Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh
 
 
 


Kinh Phật Nói Bốn Mươi Hai Chương Lược Giảng

 

The Sutra in Forty Two Sections Spoken By The Buddha

 

Phật thuyết tứ thập nhị chương kinh

Hòa Thượng Tuyên Hóa lược giảng

(Giảng năm 1974 Tại Kim Sơn Tự, San Francisco, California, Hoa Kỳ)

 

Đề mục

Tên đề của bộ kinh này có bảy chữ "Phật Thuyết Tứ Thập Nhị Chương Kinh" và bảy chữ ấy bao gồm cả tên chung (thông danh) lẫn tên riêng (biệt danh). Trong đó, chữ "Kinh" là tên chung. Tất cả kinh điển do Đức Phật thuyết giảng đều có cùng một tên chung là "Kinh"; và những chữ còn lại nằm trong tên đề thì thuộc về phần tên riêng. Tên riêng là tên gọi đặc biệt của bộ kinh, không hề trùng hợp với tên riêng của bất kỳ một bộ kinh nào khác.

Chữ 'Kinh" ở đây cũng giống như trường hợp chữ "người" là tên chung để chỉ nhân loại chúng ta vậy. Bên cạnh đó, mỗi người lại còn có một tên gọi riêng biệt, như kẻ thì xưng là Trương Tam, người thì gọi là Lý Tứ...Kinh điển do Đức Phật thuyết giảng cũng tương tự như vậy, cũng đều có cả tên chung và tên riêng. Tên riêng của bộ kinh này là "Phật Thuyết Tứ Thập Nhị Chương". Phần tên riêng ấy cho thấy bộ kinh này thuộc loại Nhân Pháp Lập Đề, tức là dùng tên của người nói ra giáo-pháp và tên của giáo-pháp mà người ấy nói ra, để lập thành tên đề của bộ kinh; trong đó, "Phật" là người và "Tứ Thập Nhị Chương" là pháp.

Bộ kinh này chứa đựng giáo-pháp do chính Đức Phật thuyết giảng. Trong thời kỳ Kết Tập Kinh Tạng, các đệ tử của Ngài đã kết nối từng chương một lại với nhau để hình thành một bộ kinh. Đây cũng có thể xem như một tập Ngữ Lục của Đức Phật, và bốn mươi hai chương sách chính là bốn mươi hai đoạn ngữ lục, hay bốn mươi hai lời dạy bảo của Ngài!

Phật Thuyết Tứ Thập Nhị Chương Kinh là một bộ kinh được truyền đến nước Trung Hoa trước nhất. Lúc bấy giờ, vào đời vua Minh Đế nhà Hậu Hán, có hai Tôn giả là Ca-Diếp-Ma-Đằng và Trúc-Pháp-Lan dùng ngựa trắng để chuyên chở kinh điển từ nước Ần Độ sang Trung Hoa. Và sau đó, vua Hán-Minh-Đế đã cho cất Chùa Ngựa Trắng (Bạch Mã Tự) ngay tại kinh đô Lạc Dương.

Như vậy, Phật pháp được truyền bá đến nước Trung Hoa vào đời nhà Hán. Tuy nhiên, vì Đạo giáo tại Trung Hoa thời ấy đang rất thịnh hành, nên khi Phật giáo lan truyền đến quốc gia này thì có nhiều đạo sĩ sanh lòng ganh ghét và tâu với vua rằng: "Phật giáo chỉ là thứ giả. Đó là tôn giáo của ngoại bang chứ không phải của Trung Hoa. Vậy, xin Bệ hạ hãy ngăn cấm việc truyền bá đạo Phật và trục xuất Phật giáo ra khỏi lãnh thổ Trung Hoa! Nếu Bệ hạ không muốn xóa bỏ Phật giáo, thì xin hãy tổ chức một cuộc so tài!"

So tài như thế nào ư? Các đạo sĩ yêu cầu nhà vua cho mang tất cả kinh điển do Đức Phật thuyết giảng và kinh điển do Đạo giáo đến xếp chung vào một chỗ rồi châm lửa đốt. Hễ kinh điển của bên nào bị cháy thì bên ấy thứ giả; và kinh điển của bên nào không bị cháy thì bên đó là thứ thiệt!

Đương thời bên Đạo giáo có đạo sĩ tên Chử Thiện Tín, là một trong những vị thủ lãnh của Đạo giáo. Ông ta dẫn theo 500 đạo sĩ, tất cả cùng nhau khuân vác các kinh điển, linh văn của Đạo giáo xếp vào một chỗ; rồi lâm râm khấn vái với Thái Thượng Lão Quân: "Kính bạch Đại Đức Thiên Tôn! Xin Ngài hãy thị hiện oai linh, xui khiến cho kinh sách của Đạo giáo chúng ta đều không bén lửa, còn kinh điển của Phật giáo thì bị cháy rụi hết thảy!"

Thời bấy giờ có rất nhiều đạo sĩ có thần thông. Người thì có thể cỡi mây lướt gió; kẻ lại có thể bay lên trời hoặc chui xuống đất. Có Đạo sĩ còn biết cả thuật ẩn hình (ẩn hình tức là quý vị vừa mới thấy họ sờ sờ ngay trước mắt thì đột nhiên lại biến mất, không còn thấy tăm dạng của họ đâu nữa)...; những đạo sĩ bản lãnh như thế đều có cả. Có đạo sĩ còn biết dựa vào phép độn, tức là phương pháp "kỳ môn độn giáp" mà chạy thoát thân. Nhờ dựa vào nào phù, nào chú, nào bùa phép của Đạo giáo nên các đạo sĩ có được rất nhiều pháp thần thông; song, đến lần dùng lửa đốt kinh sách này thì thế nào?

Kinh điển của Phật giáo chẳng những đã không bốc cháy mà lại còn phát hào quang! Bấy giờ, xá lợi của Đức Phật phóng hào quang năm màu, kinh điển cũng tỏa hào quang rực rỡ. Các đạo hào quang tỏa ánh sáng chan hòa khắp không trung, trông chẳng khác nào vầng thái dương đang soi tỏ cả thế gian vậy!

Còn kinh điển của Đạo giáo vừa đốt, thì đều bén lửa cháy rụi ngay, không còn sót lại gì cả! Bấy giờ, những đạo sĩ từng biết cỡi mây cỡi mưa lại chẳng thể cỡi mây cỡi mưa được nữa vì không còn phép thần thông! Kẻ biết bay lên trời thì chẳng thể bay đi, biết chui xuống đất lại chẳng tài nào chui lọt mình xuống đất, biết ẩn hình cũng chẳng thể ẩn nấp ở đâu được nữa! Lúc ấy, tất cả phù, chú của họ đều hết linh nghiệm, không còn công hiệu nữa. Bấy giờ, toàn bộ kinh sách của Đạo giáo đều bị cháy sạch khiến cho các đạo sĩ như Chử Thiện Tín, Phí Chánh Thanh đều tức tối tưởng chết đi được ngay giữa công chúng. Trong khi họ đang trong cơn tức giận như thế, thì có đến hai, ba trăm đệ tử của họ lại cắt bỏ râu tóc ngay tại hiện trường để xuất gia đầu Phật! Đây là cuộc "đấu phép" xa xưa nhất giữa Phật giáo và Đạo giáo; và Đạo giáo đã chuốc lấy phần thảm bại!

