Tát. Tùy chúng sinh đáng giáo hóa được, thường vì họ nói pháp. Luôn luôn chẳng bỏ hạnh Ba La Mật. Sở niệm chúng sinh đều khiến cho được độ. Tiếp nối giống Tam Bảo khiến cho chẳng đoạn tuyệt. Căn lành phương tiện thảy đều chẳng hư.
Phật tử ! Các Bồ Tát đó dùng phương tiện gì, mà khiến cho pháp này sẽ được viên mãn? Xin thương xót, vì tôi mà nói. Đại chúng trong hội này thảy đều muốn nghe.
Lại nữa, như các đại Bồ Tát thường siêng năng tu tập, thì diệt trừ tất cả vô minh đen tối. Hàng phục ma oán, chế ngự các ngoại đạo. Vĩnh viễn quét sạch tất cả phiền não tâm dơ bẩn. Tất sẽ thành tựu tất cả căn lành. Vĩnh viễn thoát khỏi tất cả đường ác các nạn. Tịnh trị tất cả cảnh giới đại trí. Thành tựu tất cả các bậc của Bồ Tát, các Ba La Mật, tổng trì, tam muội, sáu thông, ba minh, bốn vô sở úy, công đức thanh tịnh.
Trang nghiêm tất cả cõi nước chư Phật, và các tướng tốt. Thân, lời nói, tâm hành, thành tựu đầy đủ. Khéo biết sức vô sở úy của tất cả chư Phật Như Lai, Phật pháp bất cộng. Nhất thiết trí sở hành cảnh giới. Vì muốn thành thục tất cả chúng sinh, tùy theo tâm ưa thích của chúng sinh mà thành tựu cõi Phật. Tùy căn, tùy thời, như pháp đáng nói, đủ thứ vô lượng Phật sự rộng lớn.
Và vô lượng các pháp công đức khác. Các hạnh, các đạo và các cảnh giới thảy đều viên mãn. Sớm bình đẳng với công đức của Như Lai.
Nơi các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, trong trăm ngàn A tăng kỳ kiếp, tu hạnh Bồ Tát, thì tập tụ pháp tạng, thảy đều thủ hộ, khai thị diễn nói. Các ma ngoại đạo không thể trở ngại phá hoại được. Nhiếp trì chánh pháp chẳng cùng tận. Nơi tất cả thế giới diễn nói pháp, thì Thiên Vương, Long Vương, Dạ Xoa Vương, Càn Thát Bà Vương, A Tu La Vương, Khẩn Na La Vương, Ca Lâu La Vương, Ma Hầu La Già Vương, nhân vương, Phạm Thiên Vương, Như Lai Pháp Vương, thảy đều thủ hộ.
Tất cả thế gian đều cung kính cúng dường. Đều quán đảnh, thường được chư Phật hộ niệm. Tất cả Bồ Tát, cũng đều ái kính. Được sức căn lành, trăng trưởng pháp trắng. Khai diễn pháp tạng thâm sâu của Như Lai. Nhiếp trì chánh pháp để tự trang nghiêm. Tất cả Bồ Tát tu hành thứ lớp, nguyện đều diễn nói.
Bấy giờ, Bồ Tát Tinh Tấn Huệ muốn tuyên lại nghĩa trên, bèn nói bài kệ rằng :
Bậc Đại Danh Xưng khéo diễn nói
Pháp công đức Bồ Tát tu thành
Vào sâu vô biên hạnh rộng lớn
Đầy đủ thanh tịnh trí vô sư.
Nếu có Bồ Tát sơ phát tâm
Thành tựu bậc phước đức trí huệ
Vào vị lìa sinh vượt thế gian
Khắp được chánh đẳng pháp bồ đề.
Vị đó thế nào trong Phật giáo
Kiên cố siêng tu càng tăng thắng
Khiến các Như Lai đều hoan hỷ
Sớm sẽ nhập vào nơi Phật trụ.
Tu hành thanh tịnh nguyện đều mãn
Và được tạng trí huệ rộng lớn
Thường hay nói pháp độ chúng sinh
Mà tâm chẳng nương chẳng chỗ chấp.
Bồ Tát tất cả Ba La Mật
Đều khéo tu hành chẳng khuyết giảm
Sở niệm chúng sinh đều cứu độ
Luôn giữ giống Phật khiến chẳng dứt.
Sở tác kiên cố chẳng tổn hại
Tất cả công thành được thoát khỏi
Như các bậc thắng sở tu hành
Đạo thanh tịnh đó nguyện tuyên nói.
Vĩnh phá tất cả vô minh tối
Hàng phục chúng ma và ngoại đạo
Hết thảy cấu uế đều tẩy sạch
Được gần Như Lai đại trí huệ.
Vĩnh lìa đường ác các hiểm nạn
Tịnh trị đại trí cảnh thù thắng
Được sức diệu đạo gần Như Lai
Tất cả công đức đều thanh tịnh.
Chứng được trí Như Lai tối thắng
Trụ nơi vô lượng các cõi nước
Tùy tâm chúng sinh mà nói pháp
Và làm các Phật sự rộng lớn.
Thế nào mà được các diệu đạo
Khai diễn chánh pháp tạng Như Lai
Thường hay thọ trì các Phật pháp
Không ai hơn được không gì bằng.
Thế nào không sợ như sư tử
Sở hành thanh tịnh như trăng rằm
Thế nào tu tập công đức Phật
Giống như hoa sen chẳng dính nước.
 
Bấy giờ, Bồ Tát Pháp Huệ nói với Bồ Tát Tinh Tấn Huệ rằng: Lành thay! Phật tử ! Nay Ngài vì muốn nhiều lợi ích, nhiều an lạc, nhiều huệ lợi. Thương xót thế gian, chư Thiên và loài người, mà hỏi hạnh tu hành thanh tịnh của Bồ Tát như vậy.
Phật tử ! Ngài trụ thật pháp, phát đại tinh tấn, tăng trưởng chẳng thối lùi, đã được giải thoát, có thể hỏi như thế, sẽ đồng với Như Lai.
Hãy lắng nghe ! Hãy lắng nghe ! Khéo suy gẫm! Nay tôi nương sức oai thần của đức Phật, vì Ngài mà nói ít phần trong vấn đề đó.
Phật tử ! Đại Bồ Tát đã phát tâm nhất thiết trí, thì nên lìa ngu si đen tối, tinh tấn giữ gìn, đừng có phóng dật.
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ ở mười pháp, gọi là không phóng dật. Những gì là mười? Một là giữ gìn các giới luật. Hai là xa lìa ngu si, thanh tịnh tâm bồ đề. Ba là tâm ưa ngay thẳng, lìa các xiểm nịnh. Bốn là siêng tu căn lành, chẳng có thối chuyển. Năm là luôn khéo suy gẫm tâm của mình đã phát. Sáu là không ưa gần gũi tại gia, xuất gia, tất cả phàm phu. Bảy là tu các nghiệp lành, mà chẳng muốn cầu quả báo thế gian. Tám là vĩnh viễn lìa hàng nhị thừa, hành Bồ Tát đạo. Chín là thích tu các việc lành, khiến chẳng dứt trừ. Mười là luôn khéo quán sát sức liên tục của mình.
Phật tử ! Nếu các Bồ Tát hành mười pháp này, thì gọi là trụ không phóng dật.
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ không phóng dật, đắc được mười thứ thanh tịnh. Những gì là mười ? Một là làm đúng như lời nói. Hai là niệm trí thành tựu. Ba là trụ nơi định sâu, chẳng hôn trầm chẳng trạo cử. Bốn là ưa cầu Phật pháp, chẳng có giải đãi ngừng nghỉ. Năm là theo pháp đã nghe, như lý quán sát, đầy đủ sinh ra trí huệ xảo diệu. Sáu là vào sâu thiền định, được thần thông của Phật. Bảy là tâm được bình đẳng, chẳng có cao thấp. Tám là nơi các chúng sinh, thượng trung hạ, tâm chẳng chướng ngại, như đại địa, lợi ích hết thảy. Chín là nếu thấy chúng sinh, cho đến một khi phát tâm bồ đề, thì tôn trọng thừa sự, như là hòa thượng. Mười là đối với thọ giới hòa thượng, A Xà Lê, tất cả Bồ Tát, các thiện trí thức và pháp sư, thường sinh tâm tôn trọng, thừa sự cúng dường.
Phật tử ! Đó là mười pháp thanh tịnh của Bồ Tát trụ không phóng dật.
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ không phóng dật, phát tâm đại tinh tấn, khởi chánh nệm. Sinh dục lạc thù thắng, tu hành chẳng thôi nghỉ. Nơi tất cả pháp, tâm chẳng chỗ nương tựa. Nơi pháp thâm sâu, siêng năng tu tập. Nhập vào môn vô tránh, sẽ tăng thêm tâm rộng lớn. Phật pháp vô biên, hay tùy thuận biết rõ, khiến các Như Lai thảy đều hoan hỷ.
Phật tử ! Đại Bồ Tát, lại có mười pháp, hay khiến cho tất cả chư Phật đều hoan hỷ. Những gì là mười ? Một là tinh tấn chẳng thối lùi. Hai là chẳng tiếc thân mạng. Ba là đối với các lợi dưỡng chẳng có mong cầu. Bốn là biết tất cả pháp đều như hư không. Năm là khéo hay quán sát, khắp vào pháp giới. Sáu là biết các pháp ấn, tâm chẳng ỷ lại chấp trước. Bảy là thường phát nguyện lớn. Tám là thành tựu thanh tịnh, nhẫn trí quang minh. Chín là quán pháp lành của mình, tâm chẳng tăng giảm. Mười là nương môn vô tác, tu các tịnh hạnh.
Phật tử ! Đó là Bồ Tát trụ mười pháp, hay khiến cho tất cả Như Lai đều hoan hỷ.
Phật tử ! Lại có mười pháp, hay khiến cho tất cả chư Phật hoan hỷ. Những gì là mười ? Đó là: An trụ không phóng dật. An trụ vô sinh nhẫn. An trụ đại từ. An trụ đại bi. An trụ đầy đủ các Ba La Mật. An trụ các hạnh. An trụ đại nguyện. An trụ phương tiện khéo léo. An trụ sức dũng mãnh. An trụ trí huệ, quán tất cả pháp, đều chẳng có chỗ trụ, như hư không.
Phật tử ! Nếu các Bồ Tát trụ mười pháp này, thì khiến cho tất cả chư Phật đều hoan hỷ.
Phật tử ! Có mười pháp, khiến cho các Bồ Tát sớm nhập vào các địa vị. Những gì là mười ? Một là khéo léo viên mãn phước trí hai hạnh. Hai là hay đại trang nghiêm đạo Ba La Mật. Ba là trí huệ sáng suốt thông đạt, chẳng tùy theo lời của người khác. Bốn là thừa sự bạn lành, luôn không bỏ lìa. Năm là thường hành tinh tấn, chẳng có giải đãi. Sáu là khéo an trụ nơi thần lực của Như Lai. Bảy là tu các căn lành, chẳng sinh tâm nhàm mỏi. Tám là thâm tâm lợi trí, dùng pháp đại thừa để tự trang nghiêm. Chín là nơi pháp môn các địa, tâm chẳng chỗ trụ. Mười là căn lành phương tiện đồng một thể tánh với ba đời chư Phật.
Phật tử ! Mười pháp này khiến cho các Bồ Tát sớm nhập vào các địa vị.
Lại nữa, Phật tử ! Lúc các Bồ Tát ban đầu trụ địa, thì nên khéo quán sát. Tùy thuận hết thảy tất cả pháp môn. Tùy thuận hết thảy trí huệ thâm sâu. Tùy thuận nhân tu hành. Tùy thuận sự đắc quả. Tùy thuận cảnh giới. Tùy thuận lực dụng. Tùy thuận sự thị hiện. Tùy thuận sự phân biệt. Tùy thuận sở đắc. Đều khéo quán sát. Biết tất cả pháp, đều là tự tâm mà chẳng chấp trước. Biết như vậy rồi, nhập vào địa vị Bồ Tát mà khéo an trụ.
Phật tử ! Các Bồ Tát đó suy gẫm như vầy: Chúng ta hãy mau nhập vào các địa. Tại sao ? Vì nếu chúng ta trụ ở trong các địa, thì sẽ thành tựu công đức rộng lớn như vậy. Đầy đủ công đức rồi, dần dần sẽ nhập vào Phật địa. Trụ ở Phật địa rồi, sẽ làm vô biên Phật sự rộng lớn. Do đó phải nên thường siêng tu tập, chẳng có ngừng nghỉ, chẳng có mỏi nhàm. Dùng đại công đức để tự trang nghiêm, nhập vào địa vị Bồ Tát.
Phật tử ! Có mười pháp khiến cho các Bồ Tát sở hành thanh tịnh. Những gì là mười ? Một là xả bỏ tiền tài vật chất, mãn nguyện ý chúng sinh. Hai là trì giới thanh tịnh, chẳng có hủy phạm. Ba là nhu hòa nhẫn nhục chẳng cùng tận. Bốn là siêng tu các hạnh, vĩnh viễn chẳng thối chuyển. Năm là dùng sức chánh niệm, tâm chẳng mê loạn. Sáu là phân biệt biết rõ vô lượng các pháp. Bảy là tu tất cả các hạnh mà chẳng chấp trước. Tám là tâm chẳng lay động giống như núi chúa. Chín là rộng độ chúng sinh, giống như cây cầu. Mười là biết tất cả chúng sinh đồng một thể tánh với các Như Lai.
Phật tử ! Đó là mười pháp, khiến cho các Bồ Tát sở hành thanh tịnh.
Bồ Tát đắc được hạnh thanh tịnh rồi, lại đắc được mười pháp tăng thêm thù thắng. Những gì là mười ? Một là chư Phật phương khác thảy đều hộ niệm. Hai là căn lành tăng trưởng thù thắng, vượt qua các bậc khác. Ba là khéo hay lãnh thọ lực gia trì của Phật. Bốn là thường được thiện nhân làm chỗ nương tựa. Năm là an trụ tinh tấn, luôn chẳng phóng dật. Sáu là biết tất cả pháp, bình đẳng không khác. Bảy là tâm luôn an trụ, vô thượng đại bi. Tám là như thật quán pháp, sinh ra trí huệ vi diệu. Chín là hay khéo tu hành, phương tiện khéo léo. Mười là biết được sức phương tiện của Như Lai.
Phật tử ! Đó là mười pháp tăng thêm thù thắng của Bồ Tát.
Phật tử ! Bồ Tát có mười nguyện thanh tịnh. Những gì là mười ? Một là nguyện thành thục chúng sinh, chẳng có mỏi nhàm. Hai là nguyện làm đầy đủ các điều thiện, để thanh tịnh các thế giới. Ba là nguyện thừa sự Như Lai, thường sinh tôn trọng. Bốn là nguyện hộ trì chánh pháp, chẳng tiếc thân mạng. Năm là nguyện dùng trí quán sát, nhập vào các cõi nước chư Phật. Sáu là nguyện đồng một thể tánh với các Bồ Tát. Bảy là nguyện vào nhà Như Lai, thấu rõ tất cả pháp. Tám là kẻ thấy liền sinh niềm tin, đắc được lợi ích. Chín là nguyện thần lực trụ thế hết kiếp vị lai. Mười là nguyện đầy đủ hạnh Phổ Hiền, tịnh trị môn nhất thiết chủng trí.
Phật tử ! Đó là mười điều nguyện thanh tịnh của Bồ Tát.
Phật tử ! Bồ Tát trụ mười pháp, khiến cho các đại nguyện đều được viên mãn. Những gì là mười ? Một là tâm chẳng nhàm mỏi. Hai là đủ đại trang nghiêm. Ba là niệm nguyện lực thù thắng của các Bồ Tát. Bốn là nghe cõi nước chư Phật thì nguyện vãng sinh. Năm là thâm tâm lâu dài hết kiếp vị lai. Sáu là nguyện tất thành tựu tất cả chúng sinh. Bảy là trụ tất cả kiếp, chẳng cho rằng nhọc. Tám là thọ tất cả khổ, chẳng sinh nhàm lìa. Chín là nơi tất cả vui sướng, tâm chẳng chấp trước. Mười là thường siêng thủ hộ pháp môn vô thượng.
Phật tử ! Khi Bồ Tát đầy đủ nguyện như vậy, thì liền đắc được mười tạng vô tận. Những gì là mười ? Đó là: Tạng vô tận khắp thấy chư Phật. Tạng vô tận tổng trì chẳng quên. Tạng vô tận quyết rõ các pháp. Tạng vô tận đại bi cứu hộ. Tạng vô tận đủ thứ tam muội. Tạng vô tận mãn tâm chúng sinh phước đức rộng lớn. Tạng vô tận diễn nói tất cả pháp trí huệ thâm sâu. Tạng vô tận báo được thần thông. Tạng vô tận trụ vô lượng kiếp. Tạng vô tận vào vô biên thế giới.
Phật tử ! Đó là mười tạng vô tận của Bồ Tát.
Bồ Tát được mười tạng này rồi, thì phước đức đầy đủ, trí huệ thanh tịnh. Đối với các chúng sinh, tùy thuận chúng sinh, đáng được giáo hóa, mà vì họ nói pháp.
Phật tử ! Đối với các chúng sinh, Bồ Tát làm thế nào mà tùy thuận chúng sinh đáng được độ, để vì họ nói pháp ? Đó là: Biết việc của họ làm. Biết nhân duyên của họ. Biết tâm suy nghĩ của họ. Biết sự ưa thích của họ.
Bồ Tát đối với người nhiều tham dục, thì vì họ nói pháp bất tịnh. Người nhiều sân hận, thì vì họ nói pháp đại bi. Người nhiều ngu si, thì vì họ dạy siêng tu quán sát. Người ba độc bằng nhau, thì vì họ nói pháp môn thành tựu trí huệ thù thắng. Người ưa sinh tử, thì vì họ nói ba thứ khổ. Nếu người chấp trước xứ sở, thì nói pháp hư không tịch. Người tâm giải đãi, thì nói đại tinh tấn. Người ngã mạn thì nói pháp bình đẳng. Người nhiều dua nịnh dối trá, thì vì họ nói tâm Bồ Tát ngay thẳng. Người ưa vắng lặng thì rộng vì họ nói pháp, khiến cho họ thành tựu. Bồ Tát tùy theo người đáng độ được, mà vì họ nói pháp như vậy.
Vì lúc nói pháp, văn liên thuộc với nhau, nghĩa chẳng trái ngược. Quán sát pháp trước sau, dùng trí phân biệt. Thẩm định phải quấy, chẳng trái pháp ấn. Kiến lập thứ tự, vô biên hạnh môn. Khiến cho các chúng sinh dứt trừ tất cả nghi. Khéo biết các căn, nhập vào giáo lý của Như Lai. Chứng được chân thật tế, biết pháp bình đẳng. Dứt các pháp ái, trừ tất cả chấp. Thường niệm chư Phật, tâm chẳng tạm lìa. Biết rõ âm thanh thể tánh bình đẳng. Nơi các chân ngôn, tâm chẳng chấp trước. Khéo nói ví dụ, chẳng trái ngược nhau. Đều khiến cho được ngộ, tất cả chư Phật, tùy nghi khắp hiện trí thân bình đẳng.
Bồ Tát vì các chúng sinh mà diễn nói pháp như vậy. Tức tự mình tu tập, tăng trưởng nghĩa lý lợi ích. Chẳng xả bỏ các lục độ. Đầy đủ trang nghiêm đạo Ba La Mật.
Bấy giờ, Bồ Tát vì khiến cho tâm chúng sinh được đầy đủ, trong ngoài đều xả bỏ mà chẳng chấp trước, đó là thanh tịnh được bố thí Ba La Mật.
Tu trì đầy đủ các giới mà chẳng chấp trước. Vĩnh viễn lìa khỏi ngã mạn. Đó là thanh tịnh trì giới Ba La Mật.
Hay nhẫn thọ tất cả các việc ác. Nơi các chúng sinh, tâm đều bình đẳng, chẳng có giao động. Ví như đại địa hay giữ gìn tất cả. Đó là thanh tịnh được nhẫn nhục Ba La Mật.
Khắp phát khởi các việc thiện, thường tu chẳng giải đãi. Làm các việc thiện, luôn không thối chuyển. Dũng mãnh thế lực, không gì có thể điều phục. Nơi các công đức, chẳng lấy chẳng bỏ, mà hay đầy đủ tất cả trí môn. Đó là hay thanh tịnh tinh tấn Ba La Mật.
Nơi cảnh giới năm dục, chẳng có tham trước. Các định thứ lớp thảy đều thành tựu. Thường sinh tâm suy gẫm, chẳng trụ, chẳng xuất. Mà có thể tiêu diệt tất cả phiền não. Sinh ra vô lượng các môn tam muội. Thành tựu vô biên sức đại thần thông. Nghịch thuận thứ tự, nhập vào các tam muội. Nơi một môn tam muội, nhập vào vô lượng môn tam muội. Đều biết tất cả cảnh giới tam muội, với tất cả tam muội tam ma bát đề. Trí ấn chẳng trái ngược nhau. Có thể mau nhập vào nơi tất cả trí địa. Đó là thanh tịnh thiền Ba La Mật.
      Ở chỗ chư Phật, nghe pháp thọ trì. Gần gũi thiện tri thức, thừa sự chẳng mỏi mệt. Thường ưa nghe pháp, tâm chẳng nhàm đủ. Tùy thuận pháp đã được nghe lãnh thọ, như lý mà tư duy. Nhập vào chân tam muội, lìa các kiến giải chẳng chánh đáng. Khéo quán sát các pháp, đắc được ấn tướng. Biết rõ Như Lai, vô công dụng đạo. Thừa phổ môn huệ, nhập vào môn trí huệ nhất thiết chủng trí. Vĩnh viễn được nghỉ ngơi. Đó là thanh tịnh Bát Nhã Ba La Mật.
Bồ Tát thị hiện nghiệp tạo ra của tất cả thế gian. Giáo hóa chúng sinh mà chẳng nhàm mỏi. Tùy theo tâm ưa thích của họ mà hiện thân. Tất cả sự tu hành đều chẳng nhiễm trước. Hoặc hiện phàm phu, hoặc hiện Thánh nhân, hoặc hiện sinh tử, hoặc hiện Niết Bàn, khéo quán sát tất cả việc làm. Thị hiện tất cả các sự trang nghiêm, mà chẳng tham trước. Khắp vào các cõi, độ thoát chúng sinh. Đó là thanh tịnh phương tiện Ba La Mật.
Bồ Tát thành tựu hết tất cả chúng sinh, trang nghiêm hết tất cả thế giới. Cúng dường hết tất cả chư Phật. Thông đạt hết các pháp chẳng chướng ngại. Tu hành hết các hạnh khắp pháp giới. Thân luôn trụ hết kiếp thuở vị lai. Trí biết hết tất cả tâm niệm. Giác ngộ hết pháp lưu chuyển hoàn diệt. Thị hiện hết tất cả cõi nước. Chứng được hết trí huệ của Như Lai. Đó là thanh tịnh được nguyện Ba La Mật.
Bồ Tát đầy đủ sức tâm sâu, vì chẳng có tạp nhiễm. Đầy đủ sức tin sâu, vì không thể thôi phục. Đầy đủ sức đại bi, vì không sinh nhàm mỏi. Đầy đủ sức đại từ, vì sở hành đều bình đẳng. Đầy đủ sức tổng trì, vì dùng phương tiện trì tất cả nghĩa. Đầy đủ sức biện tài, vì khiến cho tất cả chúng sinh hoan hỷ mãn túc. Đầy đủ sức Ba La Mật, vì trang nghiêm đại thừa. Đầy đủ sức đại nguyện, vì vĩnh viễn chẳng đoạn tuyệt. Đầy đủ sức thần thông, vì sinh ra vô lượng. Đầy đủ sức gia trì, vì khiến cho tin hiểu lãnh thọ. Đó là thanh tịnh được định lực Ba La Mật.
Bồ Tát biết hành giả tham dục. Biết hành giả sân hận. Biết hành giả ngu si. Biết hành giả đẳng phần. Biết hành giả bậc tu học. Trong một niệm, biết vô lượng hạnh của chúng sinh. Biết vô lượng tâm của chúng sinh. Biết tất cả pháp chân thật. Biết tất cả lực của Như Lai. Khắp giác ngộ môn pháp giới. Đó là thanh tịnh được trí Ba La Mật.
Phật tử ! Khi Bồ Tát thanh tịnh các Ba La Mật như vậy. Khi viên mãn các Ba La Mật. Khi chẳng xả bỏ các Ba La Mật, thì trụ ở trong Bồ Tát thừa đại trang nghiêm, tùy theo sở niệm của tất cả chúng sinh, đều vì họ nói pháp, khiến cho tăng trưởng nghiệp thanh tịnh mà được độ thoát.
Kẻ đọa vào đường ác, thì khiến cho họ phát tâm. Kẻ ở trong hoạn nạn, thì khiến cho họ siêng tinh tấn. Chúng sinh nhiều tham lam, thì chỉ bày pháp không tham. Chúng sinh nhiều sân hận, thì khiến cho họ hành pháp bình đẳng. Chúng sinh chấp trước tà kiến, thì vì họ nói pháp duyên khởi. Chúng sinh cõi dục, thì dạy họ pháp lìa dục sân hận các điều ác không thiện. Chúng sinh cõi sắc, thì vì họ tuyên nói pháp tì bát xá na. Chúng sinh cõi vô sắc, thì vì họ tuyên nói trí huệ vi diệu. Hàng nhị thừa thì dạy họ hạnh vắng lặng. Người ưa đại thừa, thì vì họ nói mười lực trang nghiêm rộng lớn.
Như Bồ Tát thuở xưa phát tâm, thấy vô lượng chúng sinh, đọa vào các đường ác, bèn làm sư tử hống, nói như vầy: Ta sẽ dùng đủ thứ pháp môn, tùy nghi để độ thoát họ. Bồ Tát đầy đủ trí huệ như vậy, hay độ thoát tất cả chúng sinh.
Phật tử ! Bồ Tát đầy đủ trí huệ như vậy, khiến cho hạt giống Tam Bảo vĩnh viễn chẳng đoạn tuyệt.
Tại sao ? Vì đại Bồ Tát giáo hóa các chúng sinh phát tâm bồ đề, khiến cho hạt giống Phật không dứt. Thường vì chúng sinh khai xiển pháp tạng, cho nên khiến cho hạt giống pháp không dứt. Khéo giữ giáo pháp không trái nghịch, cho nên khiến cho hạt giống Tăng không dứt.
Lại nữa, hay khen ngợi tất cả đại nguyện, cho nên hay khiến cho hạt giống Phật chẳng dứt. Phân biệt diễn nói pháp nhân duyên, cho nên hay khiến cho hạt giống pháp chẳng dứt. Thường siêng tu tập pháp lục hòa kính, cho nên hay khiến cho hạt giống Tăng chẳng dứt.
Lại nữa, ở trong ruộng chúng sinh gieo hạt giống Phật, cho nên hay khiến cho hạt giống Phật chẳng dứt. Hộ trì chánh pháp chẳng tiếc thân mạng, cho nên hay khiến cho hạt giống pháp chẳng dứt. Thống lý đại chúng chẳng mệt mỏi, cho nên hay khiến cho hạt giống Tăng chẳng dứt.
Lại nữa, trong quá khứ, vị lai, hiện tại, pháp của Phật nói, giới của Phật chế ra, thảy đều phụng trì, tâm chẳng xả lìa. Cho nên hay khiến cho hạt giống Phật Pháp Tăng, vĩnh viễn chẳng đoạn tuyệt.
Bồ Tát thiệu long Tam Bảo như vậy. Tất cả sở hành chẳng có lỗi. Tùy theo các việc làm, đều hồi hướng môn nhất thiết trí. Cho nên ba nghiệp đều chẳng có tỳ vết. Vì chẳng có tỳ vết, nên làm các việc lành, thực hành các hạnh, giáo hóa chúng sinh, tùy nghi nói pháp, cho đến một niệm đều không sai lầm. Đều tương ưng với phương tiện trí huệ. Thảy đều hồi hướng về nhất thiết trí, không thể luống qua.
Bồ Tát tu tập pháp lành như vậy, niệm niệm đầy đủ mười thứ trang nghiêm. Những gì là mười ? Đó là: Thân trang nghiêm, tùy theo các chúng sinh đáng được điều phục, mà vì họ thị hiện. Lời trang nghiêm, dứt tất cả nghi, đều khiến cho hoan hỷ. Tâm trang nghiêm, ở trong một niệm, nhập vào các tam muội. Cõi Phật trang nghiêm, vì tất cả đều thanh tịnh, lìa các phiền não. Quang minh trang nghiêm, vì phóng vô biên quang, chiếu khắp chúng sinh. Chúng hội trang nghiêm, vì nhiếp khắp chúng hội, đều khiến cho hoan hỷ. Thần thông trang nghiêm, vì tùy theo tâm chúng sinh, mà thị hiện tự tại. Chánh giáo trang nghiêm, vì hay nhiếp tất cả người thông minh trí huệ. Niết Bàn địa trang nghiêm, vì tại một nơi thành đạo, khắp cùng mười phương không thừa sót. Khéo nói trang nghiêm, vì tùy nơi, tùy thời, tùy căn cơ của họ, mà vì họ nói pháp.
Bồ Tát thành tựu trang nghiêm như vậy, ở trong niệm niệm, thân lời ý nghiệp đều chẳng luống qua. Thảy đều hồi hướng về môn nhất thiết trí.
Nếu có chúng sinh thấy Bồ Tát đó, thì nên biết cũng chẳng luống qua. Vì tất sẽ thành tựu A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Nếu nghe danh, hoặc cúng dường, hoặc ở chung, hoặc nghĩ nhớ, hoặc theo xuất gia, hoặc nghe nói pháp, hoặc tùy hỷ căn lành, hoặc ở xa sinh tâm khâm phục cung kính, cho đến tán thán khen ngợi danh hiệu, đều sẽ đắc được A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Phật tử ! Ví như có thuốc tên là Thiện Kiến. Chúng sinh thấy được, thì các độc đều tiêu trừ. Bồ Tát thành tựu pháp này cũng như vậy. Chúng sinh thấy được, thì các độc phiền não đều được trừ diệt, pháp lành tăng trưởng.
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ ở trong pháp này, siêng năng tu tập. Dùng trí huệ quang minh diệt trừ các ngu si đen tối. Dùng sức từ bi phá tan quân ma. Dùng đại trí huệ và sức phước đức chế ngự các ngoại đạo. Dùng định kim cang diệt trừ tất cả tâm dơ bẩn phiền não. Dùng sức tinh tấn tu tập các căn lành. Dùng sức các căn lành tịnh cõi Phật, xa lìa tất cả đường ác các nạn. Dùng sức không chấp trước, tịnh cảnh giới trí huệ. Dùng sức phương tiện trí huệ, sinh ra tất cả các địa của Bồ Tát, các Ba La Mật, và các tam muội, sáu thông, ba minh, bốn vô sở úy, đều khiến cho thanh tịnh.
Bồ Tát dùng sức tất cả pháp lành, thành tựu viên mãn tất cả cõi nước chư Phật, vô biên tướng tốt, thân lời và tâm đều đầy đủ trang nghiêm. Dùng sức trí huệ tự tại quán sát, biết tất cả lực, Như Lai vô sở úy, Phật pháp bất cộng, thảy đều bình đẳng. Dùng sức trí huệ rộng lớn, biết rõ cảnh giới nhất thiết trí. Dùng sức thệ nguyện thuở xưa, tùy thời giáo hóa, hiện cõi nước Phật, chuyển bánh xe pháp, độ thoát vô lượng vô biên chúng sinh.
Phật tử ! Đại Bồ Tát, siêng tu pháp này, lần lượt thành tựu các hạnh Bồ Tát, cho đến được sự bình đẳng với chư Phật. Ở trong vô biên thế giới, làm đại pháp sư, hộ trì chánh pháp, được tất cả chư Phật hộ niệm.
Bồ Tát thủ hộ thọ trì tạng pháp rộng lớn. Đắc được biện tài vô ngại. Thâm nhập pháp môn. Ở trong đại chúng của vô biên thế giới, tùy loại khác nhau, khắp hiện đủ loại thân, sắc tướng đầy đủ, tối thắng không gì bằng. Dùng vô ngại biện tài, khéo nói pháp thâm sâu. Âm thanh viên mãn, vì khéo phân bố, khiến cho người nghe được, nhập vào môn trí huệ vô tận.
Bồ Tát biết tâm hành phiền não của các chúng sinh, mà vì họ nói pháp. Vì lời lẽ nói ra, đều đầy đủ thanh tịnh. Một lời diễn xướng, hay khiến cho tất cả đều sinh tâm hoan hỷ. Thân hình đoan chánh, vì có đại oai lực, ở trong chúng hội chẳng ai hơn được.
Vì Bồ Tát khéo biết tâm chúng sinh, nên khắp hiện thân. Vì nói pháp khéo léo, nên âm thanh vô ngại. Vì được tâm tự tại, nên khéo nói pháp lớn, không bị trở ngại phá hoại. Vì được vô sở úy, nên tâm không khiếp nhược. Vì nơi pháp tự tại, nên không ai hơn được. Vì Bát Nhã Ba La Mật tự tại, nên pháp tướng nói ra, chẳng trái nghịch. Vì biện tài tự tại, nên tùy thích thuyết pháp, liên tục chẳng dứt. Vì Đà La Ni tự tại, nên tùy sự diễn nói, khai mở đủ thứ môn ví dụ. Vì đại bi tự tại, nên siêng dạy chúng sinh, tâm chẳng giải đãi ngừng nghỉ. Vì đại từ tự tại, nên phóng lưới quang minh, vui lòng đại chúng.
Bồ Tát ngồi trên tòa sư tử cao rộng như vậy, để diễn nói pháp lớn. Trừ Như Lai và các đại Bồ Tát thắng nguyện trí ra, các chúng sinh khác không ai thắng hơn được, không ai thấy đảnh được, không ai chói sáng hơn được. Có ai muốn vấn nạn, khiến cho bị thua, không thể nào có được.
Phật tử ! Đại Bồ Tát được sức tự tại như vậy rồi. Nếu như có lượng thế giới bất khả thuyết đạo tràng rộng lớn, đầy dẫy chúng sinh. Mỗi mỗi chúng sinh, oai đức sắc tướng, đều như chủ ba ngàn đại thiên thế giới. Bồ Tát ở nơi đó, vừa hiện thân, thì chiếu sáng che lấp đại chúng trên đây. Dùng đại từ bi an ủi chúng sinh khiếp nhược. Dùng trí huệ thâm sâu quán sát sự ưa muốn của họ. Dùng biện tài vô úy, vì họ nói pháp, hay khiến cho tất cả, đều sinh tâm hoan hỷ. Tại sao ?
Phật tử ! Vì đại Bồ Tát thành tựu vô lượng trí huệ luân. Vì thành tựu vô lượng phân biệt khéo léo. Vì thành tựu sức chánh niệm rộng lớn. Vì thành tựu vô tận trí huệ khéo léo. Vì thành tựu quyết định thấu rõ các pháp thật tướng đà la ni. Vì thành tựu vô biên tế bồ đề tâm. Vì thành tựu diệu biện tài không sai lầm. Vì thành tựu được tất cả Phật gia trì tin hiểu thâm sâu. Vì thành tựu khắp nhập vào sức trí huệ đạo tràng chúng hội của chư Phật ba đời. Vì thành tựu biết chư Phật ba đời đồng một thể tánh tâm thanh tịnh. Vì thành tựu ba đời tất cả trí huệ Như Lai, tất cả Bồ Tát đại nguyện trí, hay làm đại pháp sư, khai thị xiển dương tạng chánh pháp của chư Phật và hộ trì.
Bấy giờ, Bồ Tát Pháp Huệ muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nương thần lực của đức Phật, mà nói kệ rằng:
Tâm trụ bồ đề tu các phước
Thường chẳng phóng dật trồng kiên huệ
Chánh niệm tâm ý luôn không quên
Mười phương chư Phật đều hoan hỷ.
Chí nguyện kiên cố tự siêng gắng
Nơi đời không nương không thối khiếp
Dùng hạnh vô tránh vào pháp sâu
Mười phương chư Phật đều hoan hỷ.
Phật hoan hỷ rồi kiên tinh tấn
Tu hành phước trí trợ đạo pháp
Nhập vào các địa tịnh các hạnh
Mãn túc nguyện của Như Lai nói.
Như vậy mà tu được diệu pháp
Tức được pháp rồi thí quần sinh
Tùy tâm họ thích và căn tánh
Đều thuận cơ nghi vì khai diễn.
Bồ Tát vì họ diễn nói pháp
Chẳng xả hạnh các độ của mình
Đạo Ba La Mật đã thành tựu
Thường trong các cõi cứu quần sinh.
Ngày đêm siêng tu chẳng giải đãi
Khiến giống Tam Bảo chẳng đoạn tuyệt
Tu hành tất cả pháp thanh tịnh
Đều hồi hướng về cõi Như Lai.
Bồ Tát tu hành các hạnh lành
Khắp vì thành tựu các quần sinh
Khiến họ phá tối diệt phiền não
Hàng phục ma quân thành chánh giác.
Như vậy tu hành được Phật trí
Vào sâu chánh pháp tạng Như Lai
Làm đại pháp sư diễn diệu pháp
Ví như cam lồ đều thấm nhuần.
Từ bi thương xót khắp tất cả
Tâm hạnh chúng sinh đều biết hết
Theo chỗ họ thích vì khai triển
Vô lượng vô biên các Phật pháp.
Tiến dừng an chậm như voi chúa
Dũng mãnh chẳng sợ dường sư tử
Bất động như núi trí như biển
Cũng như mưa lớn trừ nóng bức.
 
Bấy giờ, Bồ Tát Pháp Huệ nói bài kệ đó rồi, Như Lai hoan hỷ, đại chúng phụng hành.
 
 
 
 
 
 
 


 
 
KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
 
PHẨM THĂNG LÊN CUNG TRỜI DẠ MA
THỨ MƯỜI CHÍN
 
Bấy giờ, nhờ oai thần lục của Như Lai, nên mười phương tất cả thế giới, mỗi mỗi bốn thiên hạ nam Diêm Phù Đề và trên đỉnh núi Tu Di, đều thấy đức Như Lai ở trong chúng hội. Các Bồ Tát đó, đều nhờ thần lực của đức Phật mà diễn nói pháp, chẳng ai mà không cho rằng mình luôn ở trước đức Phật.
Bấy giờ, đức Thế Tôn chẳng lìa khỏi dưới tất cả cội bồ đề và đỉnh núi Tu Di, mà hướng về cung trời Dạ Ma điện Bảo Trang Nghiêm.
Lúc đó, Thiên chủ trời Dạ Ma, từ xa thấy đức Phật đến, bèn dùng thần lực, hóa làm tòa sư tử Bảo Liên Hoa Tạng, ở trong cung điện.
Trăm vạn từng cấp dùng làm trang nghiêm, trăm vạn lưới vàng, trăm vạn màn hoa, trăm vạn màn tràng hoa, trăm vạn màn hương, trăm vạn màn báu, giăng che phía trên tòa sư tử.
Lọng hoa, lọng tràng, lọng hương, lọng báu, mỗi thứ cũng trăm vạn bày bố la liệt chung quanh. Trăm vạn quang minh chiếu sáng khắp nơi.
Trăm vạn Thiên chủ Dạ Ma cung kính đảnh lễ, trăm vạn Phạm Vương vui mừng hớn hở, trăm vạn Bồ Tát khen ngợi tán thán. Trăm vạn nhạc trời, diễn tấu trăm vạn thứ pháp âm, liên tục không ngừng. Trăm vạn thứ mây hoa. Trăm vạn thứ mây tràng. Trăm vạn thứ mây đồ trang nghiêm. Trăm vạn thứ mây y phục, giăng phủ khắp nơi. Trăm vạn thứ mây ma ni, ánh sáng chiếu soi.
Từ trăm vạn thứ căn lành sinh ra. Có trăm vạn chư Phật hộ trì. Trăm vạn thứ phước đức tăng trưởng. Trăm vạn thứ thâm tâm. Trăm vạn thứ thệ nguyện nghiêm tịnh. Trăm vạn thứ hạnh sinh ra. Trăm vạn thứ pháp kiến lập. Trăm vạn thứ thần thông biến hiện, luôn vang ra trăm vạn thứ lời tiếng, hiển bày các pháp.
Lúc đó, Thiên Vương Dạ Ma bố trí tòa rồi, bèn hướng về đức Phật Thế Tôn, cúi mình chắp tay, cung kính tôn trọng, mà bạch đức Phật rằng: Lành thay đức Thế Tôn ! Lành thay đấng Thiện Thệ ! Lành thay đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác! Xin nguyện thương xót vào nơi cung điện này.
Bấy giờ, đức Phật nhận lời thỉnh cầu, bèn thăng lên bảo điện. Tất cả mười phương cũng lại như thế.
Bấy giờ, Thiên Vương Dạ Ma liền tự nhớ lại, ở chỗ chư Phật quá khứ, gieo trồng căn lành, bèn nương oai lực của đức Phật, mà nói kệ rằng:
Danh Xưng Như Lai nghe mười phương
Trong sự cát tường vô thượng nhất
Ngài từng vào điện ma ni này
Thế nên nơi này cát tường nhất.
Bảo Vương Như Lai đèn thế gian
Trong sự cát tường vô thượng nhất
Ngài từng vào điện thanh tịnh này
Thế nên nơi này cát tường nhất.
Hỷ Mục Như Lai thấy vô ngại
Trong sự cát tường vô thượng nhất
Ngài từng vào điện trang nghiêm này
Thế nên nơi này cát tường nhất.
Nhiên Đăng Như Lai chiếu thế gian
Trong sự cát tường vô thượng nhất
Ngài từng vào điện thù thắng này
Thế nên nơi này cát tường nhất.
Nhiêu Ích Như Lai lợi thế gian
Trong sự cát tường vô thượng nhất
Ngài từng vào điện vô cấu này
Thế nên nơi này cát tường nhất.
Thiện Giác Như Lai chẳng có thầy
Trong sự cát tường vô thượng nhất
Ngài từng vào điện bảo hương này
Thế nên chốn này cát tường nhất.
Thắng Thiên Như Lai đèn trong đời
Trong sự cát tường vô thượng nhất
Ngài từng vào điện diệu hương này
Thế nên nơi này cát tường nhất.
Vô Khứ Như Lai hùng biện nhất
Trong sự cát tường vô thượng nhất
Ngài từng vào điện phổ nhãn này
Thế nên nơi này cát tường nhất.
Vô Thắng Như Lai đủ các đức
Trong sự cát tường vô thượng nhất
Ngài từng vào điện thiện nghiêm này
Thế nên nơi này cát tường nhất.
Khổ Hạnh Như Lai lợi thế gian
Trong sự cát tường vô thượng nhất
Ngài từng vào điện phổ nghiêm này
Thế nên nơi này cát tường nhất.
 
Như trong thế giới này, Thiên Vương Dạ Ma nương thần lực của đức Phật, nhớ lại công đức thuở xưa của chư Phật, tán thán khen ngợi. Mười phương thế giới, Thiên Vương Dạ Ma cũng đều khen ngợi công đức của Phật như vậy.
Bấy giờ, đức Thế Tôn vào điện Ma Ni Trang Nghiêm, ngồi kiết già trên tòa sư tử Bảo Liên Hoa Tạng.
Điện đó hốt nhiên rộng lớn vô cùng, như chỗ ở của các Thiên chúng. Mười phương thế giới cũng đều như thế.
 