Sau đó, hai Tôn giả Ca-Diếp-Ma-Đằng và Trúc-Pháp-Lan cùng bay vọt lên hư không, thị hiện 18 phép biến hóa như thân trên ra lửa thân dưới ra nước, thân dưới ra lửa thân trên ra nước, đi lại trong hư không, nằm ngủ trong hư không..., và vô số phép thần thông biến hóa khác. Cho nên, những người đương thời và luôn cả Hoàng Đế thảy đều dốc lòng tin theo đạo Phật.

Vì vậy bộ kinh này rất quan trọng và đây cũng là bộ kinh đầu tiên được truyền đến nước Trung Hoa, cho nên hôm nay tôi muốn cùng quý vị nghiên cứu bộ kinh này.

Bây giờ, chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa của chữ "Phật". "Phật" tức là Phật-Đà-Da, và là tiếng Phạn; dịch sang tiếng Trung Hoa là Giác giả, nghĩa là Đấng Giác Ngộ. Có ba loại giác ngộ là Tự-giác, Giác-tha, và Giác-hạnh-viên-mãn.

1. Tự-giác (tự trở nên giác ngộ). Bậc tự giác thì không giống như hạng phàm phu là kẻ chưa được giác ngộ. Những người tu theo Nhị thừa đều có thể tự họ trở nên giác ngộ; vì thế, họ đều khác hẳn kẻ phàm phu.

2. Giác-tha (làm cho người khác trở nên giác ngộ). Hàng Nhị thừa có thể trở nên giác ngộ, nhưng họ không giác ngộ người khác. Do đó, người có thể khiến cho người khác trở nên giác ngộ là bậc Bồ Tát, chứ không phải là hàng Nhị thừa. Bồ Tát đã có thể tự giác, lại có thể giác tha; và vừa làm lợi cho mình vừa có thể làm lợi cho người khác. Bồ Tát xem tất cả chúng sanh đều bình đẳng như nhau; cho nên sau khi đã tự giác ngộ rồi, các Ngài mong rằng hết thảy chúng sanh cũng đều được giác ngộ, được sáng suốt như mình. Đó gọi là Giác tha.

3. Giác hạnh viên mãn: Bậc Bồ Tát tuy có thể giác ngộ người khác, nhưng vẫn chưa thể đạt được giác hạnh viên mãn. Trong khi đó, chư Phật đã có thể tự trở nên giác ngộ, lại có thể làm cho người khác được giác ngộ, và còn có thể hoàn thành mỹ mãn hạnh tự giác giác tha của mình nữa. Chính nhờ đã hoàn tất trọn vẹn cả ba hạnh nguyện giác ngộ này nên các ngài đã được thành Phật.

"Thuyết" nghĩa là nói. Bộ kinh này vốn do Đức Phật nói ra. Chữ "thuyết" còn bao hàm ý nghĩa "duyệt sở hoài". Thế nào gọi là "duyệt sở hoài"? Tức là nói ra những điều mà trong lòng mình ưa thích, và một khi đã nói ra rồi thì càng cảm thấy hoan hỷ vui vẻ hơn.

"Tứ Thập Nhị Chương" nghĩa là bốn mươi hai chương. Bộ kinh này có bốn mươi hai chương. Đó là bốn mươi hai đoạn ngữ lục của Đức Phật và cũng là bốn mươi hai chương Phật pháp do chính Đức Phật tuyển thuyết.

"Kinh" có bốn ý nghĩa là: Quán (kết nối), Nhiếp (thâu về), Thường, và Pháp.

1. "Quán" là "quán xuyên sở thuyết nghĩa"; nghĩa là nối kết những nghĩa lý đã được thuyết giảng lại với nhau. Cũng giống như tràng chuỗi niệm Phật, các đạo lý trong Kinh được liên kết với nhau từng chữ, từng chữ một.

2. "Nhiếp" là "nhiếp trì sở hóa cơ" nghĩa là thâu phục, dẫn dắt tất cả chúng sanh có căn cơ và đã sẵn sàng để đón nhận sự giáo hóa.

3. "Thường". Thế nào gọi là "thường"? "Cổ kim bất biến viết thường", nghĩa là từ xưa đến nay không hề biến đổi thì gọi là "thường". Những đạo lý chứa đựng trong Kinh vốn bất biến - trong quá khứ đã không thay đổi, ngay hiện tại cũng không thay đổi, và trong tương lai cũng sẽ không thay đổi, cho nên gọi là thường.

4. "Pháp". "Tam thế đồng tuân viết Pháp", nghĩa là những gì mà tam thế đều đồng tuân theo thì gọi là "Pháp". "Tam-thế" là ba đời: Quá khứ, hiện tại và vị lai. Tất cả chúng sanh trong ba đời đều tôn thờ và noi theo giáo pháp trong Kinh mà tu hành.

Chữ "Kinh" còn bao hàm nhiều ý nghĩa khác như:

-Suối phun (dũng tuyền). Vì các đạo lý hàm chứa trong Kinh chẳng khác nào những mạch nước ngầm tuôn ra từ lòng đất cho nên Kinh cũng ví như suối phun vậy.

-Dây mực (thằng mặc). Kinh tựa như sợi dây có chấm mực mà thợ mộc thường dùng để vẽ đường thẳng. Tỷ dụ biểu thị Kinh là tiêu chuẩn mẫu mực của pháp.

Ngoài ra, vì Kinh dạy người đời phương pháp tu hành, cho nên "Kinh" cũng có nghĩa là "con đường" (kính lộ) - con đường tu hành.

Trên đây là phần giải thích sơ lược về đề mục của bộ Kinh Phật Thuyết Tứ Thập Nhị Chương.

Dịch Giả

Nhà Hậu Hán, Ca-Diếp-Ma-Đằng (Kashyapa-maganta) và Trúc-Pháp-Lan (Gobharana) cùng dịch

Bộ kinh này là bộ kinh đầu tiên của Phật giáo được truyền từ Ần-Độ đến Trung Hoa, nên cần phải được phiên dịch sang Hoa-văn. Nhà Hậu Hán, Ca-Diếp-Ma-Đằng và Trúc-Pháp-Lan cùng dịch. Ca-Diếp-Ma-Đằng là một người, và Trúc-Pháp-Lan là một người khác nữa; cả hai Ngài đều là người miền Trung Ần. Bấy giờ, nhằm đời nhà Hậu Hán, hai người đã cùng nhau dịch bộ Phật Thuyết Tứ Thập Nhị Chương Kinh này sang tiếng Trung-Hoa.