 
 
 
 
 
 
 

 
KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
 
QUYỂN MƯỜI CHÍN
 
PHẨM KỆ KHEN NGỢI TRONG
CUNG DẠ MA THỨ HAI MƯƠI
 
Bấy giờ, nhờ thần lực của đức Phật, nên mỗi phương trong mười phương, có một vị đại Bồ Tát, cùng với các Bồ Tát, số nhiều như hạt bụi cõi Phật tụ hội lại, từ những thế giới ngoài cõi nước mười vạn số hạt bụi cõi Phật mà đến.
Danh hiệu của các Ngài là : Bồ Tát Công Đức Lâm, Bồ Tát Huệ Lâm, Bồ Tát Thắng Lâm, Bồ Tát Vô Uý Lâm, Bồ Tát Tàm Quý Lâm, Bồ Tát Tinh Tấn Lâm, Bồ Tát Lực Lâm, Bồ Tát Hạnh Lâm, Bồ Tát Giác Lâm, Bồ Tát Trí Lâm.
Các Bồ Tát đó, đến từ cõi nước đó là : Thế giới Thân Huệ. Thế giới Tràng Huệ. Thế giới Bảo Huệ. Thế giới Thắng Huệ. Thế giới Đăng Huệ. Thế giới Kim Cang Huệ. Thế giới An Lạc Huệ. Thế giới Nhật Huệ. Thế giới Tịnh Huệ. Thế giới Phạm Huệ.
Các Bồ Tát đó, ở chỗ các đức Phật, tịnh tu phạm hạnh đó là : Phật Thường Trụ Nhãn, Phật Vô Thắng Nhãn, Phật Vô Trụ Nhãn, Phật Bất Động Nhãn, Phật Thiên Nhãn, Phật Giải Thoát Nhãn, Phật Thẩm Đế Nhãn, Phật Minh Tướng Nhãn, Phật Tối Thượng Nhãn, Phật Cám Thanh Nhãn.
Các vị Bồ Tát đó, đều đến chỗ đức Phật rồi, đảnh lễ chân Phật, theo phương hướng của mình đến, ai nấy đều hóa làm tòa sư tử Ma ni tạng, ngồi kiết già trên tòa đó.
Như trong thế giới này, các Bồ Tát tụ tập đến cung trời Dạ Ma. Tất cả thế giới cũng đều như thế. Các Bồ Tát, thế giới, Như Lai, hết thảy danh hiệu, cũng đều giống nhau không khác.
Bấy giờ, từ hai bàn chân của đức Thế Tôn, phóng ra trăm ngàn ức quang minh sắc đẹp, chiếu khắp mười phương tất cả thế giới. Trong cung trời Dạ Ma, Phật và đại chúng thảy đều hiện ra.
Bấy giờ, Bồ Tát Công Đức Lâm nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương mà nói kệ rằng:
Phật phóng đại quang minh
Chiếu khắp trong mười phương
Đều thấy Thiên Nhân Tôn
Thông đạt chẳng chướng ngại.
Phật ngồi cung Dạ Ma
Khắp cùng mười phương cõi
Việc này rất kỳ đặc
Thế gian rất ít có.
Trời Dạ Ma Thiên vương
Kệ khen mười Như Lai
Như hội này đã thấy
Tất cả nơi cũng vậy.
Các chúng Bồ Tát đó
Hiệu đồng với chúng tôi
Mười phương tất cả nơi
Diễn nói pháp vô thượng.
Đến từ các thế giới
Danh từ cũng không khác
Đều ở chỗ đức Phật
Tu phạm hạnh thanh tịnh.
Các đức Như Lai đó
Danh hiệu cũng giống nhau
Cõi nước đều giàu vui
Thần lực đều tự tại.
Mười phương tất cả nơi
Đều nói Phật ở đó
Hoặc thấy tại nhân gian
Hoặc thấy ở cung trời.
Như Lai khắp an trụ
Tất cả các cõi nước
Chúng ta nay thấy Phật
Nơi điện cung trời này.
Xưa phát nguyện bồ đề
Khắp cùng mười phương cõi
Thế nên oai lực Phật
Khắp hết không nghĩ bàn.
Lìa sự tham ở đời
Đầy đủ vô biên đức
Nên được sức thần thông
Chúng sinh thảy đều thấy.
Du hành mười phương cõi
Như không chẳng chướng ngại
Một thân vô lượng thân
Tướng thân bất khả đắc.
Công đức Phật vô biên
Làm sao dò biết được
Chẳng trụ cũng chẳng đi
Vào khắp nơi pháp giới.
 
Bấy giờ, Bồ Tát Huệ Lâm nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương mà nói kệ rằng:
Đại Đạo Sư thế gian
Đấng lìa cấu vô thượng
Kiếp không thể nghĩ bàn
Khó có thể gặp được.
Phật phóng đại quang minh
Thế gian thảy đều thấy
Vì chúng rộng diễn nói
Lợi ích các quần sinh.
Như Lai hiện thế gian
Vì đời trừ si tối
Như Lai đèn thế gian
Ít có khó gặp được.
Đã tu bố thí nhẫn
Tinh tấn và thiền định
Bát Nhã Ba La Mật
Nhờ đây chiếu thế gian.
Như Lai chẳng ai bằng
Muốn sánh không thể được
Chẳng rõ pháp chân thật
Không thể thấy được Phật.
Thân Phật và thần thông
Tự tại khó nghĩ bàn
Chẳng đến cũng chẳng đi
Thuyết pháp độ chúng sinh.
Nếu ai được thấy nghe
Thanh tịnh Thiên Nhân Sư
Mãi thoát các đường ác
Xả lìa tất cả khổ.
Vô lượng vô số kiếp
Tu tập hạnh bồ đề
Không biết được nghĩa này
Không thể thành Phật được.
Kiếp không thể nghĩ bàn
Cúng dường vô lượng Phật
Nếu biết được nghĩa này
Công đức hơn người đó.
Châu báu vô lượng cõi
Đem cúng dường đức Phật
Không biết được nghĩa này
Trọn không thành bồ đề.
 
Bấy giờ, Bồ Tát Thắng Lâm nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương mà nói kệ rằng:
Ví như tháng mùa hạ
Trời xanh không mây mù
Mặt trời tỏa chiếu khắp
Sung mãn khắp mười phương.
Ánh sáng vô hạn lượng
Không ai dò biết được
Có mắt còn như thế
Hà huống kẻ mù lòa.
Chư Phật cũng như vậy
Công đức không bờ mé
Kiếp không thể nghĩ bàn
Không thể phân biệt biết.
Các pháp chẳng chỗ đến
Cũng chẳng có tác giả
Chẳng có chỗ sinh ra
Không thể phân biệt được.
Tất cả pháp chẳng đến
Cho nên chẳng có sinh
Do vì không có sinh
Nên diệt bất khả đắc.
Tất cả pháp không sinh
Cũng lại không có diệt
Nếu hiểu được như vậy
Người đó thấy Như Lai.
Vì các pháp không sinh
Tự tánh không chỗ có
Phân biệt biết như vậy
Người đó đạt nghĩa sâu.
Vì nhờ pháp không tánh
Chẳng ai biết rõ được
Thấu hiểu pháp như vậy
Rốt ráo chẳng chỗ hiểu.
Nói rằng có sự sinh
Hiện ra các cõi nước
Biết được tánh cõi nước
Người đó chẳng mê hoặc.
Tánh cõi nước thế gian
Quán sát đều như thật
Nếu biết được như vậy
Khéo nói tất cả nghĩa.
 
Bấy giờ, Bồ Tát Vô Úy Lâm nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói kệ rằng:
Thân Như Lai rộng lớn
Rốt ráo nơi pháp giới
Chẳng lìa khỏi tòa này
Mà khắp hết mọi nơi.
Nếu nghe pháp như vầy
Cung kính tin mừng vui
Mãi thoát ba đường ác
Tất cả các khổ nạn.
Như qua các thế giới
Vô lượng không thể đếm
Chuyên tâm muốn lắng nghe
Sức tự tại Như Lai.
Các Phật pháp như vậy
Là vô thượng bồ đề
Giả sử muốn tạm nghe
Không ai có thể được.
Nếu ở trong quá khứ
Tin Phật pháp như vậy
Đã thành đấng Lưỡng Túc
Mà làm đèn thế gian.
Nếu có ai được nghe
Sức tự tại Như Lai
Nghe rồi sinh niềm tin
Họ cũng sẽ thành Phật.
Nếu ai trong hiện tại
Nghe được Phật pháp này
Cũng sẽ thành Chánh Giác
Nói pháp chẳng sợ hãi.
Vô lượng vô số kiếp
Pháp này rất khó gặp
Nếu có ai được nghe
Nên biết nhờ nguyện xưa.
Nếu ai hay thọ trì
Các Phật pháp như vậy
Trì rồi rộng tuyên nói
Người này sẽ thành Phật.
Huống lại siêng tinh tấn
Tâm kiên cố chẳng bỏ
Nên biết người như vậy
Quyết định thành bồ đề.
 
Bấy giờ, Bồ Tát Tàm Quý Lâm nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói kệ rằng:
Nếu ai được nghe pháp
Hy hữu tự tại này
Hay sinh tâm hoan hỷ
Sớm dứt lưới nghi hoặc.
Tất cả người tri kiến
Tự nói lời như vầy
Như Lai biết tất cả
Cho nên khó nghĩ bàn.
Không có từ vô trí
Mà sinh ra trí huệ
Thế gian thường tối tăm
Cho nên không thể sinh.
Như sắc và phi sắc
đây hai chẳng phải một
Trí vô trí cũng vậy
Thể đó đều khác biệt.
Như tướng và vô tướng
Sinh tử và Niết Bàn
Phân biệt đều khác nhau
Trí vô trí cũng vậy.
Thế giới mới thành lập
Chẳng có tướng bại hoại
Trí vô trí cũng vậy
Hai tướng chẳng một thời.
Như Bồ Tát sơ tâm
Chẳng cùng với hậu tâm
Trí vô trí cũng vậy
Hai tâm chẳng cùng thời.
Ví như các thức thân
Mỗi mỗi chẳng hòa hợp
Trí vô trí cũng vậy
Rốt ráo chẳng hòa hợp.
Như thuốc A già đà
Hay giải tất cả độc
Có trí cũng như vậy
Hay tiêu diệt vô trí.
Như Lai chẳng ai hơn
Cũng chẳng ai bằng được
Tất cả không thể sánh
Cho nên khó gặp được.
 
Bấy giờ, Bồ Tát Tinh Tấn Lâm nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói kệ rằng:
 Các pháp không khác biệt
Chẳng có ai biết được
Chỉ Phật với Phật biết
Vì trí huệ rốt ráo.
Như vàng và màu vàng
Tánh đó chẳng khác biệt
Pháp phi pháp cũng vậy
Thể tánh chẳng gì khác.
Chúng sinh phi chúng sinh
Hai đều chẳng chân thật
Các pháp tánh như vậy
Thật nghĩa đều chẳng có.
Ví như đời vị lai
Chẳng có tướng quá khứ
Các pháp cũng như vậy
Chẳng có tất cả tướng.
Ví như tướng sinh diệt
Đủ thứ đều chẳng thật
Các pháp cũng như vậy
Tự tánh chẳng chỗ có.
Niết Bàn không thể lấy
Nói thời có hai thứ
Các pháp cũng như vậy
Phân biệt có thù khác.
Như nương sở đếm vật
Mà có sự năng đếm
Tánh đó không chỗ có
Biết rõ pháp như vậy.
Ví như pháp toán số
Thêm một đến vô lượng
Pháp đếm không thể tánh
Vì trí huệ khác biệt.
Ví như các thế gian
Kiếp thiêu có hết sạch
Hư không chẳng tổn hại
Phật trí cũng như vậy.
Như mười phương chúng sinh
Đều lấy tướng hư không
Chư Phật cũng như vậy
Thế gian vọng phân biệt.
 
Bấy giờ, Bồ Tát Lực Lâm nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói kệ rằng:
Tất cả cõi chúng sinh
Đều ở trong ba đời
Ba đời các chúng sinh
Đều ở trong năm uẩn.
Các uẩn nghiệp là gốc
Các nghiệp tâm là gốc
Tâm pháp giống như huyễn
Thế gian cũng như vậy.
Thế gian chẳng tự làm
Cũng chẳng phải họ làm
Mà nó được hình thành
Cũng lại có hủy hoại.
Thế gian tuy có thành
Thế gian tức có hoại
Người thấu đạt thế gian
Cả hai không đáng nói.
Thế nào là thế gian
Thế nào phi thế gian
Thế gian phi thế gian
Chỉ là tên khác biệt.
Pháp ba đời năm uẩn
Nói tên là thế gian
Đó diệt phi thế gian
Chỉ tên giả như vậy.
Thế nào nói các uẩn
Các uẩn có tánh gì ?
Tánh uẩn không thể diệt
Cho nên nói không sinh.
Phân biệt các uẩn này
Tánh nó vốn không tịch
Vì không chẳng thể diệt
Đây là nghĩa không sinh.
Chúng sinh tức như vậy
Chư Phật cũng như thế
Phật và các Phật pháp
Tự tánh chẳng chỗ có.
Biết được các pháp này
Như thật chẳng điên đảo
Người thấy biết tất cả
Thường thấy ở trước họ.
 
Bấy giờ, Bồ Tát Hạnh Lâm, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói kệ rằng:
Ví như mười phương cõi
Tất cả các đất đai
Tự tánh chẳng chỗ có
Chẳng đâu mà không có.
Thân Phật cũng như vậy
Khắp hết các thế giới
Đủ thứ các sắc tướng
Chẳng trụ chẳng nơi đến.
Nhưng vì nhờ các nghiệp
Gọi tên là chúng sinh
Cũng chẳng lìa chúng sinh
Mà đắc được các nghiệp.
Tánh nghiệp vốn không tịch
Chỗ chúng sinh y chỉ
Khắp làm các sắc tướng
Cũng lại chẳng chỗ đến.
Các sắc tướng như vậy
Nghiệp lực khó nghĩ bàn
Thấu đạt gốc rễ nghiệp
Trong đó chẳng chỗ thấy.
Thân Phật cũng như vậy
Bất khả đắc tư nghì
Đủ thứ các sắc tướng
Khắp hiện mười phương cõi.
Thân cũng chẳng phải Phật
Phật cũng chẳng phải thân
Chỉ dùng pháp làm thân
Thông đạt tất cả pháp.
Nếu thấy được thân Phật
Thanh tịnh như pháp tánh
Người đó nơi Phật pháp
Tất cả chẳng nghi hoặc.
Nếu thấy tất cả pháp
Bản tánh như Niết Bàn
Đó là thấy Như Lai
Rốt ráo chẳng chỗ trụ.
Nếu tu tập chánh niệm
Rõ suốt thấy chánh giác
Không tướng không phân biệt
Đó gọi Pháp Vương tử.
 
Bấy giờ, Bồ Tát Giác Lâm nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói kệ rằng:
Ví như nhà họa sĩ
Phân bày các màu sắc
Hư vọng lấy tướng khác
Đại chủng chẳng khác biệt.
Trong đại chủng không sắc
Trong sắc không đại chủng
Cũng chẳng lìa đại chủng
Mà có được màu sắc.
Trong tâm không màu vẽ
Trong màu vẽ không tâm
Nhưng chẳng lìa nơi tâm
Mà có được màu vẽ.
Tâm đó luôn không trụ
Vô lượng khó nghĩ bàn
Thị hiện tất cả sắc
Thảy đều chẳng biết nhau.
Ví như nhà họa sĩ
Không thể biết tâm mình
Vì chỉ do tâm vẽ
Các pháp cũng như vậy.
Tâm như nhà họa sĩ
Hay vẽ các thế gian
Năm uẩn từ tâm sinh
Không pháp gì chẳng tạo.
Như tâm Phật cũng thế
Như Phật chúng sinh vậy
Nên biết Phật với tâm
Thể tánh đều vô tận.
Nếu người biết tâm hành
Khắp tạo các thế gian
Người đó tức thấy Phật
Rõ Phật chân thật tánh.
Tâm chẳng trụ nơi thân
Thân chẳng trụ nơi tâm
Mà làm được Phật sự
Tự tại chưa từng có.
Nếu người muốn biết rõ
Tất cả Phật ba đời
Nên quán tánh pháp giới
Tất cả do tâm tạo.
 
Bấy giờ, Bồ Tát Trí Lâm nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói kệ rằng:
Chỗ lấy không thể lấy
Chỗ thấy không thể thấy
Chỗ nghe không thể nghe
Một tâm không nghĩ bàn.
Hữu lượng và vô lượng
Cả hai không thể lấy
Nếu có người muốn lấy
Rốt ráo không chỗ được.
Không nên nói mà nói
Đó là tự khi dối
Việc mình chẳng thành tựu
Chẳng khiến chúng hoan hỷ.
Có người khen Như Lai
Vô biên diệu sắc thân
Hết cả vô số kiếp
Không thể thuật khen hết.
Ví như châu như ý
Hay hiện tất cả sắc
Không sắc mà hiện sắc
Chư Phật cũng như vậy.
Lại như tịnh hư không
Chẳng sắc không thể thấy
Tuy hiện tất cả sắc
Chẳng thấy được hư không.
Chư Phật cũng như vậy
Khắp hiện vô lượng sắc
Chẳng phải chỗ tâm hành
Tất cả không thấy được.
Tuy nghe tiếng Như Lai
Tiếng chẳng phải Như Lai
Cũng chẳng lìa nơi tiếng
Biết được Chánh Đẳng Giác.
Bồ đề chẳng đến đi
Lìa tất cả phân biệt
Sao lại ở trong đó
Tự nói hay thấy được ?
Chư Phật chẳng có pháp
Phật nơi nào có nói
Chỉ tùy theo tâm mình
Rằng nói pháp như vậy.

 
 
KINH HOA NGHIÊM
ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
 
QUYỂN MƯỜI CHÍN
 
PHẨM THẬP HẠNH THỨ HAI MƯƠI MỐT
 
      Bấy giờ, Bồ Tát Công Đức Lâm, nương thần lực của đức Phật, nhập vào tam muội Bồ Tát Tư Duy.
      Vào tam muội đó rồi, mỗi phương trong mười phương, ngoài các thế giới nhiều như số hạt bụi vạn cõi Phật, có chư Phật nhiều như số hạt bụi vạn cõi Phật, đều đồng danh hiệu là Công Đức Lâm, hiện ra ở trước, nói với Bồ Tát Công Đức Lâm rằng : Lành thay Phật tử ! Ông vào được tam muội Bồ Tát Tư Duy nầy.
      Thiện nam tử ! Đây là mỗi phương trong mười phương, chư Phật đồng danh hiệu, nhiều như số hạt bụi vạn cõi Phật, cùng gia bị cho ông, cũng là nguyện lực, oai thần lực thuở xưa của Tỳ Lô Giá Na Như Lai, và sức căn lành của các Bồ Tát, khiến cho ông vào được tam muội nầy, để diễn nói pháp.
      Vì tăng trưởng Phật trí. Vì vào sâu pháp giới. Vì biết chúng sinh giới. Vì chỗ vào không trở ngại. Vì chỗ hành không chướng ngại. Vì được vô lượng phương tiện. Vì nhiếp lấy tất cả trí tánh. Vì giác ngộ tất cả các pháp. Vì biết tất cả các căn. Vì hay thọ trì diễn nói tất cả các pháp. Ðó là phát khởi mười thứ hạnh của các Bồ Tát.
      Thiện nam tử ! Ông nên nương oai thần lực của đức Phật, mà diễn nói pháp nầy.
      Bấy giờ, chư Phật liền ban cho Bồ Tát Công Đức Lâm trí không ngại. Trí không chấp trước. Trí không gián đoạn. Trí không thầy. Trí không ngu si. Trí không đổi. Trí không mất. Trí không hạn lượng. Trí không thắng. Trí không giải đãi. Trí không đoạt lấy. Tại sao ? Vì sức của tam muội nầy, là pháp như vậy.
      Bấy giờ, chư Phật đều dũi tay phải ra, rờ đầu Bồ Tát Công Đức Lâm, thì Bồ Tát Công Đức Lâm liền từ định mà dậy, bảo các Bồ Tát rằng: Phật tử ! Hạnh Bồ Tát không thể nghĩ bàn, đồng với pháp giới, hư không giới. Tại sao ? Vì đại Bồ Tát học theo chư Phật ba đời mà tu hành.
      Phật tử ! Những gì là hạnh của đại Bồ Tát ? Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười hạnh, mà ba đời chư Phật đều nói.
      Những gì là mười ? Một là hạnh hoan hỉ. Hai là hạnh nhiêu ích. Ba là hạnh vô vi nghịch. Bốn là hạnh vô khuất nhiễu. Năm là hạnh vô si loạn. Sáu là hạnh thiện hiện. Bảy là hạnh vô trước. Tám là hạnh nan đắc. Chín là hạnh thiện pháp. Mười là hạnh chân thật, đó là mười hạnh.
      Phật tử ! Những gì là hạnh hoan hỉ của đại Bồ Tát ?
      Phật tử ! Bồ Tát nầy làm đại thí chủ, phàm là tất cả đồ vật, thảy đều đem bố thí.
      Tâm của Bồ Tát bình đẳng, chẳng có sẻn tiếc, chẳng mong quả báo, chẳng cầu tiếng tăm, chẳng tham lợi dưỡng. Chỉ vì cứu hộ tất cả chúng sinh, nhiếp thọ tất cả chúng sinh, lợi ích tất cả chúng sinh.
      Bồ Tát vì học tập sự tu hành xưa kia của chư Phật. Nghĩ nhớ sự tu hành xưa kia của chư Phật. Ưa thích sự tu hành xưa kia của chư Phật. Thanh tịnh sự tu hành xưa kia của chư Phật. Tăng trưởng sự tu hành xưa kia của chư Phật. Trụ trì sự tu hành xưa kia của chư Phật. Hiển hiện sự tu hành xưa kia của chư Phật. Diễn nói sự tu hành xưa kia của chư Phật, khiến cho các chúng sinh lìa khổ được vui.
      Phật tử ! Đại Bồ Tát tu hạnh nầy, thì khiến cho tất cả chúng sinh hoan hỉ ưa thích. Tuỳ theo các cõi nước trong mười phương, nơi nào bần cùng khốn khổ, thì do nguyện lực mà sinh về nơi đó, để làm nhà hào phú giàu có, của cải châu báu vô tận.
      Giả sử ở trong niệm niệm, có vô lượng vô số chúng sinh, đến chỗ Bồ Tát bạch rằng : Thưa Ngài ! Chúng tôi nghèo khổ thiếu thốn, chẳng có tài vật để nuôi sống, đói khát khốn khổ, mạng sống chẳng an toàn, xin nguyện từ bi thương xót, bố thí thịt nơi thân Ngài cho tôi, để cho tôi được ăn, để duy trì mạng sống.
      Bấy giờ, Bồ Tát liền bố thí, khiến cho họ hoan hỉ, tâm được đầy đủ.
      Như vậy, vô lượng trăm ngàn chúng sinh đều đến cầu xin thịt, Bồ Tát chưa từng sinh tâm thối chuyển khiếp sợ, chỉ càng tăng trưởng tâm từ bi. Do đó chúng sinh đều đến cầu xin. Bồ Tát thấy vậy, lại càng hoan hỉ. Bèn nghĩ như vầy : Tôi được lợi lành, những chúng sinh nầy là ruộng phước của tôi, là bạn lành của tôi. Tôi không cầu, không thỉnh, mà họ đến dạy tôi vào trong Phật pháp. Nay tôi nên tu học như vậy, không trái với tâm của tất cả chúng sinh.
      Bồ Tát lại nghĩ như vầy : Nguyện hết thảy căn lành của tôi đã làm, đang làm, sẽ làm, khiến cho tôi thuở vị lai, nơi tất cả thế giới, trong tất cả chúng sinh, thọ thân rộng lớn. Dùng thịt thân đó, làm no đủ tất cả những chúng sinh đói khổ. Cho đến nếu có một chúng sinh nhỏ, chưa được no đủ, thì tôi nguyện không xả bỏ mạng sống. Thịt trên thân lóc ra, cũng chẳng cùng tận.
      Đem căn lành nầy, nguyện đắc được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chứng đại Niết Bàn. Nguyện các chúng sinh ăn thịt thân tôi, cũng đắc được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Được trí bình đẳng, đủ các Phật pháp, rộng làm Phật sự, cho đến vào Vô Dư Niết Bàn. Nếu một chúng sinh tâm chẳng đầy đủ, thì tôi quyết không chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
      Bồ Tát lợi ích chúng sinh như vậy, mà chẳng có tưởng nghĩ cái ta, tưởng nghĩ chúng sinh, tưởng nghĩ các cõi, tưởng nghĩ mạng sống, tưởng nghĩ đủ thứ, tưỡng nghĩ Bổ Già La, tưởng nghĩ về người, tưởng nghĩ Ma Nạp Bà, tưởng nghĩ người làm, tưởng nghĩ kẻ thọ.
      Chỉ quán pháp giới. Chúng sinh giới. Pháp không bờ mé. Pháp không. Pháp chẳng chỗ có. Pháp không tướng. Pháp không thể. Pháp không xứ sở. Pháp không nương tựa. Pháp không làm.
      Khi quán như vậy, thì Bồ Tát chẳng thấy thân mình, chẳng thấy vật thí, chẳng thấy kẻ nhận, chẳng thấy ruộng phước, chẳng thấy nghiệp, chẳng thấy báo, chẳng thấy quả, chẳng thấy quả lớn, chẳng thấy quả nhỏ.
      Bấy giờ, Bồ Tát quán sát quá khứ, vị lai, hiện tại, tất cả chúng sinh thọ thân bỗng có liền hoại diệt. Bèn nghĩ như vầy : Lạ thay chúng sinh ngu si không trí huệ. Ở trong sinh tử thọ vô số thân, nguy hiểm không ngừng, chóng quy về hoại diệt. Hoặc đã hoại diệt, hoặc đang hoại diệt, hoặc sẽ hoại diệt, mà không thể dùng thân không kiên cố, để cầu thân kiên cố.
      Tôi sẽ học hết những điều chư Phật đã học, chứng nhất thiết trí, biết tất cả pháp. Vì các chúng sinh nói pháp ba đời bình đẳng, tuỳ thuận vắng lặng, chẳng hoại pháp tánh. Khiến cho họ vĩnh viễn được an ổn khoái lạc.
      Phật tử ! Đó gọi là hạnh hoan hỉ thứ nhất của đại Bồ Tát.
 
      Phật tử ! Những gì là hạnh nhiêu ích của đại Bồ Tát ?
      Bồ Tát nầy hộ trì tịnh giới. Nơi sắc thanh hương vị xúc, tâm chẳng chấp trước, cũng vì chúng sinh tuyên nói như vậy. Chẳng cầu oai đức thế lực, chẳng cầu chủng tộc, chẳng cầu giàu có, chẳng cầu sắc tướng, chẳng cầu ngôi vua. Tất cả như vậy, đều chẳng chấp trước.
      Chỉ kiên trì tịnh giới, bèn nghĩ như vầy : Tôi giữ tịnh giới, thì phải bỏ lìa tất cả ràng buộc, tham cầu nhiệt não, các nạn bức bách, huỷ báng loạn trược, mới đắc được chánh pháp bình đẳng, mà Phật khen ngợi.
      Phật tử ! Khi Bồ Tát giữ tịnh giới như vậy, giả sử trong một ngày, có vô số trăm ngàn ức Na do tha các đại ác ma, đến chỗ Bồ Tát, mỗi đại ác ma, đem theo vô lượng vô số trăm ngàn ức Na do tha Thiên nữ, đều khéo hành phương tiện nơi năm dục, đoan chánh xinh đẹp, khuynh đảo mê hoặc lòng người. Cầm mang đủ thứ đồ chơi trân quý, muốn đến mê hoặc dẫn dụ đạo tâm của Bồ Tát.
      Bấy giờ, Bồ Tát bèn nghĩ như vầy: Năm dục nầy là pháp chướng ngại đạo, cho đến chướng ngại vô thượng bồ đề. Cho nên không sinh một niệm dục tưởng, tâm thanh tịnh như Phật. Chỉ trừ phương tiện giáo hoá chúng sinh, mà chẳng xả bỏ nơi tất cả tâm trí huệ.
       Phật tử ! Vì Bồ Tát chẳng dùng nhân duyên tham dục não hại tất cả chúng sinh. Thà bỏ thân mạng, quyết không làm việc não hại chúng sinh. Bồ Tát từ khi được thấy Phật đến nay, chưa từng sinh ra một niệm dục tưởng, hà huống là làm. Hoặc nếu là làm, thì không có việc đó.
      Bấy giờ, Bồ Tát bèn nghĩ như vầy: Tất cả chúng sinh, ở trong đêm dài, tưởng nghĩ năm dục, hướng về năm dục, tham trước năm dục, tâm họ quyết định. Đam nhiễm chìm đắm, lưu chuyển theo năm dục, nên chẳng được tự tại.
      Nay tôi phải khiến cho những con ma nầy, và các Thiên nữ, cùng tất cả chúng sinh, trụ nơi giới vô thượng. Trụ vào tịnh giới rồi, thì nơi nhất thiết trí, tâm chẳng thối chuyển, sẽ đắc được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cho đến vào nơi Vô Dư Niết Bàn.
      Tại sao ? Vì đây là sự nghiệp tôi phải làm, phải tu học theo chư Phật như vậy. Tu học như vậy rồi, thì lìa khỏi các hạnh ác, chấp ngã vô tri. Dùng trí huệ vào nơi tất cả Phật pháp, vì chúng sinh diễn nói, khiến cho họ dứt trừ điên đảo.
      Biết rõ chẳng lìa chúng sinh có điên đảo, chẳng lìa điên đảo có chúng sinh. Chẳng ở trong điên đảo có chúng sinh, chẳng ở trong chúng sinh có điên đảo. Cũng chẳng phải điên đảo là chúng sinh, cũng chẳng phải chúng sinh là điên đảo. Điên đảo chẳng phải pháp ở trong, điên đảo chẳng phải pháp ở ngoài. Chúng sinh chẳng phải pháp ở trong, chúng sinh chẳng phải pháp ở ngoài.
      Tất cả các pháp đều hư vọng không thật. Khởi mau, diệt mau, chẳng có bền vững, như mộng, như bóng, như huyễn, như hoá, lừa dối mê hoặc kẻ ngu. Người hiểu như vậy, liền giác ngộ tất cả các hạnh, thông đạt sinh tử, cùng với Niết Bàn, chứng Phật bồ đề.
      Tự mình được độ, cũng khiến cho họ được độ. Mình giải thoát, cũng khiến cho họ giải thoát. Mình điều phục, cũng khiến cho họ được điều phục. Mình vắng lặng, cũng khiến cho họ vắng lặng. Mình an ổn, cũng khiến cho họ an ổn. Mình lìa trần cấu, cũng khiến cho họ lìa trần cấu. Mình thanh tịnh, cũng khiến cho họ thanh tịnh. Mình được Niết Bàn, cũng khiến cho họ được Niết Bàn. Mình an vui, cũng khiến cho họ an vui.
      Phật tử ! Bồ Tát nầy lại nghĩ như vầy: Tôi phải tuỳ thuận tất cả các Như Lai. Lìa khỏi tất cả hạnh thế gian. Đầy đủ tất cả các Phật pháp. Trụ nơi vô thượng bình đẳng. Bình đẳng quán sát chúng sinh. Thấu rõ thông đạt cảnh giới. Lìa các lỗi lầm. Dứt trừ các sự phân biệt. Xả bỏ các sự chấp trước. Khéo léo thoát khỏi ba cõi.
      Tâm luôn an trụ nơi vô thượng, không nói, không nương tựa, không động, vô lượng, vô biên, vô tận, vô sắc, trí huệ thâm sâu.
      Phật tử ! Đó gọi là hạnh nhiêu ích thứ hai của đại Bồ Tát.
 
      Phật tử ! Những gì là hạnh vô vi nghịch của đại Bồ Tát ?
      Bồ Tát nầy thường tu pháp nhẫn nhục, khiêm nhường cung kính. Chẳng hại mình, chẳng hại người, chẳng hại mình người, chẳng thủ lấy mình, chẳng thủ lấy người, chẳng thủ lấy mình người. Mình chẳng tham chấp, cũng chẳng dạy người tham chấp, mình người đều chẳng tham chấp. Cũng chẳng tham cầu danh văn lợi dưỡng.
      Bồ Tát chỉ nghĩ như vầy: Tôi phải thường vì chúng sinh nói pháp, khiến cho họ lìa tất cả nghiệp ác. Dứt tham sân si, kiêu mạn che dấu, tham sẻn đố kị dối trá. Khiến cho họ luôn an trụ nơi nhẫn nhục nhu hoà.
      Phật tử ! Bồ Tát thành tựu pháp nhẫn nhục như vậy. Giả sử có trăm ngàn ức Na do tha A tăng kỳ chúng sinh đến chỗ Bồ Tát. Mỗi chúng sinh hoá làm trăm ngàn ức Na do tha A tăng kỳ cái miệng. Mỗi cái miệng nói ra trăm ngàn ức Na do tha A tăng kỳ những lời chẳng hoan hỉ, lời pháp chẳng thiện, lời chẳng vừa ý, lời chẳng ưa thích, lời chẳng phải của hiền nhân, lời chẳng phải của bậc Thánh có trí huệ, lời chẳng tương ưng với bậc Thánh, lời chẳng gần gũi với bậc Thánh, lời rất đáng chán ghét, lời chẳng muốn nghe. Dùng những lời lẽ nầy huỷ nhục Bồ Tát.
      Những chúng sinh nầy, mỗi người đều có trăm ngàn ức Na do tha A tăng kỳ tay. Mỗi tay đều cầm trăm ngàn ức Na do tha A tăng kỳ đồ gậy, bức hại Bồ Tát.
      Như vậy trải qua A tăng kỳ kiếp, chưa từng ngừng nghỉ. Bồ Tát gặp những sự rất thống khổ độc hại đó, lông trên thân đều dựng đứng, mạng sống gần chết, bèn tự nghĩ rằng: Tôi do sự khổ nầy, nếu tâm động loạn, thì mình chẳng điều phục được, mình chẳng thủ hộ được, mình chẳng thấu rõ, mình chẳng tu tập, mình chẳng chánh định, mình chẳng vắng lặng, mình chẳng ái tiếc, mình sinh chấp trước. Làm sao có thể khiến cho tâm họ được thanh tịnh ?
      Bấy giờ, Bồ Tát lại nghĩ như vầy: Tôi từ vô thuỷ kiếp, trụ ở trong sinh tử, thọ các khổ não. Tư duy như vậy, thì tự mình khích lệ, khiến cho tâm thanh tịnh, mà được hoan hỉ. Khéo tự điều phục nhiếp thọ. Tự an trụ ở trong Phật pháp, cũng khiến cho chúng sinh đồng được pháp nầy.
      Bồ Tát lại càng tư duy, thân nầy không tịch, không có cái ta và của ta, không có chân thật, tánh không chẳng hai. Hoặc khổ, hoặc vui, đều chẳng chỗ có, vì các pháp đều không. Tôi hiểu rồi, sẽ rộng vì mọi người tuyên nói, khiến cho các chúng sinh diệt trừ sự thấy nầy. Cho nên nay tôi tuy gặp thống khổ độc hại, phải nên nhẫn thọ.
      Vì từ niệm chúng sinh. Vì lợi ích chúng sinh. Vì an lạc chúng sinh. Vì thương xót chúng sinh. Vì nhiếp thọ chúng sinh. Vì chẳng xả bỏ chúng sinh. Vì tự mình được giác ngộ. Vì khiến cho họ giác ngộ. Vì tâm chẳng thối chuyển. Vì hướng về Phật đạo.
      Đó gọi là hạnh vô vi nghịch của đại Bồ Tát.
 
      Phật tử ! Những gì là hạnh vô khuất nhiễu của đại Bồ Tát ?
      Bồ Tát nầy tu các hạnh tinh tấn, đó là: Đệ nhất tinh tấn. Đại tinh tấn. Thắng tinh tấn. Thù thắng tinh tấn. Tối thắng tinh tấn. Tối diệu tinh tấn. Thượng tinh tấn. Vô thượng tinh tấn. Vô đẳng tinh tấn. Phổ biến tinh tấn.
      Tự tánh chẳng có ba độc. Tự tánh chẳng kiêu mạn. Tự tánh chẳng che dấu. Tự tánh chẳng tham sẻn đố kị. Tự tánh chẳng dối trá. Tự tánh hổ thẹn, quyết không làm não hại chúng sinh, mà thực hành tinh tấn.
      Chỉ vì dứt trừ tất cả phiền não, mà thực hành tinh tấn. Chỉ vì nhổ trừ tất cả gốc rễ mê hoặc, mà thực hành tinh tấn. Chỉ vì trừ sạch tất cả tập khí, mà thực hành tinh tấn. Chỉ vì biết tất cả cõi chúng sinh, mà thực hành tinh tấn. Chỉ vì biết tất cả chúng sinh chết đây sinh kia, mà thực hành tinh tấn. Chỉ vì biết tất cả phiền não của chúng sinh, mà thực hành tinh tấn. Chỉ vì biết tất cả tâm ưa thích của chúng sinh, mà thực hành tinh tấn. Chỉ vì biết cảnh giới của tất cả chúng sinh, mà thật hành tinh tấn. Chỉ vì biết các căn thắng liệt của tất cả chúng sinh, mà thực hành tinh tấn. Chỉ vì biết tâm hành của tất cả chúng sinh, mà thực hành tinh tấn.
      Chỉ vì biết tất cả pháp giới, mà thực hành tinh tấn. Chỉ vì tánh căn bản của tất cả Phật pháp, mà thực hành tinh tấn. Chỉ vì biết tánh bình đẳng của tất cả Phật pháp, mà thực hành tinh tấn. Chỉ vì biết tánh ba đời bình đẳng, mà thực hành tinh tấn. Chỉ vì được trí quang minh của tất cả Phật pháp, mà thực hành tinh tấn. Chỉ vì chứng được trí huệ của tất cả Phật pháp, mà thực hành tinh tấn. Chỉ vì biết một thật tướng của tất cả Phật pháp, mà thực hành tinh tấn. Chỉ vì biết tất cả Phật pháp không bờ mé, mà thực hành tinh tấn. Chỉ vì đắc được trí quyết định khéo léo rộng lớn của tất cả Phật pháp, mà thực hành tinh tấn. Chỉ vì đắc được trí phân biệt diễn nói câu nghĩa tất cả Phật pháp, mà thực hành tinh tấn.
      Phật tử ! Đại Bồ Tát thành tựu hạnh tinh tấn như vậy rồi. Nếu như có người nói: Ngài có thể vì hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới, vì mỗi chúng sinh mà ở địa ngục A Tỳ, trải qua vô số kiếp, thay thế họ thọ các sự khổ. Khiến cho các chúng sinh đó, đều được thấy vô số chư Phật, xuất hiện ra đời. Vì nhờ thấy Phật, nên thọ đầy đủ các sự an vui, cho đến vào nơi Vô Dư Niết Bàn, rồi ngài mới thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ngài có làm được chăng?
      Đáp rằng : Tôi làm được.
      Giả sử lại có người nói như vầy: Có vô lượng A tăng kỳ biển lớn, Ngài nên dùng đầu sợi lông chấm nước biển cho khô cạn. Có vô lượng thế giới, mài hết làm thành bụi. Số giọt nước và bụi đó đều biết được số lượng. Vì chúng sinh mà trải qua số kiếp, như số giọt nước và hạt bụi đó. Ở trong niệm niệm, thọ khổ không gián đoạn. Bồ Tát chẳng vì nghe những lời nầy, mà sinh một tâm niệm hối hận. Chỉ càng tăng thêm hoan hỉ vui mừng: Tôi rất may mắn, được lợi lành lớn, nhờ sức của tôi mà khiến cho những chúng sinh đó, vĩnh viễn thoát khỏi các sự khổ.
      Bồ Tát dùng những phương tiện thực hành đó, ở trong tất cả thế giới, khiến cho tất cả chúng sinh, cho đến được rốt ráo Vô Dư Niết Bàn.
      Đó là hạnh vô khuất nhiễu thứ tư của đại Bồ Tát.
 
      Phật tử ! Những gì là hạnh lìa si loạn của đại Bồ Tát ?
       Bồ Tát nầy thành tựu chánh niệm, tâm chẳng tán loạn, kiên cố chẳng động, thanh tịnh tối thượng, rộng lớn vô lượng, chẳng có mê hoặc.
      Vì nhờ chánh niệm, nên khéo hiểu tất cả ngôn ngữ thế gian. Hay thọ trì các pháp lời nói xuất thế gian.
      Đó là: Hay thọ trì lời nói sắc pháp chẳng phải sắc pháp. Hay thọ trì lời nói kiến lập sắc tự tánh, cho đến hay thọ trì lời nói kiến lập thọ tưởng hành thức tự tánh, tâm chẳng si loạn.
      Ở trong thế gian, chết đây sinh kia, tâm chẳng si loạn. Nhập thai xuất thai, tâm chẳng si loạn. Phát tâm bồ đề, tâm chẳng si loạn. Phụng sự thiện tri thức, tâm chẳng si loạn. Siêng tu Phật pháp, tâm chẳng si loạn. Giác biết việc ma, tâm chẳng si loạn. Lìa các ma nghiệp, tâm chẳng si loạn. Nơi bất khả thuyết kiếp, tu hạnh Bồ Tát, tâm chẳng si loạn.
      Bồ Tát nầy thành tựu vô lượng chánh niệm như vậy. Ở trong vô lượng A tăng kỳ kiếp, từ chỗ chư Phật, Bồ Tát, thiện tri thức, lắng nghe chánh pháp. Đó là: Pháp thâm sâu. Pháp rộng lớn. Pháp trang nghiêm. Pháp đủ thứ sự trang nghiêm. Pháp diễn nói đủ thứ tên câu văn thân. Pháp Bồ Tát trang nghiêm. Pháp Phật thần lực quang minh vô thượng. Pháp chánh hy vọng quyết định giải thanh tịnh. Pháp chẳng chấp trước tất cả thế gian. Pháp phân biệt tất cả thế gian. Pháp rất rộng lớn. Pháp lìa si mê chiếu rõ tất cả chúng sinh. Pháp tất cả thế gian cộng pháp bất cộng pháp. Pháp Bồ Tát trí vô thượng. Pháp nhất thiết trí tự tại.
      Bồ Tát lắng nghe pháp như vậy rồi, trải qua A tăng kỳ kiếp, chẳng quên, chẳng mất, tâm thường nghĩ nhớ, chẳng có gián đoạn.
      Tại sao? Vì khi đại Bồ Tát ở trong vô lượng kiếp tu các hạnh, thì quyết không não loạn một chúng sinh, khiến cho họ mất chánh niệm. Chẳng phá hoại chánh pháp, chẳng dứt căn lành, tâm thường tăng trưởng trí huệ rộng lớn.
      Lại nữa, đại Bồ Tát nầy, đủ thứ âm thanh cũng không thể mê hoặc tán loạn Ngài được. Đó là: Âm thanh cao lớn. Âm thanh thô trược. Âm thanh cực kỳ khiến cho người sợ hãi. Âm thanh vừa ý. Âm thanh chẳng vừa ý. Âm thanh làm loạn căn tai. Âm thanh phá hoại sáu căn.
      Bồ Tát nầy, nghe vô lượng vô số âm thanh hay dở như vậy. Giả sử đầy khắp A tăng kỳ thế giới, chưa từng có một tâm niệm tán loạn. Đó là: Chánh niệm chẳng loạn. Cảnh giới chẳng loạn. Tam muội chẳng loạn. Vào pháp thâm sâu chẳng loạn. Thực hành hạnh bồ đề chẳng loạn. Phát tâm bồ đề chẳng loạn. Nghĩ nhớ chư Phật chẳng loạn. Quán pháp chân thật chẳng loạn. Giáo hoá trí huệ chúng sinh chẳng loạn. Thanh tịnh trí huệ chúng sinh chẳng loạn. Quyết định thấu rõ nghĩa thâm sâu chẳng loạn.
      Vì chẳng làm nghiệp ác, nên chẳng có nghiệp chướng. Vì chẳng khởi phiền não, nên chẳng có phiền não chướng. Vì chẳng khinh mạn pháp, nên chẳng có pháp chướng. Vì chẳng phỉ báng chánh pháp, nên chẳng có báo chướng.
      Phật tử ! Các âm thanh như đã nói ở trên, mỗi âm thanh đầy khắp A tăng kỳ thế giới. Nơi vô lượng vô số kiếp, chưa từng gián đoạn. Đều có thể huỷ hoại tán loạn thân tâm tất cả các căn, mà không thể nào huỷ hoại tâm của Bồ Tát nầy.
      Bồ Tát vào trong tam muội, trụ nơi Thánh pháp, suy gẫm quán sát, tất cả âm thanh. Khéo biết tướng sinh trụ diệt của âm thanh. Khéo biết tánh sinh trụ diệt của âm thanh.
      Nghe như vậy rồi, chẳng sinh tâm tham, chẳng khởi tâm sân, chẳng mất chánh niệm. Khéo thủ lấy tướng mà chẳng nhiễm trước.
      Biết tất cả âm thanh đều chẳng chỗ có. Thật không thể được, chẳng có kẻ làm, cũng chẳng có bổn tế, đồng với pháp giới, chẳng có khác biệt.
      Bồ Tát thành tựu hạnh thân lời ý vắng lặng như vậy, đến nhất thiết trí, vĩnh viễn chẳng thối chuyển. Khéo vào tất cả các môn thiền định. Biết các tam muội đồng một thể tánh. Thấu rõ tất cả pháp chẳng có bờ mé. Đắc được tất cả pháp chân thật trí huệ. Đắc được tam muội lìa âm thanh thâm sâu. Đắc được A tăng kỳ các môn tam muội. Tăng trưởng tâm bi rộng lớn vô lượng.
      Bấy giờ, Bồ Tát ở trong một niệm, đắc được vô số trăm ngàn tam muội. Nghe âm thanh như vậy, tâm chẳng mê hoặc tán loạn. Khiến cho những tam muội đó, dần dần càng tăng thêm rộng lớn.
      Bèn nghĩ như vầy : Tôi sẽ khiến cho tất cả chúng sinh, an trụ trong chánh niệm thanh tịnh vô thượng. Nơi nhất thiết trí, đắc được chẳng thối chuyển. Rốt ráo thành tựu Vô Dư Niết Bàn.
      Đó là hạnh lìa si loạn thứ năm của đại Bồ Tát.
 