Triều đại nhà Hán gồm có Tây-Hán1 và Đông-Hán2; và nhà Hậu-Hán tức là nhà Đông-Hán. Năm Vĩnh Bình thứ ba3, đời vua Minh-Đế nhà Đông-Hán (Vĩnh-Bình là niên hiệu của triều vua Hán Minh-Đế, và bấy giờ là năm thứ ba của triều đại ấy), là nhằm năm Canh-thân. Vào năm Canh-thân này, một hôm, vua Hán Minh-Đế bỗng mộng thấy một người vàng (Kim-nhân) trên đỉnh đầu có vầng hào quang hình tròn sáng chói, từ không trung bay thẳng vào Hoàng-cung. Hôm sau, nhà vua bèn hỏi ý kiến các quan văn võ đại thần trong triều về điềm chiêm bao ấy.

Bấy giờ, trong triều có quan Thái-sử tên là Phó Nghị tâu rằng: "Hạ thần nghe nói là về phía tây tại nước Ần Độ, có một vị thần được mọi người tôn xưng là Phật. Nay người vàng mà Bệ hạ mộng thấy ấy nhất định là Phật rồi!" Tiếp đến, có một vị Học-giả tên Vương Tuân cũng tâu với vua rằng: "Nhà Chu có truyền lại một bộ sách tên Dị Ký, trong đó ghi chép toàn những sự kiện kỳ lạ, đặc biệt."

Sách ấy ghi chép những gì? Trong bộ sách của nhà Chu ấy ghi chép rằng:

"Phật đản ư Chu-Chiêu-Vương nhị thập lục, niên Giáp-dần. Thời, giang hà phiếm dật, đại địa chấn động, ngũ sắc tường quang quán Thái-vi tinh."

Nghĩa là: Đức Phật ra đời vào năm thứ 26 của triều đại Chu Vương4, và năm ấy là năm Giáp-dần. Lúc bấy giờ, tức là khi Đức Phật đản sanh, thì mực nước ở các sông hồ đều dâng cao và chảy tràn ra khỏi bờ, cả mặt đất đều rung chuyển. Đồng thời, trên trời có đạo hào quang năm màu báo điềm lành phóng xuyên qua sao Thái Vi.

Đương thời có viên quan Thái-sử (Thái-sử là chức quan trông coi về Thiên-văn học và khoa Toán-số) tên Tô Do. Thái-sử Tô Do dùng Kinh Dịch để bói quẻ; và vừa gieo thì được ngay quẻ Càn Cửu-ngũ, tức là quẻ Phi long tại thiênỂ (rồng bay giữa trời). Căn cứ vào quẻ này, quan Thái-sử chiêm đoán rằng có bậc Thánh nhân vĩ đại ra đời tại nước Ần Độ và sau khi xuất thế, vị Thánh nhân này sẽ đi truyền bá một giáo pháp mà khoảng một ngàn năm sau, giáo pháp ấy sẽ được truyền đến Trung Hoa. Vua Chu-Chiêu-Vương liền sai người ghi chép và khắc những dữ kiện ấy vào đá, rồi truyền đem chôn ở cổng thành phía nam. Nhà vua dự tính rằng như thế đời sau sẽ có bằng chứng để kiểm nghiệm, xem có đúng là một ngàn năm nữa thì giáo pháp ấy (tức là Phật giáo) sẽ được truyền đến Trung Hoa hay không.

Đến đời vua Chu-Mục-Vương, một hôm, cả đại địa bỗng nhiên rung chuyển và trên trời xuất hiện mười hai đạo bạch-hồng (chữ "hồng" này tức là chữ "hồng" trong từ ngữ "hồng-nghê" có được đề cập đến trong Kinh Lăng Nghiêm, và có nghĩa là mống vòng cầu). Đây là hiện tượng "bạch hồng quán nhật" tức là giữa ban ngày bỗng có mười hai mống cầu vòng màu trắng hiện ra, nằm bắt qua mặt trời; và hiện tượng này xảy ra lúc Đức Phật viên tịch. Tuy rằng Đức Phật viên tịch tại Ần Độ nhưng ở Trung Hoa cũng thấy được hiện tượng ấy. Như vậy, sự xuất thế của Đức Phật không phải là chuyện ngẫu nhiên hay tình cờ! Khi Đức Phật ra đời tại nước Ần Độ, thì ở Trung Hoa, mực nước của các sông, hồ đều dâng cao và chảy lênh láng ra khỏi bờ, toàn thể đại địa đều rung chuyển. Rồi đến khi Đức Phật viên tịch, ở Trung Hoa cũng thấy có mười hai mống cầu vòng màu trắng bắt qua mặt trời.

Lúc bấy giờ có viên Thái-sử tên Hỗ Đa cũng dùng Kinh Dịch để chiêm đoán. Sau khi gieo quẻ, Thái-sử Hỗ Đa thốt lên: "Ôi! Vị đại Thánh nhân ở Tây-Vực đã nhập diệt rồi!" Tức là, vị đại Thánh nhân ra đời tại nước Ần Độ vào năm Giáp-dần, đời vua Chu-Chiêu-Vương thứ 26 trước đây, nay đã nhập diệt đã vào cõi Niết-bàn rồi! Như vậy, tuy sự xuất thế và nhập diệt của Đức Phật đều xảy ra ở Ần Độ một quốc gia nằm cách nước Trung Hoa rất xa, nhưng ở Trung Hoa đều biết được cả. Đó là nhờ người Trung Hoa đương thời đã hiểu về Toán-số, nên đã có thể đoán biết được tình hình lúc ấy.

Tính từ đời vua Chu-Mục-Vương đến vua Minh-Đế nhà Hậu-Hán, thời gian cách nhau ước khoảng 1.000 năm. Nằm mộng thấy Đức Phật vào năm Vĩnh-Bình thứ 3, thì đến niên hiệu Vĩnh-Bình thứ 7, nhằm năm Giáp-tý, Hán-Minh-Đế truyền lệnh cho ba người là Thái-Ấm, Tần-Cảnh, và Vương-Tuân mang theo 18 người khác nữa, cùng nhau sang Ần Độ tìm cầu Phật pháp. Tại Trung Ần, họ gặp được Tôn giả Ca-Diếp-Ma-Đằng và Tôn giả Trúc-Pháp-Lan. Sau đó, hai tôn giả cùng theo phái đoàn của Thái-Ấm, Tần-Cảnh và Vương-Tuân trở về Trung Hoa. Tất cả về đến kinh đô Lạc-dương vào niên hiệu Vĩnh-Bình thứ 10, tức năm Đinh-mão. Vì lúc đến hai Ngài dùng ngựa trắng để chở kinh sách, nên vua Hán-Minh-Đế cho cất một ngôi chùa đặt tên là chùa Ngựa Trắng (Bạch Mã Tự).