      Phật tử ! Những gì là hạnh thiện hiện của đại Bồ Tát ?
      Bồ Tát nầy thân nghiệp thanh tịnh, lời nghiệp thanh tịnh, ý nghiệp thanh tịnh. Trụ chẳng chỗ được, thị hiện không chỗ được thân lời ý nghiệp. Biết được ba nghiệp đều chẳng chỗ có, vì không hư vọng, nên chẳng có ràng buộc. Phàm là những gì thị hiện ra, đều không có tánh, không có nương tựa.
      Trụ tâm như thật, biết tự tánh vô lượng tâm, biết tự tánh tất cả pháp, không đắc, không tướng, thâm sâu khó vào. Trụ nơi chánh vị chân như pháp tánh, phương tiện sinh ra mà không có nghiệp báo. Chẳng sinh, chẳng diệt. Trụ cõi Niết Bàn, trụ tánh vắng lặng, trụ nơi tánh chân thật không tánh. Đường lời lẽ dứt bặc, vượt khỏi các thế gian, không có chỗ nương tựa.
      Nhập vào pháp lìa khỏi sự phân biệt chẳng ràng buộc. Nhập vào pháp tối thắng trí chân thật. Nhập vào pháp chẳng phải chỗ các thế gian biết rõ được pháp xuất thế gian. Đây là Bồ Tát phương tiện khéo léo thị hiện sinh tướng.
      Phật tử ! Bồ Tát nầy bèn nghĩ như vầy: Tất cả chúng sinh, không tánh làm tánh. Tất cả các pháp, vô vi làm tánh. Tất cả cõi nước, không tướng làm tướng. Tất cả ba đời, chỉ có lời nói. Tất cả lời nói, ở trong các pháp, không có chỗ nương. Tất cả các pháp, ở trong lời nói, cũng không chỗ nương.
      Bồ Tát hiểu tất cả pháp như vậy, thảy đều thâm sâu. Tất cả thế gian thảy đều vắng lặng. Tất cả Phật pháp không chỗ tăng giảm. Phật pháp chẳng khác pháp thế gian. Pháp thế gian chẳng khác Phật pháp. Phật pháp, thế gian pháp, chẳng có tạp loạn, cũng chẳng có khác biệt. Biết rõ pháp giới thể tánh bình đẳng, vào khắp ba đời.
      Vĩnh viễn chẳng xả lìa tâm đại bồ đề. Luôn luôn chẳng thối chuyển tâm giáo hoá chúng sinh. Dần dần càng tăng trưởng tâm đại bi. Làm chỗ nương tựa cho tất cả chúng sinh.
      Bấy giờ, Bồ Tát lại nghĩ như vầy: Tôi chẳng thành thục chúng sinh, thì ai sẽ thành thục? Tôi chẳng điều phục chúng sinh, thì ai sẽ điều phục ? Tôi chẳng giáo hoá chúng sinh, thì ai sẽ giáo hoá? Tôi chẳng giác ngộ chúng sinh, thì ai sẽ giác ngộ ? Tôi chẳng thanh tịnh chúng sinh, thì ai sẽ thanh tịnh ? Những điều nầy tôi nói, là tôi phải làm.
      Lại nghĩ như vầy : Nếu tôi tự hiểu pháp thâm sâu nầy, thì chỉ mình tôi nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đắc được giải thoát, mà các chúng sinh mù tối không mắt, vào con đường hiểm nạn, bị các phiền não ràng buộc. Như người bệnh nặng, luôn thọ khổ đau, ở trong ngục tham ái, không được thoát ra. Không thoát khỏi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cõi vua Diêm La. Không diệt được khổ, không bỏ được nghiệp ác. Luôn ở trong chỗ đen tối, chẳng thấy chân thật. Luân hồi sinh tử, không thoát ra được. Trụ ở trong tám nạn, bị ô nhiễm cấu dơ, đủ thứ phiền não, che lấp chướng ngại tâm, tà kiến, mê hoặc, chẳng đi trên con đường chân chánh.
      Bồ Tát quán các chúng sinh như vậy, bèn tự nghĩ rằng: Nếu chúng sinh nầy chưa thành thục, chưa điều phục, bỏ mà thủ chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì không nên. Trước hết tôi phải giáo hoá chúng sinh. Nơi bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, thực hành Bồ Tát hạnh. Ai chưa thành thục, thì trước hết khiến cho thành thục, ai chưa điều phục, thì trước hết khiến cho được điều phục.
      Bồ Tát nầy, trụ nơi hạnh nầy, thì chư Thiên, ma vương, Phạm Vương, Sa Môn, Bà La Môn, tất cả thế gian, Càn Thát Bà, A Tu La .v.v... Nếu như họ thấy được, cùng ở tạm với nhau, cung kính tôn trọng, thừa sự cúng dường, và tạm thời nghe danh hiệu, một khi lọt vào trong tâm người đó, thì những việc làm đó, đều chẳng luống uổng, nhất định sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đó là hạnh thiện hiện thứ sáu của đại Bồ Tát.
 
      Phật tử ! Những gì là hạnh vô trước của đại Bồ Tát ?
      Phật tử ! Bồ Tát nầy dùng tâm vô trước, ở trong niệm niệm, vào được A tăng kỳ thế giới, nghiêm tịnh A tăng kỳ thế giới. Nơi các thế giới, tâm chẳng chấp trước.
      Qua đến chỗ các Như Lai, nhiều như số A tăng kỳ, để cung kính lễ bái, thừa sự cúng dường. Dùng A tăng kỳ hoa, A tăng kỳ hương, A tăng kỳ tràng hoa, A tăng kỳ hương thoa, hương bột, y phục, châu báu, tràng phan lọng đẹp, các thứ đồ trang nghiêm, mỗi thứ số nhiều A tăng kỳ, dùng để cúng dường. Cúng dường như vậy, vì pháp rốt ráo chẳng chỗ làm. Vì trụ nơi pháp không nghĩ bàn.
      Ở trong niệm niệm, thấy vô số các đức Phật. Ở chỗ chư Phật, tâm chẳng chấp trước. Nơi các cõi Phật, cũng chẳng chấp trước. Nơi tướng tốt của Phật, cũng chẳng chấp trước. Thấy quang minh của Phật, nghe Phật nói pháp, cũng chẳng chấp trước. Nơi mười phương thế giới và hết thảy pháp hội của chư Phật Bồ Tát, cũng chẳng chấp trước. Nghe Phật pháp rồi, tâm sinh hoan hỉ, chí lực rộng lớn, hay nhiếp thọ, hay thực hành các hạnh Bồ Tát, mà nơi Phật pháp, tâm cũng chẳng chấp trước.
      Bồ Tát nầy, nơi bất khả thuyết kiếp, thấy bất khả thuyết đức Phật xuất hiện ra đời. Ở mỗi chỗ đức Phật, thừa sự cúng dường, thảy đều hết bất khả thuyết kiếp, mà tâm chẳng nhàm đủ. Thấy Phật nghe pháp, và thấy Bồ Tát chúng hội trang nghiêm, đều chẳng chấp trước. Thấy thế giới chẳng thanh tịnh, cũng chẳng chán ghét.
      Tại sao ? Vì Bồ Tát nầy y theo các Phật pháp mà quán sát. Ở trong các Phật pháp, không dơ, không sạch, không tối, không sáng, không khác, không một, không thật, không vọng, không an ổn, không hiểm nạn, không chánh đạo, không tà đạo.
      Bồ Tát vào sâu pháp giới như vậy, giáo hoá chúng sinh, mà nơi chúng sinh, chẳng sinh chấp trước. Thọ trì các pháp, mà nơi các pháp, chẳng sinh chấp trước. Phát tâm bồ đề, trụ nơi Phật trụ, mà nơi Phật trụ, chẳng sinh chấp trước. Tuy có lời nói, mà nơi lời nói, tâm chẳng chấp trước. Vào cõi chúng sinh, mà nơi cõi chúng sinh, tâm chẳng chấp trước. Biết rõ tam muội, hay vào, hay trụ, mà nơi tam muội, tâm chẳng chấp trước. Qua đến vô lượng cõi nước chư Phật, hoặc vào, hoặc thấy, hoặc trụ trong đó, mà nơi cõi Phật, tâm chẳng chấp trước. Khi bỏ đi cũng chẳng lưu luyến.
      Đại Bồ Tát vì nhờ không chấp trước như vậy, cho nên ở trong Phật pháp, tâm chẳng chướng ngại, thấu rõ Phật bồ đề, chứng được pháp tỳ ni, trụ nơi chánh giáo của Phật. Tu hạnh Bồ Tát, trụ tâm Bồ Tát. Suy gẫm pháp giải thoát của Bồ Tát, nơi trụ xứ của Bồ Tát, tâm chẳng nhiễm trước. Nơi pháp Bồ Tát thực hành, cũng chẳng chấp trước. Thanh tịnh Bồ Tát đạo, được thọ Bồ Tát ký.
      Được thọ ký rồi, bèn nghĩ như vầy: Phàm phu ngu si, không biết, không thấy, không tin, không hiểu, không thông minh lanh lẹ, ngoan cố tham trước. Nên lưu chuyển trong sinh tử, chẳng cầu được thấy Phật, chẳng theo bậc chỉ dẫn sáng suốt, chẳng tin đấng Điều Ngự, mê lầm thất lạc, đi vào đường hiểm.
      Chẳng cung kính vua Thập Lực, chẳng biết ân đức Bồ Tát, lưu luyến chỗ ở. Nghe các pháp không, tâm rất sợ hãi. Xa lìa chánh pháp, trụ nơi tà pháp. Bỏ đường bằng phẳng, vào đường hiểm nạn. Trái với ý Phật, theo ý ma. Ở trong các cõi, kiên cố chấp trước chẳng xả bỏ.
      Bồ Tát quán sát các chúng sinh như vậy, thì càng tăng trưởng tâm đại bi, sinh ra các căn lành, mà chẳng chấp trước.
      Bấy giờ, Bồ Tát lại nghĩ như vầy: Tôi sẽ vì tất cả chúng sinh, nơi mười phương thế giới, tại mỗi cõi nước, trải qua bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, giáo hoá thành thục. Như vì một chúng sinh, vì tất cả chúng sinh cũng đều như vậy. Quyết không vì đây mà sinh tâm nhàm mỏi mà bỏ đi.
      Lại dùng đầu sợi lông lường khắp pháp giới. Nơi một đầu sợi lông, trải qua hết bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, để giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh. Như nơi một đầu sợi lông, nơi mỗi đầu sợi lông, cũng đều như vậy.
      Cho đến chẳng ở nơi thời gian khảy móng tay, mà chấp trước cái ta, khởi cái ta, tưởng nghĩ về cái ta.
      Nơi mỗi đầu sợi lông, hết kiếp vị lai, tu hạnh Bồ Tát. Chẳng chấp trước thân. Chẳng chấp trước pháp. Chẳng chấp trước tâm niệm. Chẳng chấp trước nguyện. Chẳng chấp trước tam muội. Chẳng chấp trước quán sát. Chẳng chấp trước định vắng lặng. Chẳng chấp trước cảnh giới. Chẳng chấp trước giáo hoá điều phục chúng sinh. Cũng chẳng chấp trước vào nơi pháp giới.
      Tại sao ? Vì Bồ Tát nghĩ như vầy: Tôi nên quán sát pháp giới như huyễn, chư Phật như hình bóng, Bồ Tát hạnh như mộng. Phật nói pháp như tiếng vang, tất cả thế gian như biến hoá, vì nghiệp báo chi phối. Thân khác biệt như huyễn, vì hành vi nghiệp lực sinh khởi. Tất cả chúng sinh như tâm, vì đủ thứ tạp nhiễm. Tất cả pháp như thật tế, vì không thể biến đổi.
      Lại nghĩ như vầy: Tôi nên ở trong mười phương các cõi nước, tận hư không khắp pháp giới, thực hành Bồ Tát hạnh. Niệm niệm thấu rõ thông đạt tất cả Phật pháp, chánh niệm hiện tiền, chẳng có sự thủ trước.
      Bồ Tát quán thân chẳng có cái ta như vậy, thấy Phật không ngại. Vì giáo hoá chúng sinh, mà diễn nói các pháp, khiến cho họ nơi Phật pháp, phát sinh vô lượng hoan hỉ tin thanh tịnh, cứu hộ tất cả, tâm chẳng nhàm mỏi.
      Vì không nhàm mỏi, cho nên nơi tất cả thế giới, nếu nơi nào có chúng sinh chưa thành tựu, chưa điều phục, thì thảy đều đi đến nơi đó, dùng phương tiện hoá độ. Trong những chúng sinh đó, đủ thứ âm thanh, đủ thứ các nghiệp, đủ thứ thủ trước, đủ thứ thí bày, đủ thứ hoà hợp, đủ thứ lưu chuyển, đủ thứ việc làm, đủ thứ cảnh giới, đủ thứ sinh, đủ thứ chết, dùng thệ nguyện lớn, an trụ trong đó, mà giáo hoá họ.
      Chẳng khiến cho tâm của họ lay động thối chuyển, cũng chẳng khiến cho sinh một tâm niệm nhiễm trước. Tại sao ? Vì đắc được không chỗ chấp trước, không chỗ nương tựa. Tự lợi lợi tha, thanh tịnh đầy đủ. Đó là hạnh vô trước thứ bảy của đại Bồ Tát.
 
      Phật tử ! Những gì là hạnh nan đắc của đại Bồ Tát ?
      Bồ Tát nầy thành tựu: Căn lành khó được. Căn lành khó điều phục. Căn lành tối thắng. Căn lành không thể hoại. Căn lành không ai hơn. Căn lành không nghĩ bàn. Căn lành vô tận. Căn lành sức tự tại. Căn lành oai đức lớn. Căn lành đồng một tánh với tất cả chư Phật.
      Bồ Tát nầy, khi tu các hạnh, thì ở trong Phật pháp, đắc được kiến giải tối thắng. Nơi Phật bồ đề, đắc được thấu hiểu rộng lớn. Nơi Bồ Tát nguyện, chưa từng ngừng nghỉ. Suốt tất cả kiếp, tâm chẳng mỏi mệt. Nơi tất cả khổ, chẳng sinh nhàm lìa. Tất cả các ma, không thể lay động. Được tất cả chư Phật hộ niệm, đầy đủ hạnh của tất cả Bồ Tát tu khổ hạnh. Tu hạnh Bồ Tát, thì tinh cần chẳng giải đãi. Nơi nguyện đại thừa, luôn chẳng thối chuyển.
      Bồ Tát nầy, an trụ ở hạnh nan đắc nầy rồi, thì ở trong niệm niệm, chuyển được A tăng kỳ sinh tử, mà chẳng xả bỏ đại nguyện Bồ Tát. Nếu có chúng sinh, thừa sự cúng dường, cho đến thấy nghe, thì đều được chẳng thối chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
      Bồ Tát nầy, tuy thấu rõ chúng sinh chẳng thật có, mà chẳng xả bỏ tất cả cõi chúng sinh. Ví như thuyền sư, chẳng trụ ở bờ nầy, chẳng trụ ở bờ bên kia, chẳng trụ ở giữa dòng, mà hay độ chúng sinh từ bờ nầy, đến bờ bên kia, vì qua lại không dừng nghỉ.
      Đại Bồ Tát cũng lại như vậy. Chẳng trụ sinh tử, chẳng trụ Niết Bàn, cũng chẳng trụ giữa dòng sinh tử, mà hay độ chúng sinh từ bờ nầy, thẳng đến bờ bên kia. Nơi an ổn không sợ hãi, không sầu lo phiền não, cũng chẳng chấp trước nơi số lượng chúng sinh. Chẳng xả bỏ một chúng sinh, mà chấp trước nhiều chúng sinh, chẳng xả bỏ nhiều chúng sinh, mà chấp trước một chúng sinh. Chẳng tăng cõi chúng sinh, chẳng giảm cõi chúng sinh. Chẳng sinh cõi chúng sinh, chẳng diệt cõi chúng sinh. Chẳng tận cõi chúng sinh, chẳng tăng trưởng cõi chúng sinh. Chẳng phân biệt cõi chúng sinh, chẳng hai cõi chúng sinh.
      Tại sao ? Vì Bồ Tát vào sâu cõi chúng sinh như pháp giới. Cõi chúng sinh, pháp giới, chẳng hai. Trong pháp không hai, chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng có, chẳng không, chẳng lấy, chẳng nương, chẳng chấp, chẳng hai. Tại sao ? Vì Bồ Tát thấu rõ tất cả pháp, pháp giới, chẳng hai.
      Bồ Tát dùng phương tiện khéo léo như vậy, để vào pháp giới thâm sâu. Trụ nơi vô tướng, dùng tướng thanh tịnh để trang nghiêm thân mình. Biết rõ pháp chẳng có tánh, mà phân biệt được tướng của tất cả các pháp. Chẳng thủ lấy chúng sinh, mà biết rõ được số chúng sinh. Chẳng chấp trước thế giới, mà hiện thân cõi Phật. Chẳng phân biệt pháp, mà khéo vào Phật pháp. Thông đạt nghĩa lý thâm sâu, mà rộng diễn nói ngôn giáo. Thấu rõ tất cả pháp lìa dục chân tế, mà chẳng dứt Bồ Tát đạo, chẳng thối hạnh bồ đề, thường siêng tu tập hạnh vô tận. Tự tại vào nơi pháp giới thanh tịnh.
      Ví như dùi cây lấy lửa, lửa cháy vô lượng mà lửa chẳng tắt. Bồ Tát giáo hoá chúng sinh cũng như vậy, chẳng có cùng tận, mà tại thế gian, thường trụ chẳng diệt. Chẳng rốt ráo, chẳng phải không rốt ráo. Chẳng lấy, chẳng phải không lấy. Chẳng nương, chẳng phải không nương. Chẳng phải thế pháp, chẳng phải Phật pháp. Chẳng phải phàm phu, chẳng phải đắc quả.
      Bồ Tát thành tựu tâm khó được như vậy, khi tu hạnh Bồ Tát, thì chẳng nói pháp nhị thừa, chẳng nói Phật pháp, chẳng nói thế gian, chẳng nói pháp thế gian, chẳng nói chúng sinh, chẳng nói không chúng sinh, chẳng nói dơ, chẳng nói sạch.
      Tại sao ? Vì Bồ Tát biết tất cả pháp chẳng ô nhiễm, chẳng thủ lấy, chẳng lưu chuyển, chẳng thối lùi. Khi Bồ Tát tu hành trong pháp tịch diệt vi diệu tối thắng thâm sâu, cũng chẳng sinh ý niệm như vầy : Hiện tôi đang tu hạnh nầy, đã tu hạnh nầy, sẽ tu hạnh nầy. Chẳng chấp trước uẩn, giới, xứ, nội thế gian, ngoại thế gian, nội ngoại thế gian. Khởi các nguyện lớn, các Ba La Mật, và tất cả pháp, đều chẳng chấp trước.
      Tại sao ? Vì trong pháp giới, chẳng có pháp tên hướng về Thanh Văn thừa, hướng về Độc Giác thừa. Chẳng có pháp tên hướng về Bồ Tát thừa, hướng về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Chẳng có pháp tên hướng về cõi phàm phu, chẳng có pháp tên hướng về ô nhiễm, hướng về thanh tịnh, hướng về sinh tử, hướng về Niết Bàn.
      Tại sao ? Vì các pháp không hai, chẳng không hai. Ví như hư không, ở trong mười phương, hoặc quá khứ, vị lai, hiện tại, cầu không thể được, tuy nhiên đâu chẳng phải là hư không.
      Bồ Tát quán tất cả pháp như vậy, đều không thể được. Nhưng chẳng phải không có tất cả pháp. Như thật không khác. Sự tác dụng chẳng mất. Khắp chỉ bày cho chúng sinh tu hành các hạnh của Bồ Tát. Chẳng xả bỏ nguyện lớn. Điều phục chúng sinh. Chuyển bánh xe pháp. Chẳng hoại nhân quả. Cũng chẳng trái với diệu pháp bình đẳng.
      Bồ Tát khắp đồng với các Như Lai ba đời, chẳng dứt giống Phật, chẳng hoại thật tướng, vào sâu nơi pháp, biện tài vô tận. Nghe pháp chẳng chấp trước, đến được tột đáy của pháp. Khéo hay diễn nói, tâm chẳng sợ hãi. Chẳng xả Phật trụ, chẳng trái với pháp thế gian, khắp hiện nơi thế gian, mà chẳng chấp trước thế gian.
      Bồ Tát thành tựu tâm trí huệ khó được như vậy, tu tập các hạnh. Cứu chúng sinh thoát khỏi nơi ba đường ác. Giáo hoá điều phục, an trí trong đạo của chư Phật ba đời, khiến cho họ chẳng lay động.
      Lại nghĩ như vầy: Chúng sinh thế gian, chẳng biết báo ân, lại thù oán nhau, tà kiến chấp trước, mê hoặc điên đảo, ngu si chẳng có trí huệ. Chẳng có tâm tin, theo đuổi bạn ác, khởi các huệ ác, tham ái vô minh, đủ thứ phiền não, thảy đều đầy dẫy. Đó là nơi tôi tu Bồ Tát hạnh.
      Nếu như chúng sinh biết báo ân, thông minh có trí huệ hiểu biết, và thiện tri thức, đầy dẫy thế gian, thì tôi chẳng ở trong đó, tu Bồ Tát hạnh.
      Tại sao ? Vì tôi đối với chúng sinh chẳng có mong cầu, hy vọng gì cả. Cho đến chẳng cầu một sợi tơ, một sợi lông, và một tiếng khen tốt. Suốt kiếp thuở vị lai, tu hạnh Bồ Tát, chưa từng sinh một ý niệm vì mình, chỉ muốn độ thoát tất cả chúng sinh, khiến cho họ thanh tịnh, vĩnh viễn được thoát khỏi.
      Tại sao ? Vì ở trong chúng sinh làm bậc đạo sư sáng suốt, pháp phải như vậy, chẳng lấy chẳng cầu. Chỉ vì chúng sinh tu Bồ Tát đạo, khiến cho họ đến được bờ bên kia an ổn, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đó là hạnh nan đắc thứ tám của đại Bồ Tát.
 
      Phật tử ! Những gì là hạnh thiện pháp của đại Bồ Tát ?
      Bồ Tát nầy vì tất cả thế gian, trời, người, ma, Phạm, Sa Môn, Bà La Môn, Càn Thát Bà .v.v… làm ao pháp mát mẻ. Nhiếp trì chánh pháp, chẳng dứt giống Phật.
      Vì được quang minh thanh tịnh Đà la ni, nói pháp thọ ký, nên biện tài vô tận. Vì được đầy đủ nghĩa Đà la ni, nên nghĩa biện vô tận. Vì được giác ngộ thật pháp Đà la ni, nên pháp biện vô tận. Vì được huấn thích ngôn từ Đà la ni, nên từ biện vô tận. Vì được vô biên văn câu vô tận nghĩa vô ngại môn Đà la ni, nên vô ngại biện vô tận. Vì được Phật quán đảnh Đà la ni, nên hoan hỉ biện vô tận. Vì được chẳng do tha ngộ Đà la ni, nên quang minh biện vô tận. Vì được đồng biện Đà la ni môn, nên đồng biện vô tận. Vì được đủ thứ nghĩa thân, câu thân, văn thân, trong huấn thích Đà la ni môn, nên huấn thích biện vô tận. Vì được vô biên toàn Đà là ni môn, nên vô biên biện vô tận.
      Bồ Tát nầy tâm đại bi kiên cố, khắp nhiếp thọ chúng sinh. Nơi ba ngàn đại Thiên thế giới, biến hoá thân sắc vàng để làm Phật sự. Tuỳ theo căn tánh ưa thích của chúng sinh, mà dùng lưỡi rộng dài, ở trong một tiếng, hiện ra vô lượng tiếng, thuyết pháp đúng thời, đều khiến cho họ hoan hỉ.
      Giả sử có bất khả thuyết đủ thứ nghiệp báo vô lượng chúng sinh, cùng hội lại một chỗ. Hội rộng lớn đó, đầy khắp bất khả thuyết thế giới, Bồ Tát ngồi ở trong chúng hội đó. Trong chúng sinh đó, mỗi người đều có bất khả thuyết A tăng kỳ cái miệng, mỗi cái miệng nói ra trăm ngàn ức Na do tha tiếng. Đồng thời cùng phát ra tiếng, đều nói lời lẽ khác nhau, hỏi những điều khác nhau. Bồ Tát ở trong một niệm, thảy đều lãnh thọ được, đều trả lời cho họ, khiến cho họ dứt trừ nghi hoặc. Như trong một chúng hội, trong bất khả thuyết chúng hội, cũng đều như vậy.
      Lại nữa, giả sử nơi một đầu sợi lông, sinh ra bất khả thuyết bất khả thuyết đạo tràng chúng hội. Tất cả nơi đầu sợi lông cũng đều như vậy. Hết thuở kiếp vị lai, kiếp đó có thể hết, chúng hội không cùng tận. Các chúng hội đó, ở trong niệm niệm, đều dùng lời lẽ khác nhau, hỏi vấn đề khác nhau. Bồ Tát ở trong một niệm, đều lãnh thọ được, không khiếp sợ, không hoài nghi, không sai lầm.
      Bèn nghĩ như vầy: Nếu như tất cả chúng sinh, dùng lời nghiệp như vậy đều đến hỏi tôi, thì tôi vì họ nói pháp không gián đoạn, không cùng tận. Đều khiến cho họ hoan hỉ, trụ nơi thiện đạo. Lại khiến cho họ khéo hiểu tất cả lời lẽ, có thể vì chúng sinh nói đủ thứ pháp, mà nơi lời lẽ chẳng có phân biệt. Giả sử có bất khả thuyết bất khả thuyết, đủ thứ lời lẽ đến vấn nạn, thì trong một niệm, đều lãnh thọ được, dùng một tiếng đều trả lời được. Khắp khiến cho họ khai ngộ, chẳng có dư thừa.
      Vì đắc được bậc nhất thiết trí quán đảnh. Vì đắc được tạng vô ngại. Vì đắc được tất cả pháp viên mãn quang minh. Vì đầy đủ trí huệ nhất thiết trí.
       Phật tử ! Đại Bồ Tát nầy an trụ hạnh thiện pháp rồi, tự được thanh tịnh, cũng hay dùng phương tiện không chấp trước, để khắp lợi ích tất cả chúng sinh. Chẳng thấy có chúng sinh được thoát khỏi ba cõi. Như trong ba ngàn đại thiên thế giới nầy, như vậy cho đến bất khả thuyết ba ngàn đại thiên thế giới, biến hoá ra thân sắc vàng, đầy đủ tiếng vi diệu. Nơi tất cả pháp chẳng có chướng ngại, mà làm Phật sự.
      Phật tử ! Đại Bồ Tát nầy, thành tựu mười thứ thân. Đó là: Thân vào vô biên pháp giới, chẳng vào trong các cõi, vì diệt tất cả thế gian. Thân vào vô biên pháp giới, vào trong các cõi, vì sinh tất cả thế gian. Thân chẳng sinh, vì trụ pháp bình đẳng không sinh. Thân chẳng diệt, vì tất cả đều diệt lời nói bất khả đắc. Thân chẳng thật, vì được như thật. Thân chẳng vọng, vì tuỳ cơ ứng hiện. Thân chẳng dời, vì lìa chết đây sinh kia. Thân chẳng hoại, vì tánh pháp giới chẳng hoại. Thân một tướng, vì đường lời lẽ ba đời đều bặc. Thân vô tướng, vì hay khéo quán sát pháp tướng.
      Bồ Tát thành tựu mười thứ thân như vậy, là nhà của tất cả chúng sinh, vì nuôi lớn tất cả căn lành. Là cứu tất cả chúng sinh, vì khiến cho họ được an ổn. Là chỗ trở về của tất cả chúng sinh, vì làm chỗ nương tựa cho họ. Là đạo sư của tất cả chúng sinh, vì khiến cho họ được vô thượng thoát khỏi ba cõi. Là thầy của tất cả chúng sinh, vì khiến cho họ vào trong pháp chân thật. Là đèn sáng của tất cả chúng sinh, vì khiến cho họ thấy rõ nghiệp báo. Là quang minh của tất cả chúng sinh, vì khiến cho chiếu rõ diệu pháp thâm sâu. Là đuốc soi của tất cả ba đời, vì khiến cho họ tỏ ngộ thật pháp. Là chiếu sáng tất cả thế gian, khiến cho họ vào trong quanh minh địa. Là ánh sáng của tất cả các cõi, vì thị hiện tự tại của Như Lai.
      Phật tử ! Đó gọi là hạnh pháp thiện thứ chín của đại Bồ Tát. Bồ Tát an trụ ở hạnh nầy, vì tất cả chúng sinh làm ao pháp mát mẻ, tận cùng được nguồn gốc của tất cả Phật pháp.
 
      Phật tử ! Những gì là hạnh chân thật của đại Bồ Tát ? Bồ Tát nầy thành tựu lời chân thật bậc nhất, như nói ra là làm được, làm được thì nói được.
      Bồ Tát nầy học theo lời chân thật của chư Phật ba đời. Vào chủng tánh của chư Phật ba đời. Đồng với căn lành của chư Phật ba đời. Đắc được không hai lời của chư Phật ba đời. Theo Như Lai học thành tựu trí huệ.
Bồ Tát nầy thành tựu trí huệ biết chúng sinh thị xứ phi xứ. Trí huệ quá khứ vị lai hiện tại nghiệp báo. Trí huệ các căn lợi độn. Trí huệ đủ thứ giới. Trí huệ đủ thứ kiến giải. Trí huệ tất cả chí xứ đạo. Trí huệ các thiền giải thoát tam muội cấu tịnh khởi thời phi thời. Trí huệ tất cả thế giới túc trụ tuỳ niệm. Trí huệ thiên nhãn. Trí huệ lậu tận. Mà chẳng xả bỏ tất cả hạnh Bồ Tát. Tại sao ? Vì muốn giáo hoá tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều thanh tịnh.
      Bồ Tát nầy lại sinh tâm tăng thượng như vầy: Nếu tôi chẳng khiến cho tất cả chúng sinh, trụ nơi đạo vô thượng giải thoát, mà tôi trước thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì trái với nguyện xưa của tôi, không thể được. Vì vậy cho nên, trước hết tôi phải khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được vô thượng bồ đề, Vô Dư Niết Bàn, sau đó tôi mới thành Phật.
      Tại sao ? Vì chẳng phải chúng sinh thỉnh mời tôi phát tâm, mà tôi tự vì chúng sinh làm bạn chẳng mời thỉnh. Trước hết muốn khiến cho tất cả chúng sinh đầy đủ căn lành, thành nhất thiết trí. Vì vậy cho nên tôi là tối thắng, vì chẳng chấp trước tất cả thế gian. Tôi là tối thượng, vì trụ bậc vô thượng điều ngự. Tôi lìa sự che lấp, vì hiểu chúng sinh không bờ mé. Tôi đã làm xong, vì nguyện xưa thành tựu. Tôi khéo biến hoá, vì Bồ Tát công đức trang nghiêm. Tôi khéo nương chỗ khéo nương tựa, vì được chư Phật ba đời nhiếp thọ.
      Đại Bồ Tát nầy, vì chẳng bỏ nguyện xưa, nên vào đượctrí huệ trang nghiêm vô thượng, lợi ích chúng sinh, đều khiến cho họ được đầy đủ. Theo thệ nguyện xưa, thảy đều được rốt ráo. Ở trong tất cả pháp, trí huệ tự tại, khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được thanh tịnh.
      Niệm niệm du khắp mười phương thế giới. Niệm niệm đến khắp bất khả thuyết bất khả thuyết cõi nước chư Phật. Niệm niệm đều thấy bất khả thuyết bất khả thuyết chư Phật, và cõi nước chư Phật trang nghiêm thanh tịnh. Thị hiện thần lực tự tại của Như Lai, khắp pháp giới, hư không giới.
      Bồ Tát nầy, hiện ra vô lượng thân, vào khắp thế gian mà chẳng chỗ nương. Ở trong thân đó, hiện ra tất cả cõi nước, tất cả chúng sinh, tất cả các pháp, tất cả chư Phật.
      Bồ Tát nầy, biết đủ thứ suy nghĩ, đủ thứ dục vọng, đủ thứ kiến giải, đủ thứ nghiệp báo, đủ thứ căn lành, của chúng sinh. Tuỳ theo căn cơ của chúng sinh mà hiện thân, để điều phục họ.
      Quán sát tất cả Bồ Tát như huyễn. Tất cả các pháp như hoá. Phật xuất hiện ra đời như hình bóng. Tất cả thế gian như mộng. Đắc được nghĩa thân văn thân vô tận tạng, chánh niệm tự tại, quyết định biết rõ tất cả các pháp. Trí huệ tối thắng, vào tất cả tam muội chân thật tướng, trụ bậc một tánh không hai.
      Vì các chúng sinh đều chấp trước nơi hai, nên đại Bồ Tát an trụ nơi đại bi, tu hành pháp tịch diệt như vậy.
      Đắc được thập lực của Phật, vào lưới pháp giới Nhân đà la. Thành tựu giải thoát vô ngại của Như Lai, hùng mãnh trong loài người, đại sư tử hống. Đắc được không sợ hãi. Chuyển được bánh xe pháp thanh tịnh vô ngại. Đắc được trí huệ giải thoát. Biết rõ tất cả cảnh giới thế gian, đoạn tuyệt dòng sinh tử luân hồi, vào biển lớn trí huệ. Vì tất cả chúng sinh, mà hộ trì chánh pháp của chư Phật ba đời, đến được tột đáy nguồn biển thật tướng của tất cả Phật pháp.
      Bồ Tát trụ hạnh chân thật nầy rồi, tất cả thế gian, trời, người, ma, Phạm, Sa Môn, Bà La Môn, Càn Thát Bà, A Tu La .v.v… ai gần gũi Bồ Tát nầy, thì đều khiến cho họ khai ngộ, hoan hỉ thanh tịnh. Đó gọi là hạnh chân thật thứ mười của đại Bồ Tát.
 