Đến ngày mùng một tháng năm, niên hiệu Vĩnh-Bình thứ 14, thì nhóm đạo sĩ từ dãy Ngũ-nhạc-sơn5 của Trung Hoa rầm rộ kéo tới gây trở ngại cho Phật giáo. Và như đã tường thuật ở trên, họ đòi thiêu đốt kinh sách của đôi bên. Kết quả là tất cả kinh sách của Đạo giáo đều bị cháy sạch, trong khi kinh sách của Phật giáo thì lại không hề hấn gì cả! Xá lợi của Đức Phật còn phóng ra hào quang năm màu sáng rực cả bầu trời; và từ trên không trung, các đạo hào quang ấy kết tụ lại trông như một cái tàn khổng lồ bằng ánh sáng bao trùm lấy đại chúng! Trước cảnh tượng kỳ diệu ấy, mọi người đều đồng lòng kính tin Phật giáo.

 

kinh tựa

Kinh Văn:

Hán Văn: Thế Tôn thành Đạo dĩ, tác thị tư duy: "Ly dục tịch tịnh, thị tối vi thắng!" Trụ đại Thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc-dã uyển trung, chuyển Tứ-Đế-Pháp-Luân, độ Kiều-Trần-Như đẳng ngũ nhân, nhi chứng Đạo quả. Phục hữu Tỳ-khưu sở thuyết chư nghi, cầu Phật tiến chỉ. Thế-Tôn giáo sắc, nhất nhất khai ngộ, hiệp chưởng kính nặc, nhi thuận Tôn-sắc.

Dịch Nghĩa: Sau khi Đức Thế-Tôn thành Đạo, Ngài suy nghĩ rằng: "Xa lìa dục vọng, được sự tịch tịnh, là thù-thắng nhất!" Rồi Ngài trụ trong Đại Thiền-định mà hàng phục ma đạo. Tại vườn Lộc-dã, Ngài chuyển Pháp-luân Tứ Đế, độ nhóm năm người của Tôn giả Kiều-Trần-Như đều chứng được Đạo quả. Lại có thầy Tỳ-khưu bày tỏ các chỗ còn nghi ngờ, cầu Phật dạy bảo sự tiến chỉ. Đức Thế-Tôn ban giáo sắc khiến ai nấy đều được khai ngộ. Các ngài cung kính chắp tay vâng lời, tuân thuận sự chỉ dạy của Đức Thế-Tôn.

Lược giảng:

Sau khi Đức Thế-Tôn thành Đạo... "Thế-Tôn" là một trong mười danh hiệu của Phật; và ở đây, Đức Thế-Tôn chính là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Khi Đức Phật ngồi dưới cội cây Bồ-đề và nhân trông thấy vì sao sáng trong đêm tối mà ngộ đạo rồi, Ngài suy nghĩ rằng: "Xa lìa dục vọng, được sự tịch tịnh là thù thắng nhất!" Đức Phật tự nghĩ "Ta nên độ ai trước? Ta nên làm việc gì trước?". "Xa lìa dục vọng" nghĩa là không còn dục niệm, không còn cái pháp nhiễm ô, nhơ bẩn. "Được sự tịch tịnh" nghĩa là trở nên trong sạch, không có sự tạo tác, lúc nào cũng ung dung tự tại, như như bất động. Đó là điều thù thắng nhất, không thể nghĩ bàn nhất!

Rồi Ngài trụ trong Đại Thiền-định mà hàng phục ma đạo. Ở trong Đại Thiền-định là một điều hết sức thù thắng. Trong lúc an trụ trong Đại Thiền-định, Đức Phật có thể khiến cho tất cả bè lũ ma vương và kẻ ngoại đạo đều phải chịu đầu hàng, quy phục.

Tại vườn Lộc-dã. Sau khi nghĩ và quán xét, Đức Phật thấy rằng nhóm năm người của Tôn giả Kiều-Trần-Như cần được độ trước nhất, nên Ngài bèn đến ngay vườn Lộc-dã để gặp họ và tại nơi này, Ngài chuyển Pháp-luân Tứ Đế. Tứ Đế tức là Khổ, Tập, Diệt và Đạo. Trong đó, Khổ là quả thế gian, Tập là nhân thế gian, Diệt là quả xuất thế gian, và Đạo là nhân xuất thế gian. Khổ, Tập, Diệt và Đạo được gọi là Pháp Tứ Đế.

Sau khi thành Phật, Đức Phật thuyết Kinh Hoa Nghiêm để độ các vị pháp thân Đại sĩ. Ngài nhận thấy rằng hạng phàm phu chưa thể lãnh hội được giáo pháp vĩ đại này; thật là:

Hữu nhãn bất kiến Lô-Xá-Na,

Hữu nhĩ bất văn Viên-Đốn Giáo.

(Có mắt mà chẳng thấy được Phật Xá-Na,

Có tai mà chẳng nghe được giáo pháp Viên-Đốn!)

Vì thế, Đức Phật phải tìm đến vườn Lộc-dã. Khu vườn ấy sở dĩ được gọi là vườn Lộc-dã hay vườn Nai là vì có hai con Nai chúa sinh sống và giáo hóa cả đàn nai tại đó. Khi giảng Kinh Lăng Nghiêm, tôi đã thuật lại công án này rất cặn kẽ; quý vị nào muốn biết rõ thêm thì có thể tìm xem trong bộ Kinh Lăng Nghiêm Lược Giảng.

Lúc bấy giờ, cả năm Tôn giả: Mã-Thắng (Ashvajit), Tiểu Hiền (Subhadra), Ma-Ha-Nam (Mahanama-kulika), Kiều-Trần-Như (Ajnata-kaundinya) và Thập-Lực-Ca-Diếp (Dashabala-kashyapa) đều đang tu hành tại vườn Lộc dã. Năm người này truớc kia đều ở chung với Phật và đều là bà con thân thích của Ngài. Ba Tôn giả Mã-Thắng, Tiểu-Hiền và Ma-Ha-Nam là bà con bên nội của Phật; còn hai ông Tôn giả Kiều-Trần-Như và Thập-Lực-Ca-Diếp là bà con bên ngoại và đều là cậu của Phật. Năm người này vốn do phụ thân của Phật phái đến để hầu hạ Phật. Nhưng về sau, Tôn giả Kiều-Trần-Như và Thập-Lực-Ca-Diếp vì không chịu nổi sự khổ hạnh nên bỏ đi trước. Kế đến, ba Tôn giả Mã-Thắng, Tiểu-Hiền và Ma-Ha-Nam do thấy Phật thọ nhận bát cháo cúng dường của thiên nữ, ngỡ rằng Phật không thể nào tu khổ hạnh được nữa, nên cũng bỏ đi. Và, tất cả đều đi đến vườn Lộc-dã. Do đó, sau khi thành Đạo, Đức Phật liền đi tìm năm ông thị giả này và độ họ trước nhất.