      Bấy giờ, do thần lực của đức Phật, mỗi phương trong mười phương, có các thế giới nhiều như số hạt bụi cõi Phật, sáu thứ chấn động. Đó là: Động, biến động, đẳng biến động. Khởi, biến khởi, đẳng biến khởi. Dũng, biến dũng, đẳng biến dũng. Chấn, biến chấn, đẳng biến chấn. Hống, biến hống, đẳng biến hống. Kích, biến kích, đẳng biến kích.
      Bấy giờ, trời mưa xuống hoa trời đẹp, hương trời, hương bột trời, tràng hoa trời, y trời, châu báu trời, đồ trang nghiêm trời, tấu âm nhạc trời, phóng ánh sáng trời, diễn xướng âm thanh chư Thiên vi diệu. Như tại thế giới nầy, cung trời Dạ Ma nói pháp Thập Hạnh, thị hiện thần biến. Mười phương thế giới, cũng đều như thế.
      Lại nhờ thần lực của đức Phật, mỗi phương trong mười phương, qua ngoài các thế giới, nhiều như số hạt bụi mười vạn cõi Phật. Có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười vạn cõi Phật, đều tụ lại đi đến cõi nầy, đầy khắp trong mười phương. Nói với Bồ Tát Công Đức Lâm rằng : Phật tử ! Lành thay ! Lành thay ! Hay khéo diễn nói pháp của các Bồ Tát. Chúng tôi tất cả đều đồng danh hiệu Công Đức Lâm, ở các thế giới, đều tên là Công Đức Tràng. Các Như Lai ở cõi đó, đều đồng danh hiệu là Phổ Công Đức. Chúng tôi ở chỗ chư Phật cũng nói pháp nầy. Chúng hội quyến thuộc, lời lẽ nghĩa lý, cũng đều như vậy, chẳng có tăng giảm.
      Phật tử ! Chúng tôi đều nương thần lực của Phật, đến vào hội nầy, vì Ngài làm chứng. Mười phương thế giới, cũng đều như thế.
      Bấy giờ, Bồ Tát Công Đức Lâm nương thần lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương, tất cả chúng hội, tận cùng pháp giới. Vì muốn khiến cho giống tánh Phật không dứt. Vì muốn khiến cho giống tánh Bồ Tát thanh tịnh. Vì muốn khiến cho giống tánh nguyện không thối chuyển. Vì muốn khiến cho giống tánh hạnh thường liên tục. Vì muốn khiến cho giống tánh ba đời đều bình đẳng. Vì muốn nhiếp thọ tất cả giống tánh Phật ba đời. Vì muốn khai diễn sở trồng các căn lành. Vì muốn quán sát tất cả các căn. Vì muốn hiểu phiền não tập khí tâm hành sở tác. Vì muốn chiếu rõ tất cả Phật bồ đề, mà nói kệ rằng:
Một lòng kính lễ đấng Thập Lực
Lìa cấu thanh tịnh thấy vô ngại
Cảnh giới sâu xa không gì bằng
Bậc trụ trung đạo như hư không.
Quá khứ đấng Tối Thắng trong người
Công đức vô lượng chẳng chấp trước
Dũng mãnh bậc nhất không ai bằng
Bậc lìa trần kia hành đạo nầy.
Hiện tại mười phương các cõi nước
Khéo hay khai diễn nghĩa đệ nhất
Lìa các lỗi ác tối thanh tịnh
Bậc không nương tựa hành đạo nầy.
Vị lai hết thảy Nhân Sư Tử
Du hành khắp hết nơi pháp giới
Đã phát tâm đại bi chư Phật
Bậc lợi ích kia hành đạo nầy.
Ba đời hết thảy đấng Vô Tỉ
Tự nhiên trừ diệt ngu si tối
Nơi tất cả pháp đều bình đẳng
Bậc đại lực kia hành đạo nầy.
Khắp thấy vô lượng vô biên cõi
Tất cả các cõi và các thú
Thấy rồi nơi tâm chẳng phân biệt
Bậc không động kia hành đạo nầy.
Pháp giới hết thảy đều thấu rõ
Nơi nghĩa đệ nhất tối thanh tịnh
Vĩnh phá sân mạn và ngu si
Bậc công đức kia hành đạo nầy.
Nơi các chúng sinh khéo phân biệt
Đều vào pháp giới tánh chân thật
Tự nhiên giác ngộ chẳng do người
Bậc đồng hư không hành đạo nầy.
Tận không hết thảy các cõi nước
Đều đến nói pháp rộng khai dụ
Pháp nói thạnh tịnh không thể hoại
Bậc thắng mâu ni hành đạo nầy.
Đầy đủ vững chắc không thối chuyển
Thành tựu pháp tôn trọng tối thắng
Nguyện lực vô tận đến bờ kia
Bậc khéo tu kia hành đạo nầy.
Vô lượng vô biên tất cả cõi
Cảnh giới rộng lớn diệu thâm sâu
Đều thấy biết được không thừa sót
Bậc luận sư tử hành đạo nầy.
Tất cả câu nghĩa đều thấu rõ
Hết thảy dị luận đều thôi phục
Nơi pháp quyết định không chỗ nghi
Bậc đại mâu ni hành đạo nầy.
Xa lìa thế gian các lỗi hoạ
Khắp ban chúng sinh vui an ổn
Hay làm đại đạo sư vô đẳng
Bậc thắng đức kia hành đạo nầy.
Luôn dùng vô uý thí chúng sinh
Khắp khiến tất cả đều vui mừng
Tâm Ngài thanh tịnh lìa nhiễm trược
Bậc vô đẳng kia hành đạo nầy.
Ý nghiệp thanh tịnh rất điều thiện
Lìa các hí luận miệng không lỗi
Oai quang viên mãn chúng khâm kính
Bậc tối thắng kia hành đạo nầy.
Vào nghĩa chân thật đến bờ kia
Trụ nơi công đức tâm vắng lặng
Chư Phật hộ niệm luôn chẳng quên
Bậc tiêu diệt cõi hành đạo nầy.
Xa lìa cái ta không não hại
Luôn dùng tiếng lớn tuyên chánh pháp
Mười phương cõi nước thảy đều nghe
Bậc tuyệt ví dụ hành đạo nầy.
Thí Ba La Mật đã thành tựu
Trăm phước tướng tốt đều trang nghiêm
Chúng sinh thấy được đều vui mừng
Bậc tối thắng huệ hành đạo nầy.
Trí địa thâm sâu khó vào được
Hay dùng diệu huệ khéo an trụ
Tâm Ngài rốt ráo chẳng lay động
Bậc hạnh kiên cố hành đạo nầy.
Pháp giới hết thảy đều vào được
Tuỳ nơi chỗ vào đều rốt ráo
Thần thông tự tại bao quát hết
Bậc pháp quang minh hành đạo nầy.
Các đấng đại mâu ni vô đẳng
Siêng tu tam muội chẳng hai tướng
Tâm thường trong định ưa vắng lặng
Bậc thấy khắp kia hành đạo nầy.
Các cõi nước vi tế rộng lớn
Nhiếp vào lẫn nhau đều khác biệt
Như cảnh giới đó đều biết rõ
Bậc trí sơn vương hành đạo nầy.
Ý thường sáng sạch lìa cấu dơ
Ở trong ba cõi chẳng chấp trước
Hộ trì các giới đến bờ kia
Bậc tịnh tâm kia hành đạo nầy.
Trí huệ vô biên không thể nói
Khắp cùng pháp giới hư không giới
Khéo hay tu học trụ trong đó
Bậc kim cang huệ hành đạo nầy.
Ba đời tất cả cảnh giới Phật
Trí huệ khéo vào đều cùng khắp
Chưa từng tạm khởi tâm nhàm mỏi
Bậc tối thắng kia hành đạo nầy.
Khéo phân biệt được pháp thập lực
Biết rõ tất cả chí xứ đạo
Thân nghiệp vô ngại được tự tại
Bậc công đức thân hành đạo nầy.
Mười phương vô lượng vô biên cõi
Hết thảy tất cả các chúng sinh
Tôi đều cứu hộ mà không bỏ
Bậc vô uý kia hành đạo nầy.
Nơi pháp chư Phật siêng tu tập
Tâm thường tinh tấn chẳng giải đãi
Tịnh trị tất cả các thế gian
Bậc đại long vương hành đạo nầy.
Biết rõ căn chúng sinh khác nhau
Vô lượng dục giải đều khác biệt
Đủ thứ các cõi đều thông đạt
Đây bậc vào khắp hành đạo nầy.
Mười phương thế giới vô lượng cõi
Đều đến thọ sinh vô số lượng
Chưa từng một niệm sinh nhàm mỏi
Bậc hoan hỉ kia hành đạo nầy.
Khắp phóng vô lượng lưới quang minh
Chiếu sáng tất cả các thế gian
Chỗ quang chiếu đến vào pháp tánh
Đây bậc thiện huệ hành đạo nầy.
Chấn động mười phương các cõi nước
Vô lượng ức số Na do tha
Chẳng khiến chúng sinh có kinh sợ
Đây bậc lợi đời hành đạo nầy.
Khéo hiểu tất cả pháp lời lẽ
Vấn nạn đối đáp đều rốt ráo
Thông triệt biện huệ thảy đều biết
Đây bậc vô uý hành đạo nầy.
Khéo hiểu các cõi nước ngửa úp
Phân biệt suy gẫm được rốt ráo
Đều khiến trụ nơi vô tận địa
Đây bậc thắng huệ hành đạo nầy.
Công đức vô lượng Na do tha
Vì cầu Phật đạo đều tu tập
Tất cả công đức đến bờ kia
Bậc vô tận hạnh hành đạo nầy.
Vượt qua đại luận sư thế gian
Biện tài đệ nhất sư tử hống
Khắp khiến quần sinh đến bờ kia
Đây bậc tịnh tâm hành đạo nầy.
Chư Phật quán đảnh pháp bậc nhất
Đã được pháp nầy quán đảnh rồi
Tâm luôn an trụ chánh pháp môn
Bậc tâm rộng lớn hành đạo nầy.
Tất cả chúng sinh vô lượng biệt
Thấu đạt tâm họ biết khắp hết
Quyết định hộ trì tạng Phật pháp
Bậc như Tu Di hành đạo nầy.
Hay ở trong mỗi mỗi lời nói
Khắp vì thị hiện vô lượng tiếng
Khiến chúng sinh đó theo loài hiểu
Bậc thấy vô ngại hành đạo nầy.
Tất cả văn tự pháp lời nói
Trí đều khéo vào chẳng phân biệt
Trụ ở trong cảnh giới chân thật
Đây bậc thấy tánh hành đạo nầy.
An trụ biển pháp lớn thâm sâu
Khéo hay ấn định tất cả pháp
Rõ pháp vô tướng môn chân thật
Đây bậc thấy thật hành đạo nầy.
Mỗi mỗi cõi Phật đều qua đến
Hết cả vô lượng vô biên kiếp
Quán sát suy gẫm chẳng tạm ngừng
Bậc không giải đãi hành đạo nầy.
Vô lượng vô số các Như Lai
Đủ thứ danh hiệu đều khác nhau
Nơi một đầu lông đều thấy rõ
Đây bậc tịnh phước hành đạo nầy.
Nơi một đầu lông thấy chư Phật
Số đó vô lượng không thể nói
Tất cả pháp giới cũng như vậy
Các Phật tử kia hành đạo nầy.
Vô lượng vô biên vô số kiếp
Ở trong một niệm đều thấy rõ
Biết kiếp dài ngắn tướng chẳng định
Bậc hạnh giải thoát hành đạo nầy.
Hay khiến kẻ thấy không luống qua
Đều trồng nhân duyên nơi Phật pháp
Mà nơi chỗ làm tâm chẳng chấp
Bậc hạnh tối thắng hành đạo nầy.
Na do tha kiếp thường gặp Phật
Quyết không sinh một niệm mỏi nhàm
Tâm hoan hỉ đó càng tăng thêm
Bậc thấy chẳng không hành đạo nầy.
Hết thuở vô lượng vô biên kiếp
Quán sát tất cả cõi chúng sinh
Chưa từng thấy có một chúng sinh
Bậc hạnh kiên cố hành đạo nầy.
Tu tập vô biên phước trí tạng
Khắp làm ao công đức mát mẻ
Lợi ích tất cả các quần sinh
Bậc đệ nhất nhân hành đạo nầy.
Pháp giới hết thảy các phẩm loại
Khắp cùng hư không vô số lượng
Biết đó đều nương lời nói trụ
Bậc sư tử hống hành đạo nầy.
Hay ở trong mỗi mỗi tam muội
Vào khắp vô số các tam muội
Đều đến nơi pháp môn áo diệu
Đây bậc luận nguyệt hành đạo nầy.
Sức nhẫn siêng tu đến bờ kia
Nhẫn được pháp tịch diệt tối thắng
Tâm đó bình đẳng chẳng lay động
Bậc vô biên trí hành đạo nầy.
Nơi một thế giới một chỗ ngồi
Thân đó chẳng động luôn vắng lặng
Mà khắp tất cả đều hiện thân
Bậc vô biên thân hành đạo nầy.
Vô lượng vô biên các cõi nước
Đều khiến cùng vào trong hạt bụi
Bao dung được hết không chướng ngại
Bậc vô biên tư hành đạo nầy.
Thông đạt thị xứ và phi xứ
Nơi các xứ lực khắp vào được
Thành tựu lực Như Lai tối thượng
Bậc lực đệ nhất hành đạo nầy.
Đời quá khứ vị lai hiện tại
Vô lượng vô biên các nghiệp báo
Luôn dùng trí huệ đều biết rõ
Đây bậc đạt hiểu hành đạo nầy.
Thấu đạt thế gian thời phi thời
Như các chúng sinh đáng điều phục
Đều thuận căn cơ không lỡ mất
Bậc khéo hiểu biết hành đạo nầy.
Khéo giữ thân lời và ý nghiệp
Luôn khiến nương pháp mà tu hành
Lìa các chấp trước hàng các ma
Đây bậc trí tâm hành đạo nầy.
Ở trong các pháp được khéo léo
Vào được nơi chân như bình đẳng
Biện tài diễn nói chẳng cùng tận
Bậc tu hạnh Phật hành đạo nầy.
Môn Đà la ni đã viên mãn
Khéo hay an trụ vô ngại tạng
Nơi các pháp giới đều thông đạt
Đây bậc vào sâu hành môn nầy.
Ba đời hết thảy tất cả Phật
Tâm đều bình đẳng đồng trí huệ
Một tánh một tướng chẳng đặc thù
Bậc trí vô ngại hành đạo nầy.
Đã vạch tất cả màn ngu si
Vào sâu biển trí huệ rộng lớn
Khắp thí chúng sinh mắt thanh tịnh
Đây bậc mắt huệ hành đạo nầy.
Đã đủ tất cả các đạo sư
Bình đẳng thần thông chẳng hai hạnh
Đắc được sức tự tại Như Lai
Đây bậc khéo tu hành đạo nầy.
              Du khắp tất cả các thế gian
Khắp mưa vô biên mưa diệu pháp
Đều khiến nơi nghĩa được quyết rõ
Đây bậc pháp vân hành đạo nầy.
Nơi trí huệ Phật và giải thoát
Sinh tịnh tin sâu vĩnh không lùi
Nhờ tin mà sinh căn trí huệ
Đây bậc khéo học hành đạo nầy.
Hay trong một niệm đều biết rõ
Tất cả chúng sinh không sót thừa
Rõ tâm chúng sinh đó tự tại
Bậc đạt vô tánh hành đạo nầy.
Pháp giới tất cả các cõi nước
Đều hay hoá đến vô lượng số
Thân đó đẹp nhất không gì sánh
Bậc hạnh không sánh hành đạo nầy.
Cõi Phật vô biên không số lượng
Vô lượng chư Phật ở trong đó
Bồ Tát đều hiện trước nơi đó
Gần gũi cúng dường sinh tôn trọng.
Bồ Tát hay dùng chỉ một thân
Vào nơi tam muội mà tịch định
Khiến thấy thân đó vô lượng số
Mỗi mỗi đều từ tam muội dậy.
Chỗ trụ Bồ Tát sâu diệu nhất
Chỗ hành chỗ làm vượt hí luận
Tâm Ngài thanh tịnh thường an vui
Hay khiến chúng sinh đều hoan hỉ.
Các căn phương tiện đều khác nhau
Hay dùng trí huệ đều thấy rõ
Mà biết các căn chẳng chỗ nương
Bậc điều khó điều hành đạo nầy.
Hay dùng phương tiện khéo phân biệt
Nơi tất cả pháp được tự tại
Mười phương thế giới đều khác nhau
Đều ở trong đó làm Phật sự.
Các căn vi diệu hạnh cũng thế
Hay vì chúng sinh rộng nói pháp
Ai hay nghe được đều vui mừng
Bậc đồng hư không hành đạo nầy.
Mắt trí thanh tịnh chẳng ai bằng
Nơi tất cả pháp đều thấy rõ
Như vậy trí huệ khéo phân biệt
Bậc không ai bằng hành đạo nầy.
Hết thảy phước rộng lớn vô tận
Tất cả tu hành sẽ rốt ráo
Khiến các chúng sinh đều thanh tịnh
Đây bậc không sánh hành đạo nầy.
Khắp khuyên tu thành trợ đạo pháp
Đều khiến được trụ bậc phương tiện
Độ thoát chúng sinh vô lượng số
Chưa từng tạm khởi tưởng chúng sinh.
Tất cả cơ duyên đều quán sát
Trước hộ ý họ khiến không tranh
Khắp bày chúng sinh nơi an ổn
Đây bậc phương tiện hành đạo nầy.
Thành tựu trí tối thượng bậc nhất
Đầy đủ vô lượng vô biên trí
Nơi các bốn chúng chẳng sợ hãi
Bậc trí phương tiện hành đạo nầy.
Tất cả thế giới và các pháp
Thảy đều khắp vào được tự tại
Cũng vào trong tất cả chúng hội
Độ thoát quần sinh vô số lượng.
Trong mười phương tất cả cõi nước
Đánh trống pháp lớn ngộ quần sinh
Làm chủ thí pháp vô thượng nhất
Đây bậc bất diệt hành đạo nầy.
Một thân kiết già ngồi ngay thẳng
Đầy khắp mười phương vô lượng cõi
Mà khiến thân đó chẳng chật hẹp
Đây bậc pháp thân hành đạo nầy.
Hay ở trong một nghĩa một văn
Diễn nói vô lượng vô biên pháp
Mà bờ mé đó không thể được
Bậc vô biên trí hành đạo nầy.
Nơi Phật giải thoát khéo tu học
Được trí huệ Phật không chướng ngại
Thành tựu vô uý làm thế hùng
Đây bậc phương tiện hành đạo nầy.
Biết rõ mười phương biển thế giới
Cũng biết tất cả biển cõi Phật
Biển trí biển pháp đều biết rõ
Chúng sinh thấy được đều vui mừng.
Hoặc hiện nhập thai và sơ sinh
Hoặc hiện đạo tràng thành Chánh Giác
Như vậy đều khiến thế gian thấy
Đây bậc vô biên hành đạo nầy.
Trong vô lượng ức số cõi nước
Đều thị hiện thân vào Niết Bàn
Thật không xả nguyện quy tịch diệt
Đây bậc hùng luận hành đạo nầy.
Kiên cố vi mật một diệu thân
Bình đẳng với Phật không khác biệt
Tuỳ các chúng sinh đều thấy khác
Bậc nhất thật thân hành đạo nầy.
Pháp giới bình đẳng không khác biệt
Đầy đủ vô lượng vô biên nghĩa
Ưa quán một tướng tâm chẳng động
Bậc trí ba đời hành đạo nầy.
Nơi các chúng sinh và Phật pháp
Kiến lập gia trì đều rốt ráo
Hết thảy lực trì đồng với Phật
Bậc tối thượng trì hành đạo nầy.
Thần túc vô ngại giống như Phật
Thiên nhãn vô ngại thanh tịnh nhất
Căn tai vô ngại khéo lắng nghe
Bậc vô ngại ý hành đạo nầy.
Hết thảy thần thông đều đầy đủ
Tuỳ theo trí huệ đều thành tựu
Khéo biết tất cả chẳng ai bằng
Đây bậc hiền trí hành đạo nầy.
Tâm Ngài chánh định chẳng giao động
Trí huệ rộng lớn không bờ mé
Hết thảy cảnh giới đều thông đạt
Bậc thấy tất cả hành đạo nầy.
Đã được các công đức bờ kia
Hay theo thứ lớp độ chúng sinh
Tâm đó tất kính không nhàm đủ
Bậc thường tinh tấn hành đạo nầy.
Ba đời hết thảy các Phật pháp
Nơi đây tất cả đều thấy biết
Từ nơi chủng tánh Phật sinh ra
Đây các Phật tử hành đạo nầy.
Tuỳ thuận lời lẽ đã thành tựu
Đàm luận sai trái khéo thôi phục
Thường hay hướng về Phật bồ đề
Bậc vô biên huệ hành đạo nầy.
Một quang chiếu xúc không bờ hạn
Mười phương cõi nước đều đầy dẫy
Khắp khiến thế gian được quang minh
Đây bậc phá tối hành đạo nầy.
Tuỳ họ đáng thấy đáng cúng dường
Vì hiện thân Như Lai thanh tịnh
Giáo hoá chúng sinh trăm ngàn ức
Trang nghiêm cõi Phật cũng như vậy.
Vì khiến chúng sinh xuất thế gian
Tất cả diệu hạnh đều tu tập
Hạnh nầy rộng lớn không bờ mé
Thế nào mà có người biết được!
Giả sử phân thân bất khả thuyết
Đồng với pháp giới và hư không
Đều cùng khen ngợi công đức kia
Trăm ngàn vạn kiếp không hết được.
Công đức Bồ Tát không bờ mé
Tất cả tu hành đều đầy đủ
Giả sử vô lượng vô biên Phật
Nơi vô lượng kiếp nói chẳng hết.
Hà huống thế gian trời và người
Tất cả Thanh Văn và Duyên Giác
Ở trong vô lượng vô biên kiếp
Khen ngợi tán thán được rốt ráo !
 
 
 
Hết quyển 2
 
 

 
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ÐA TÂM KINH
 
Bồ Tát Quán Tự Tại thực hành sâu vào Bát Nhã Ba La Mật Ða, thì thấy rõ năm uẩn đều không, qua khỏi tất cả khổ ách.
       Xá Lợi Tử ! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cũng đều như thế.
       Xá Lợi Tử ! Các pháp đó không tướng, không sinh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm. Cho nên trong không chẳng có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới; không có vô minh, cũng không có hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có hết già chết; không có khổ tập diệt đạo, không có trí huệ, cũng không đắc được.
       Vì không chỗ đắc, nên Bồ Tát nương vào Bát Nhã Ba La Mật, tâm không quái ngại, vì không quái ngại, nên không sợ hãi, xa lìa điên đảo mộng tưởng, rốt ráo đạt đến Niết Bàn. Các Ðức Phật ba đời, đều nương vào Bát Nhã Ba La Mật, cho nên đắc được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
       Nên biết Bát Nhã Ba La Mật Ða là Chú đại thần, là Chú đại minh, là Chú vô thượng, là Chú vô đẳng đẳng, trừ được tất cả khổ, chân thật không hư.
       Cho nên nói chú Bát Nhã Ba La Mật Ða, bèn nói chú rằng: Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. (3 lần)
 

Vãng Sinh Tịnh Ðộ Thần Chú
 
Nam mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa điệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ, a di rị đa, tất đam bà tỳ, a di rị đa, tì ca lan đế, a di rị đa, tì ca lan đa, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha. (3 lần)
 
Tán Phật
 
Phật A Di Ðà thân sắc vàng
Tướng tốt quang minh không ai bằng
Hào quang trắng uyển chuyển như Tu Di
Mắt Phật xanh biếc như nước bốn biển
Trong quang minh có vô số hoá Phật
Hoá Bồ Tát cũng nhiều vô biên
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sinh
Chín phẩm sen vàng lên bờ giác.
 
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi, Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật.
NamMô A Di Ðà Phật. (108 lần)
NamMô Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần)
NamMô Ðại Thế Chí Bồ Tát. (3 lần)
NamMô Ðịa Tạng Vương Bồ Tát. (3 lần)
NamMô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát. (3 lần)
 
Ðệ tử chúng đẳng, tùy thuận tu tập, Phổ Hiền Bồ Tát, thập chủng đại nguyện:
             
       Nhứt giả lễ kính chư Phật
       Nhị giả xưng tán Như Lai
       Tam giả quảng tu cúng dường
       Tứ giả sám hối nghiệp chướng
       Ngũ giả tùy hỉ công đức
       Lục giả thỉnh chuyển pháp luân
       Thất giả thỉnh Phật trụ thế
       Bát giả thường tùy Phật học
       Cửu giả hằng thuận chúng sanh
       Thập giả phổ giai hồi hướng.
 
HỒI HƯỚNG
 
       Tụng kinh công đức hạnh thù thắng
       Bao nhiêu phước đức đều hồi hướng  
Nguyện khắp pháp giới các chúng sinh
       Sớm được vãng sinh cõi Phật Vô Lượng Quang
       Nguyện tiêu ba chướng dứt phiền não
Nguyện được trí huệ hiểu chân thật
Nguyện khắp tội chướng đều tiêu trừ
Ðời đời thường hành Bồ Tát đạo
Nguyện sinh sang cõi Tây phương Tịnh độ
Chín phẩm hoa sen là cha mẹ
Hoa nở thấy Phật ngộ vô sinh
Bồ Tát bất thối làm bạn lành
Nguyện đem công đức nầy
Hướng về khắp tất cả
Ðệ tử và chúng sinh
Ðều trọn thành Phật đạo.
 
Tam quy y
 
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lạy)
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ tạng kinh, trí huệ như biển. (1 lạy)
Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)
 
Nguyện đem công đức này
Trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh
Trên đền bốn ân nặng
Dưới cứu ba đường khổ
Nếu có ai thấy nghe
Liền phát tâm bồ đề
Khi xả báo thân nầy
Ðồng sinh về Cực Lạc.
 