Sau khi Đức Phật thành Đạo và thuyết xong Kinh Hoa Nghiêm, Ngài quán sát tất cả những cơ duyên cần phải độ, những chúng sanh cần phải cứu vớt. Khi biết được rằng nhóm năm người của Tôn giả Kiều-Trần-Như cần phải cứu độ trước nhất, Ngài liền tới ngay vườn Lộc-dã để chuyển Pháp-luân Tứ Đế.

"Chuyển" tức là triển-chuyển nghĩa là xoay vần, lăn chuyển không ngớt.

"Tứ Đế" là Khổ, Tập, Diệt và Đạo.

"Pháp" là phương pháp, phép tắc.

"Luân" nghĩa là bánh xe. Bởi các Pháp do Đức Phật thuyết giảng đều là từ trong tâm tánh của Ngài tuôn trào ra, rồi lại luân lưu vào tâm khảm chúng sanh, khiến cho chúng sanh thức tỉnh mà lìa bỏ bến mê để quay về bến giác, cho nên gọi là "luân". Chữ "luân" còn bao hàm ý nghĩa "tồi phục" - "tồi phá" làm bể nát; và "phục" là hàng phục, làm cho kẻ khác phải chịu đầu hàng, vâng theo. Bánh xe có thể nghiến dập nát và cán vỡ vụn những thứ cứng rắn, ngay cả sự kiên cố của ngoại đạo và ma vương! Đó là ý nghĩa của chữ "luân".

Pháp Tứ Đế là giáo pháp đầu tiên mà Đức Phật thuyết giảng ở thế gian này. Pháp luân Tứ Đế được chuyển ba lần, gọi là Tam Chuyển Pháp-luân Tứ Đế:

1. Thị chuyển Pháp-luân Tứ Đế: Lần chuyển thứ nhất gọi là Thị chuyển. "Thị" nghĩa là chỉ thị, chỉ bảo cho mà biết; bởi vì chúng ta không hiểu nên Đức Phật phải chỉ dẫn, phải nói cho chúng ta hiểu. Thế nào gọi là Thị chuyển? Đó là chỉ rõ, cho biết về Pháp Tứ Đế. Thị chuyển còn được gọi là Sơ chuyển (lần chuyển đầu tiên), bởi Đức Phật vừa bắt đầu chuyển Pháp luân. Bấy giờ Đức Phật dạy:

Đây là Khổ, tánh bức bách;

Đây là Tập, tánh chiêu cảm;

Đây là Diệt, tánh khả chứng;

Đây là Đạo, tánh khả tu.

"Đây là Khổ, tánh bức bách." Bức bách như thế nào? Cái Khổ rất lợi hại, nó làm cho quý vị cảm thấy khổ sở, đau đớn đến nỗi thở không ra hơi. Aịp bức, đè ép, dày vò con người một cách ghê gớm chính là tánh cách bức bách của Khổ. Có bao nhiêu thứ khổ? Có Tam Khổ (Ba mối khổ), Bát Khổ (Tám mối khổ) và vô lượng vô biên nỗi khổ khác nữa.

Tam khổ là ba nỗi khổ: Khổ-khổ, Hoại-khổ, và Hành-khổ.

a) Khổ-khổ: Thế nào là Khổ-khổ? Khổ-khổ tức là nỗi khổ này chồng chất lên nỗi khổ khác, trong mối khổ nọ còn thêm vào mối khổ kia. Thứ khổ này thường xảy đến cho hạng người nào?

Như có những người hết sức nghèo túng - họ nghèo nàn, túng thiếu đến độ ăn thì ăn không đủ no, mà mặc cũng mặc không đủ ấm, nên phải vừa chịu đói lại vừa chịu lạnh. Tuy vậy, họ vẫn có được một mái nhà lụp xụp bằng gỗ, nên mặc dù thiếu ăn thiếu mặc, nhưng đêm đến họ còn có nơi có chỗ mà ngủ; như thế, thiết tưởng cũng không đến nỗi tệ lắm! Thế rồi, rủi ro có cơn giông bão thổi qua hoặc trận mưa to trút xuống làm nhà cửa sập đổ ngổn ngang, khiến họ không còn nơi trú ẩn nữa. Đã ăn chẳng được no, mặc chẳng được ấm, bây giờ lại lâm vào cảnh màn trời chiếu đất, chẳng chốn nương thân! Quý vị thử nghĩ xem, như thế có phải là khổ hay không chứ?

Hoặc có người tuy có được chỗ ở và cũng được đủ ăn, nhưng lại không có đủ áo quần mà mặc; thì đó cũng là một cảnh ngộ của nỗi khổ này xen lẫn trong nỗi khổ khác. Hoặc là mặc dù có đủ áo quần đắp đổi và có chỗ ở hẳn hoi, song lại không có cơm ăn; thì đó cũng là một trong những tình cảnh của cái khổ nọ chồng chất lên cái khổ kia vậy!

Những trường hợp ấy cũng gọi là "bần cùng khốn khổ", nỗi khổ do sự nghèo nàn, túng quẫn gây ra. Nỗi khốn khổ vì bần cùng này thì không dễ gì mà chịu được, bởi nó bức bách, hành hạ con người một cách rất đáng sợ!

b) Hoại-khổ: Như vậy, kẻ giàu sang phú quý thì không khổ sao? Có chứ! Kẻ giàu sang thì phải chịu đựng Hoại-khổ, cái khổ vì sự suy tàn, lụn bại.

Như có người rất giàu sang, lắm bạc nhiều tiền, bị bọn cướp bắt cóc. Bọn chúng dò xét xem sản nghiệp của người ấy giá trị khoảng bao nhiêu - giả sử tài sản của người ấy ước chừng năm triệu đồng, thì chúng sẽ đòi tiền chuộc mạng là sáu triệu đồng. Như vậy, người ấy phải vay thêm một triệu đồng nữa mới đủ số mà dâng nạp cho bọn tống tiền để được thoát thân. Thế thì, đó không phải là sự phú quý đang bị hủy hoại, sụp đổ hay sao? Cho nên, đó gọi là "phú quý hoại khổ", nỗi đau khổ, xót xa vì sự suy sụp, tàn lụn của cảnh giàu sang!

c) Hành-khổ: Quý vị có thể không phải chịu đựng nỗi bần cùng khốn khổ và cũng không phải đương đầu với phú quý hoại khổ; thế nhưng, quý vị vẫn phải trải qua tiến trình của đời người - sanh ra rồi lớn lên, lớn lên rồi già đi, già rồi thì ắt chết, niệm niệm biến đổi, tưởng nghĩ liên tục, mải miết không ngừng. Đó gọi là Hành-khổ - nỗi khổ đau, dằn vặt bởi vì sự biến chuyển.

Đó là nói về Tam Khổ. Còn về Bát khổ, tức là tám nỗi khổ, thì gồm có:

Sanh khổ (nỗi khổ của sự sanh ra đời);

Lão khổ (nỗi khổ của sự già nua);

Bệnh khổ (nỗi khổ của đau ốm, bệnh tật);

Tử khổ (nỗi khổ của sự chết);

Ái biệt ly khổ (nỗi khổ vì phải xa lìa những gì mà mình yêu thích);

Oán tắng hội khổ (nỗi khổ vì phải gần gũi với những gì mà mình chán ghét)

Cầu bất đắc khổ (nỗi khổ do mong cầu mà không được toại ý);

Ngũ ấm xí thạnh khổ (nỗi khổ vì năm ấm1 hưng thạnh, thiêu đốt tâm thần.)

Vì ngoài các mối khổ này ra vẫn còn có vô số mối khổ khác nữa, nên Đức Phật dạy: "Đây là Khổ, tánh bức bách."

"Đây là Tập, tánh chiêu cảm." "Tập" ở đây tức là tập trung, tích lũy phiền não. Tích tập phiền não là một loại có tánh chiêu cảm. Một khi trong lòng chúng ta có phiền não, thì phiền não ở bên ngoài sẽ lũ lược kéo tới; và nếu thâm tâm quý vị chất chứa tham, sân, si, thì những chuyện không ưng ý từ bên ngoài sẽ đổ xô lại. Do đó, Đức Phật dạy: "Đây là Tập, tánh chiêu cảm."

"Đây là Diệt, tánh khả chứng." Diệt là tịch diệt. Tịch diệt (quietude) đem đến an lạc. Sự an lạc này mỗi chúng ta đều có thể chứng nghiệm được, bởi vì tánh nó là "khả chứng".

"Đây là Đạo, tánh khả tu." Ở đây, "Đạo" tức là Giới-đạo, Định-đạo và Huệ-đạo. Nói một cách chi tiết hơn, thì "Đạo" là Ba Mươi Bảy Phẩm Đạo, và đó là: Thất Bồ Đề, Bát Chánh Đạo, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, và Tứ Như Ý Túc. "Đạo" vốn tánh khả tu, nghĩa là quý vị đều có thể tu Đạo!

Trên đây là lần chuyển Pháp-luân Tứ Đế đầu tiên, và được gọi là Sơ-chuyển hay Thị-chuyển.

2. Khuyến-chuyển Pháp-luân Tứ Đế: Lần chuyển Pháp-luân Tứ Đế thứ nhì gọi là Khuyến-chuyển Pháp-luân Tứ Đế. Đức Phật dạy:

"Đây là Khổ, ông nên biết;

Đây là Tập, ông nên dứt;

Đây là Diệt, ông nên chứng;

Đây là Đạo, ông nên tu."

Đó là Khuyến-chuyển. Đức Phật khuyên nhủ, khuyến khích mọi người tu học Pháp Tứ Đế. Lần chuyển Pháp-luân Tứ Đế này được gọi là Khuyến-chuyển.

3. Chứng-chuyển Pháp-luân Tứ Đế:

"Đây là Khổ, Ta đã biết;

Đây là Tập, Ta đã dứt;

Đây là Diệt, Ta đã chứng;

Đây là Đạo, Ta đã tu."

Lần chuyển Pháp-luân Tứ Đế thứ ba Chứng-chuyển Pháp-luân Tứ Đế. Đức Phật dạy: "Ta không những chỉ dạy các ông nên nhận biết Khổ, dứt trừ Tập, mến chuộng Diệt và tu học Đạo, mà còn cho các ông biết rằng: "Đây là khổ, Ta đã biết. Đây là Tập, Ta đã dứt." Tập chính là phiền não và Ta đã cắt đứt phiền não rồi. Không phải là Ta bảo các ông dứt trừ phiền não còn riêng Ta thì khỏi phải đoạn tuyệt chúng đâu. Ta nay cảm thấy rất tự tại, thanh thản là nhờ đã dứt bỏ mọi phiền não. Cho nên, Ta khuyên các ông hãy dứt trừ phiền não và nhận thức cái khổ do phiền não mang lại. Đây là Diệt, Ta đã chứng. Ta đã chứng đắc trạng thái an lạc của sự tịch diệt rồi. Do đó, bây giờ Ta nói cho các ông biết là các ông cũng cần phải đạt được sự an lạc của cảnh giới tịch diệt. Đây là Đạo, Ta đã tu. Ta đã hoàn tất việc tu Đạo rồi, và Ta không cần phải tu thêm nữa. Giờ đây, Ta mong rằng tất cả các ông đều có thể nhận biết Khổ, dứt trừ Tập, mến chuộng Diệt và tu học Đạo."

Độ nhóm năm người của Tôn-giả Kiều-Trần-Như đều chứng được Đạo quả. Trong thời kỳ Tam chuyển Pháp-luân Tứ Đế, Tôn-giả Kiều-Trần-Như (A-Nhã Kiều-Trần-Như) vừa nghe được giáo pháp do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng là lập tức khai ngộ, chứng Thánh quả; do đó, Ngài được gọi là Giải-Bổn-Tế (hiểu rõ chỗ gốc) hay Tối-Sơ-Giải (hiểu trước nhất). Vì sao Tôn-giả Kiều-Trần-Như lại được khai ngộ trước tiên?

Trong thời quá khứ, khi Đức Phật Thích Ca còn ở nhân địa và là một tiên nhân tu hạnh nhẫn nhục, Ngài bị vua Ca Lợi chặt đứt cả hai tay và hai chân rồi hỏi rằng: "Tiên nhân có oán hận ta chăng?" Bấy giờ, Tiên Nhẫn nhục đáp: "Không oán hận!" Vua Ca Lợi gạn hỏi: "Vậy có gì có thể chứng minh là tiên nhân thực sự không sân hận?" Tiên Nhẫn nhục bèn lập nguyện: "Nếu tôi có lòng oán hận nhà vua, thì hai chân và hai tay này sẽ không bao giờ liền lại như xưa được nữa. Còn nếu tôi quả thật chẳng mảy may oán hận, thì những tay chân đã bị nhà vua chặt đứt sẽ mọc lại nguyên vẹn như trước!" Tiên nhân vừa dứt lời thì tứ chi liền mọc ra trở lại. Sau đó, Tiên Nhẫn nhục phát nguyện: "Nguyện rằng khi tôi thành Phật, tôi sẽ độ nhà vua trước nhất, bởi vì nhà vua đích thực là Thiện-tri-thức của tôi!"