 
-----–—-----

 
Phương danh hùn phước Ấn tống Kinh
 
Đại Đức Thích Viên Mãn, Chùa Nhân Vương Troyes: 6 Bộ.
Ni Sư Thích Nữ Diệu Minh Chùa Quan Âm: 7 Bộ.
Ni Sư Thích Nữ Đàm Lương, Chùa Hoa Nghiêm: 30 Bộ.
Ni Sư Thích Nữ Đàm Phương, Chùa Hoa Nghiêm (Bỉ): 4 Bô.
Sư Cô Thích Nữ Đàm Liên: 1 Bộ.
Sa di Thích Đồng Giác, Tùng Lâm Linh Sơn: 1 Bộ.
Nguyễn Thị Kim, Pd: Bổn Trung : 10 Bộ.
Trần Ngọc Khuê, Pd: Huệ Phương: 5 Bộ.
Trịnh Thị Tuyết Nga, pd: Diệu Hiền: 1 Bộ
Nguyễn Thị Thân, pd: Thiện Ý: 1 Bộ
Nguyễn Thị Thanh Loan: Pd: Trí Phượng: 1 Bộ
Nguyễn Thị Trường, Pd: Thiện Đạo: 2 Bộ
Vô Thị Dành, Pd: Thiện Không và Lâm Thị Ái Nữ,
Pd: Quảng Hiếu: 1 Bộ
Cô Giác Liên, 1 Bộ.
Giác Bảo. 2 Bộ
Nguyễn Laurent, Pd: Giác Đức 1 Bộ
Diệu Hoa 1 Bộ
Annie Nguyễn 1 Bộ
Dì Nhiều, Pd: Như Lộc: 2 Bộ
Từ Tâm Hoà 1 Bộ
Jacqueline Pd: Diệu Châu 1 Bộ
Mai Anh 1 Bộ
Nguyễn Hùng Cường, Pd: Nhật Cảnh Hùng. Phan Thị Thảo,
Pd: Lệ Hiếu 1 Bộ.
Diệp Văn Sơn, Pd: Đồng  Hải. Nguyễn Kim Dung, Pd: Diệu Giác 1 Bộ.
Triệu Học Cần, Pd: Ân Mẫn. Mã Yến Huệ, Pd: Ân Viên: 1 Bộ.
Trần Thị Trang Thanh, Pd: Giác Nhàn: 1 Bộ.
Hương Linh Phan Văn Quý, Pd: Tâm Đạo: 1 Bộ.
Lê Thị Tiết, Pd: Tâm Hạnh : 1 Bộ.
Phật  Tử  ẩn  danh ở Bottrop: 1 Bộ.
Đỗ Ngọc Lan, Pd: Giác Tịnh: 1 Bộ.
Phan Thị Cúc, Pd: Diệu Đạo: 2 Bộ.
Phan Lê Gia Trang, Pd: Nguyên Hoa: 1/2 Bộ.
Lưu Kim Tuyến, Pd: Giác Tu: 1 Bộ.
Đỗ Bùi Đức Hà, Pd: Giác Hải: 2 Bộ.
Dương Thị Lan, Pd: Diệu Hoa: 1/2 Bộ.
Thuý Lan, Pd: Thị Muồng: 1/2 Bộ.
Nguyễn Thị Thảo: 1 Bộ.
Phạm Thị Ngọc Thu, Pd: Đồng Hà: 1 Bộ.
Chị Ngọc (Tain Kim Heng): 1 Bộ.
Cô Hương (Tain Kim Heng): 1/2 Bộ.
Nguyễn Quốc Cường, Pd: Thiện Huy: 2 Bộ.
Nguyễn Thị Kim Hoa, Pd: Thiện Hương: 1 Bộ.
Nguyễn Văn Một, Pd: Thông Khai: 1 Bộ.
Lý Ngọc Hoa, Pd: Đồng Liên: 1 Bộ.
Lai Ảnh Khương, Pd: Ân Thới: 1 Bộ.
Võ Văn Thiên: 1 Bộ.
Lưu Tuyết Ngọc, Pd: Ân Châu: 1 Bộ.
Lưu Kim Tiên: 1 Bộ.
Werner Schumann: 1 Bộ.
Lưu Tuyết Lan, Pd: Ân Hồng: 1 Bộ.
Nguyễn Hoàng Thông, Pd: Ân Thái: 1 Bộ.
Nguyễn Trường Phúc, Pd: Ân Thiện: 1 Bộ.
Hương Linh Nguyễn Văn Dũng, Pd: Ân Quý: 1 Bộ.
Định Thị Quý: 1 Bộ.
Trịnh Tự Nhiên, Pd: Minh Lạc: 1 Bộ.
Trần Thị Thắng, Pd: Nguyệt Bảo Đức: 4 Bộ.
Trần Ngưu: 4 Bộ.
Trần Ánh Tuyết, Jenny: 4 Bộ.
Trần Ánh Tâm, Joanne: 4 Bộ.
Trần Anh Minh, John: 4 Bộ.
Việt Hương và gđ: 6 Bộ.
Nguyễn Thị Bạch Tuyết, pd: Diệu Tịnh: 2 Bộ.
Giác Thuận, Giác Hoa: 6 Bộ.
Lami Jean: 1 Bộ.
Lami Philippe: 1 Bộ.
Lý Tú hà, Pd: Diệu Hải: 2 Bộ.
GUILHEN Richard Chính,  Giác Nghĩa: 1 Bộ.
Huỳnh Thị Kim Huệ, Pd: Minh Hồng: 5 Bộ.
Thái Thuỳ Vi, Pd: Diệu Minh : 1 Bộ.
Thái TuấnThuỷ: 1 Bộ.
Trịnh Quang Chơn: 1 Bộ.
Trịnh Xuân Anh: 1 Bộ.
Trịnh Quang Nghiêm: 1 Bộ.
Ngô Xuân Lan (Huệ Phương): 5 Bộ.
Nguyễn Thị Bạch Ngọc, Pd: Thiện Bảo: 1 Bộ.
Hương Linh Nguyễn Thị Hường, Pd: Hoa Đạo: 3 Bộ.
Hương Linh Nguyễn Ngọc Cung, Pd: Nhuận Giải: 1 Bộ.
Hương Linh Nguyễn Thị Gái: 1 Bộ.
Nguyễn Thanh Thuỷ, Pd: Thiện Đạo Lưu Văn Hùng: 1/2 Bộ.
Nguyễn Phương Quỳnh, Pd: Diệu Thiện, Nguyễn Trí,
Pd: Phù Vân: 1/2 Bộ.
Tăng Lý Hoa: 1 Bộ.
Hoàng Trang Vọng, Pd: Diệu Nghiêm, Vòng Tú Hoàng,
Pd: Minh Thắng: 1 Bộ.
Lưu Thanh Đức, Pd: Tuệ Yên: 1 Bộ.
Phạm Quốc Huy: 1 Bộ.
Phạm Thị Liên Nga, Pd: Quảng Hạnh: 1 Bộ.
Nguyễn Ca, Pd: Đồng Sa: 1 Bộ.
Nguyễn Thị Liễu, Pd: Giác Giải, Nguyễn Văn Lập: 1 Bộ.
Phạm Thị Quyễn, Pd: Diệu Khai: 1 Bộ.
Phạm Nguyễn, Pd: Diệu Kim: 1 Bộ.
Phật tử ẩn danh ở Hagen: 1 Bộ.
Võ Thành Đức, Pd: Thân Hoằng Đức: 12 Bộ.
Nguyễn Thanh Tân: 1 Bộ.
Huỳnh Thị Thanh Thuỷ, Pd: Diệu Tịnh: 4 Bộ.
Phạm Thị Ngọc Diệp, Pd: Kim Chi: 1 Bộ.
Lê Thanh Long: 2 Bộ.
Lý Thị Nguyệt, Pd: Diệu Tịnh: 1 Bộ.
Diệu Hạnh: 1/2 Bộ.
Phùng Thị Bạch Tuyết, Pd: Huyền Trinh: 4 Bộ.
Biên Thị Mai, Pd: Như Lộc: 2 Bộ.
Nguyễn Thị Thu Phi: 10 Bộ.
Đào Kiêm Toàn: 1 Bộ.
Nguyễn Hoài Luân, Pd: Giác Hồi: 2 Bộ.
Cao Thị Lệ Hằng, Pd: Giác Duyên: 1 Bộ.
Trịnh Quốc Tuấn: 1 Bộ.
Vũ Ngọc Tuấn: 1 Bộ.
Hoa Minh: 2 Bộ.
Vương Thanh Tâm, Pd: Giác Tánh: 1 Bộ.
Vương Tâm Như: 1 Bộ.
Từ Nguyên: 1/2 Bộ.
Giác Xinh: 2 Bộ.
Giác Hà: 1 Bộ.
Trần Thị Phượng, Pd: Thu Ngọc: 3 Bộ.
Trần Thị Kim Cúc, Pd: Diệu Phùng: 1 Bộ.
Ngô Thị Thu Giang: 1 Bộ.
Lefranc Kim Chi: 2 Bộ.
Dương Thị Kim Ngọc, Pd: Diệu Quang: 1 Bộ.
Phan Bernard: 1 Bộ.
Nguyễn Kim Ngọc: 6 Bộ.
Nguyễn Thị Kim Thoa: 2 Bộ.
Lý Cường, Pd: Phúc Hùng: 1 Bộ.
Lý Trân Châu, Pd: Trân Bảo: 1 Bộ.
Ô Thị Tốt, Pd: Diệu Thọ: 1 Bộ.
Ô Thị Hai, Pd: Ngọc Bình: 1 Bộ.
Huỳnh Phan Thanh Hà, Pd: Bảo khánh Thọ: 1/2 Bộ.
Lâm Minh Khôn: 1/2 Bộ.
Peter Lâm: 1/2 Bộ.
Trần Xảo Chi, Pd: Ngọc Ấn: 1/2 Bộ.
Nguyễn Thị Lang, Pd: Thiện Ngọc: 2 Bộ.
Kim Văn Đy, Pd: Huệ Hạnh, Võ Hồng Khanh: 1 Bộ.
Lam Nga: 2 Bộ.
Lê Mai: 1 Bộ.
Nguyễn Thị Minh Ngà, Pd: Tuệ Ngọc: 1 Bộ.
Tạ Ngọc Hoa, Pd: Đồng Liên: 1 Bộ.
Trần Thị Thu Hương: 1/2 Bộ.
Nguyễn Thị Ngọc Bích: 1/2 Bộ.
Trịnh Thu Yến, Pd: Viên Nghiêm: 2 Bộ.
Stron Jennifer, Pd: Thiện Tiên: 3 Bộ.
Nguyễn Cao Alphonse, Pd: Thiện Thanh: 1 Bộ.
Nguyễn Cao Hoàng Hoa, Pd: Diệu Liên: 1 Bộ.
Nguyễn Cao Kim Cúc, Pd: Diệu Lan: 1 Bộ.
Nguyễn Ngọc Sương, Pd: Diệu Ứng: 1 Bộ.
Đỗ Thị Nuống: 1 Bộ.
Đỗ Thị Trưng: 1 Bộ.
Đỗ Thị Huẩn: 2 Bộ.
Trần Thị Kim Phương, Pd: Giác Hướng: 1 Bộ.
Nguyễn Thị Kim Phước, Pd: Giác Thiện: 2 Bộ.
Gia đình Giác Đạo: 10 Bộ.
Phạm Hồng Phước, Pd: Diệu Đức: 1 Bộ.
Nguyễn Hữu Công, Pd: Quảng Thành và Huệ Ngọc: 5 Bộ.
Đào Thị Nương, Pd: Quảng Huệ: 1 Bộ.
Giác Hạnh: 2 Bộ.
Nguyễn Thị Minh Hà, Pd: Diệu Thanh: 1 Bộ.
Gia đình Giác Vân: 3 Bộ.
Hoàng Phương Hải, Pd: Diệu Hà: 1 Bộ.
Bùi Hữu Đạo, Hoa, Pd: Chân Hoà: 3 Bộ.
Đặng Thị Ba: 1/2 Bộ.
Soudara Cam: 1 Bộ.
Phan Sandrine, Pd: Giác Trung: 1 Bộ.
Quảng Phương, Quảng Thiện Pháp: 2 Bộ.
Phạm Thị Hồng Ngọc: 5 Bộ.
Tâm Hoà: 1 Bộ.
Nguyễn Thị Kim Quang, Pd: Diệu Minh: 1 Bộ.
Pt Quảng Hùng: 1/2 Bộ.
Lê Thị Thu Lan, Lâm Quốc Trọng: 1 Bộ.
Võ Thị Phú Mỹ: 1/2 Bộ.
Pt Ẩn danh ở Mönchengladbach: 2 Bộ.
Phạm Thị Đâu: 2 Bộ.
Trần Mỹ Hạnh: 1 Bộ.
Hồ Thị Hảo, Pd: Diệu Thảo, Vương Trịnh Tòng: 1 Bộ.
Vũ Đức Thành: 1 Bộ.
Nguyễn Tố Nga, Pd: Thành Thắng: 1 Bộ.
Jenny Mai: 1 Bộ.
Phùng Thị Dần, Pd: Diệu Khải: 1/2 Bộ.
Trinh, Hằng, Thuỷ: 1/2 Bộ.
Nguyễn Thị Minh: 1 Bộ.
Trần Ngọc Anh, Pd: Diệu Liên: 2 Bộ.
Nguyễn Văn Nhơn, Lê Thị Hoà: 1 Bộ.
Ngô Thị Tâm Chân, Pd: Tâm Lý và Phan Thị Huệ, Pd: Diệu Trí: 5 Bộ.
Đặng Vũ Thuỳ  Trang: 1 Bộ.
Pt Vô danh: 4 Bộ.
Phạm Thanh Hương, Pd: Diệu Nghiêm: 4 Bộ.
Đoàn Philippe, Pd: Minh Trung: 1 Bộ.
Hoàng Tuấn Quan: 1 Bộ.
Giác Tạng, Giác Trì: 1 Bộ.
Giác Minh: 3 Bộ.
Triệu Hữu Đức: 1 Bộ.
Mai Thị Trúc Trinh: 1 Bộ.
Hoàng Thiện: 1 Bộ.
Nguyễn Thị Bông, Pd: Diệu Thơm: 1 Bộ.
GĐ Ngeam Huo, Pd: Diệu Quả: 1 Bộ.
GĐ Nguyên Thới: 1 Bộ.
GĐ Đỗ Thị Kim Nguyên, Pd: Diệu Ngọc: 1 Bộ.
GĐ Như Ngọc: 1 Bộ.
GĐ Diệu Mãn: 1 Bộ.
GĐ Diệu Hoa và Minh Lợi: 1 Bộ.
GĐ Diệu Phương: 1 Bộ.
GĐ Chánh Nguyệt: 1 Bộ.
2 GĐ anh em Tân Vũ: 1 Bộ.
2 GĐ Diệu Nghĩa, Ngọc Thuỷ: 1 Bộ.
2 GĐ chị em Ngân Vân: 1 Bộ.
2 GĐ Diệu Ngộ và Minh Nghĩa: 1 Bộ.
GĐ Diệu Thân: 2 Bộ.
GĐ Minh Hướng: 1 Bộ.
Trịnh Katie, Trịnh Maxim: 1 Bộ.
Chơn Tuệ: 1/2 Bộ.
GĐ Hồng Nhâm: 1 Bộ.
GĐ Huỳnh Thị Lang, Pd: Minh Hoa: 1 Bộ.
Quách Hoa Anh, Pd: Tâm Minh: 2 Bộ.
Hồ Văn Thắng: Minh Lợi: 1 Bộ.
Lưu Kim Hưng: 1 Bộ.
Lê Thị Tương, Pd: Giác Phùng: 1 Bộ.
Lê Thị Hà: 1 Bộ.
GĐ Phạm Dân Quý: 1 Bộ.
GĐ Phạm Noel: 1 Bộ.
GĐ Phạm Thái Tiến: 2 Bộ.
Đỗ Văn Minh, Pd: Giác Nguyện: 4 Bộ.
Phan Thị Lệ Thuỷ: 1 Bộ.
Trang Thị Thanh, Pd: Bửu Hạnh: 2 Bộ.
Giác Lý: 2 Bộ.
GĐ Giác Hiền: 1 Bộ.
Trịnh Thị Vàng, Pd: Diệu Kim: 1 Bộ.
Kumar Velou: 1 Bộ.
Mohan Velou: 1 Bộ.
Krichena Velou: 1 Bộ.
Asok Velou: 1 Bộ.
Solange Velou: 1 Bộ.
Raymond Velou: 1 Bộ.
Trịnh Thị Trang, Pd: Diệu Nhã: 1 Bộ.
GĐ Caroline Trần, Pd: Diệu Nguyện: 1 Bộ.
GĐ Nelly, Pd: Diệu Lý: 1 Bộ.
GĐ Lê Hữu Huệ, Pd: Giác Trí: 1 Bộ.
GĐ Diệp Văn Thọ, Pd: Minh Thọ: 1 Bộ.
Trịnh Thị Hương, Pd: Giác Thơm: 1 Bộ.
Nguyễn Thị Tuyết: 1/2 Bộ.
Bùi Tâm Phúc, Pd: Quảng Chánh,
và Hàn Ngọc Anh, Pd: Quảng Thanh: 1 Bộ.
Thuý Trần, Pd: Diệu Ngọc, Quảng Tâm: 1/2 Bộ.
Lý Mỹ Linh, Pd: Diệu Lý: 1 Bộ.
Ngô Thị Minh Huyền, Pd: Viên Diệu: 1/2 Bộ.
Trần Thị Quý, Pd: Diệu Đức: 2 Bộ.
Nguyễn Văn Nam, Pd: Kiến Chánh: 1 Bộ.
Nguyễn Ngọc Huê, Pd: Diệu Bảo: 1 Bộ.
Nguyễn Thị Thu Thoa, Pd: Diệu Niệm: 1 Bộ.
Trương Kim Mỹ, Pd: Lệ Mãn: 1 Bộ.
Trương Đồng Sanh, Pd: Đồng Sanh: 1 Bộ.
Trương Thế Kiệt: 1 Bộ.
Phạm Văn Thanh, Pd Thiện Tạng: 1 Bộ.
Phạm Thị Muội, Pd: Diệu Giác: 1 Bộ.
Phạm Văn Mành: 1 Bộ.
Văng Công Dụng: 2 Bộ.
Trần Xuân Tiến: 1 Bộ.
Lê Thanh Tâm, Pd Minh Tâm: 1 Bộ.
Lê Thanh Thuỷ, Pd: Giác Tâm: 1 Bộ.
Lê Thanh Loan, Pd: Giác Tâm: 1 Bộ.
Lê Quế Phượng, Pd: Giác Phương: 1 Bộ.
Nguyễn Thị Nhi: 1 Bộ.
Đinh thị Nga, Pd: Giác Hỷ: 1 Bộ.
GĐ Vương và Nga: 1 Bộ.
Lu Michel, Pd: Giác Hiền: 1 Bộ.
Lu Jodie và Lu Kenny: 1 Bộ.
Ngô Bernard, Pd: Đại Ân: 1 Bộ.
Kim Huôi, Pd: Diệu Hà: 1 Bộ.
Bùi Mỹ Ngọc: 2 Bộ.
Nguyễn Mỹ Bảo Ngọc: 2 Bộ.
Cao Trần Cung: 1 Bộ.
Nguyễn Bá Sử: 2 Bộ.
H.L Trương Minh Chiếu Paul: 1 Bộ.
Trần Thị Ánh Minh,  Pd: Diệu Huệ: 1 Bộ.
Tần Tố Nga: 2 Bộ.
Minh Trí và Giác Phúc: 3 Bộ.
Nguyễn Thị Tý, Pd: Diệu Tâm: 3 Bộ.
GĐ Nguyễn Ngọc Hưng: 1 Bộ.
Phạm Thị Minh Nguyệt, Pd: Diệu Quý: 2 Bộ.
Phạm Tuấn Anh: 2 Bộ.
Phạm Trâm Anh: 2 Bộ.
Vũ Đình Ruyên, Nguyễn Thị Bảo Nguyệt: 1 Bộ.
Huỳnh Thị Hỏn: 2 Bộ.
Đặng Nguyệt Hưng, Pd: Diệu Hiển: 1 Bộ.
Hồ Ngọc Ngọ, Pd: Quý Ngọc: 1 Bộ.
Trần Nam Anh: 1 Bộ.
Nguyễn Thị Dung, Pd: Dung Ngọc: 1 Bộ.
Nguyễn Sanra: 1 Bộ.
Nguyễn Thị Thu Hà, Pd: Diệu Hải: 1 Bộ.
Nguyễn Thị Thu Thuỷ, Pd: Diệu Chánh: 1 Bộ.
Hồ Hữu Dũng: 1 Bộ.
Diệu May và Minh Tú: 4 Bộ.
Apan Helene, Pd: Diệu Minh: 6 Bộ.
Phan Thị Ánh Tuyết, Pd: Hồng Hiếu: 2 Bộ.
Ẩn danh: 6 Bộ.
Lâm Thị Phượng: 1 Bộ.
Giác Huyền và Giác Nhi: 2 Bộ.
Ẩn danh: 2 Bộ.
Ngô Thị Hiền, Pd: Liên Trúc: 1 Bộ.
Trịnh Frederic, Pd: Nguyên Huy: 1 Bộ.
Nguyễn Bélinda, Pd: Giác Thiên: 1 Bộ.
GĐ Tammy Vo, Pd: Tâm Từ: 24 Bộ.
Nguyễn Thị Nâu, Pd Quảng Nhẫn: 5 Bộ.
Vũ Đức Hiền, Pd Đồng Huệ Thọ và Vũ Thị Vinh: 1/2 Bộ.
H.L Phạm Như Nghĩa, Pd: Giải Đạo: 1/2 Bộ.
Hoàng Thị Dương, Pd: Diệu Phương: 1/2 Bộ.
Lê Trung Quân: 1/2 Bộ.
Nguyễn Kupka Thuý Hà, Pd: Đồng Huệ Xa và Kupka Hartmut,
Kupka Mai Linh, Pd: Quảng Sáng: 1 Bộ.
H.L Nguyễn Việt Cường: 1 Bộ.
H.L Nguyễn Bạch Ngọc, Pd Diệu Giải: 1/2 Bộ.
Đặng Vũ Thuỳ Hương, Pd: Minh Lương: 1/2 Bộ.
H.L Quan Tô, Pd: Tánh Chơn: 6 Bộ.
H.L Trang Thị Hai: 1 Bộ.
Nguyễn Phước Quốc Trang: 4 Bộ.
Đặng Cẩm Huy: 1 Bộ.
Huệ Phúc: 1 Bộ.
Tin Tin: 2 Bộ.
Du Phát Hoà và Phùng Lệ Khoan: 1 Bộ.
Trần Tư Kiều: 4 Bộ.
Lý Thu Trang:  2 Bộ.
Trần Chu Minh Quang: 4 Bộ.
Chu Thị Ngọc Thanh: 5 Bộ.
Say Yen Teoh: 2 Bộ.
Bổn Thành: 2 Bộ.
Diệu Nguyện: 2 Bộ.
Jason P. Nguyễn: 2 Bộ.
Tith Alain: 1 Bộ.
GĐ Phạm Thị Bích Hà, Pd: Đức Tánh. Herr Niehof, Tanja Niehof: 5 Bộ.
Tăng Bích Phân, Pd: Thiện Lý: 1 Bộ.
Trần Thị Dần, Pd: Viên Như: 2 Bộ.
Trần Tý, Pd: Thiện Hữu: 1 Bộ.
Đoàn Thị Đúng, Pd: Diệu Nhàn: 1 Bộ.
GĐ Tuệ Thiện, Viên Hằng, Huệ Phương: 5 Bộ.
Diệu Sắc: 1 Bộ.
Shanker Devi: 1 Bộ.
GĐ Tài và Thảo: 2 Bộ.
Danh Công Lê: 1 Bộ.
Hưng Lê: 1 Bộ.
GĐ Phạm Thị Thu Vân: 10 Bộ.
GĐ Tôn Sung Chánh: 1 Bộ.
GĐ Eddy Gee và Tôn Mỹ Linh: 1 Bộ.
GĐ Thuý Vi Châu: 2 Bộ.
Diệu Thiện: 1 Bộ.
Đỗ Lưu Vương: 1 Bộ.
Hứa Ngọc Cúc, Pd: Tâm Huệ: 4 Bộ.
Trần Văn Sính, Pd: Chính Minh: 2 Bộ.
Trần T. Ngọc Liên, Pd: Diệu Hoa: 1 Bộ.
Trần Ngọc Thảo, Pd: Diệu Thao: 1 Bộ.
Trần Ngọc Thuỷ, Pd: Diệu Sơn: 1 Bộ.
Andréas Larws: 1 Bộ.
Nguyễn Văn Trình, Pd: Minh Tú: 2 Bộ.
Nguyễn Trần Mỹ Phương Kimberley, Pd: Huệ Thảo: 1 Bộ.
Trần Thị Mai, Pd: Diệu May: 16 Bộ.
Nguyễn Văn Thành: 1 Bộ.
Tạ Đức Hương: 1 Bộ.
TạÁ Châu, Ngô Thị Phương, Pd: Diệu Thảo: 1 Bộ.
Chu Vũ Thị Lan: 20 Bộ.
GĐ Nguyễn Lân, Nguyễn Bybyel, pd: Diệu Ứng: 4 Bộ.
Phật tử Bửu Hưng, Vancouver, WA: 20 Bộ.
GĐ Diệu Ngọc: 4 Bộ.
Đỗ Thuý Ngân: 2 Bộ.
Châu Thị Mai: 1 Bộ.
Nguyễn Tố Nga, Pd: Thành Thắng: 1 Bộ.
Trịnh Thị Vàng, Pd: Diệu Kim: 6 Bộ.
Shanker Eric Jules: 3 Bộ.
Shanker Rose: 1 Bộ.
Shanker Jean Pierre: 1 Bộ.
Pelou Sithiravi: 1 Bộ.
Pelou Richard: 1 Bộ.
Phùng Văn Thanh: 1 Bộ.
Do: 2 Bộ. Quảng Thọ: 1 Bộ.
GĐ Chị Em Khánh Linh: 10 Bộ. v.v...
 

 
Hồi hướng công đức
 
Trong các sự bố thí, thì bố thí pháp là cao thượng nhất. Vì ấn tống Kinh điển bố thí cho mọi người đọc tụng, khiến cho họ hiểu rõ những lời đức Phật dạy, phát tâm tu học, thực hành hạnh Bồ Tát, tự lợi lợi tha, tự độ độ tha, tích tụ căn lành công đức, hồi hướng về quả Vô Thượng Bồ Đề, cuối cùng sẽ chứng ngộ quả vị Phật. Nhờ giáo lý Pháp bảo mà chúng ta tin, hiểu, thực hành, và chứng ngộ.
 
Xin hồi hướng công đức pháp thí cao thượng nầy, đến pháp giới tất cả chúng sinh, và toàn thể tất cả Quý Vị đã phát tâm hùn phước Ấn tống, hữu danh, hoặc vô danh, và thân bằng quyến thuộc của tất cả Quý Vị còn sống, hoặc đã quá vãng, thảy đều được lợi lạc, căn lành tăng trưởng, tâm bồ đề kiên cố, luôn luôn an trụ ở trong chánh pháp, tu hành chánh pháp, rốt ráo được thoát khỏi sinh tử luân hồi, đến được bờ giác ngộ bên kia.
 
Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát Ma Ha Tát
Tác đại chứng minh

 

 
KỆ HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC
 
Nguyện đem công đức nầy
Trang Nghiêm cõi Phật tịnh
Trên đền bốn ân nặng
Dưới cứu ba đường khổ
Nếu có ai thấy nghe
Liền phát tâm bồ đề
Khi bỏ báo thân nầy
Sinh về cõi Cực Lạc.