Trong kiếp quá khứ ấy, Tôn giả Kiều-Trần-Như là vua Ca Lợi, còn vị Tiên Nhẫn nhục thuở đó nay là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Vì thế mà sau khi thành Phật, Đức Phật ngẫm nghĩ: "Ta nên độ ai trước bây giờ? À, phải rồi! Ta cần phải độ kẻ đã chặt đứt tay chân Ta thuở nọ trước nhất!" Và, khi Đức Phật đến thuyết pháp cho Tôn giả Kiều-Trần-Như nghe thì Tôn giả liền khai ngộ.

Tiếp đến, Đức Phật giảng về trì Giới, bố thí như thế nào, làm sao để giữ Giới - và làm thế nào để được sanh lên cõi trời. Ngài mạnh mẽ bài bác dục-vọng: "Có dục niệm là không đúng, là không trong sạch. Phải trừ bỏ dục vọng thì mới được thanh tịnh, và mới có thể đạt được sự an vui chân chánh!" Ngay lúc đó, cả hai Tôn giả A-Bệ-Bà (tức Tỳ-khưu Mã-Thắng) và Bạt-Đề (tức Ngài Tiểu-Hiền) đều khai ngộ. Đây là đợt khai ngộ thứ nhì.

Rồi Đức Phật lại thuyết giảng vô số pháp môn khác, và khi ấy, hai Tôn giả Câu-Lợi (tức Ngài Ma-Ha-Nam) và Thập-Lực-Ca-Diếp cũng đều khai ngộ. Đó là đợt thứ ba.

Như vậy, năm Tôn giả này là những người đầu tiên xuất gia làm Tỳ-khưu, đồng thời cũng là những người khai ngộ và chứng được Tứ quả A-la-hán trước nhất. Vì thế, trong kinh chép là: "Độ nhóm năm người của Tôn giả Kiều-Trần-Như đều chứng được Đạo quả."

Lại có thầy Tỳ-khưu bày tỏ các chỗ còn nghi ngờ. Sau đó, có nhiều thầy Tỳ-khưu khác hướng về Phật mà thỉnh Pháp, xin hỏi Phật về những chỗ nghi nan, khúc mắc và những đạo lý mà họ chưa hiểu rõ, và cầu Phật dạy bảo sự tiến chỉ. Các thầy Tỳ-khưu xin Phật quyết định giùm, xem trong việc hành trì đó họ nên tiến tới hay nên dừng lại. Họ thỉnh cầu Phật ban cho họ một sự quyết định.

Đức Thế Tôn ban giáo sắc. Đức Thế Tôn tức là Đức Phật, "Giáo" là giáo hóa, và "Sắc" là sắc lệnh. Đức Phật ban hành mệnh lệnh để dạy bảo cảm hóa họ.

Khiến ai nấy đều được khai ngộ. Đức Phật khai thị và giáo hóa họ, nên thầy Tỳ-khưu nào cũng khai ngộ cả. Sau đó, các ngài cung kính chắp tay vâng lời, tuân thuận sự chỉ dạy của Đức Thế Tôn. Ai nấy đều chắp tay lại, kính cẩn vâng theo lời dạy của Đức Thế Tôn và tùy thuận theo những đạo lý do Ngài chỉ dạy mà tu hành.

Vì cứ đinh ninh rằng mọi người đều hiểu rõ ý nghĩa của từ ngữ "Tỳ-khưu" rồi, nên tôi đã bỏ qua, không giải thích. Tôi cũng không ngờ là có người vẫn còn chưa hiểu lắm.

"Tỳ-khưu" (Bikshu) vốn là tiếng Phạn, và có ba nghĩa: Phá-ác, Bố-ma, và Khất-sĩ. Vì bao hàm tới ba nghĩa, cho nên nếu dịch "Tỳ-khưu" là Khất-sĩ thì thiếu mất nghĩa Phá-ác và Bố-ma; mà nếu dịch là Phá-ác thì lại thiếu mất nghĩa Bố-ma và Khất-sĩ. Như vậy, từ ngữ "Tỳ-khưu" thuộc loại chứa đựng nhiều nghĩa và do đó không cần dịch ra. Đây là một trong năm loại từ ngữ không nên phiên dịch.

Có năm loại từ ngữ mà khi phiên dịch kinh điển chúng ta không nên dịch ra đó là:

1. Đa hàm bất phiên (từ ngữ nào bao hàm nhiều nghĩa thì không nên dịch):

2. Tôn trọng bất phiên (từ ngữ nào được dùng vì sự tôn trọng thì không nên dịch);

3. Thử phương vô bất phiên (những từ ngữ chỉ các thứ mà nơi này không có thì không nên dịch);

4. Thuận cổ bất phiên (những từ ngữ được dùng là do tùy thuận theo lề lối xưa thì không nên dịch);

5. Bí mật bất phiên (từ ngữ nào chứa đựng các ý nghĩa bí mật thì không nên dịch).

Vậy, do có ba nghĩa nên từ ngữ "Tỳ-khưu" được giữ nguyên theo âm tiếng Phạn (Bhikshu) và không dịch ra. Ba nghĩa của từ ngữ "Tỳ-khưu" là:

1. Phá-ác. Chúng ta có phiền não, đó là ác. Tỳ-khưu là người phá hủy cái ác.

2. Khất-sĩ (người đi xin). Tỳ-khưu là người:

Thượng khất Pháp ư chư Phật,

Hạ khất thực ư chúng sanh.

(Trên, xin Pháp của chư Phật,

Dưới, xin cơm của chúng sanh.)

Thầy Tỳ-khưu xin Pháp của chư Phật để làm tăng trưởng huệ-mạng của mình, và xin thức ăn của chúng sanh là để giúp chúng sanh trồng ruộng phước.

3. Bố-ma. Khi giới-tử lên giới đàn để thọ Giới Tỳ-khưu, thì vị Hòa thượng Đắc-giới hỏi: "Ngươi có phải là bậc đại-trượng phu không?" Giới tử dõng dạc đáp: "Vâng, con là một đại-trượng phu!" Câu trả lời ấy khiến cho hết thảy thiên ma ngoại đạo đều sợ hãi; cho nên Tỳ-khưu được gọi là người làm cho chúng ma khiếp sợ.

Khi xuất gia làm Sa-di thì phải biết ý nghĩa của từ ngữ Sa-di và Tỳ-khưu. Sau khi xuất gia, người Tỳ-khưu cần phải biết làm thế nào để phá hủy cái ác và làm thế nào để đoạn trừ phiền não. Phá hủy cái ác tức là đoạn trừ phiền não. Phiền não của mỗi người chúng ta là thứ ác độc nhất.

Muốn biết một người nào đó có tu đạo hay không, quý vị chỉ cần xét xem người ấy có còn tánh nóng nảy hay không là biết được ngay. Người có tánh nóng nảy, dễ nổi giận, là người không tu đạo! Phàm những người có tu đạo thì gặp bất cứ chuyện gì họ cũng nhẫn nhịn, cũng chịu đựng được cả. Ai mắng họ, họ cũng nhẫn nhục được; ai đánh họ, họ cũng nhẫn nhịn được; thậm chí có ai giết chết họ, họ cũng vẫn nhẫn chịu được như thường! Bởi đó là những sự việc mà chúng ta cần phải nhẫn nại, cố gắng chịu đựng! Ngoài sự nhẫn nhục, chúng ta còn cần phải có trí huệ, cần phải có khả năng nhận thức.

Tỳ-khưu là một biểu hiện của tướng xuất thế. Thầy Tỳ-khưu có thể "đoạn hoặc, chứng chân" - đoạn trừ các mối hoặc của Tam Giới và chứng đắc quả vị A-la-hán chân chánh. Hôm nay e rằng không đủ thì giờ, tôi nghĩ là phần Tỳ-khưu Chứng Quả đành phải để sang ngày mai giảng tiếp vậy!

Tại đây có một Phật-tử học Phật pháp cũng đã được bốn, năm năm nay rồi, mà mãi đến bây giờ mới được đặt chân đến ngưỡng cửa Chùa Kim Sơn. Người này đã phải tìm kiếm trong bao nhiêu năm trời mới tìm ra được Chùa Kim Sơn. Thật là không phải dễ! Có rất nhiều người cũng lặn lội khắp nơi tìm học Phật pháp như thế, nhưng không tìm thấy được một nơi chân chánh để theo học. Vì vậy, những người từng đến Chùa Kim Sơn đừng nên cho rằng đó là một việc quá đơn giản, quá dễ dàng. Không dễ gì mà đến được Chùa Kim Sơn đâu! Tất cả quý vị cần phải đặc biệt lưu ý điều này.

 

chú thích:

Đề Mục:

-Kết tập Kinh Tạng: Cuộc nhóm hợp lớn lao và chính thức của Giáo Hội Phật Giáo để soạn và duyệt kinh điển nhà Phật.

-Ngữ lục: Sách ghi chép những lời nói hay ho, thâm thúy.

-Đạo Giáo (hay Đạo Lão): Tôn giáo thờ Thái Thượng Lão Quân (Lão Tử) làm vị Nguyên Thủy Thiên Tôn, do Trương Đạo Lăng đời nhà Hán đề xướng. Lão Tử chủ trương rằng Đạo là hư vô, vạn vật đều do Đạo sinh ra, và muốn đạt đến mục đích của Đạo Giáo thì phải "thanh tịnh, vô vi," nghĩa là phải giữ cho lòng được trong sạch, yên lặng một cách tự nhiên. Những người học theo Đạo Giáo được gọi là Đạo sĩ.

-Phép Độn-giáp: Phương pháp suy đoán vận số đoán biết việc tương lai bằng cách dựa theo Lục-giáp tuần hoàn.

-Nhị thừa: Hai cỗ xe; tức là hai giáo pháp Thanh Văn thừa (dạy về Tứ Diệu Đế để đắc quả A-la-hán), và Duyên-Giác thừa hay Bích-Chi-Phật thừa (dạy về Thập Nhị Nhân Duyên; giáo-pháp của người tự tu và tự ngộ quả Duyên-giác hay Độc-giác). Đối với Đại-thừa hay Bồ-tát thừa thì Nhị-thừa cũng là Tiểu thừa.

-Nhà Hán (206BC-AD220):

Nhà Tiền-Hán, cũng gọi là nhà Tây-Hán (206BC-AD24), do Hán-Cao-Tổ Lưu-Bang lập ra, truyền đến Hán-Bình-Đế thì bị mất về tay Vương-Mãn. Tính ra nhà Tiền-Hán trải qua 12 đời vua, trị vì được 210 năm, kinh đô đặt tại Trường-An (tỉnh Thiểm-Tây, Trung-Hoa).

Nhà Hậu Hán hay Đông Hán (25-220). Hán-Quang Võ Lưu-Tú giết Vương-Mãn, gây dựng lại cơ nghiệp nhà Hán và dời đô về Lạc-dương (tỉnh Hà-Nam, Trung Hoa). Nhà Hậu-Hán truyền được 12 đời vua và trị vì được 196 năm thì bị mất về tay nhà Ngụy.

-Kinh Dịch: Sách giải thích về các lẽ biến hóa trong vũ trụ.

Nguyên vua Phục-Hy đặt ra tám quẻ biến đổi gọi là Bát quái; sau đó, Văn-Vương soạn ra lời Soán (đoán) để giải rõ ý nghĩa trong quẻ, và Chu-Công làm thêm lời Hào. Về sau Khổng Tử thể theo các ý đó mà giải thích rộng ra cho dễ hiểu, và gọi là Kinh Dịch, tức là quyển sách chủ yếu nói về sự thay đổi. Chữ "Dịch" bao gồm ba ý nghĩa là bất dịch (không thay đổi), giao-dịch (trao đổi cho nhau), và biến-dịch (biến-hóa thay đổi).

-Quẻ Càn: Quẻ đầu tiên trong tám quẻ Bát Quái (Càn, Khôn, Ly, Khảm, Chấn, Tốn, Cấn, Đoài). Càn là Trời; quẻ Càn tiêu biểu cho tánh tình của Trời, hoàn toàn dương-cương, trung-chính, và thông-thái, có tài đức.

-Cửu Ngũ-Phi Long Tại Thiên, Lợi Kiến Đại Nhân (9:5 Rồng bay giữa trời, may gặp đại-nhân):

Cửu (9) là hào dương và Ngũ (5) là vị dương; dương hào ở dương vị là đắc chính. Quẻ Càn Cửu Ngũ tượng trưng cho sự cương-kiện và đức tánh trung-chính của bậc đại-nhân ở địa vị cao quý nhất, tượng trưng cho con rồng bay giữa trời; đây là một hào tốt nhất.

Hào Cửu Ngũ tượng rồng bay;

Đức Trời tròn vẹn đứng ngay ngôi Trời.

Bậc đại-nhân Cữu Ngũ có đức lớn như trời đất, sáng suốt như mặt trời mặt trăng, khéo sắp xếp mọi việc có thứ tự trước sau như thời tiết bốn mùa, biết được việc lành dữ in như quỷ thần, đón biết được ý Trời và làm trước mà Trời vẫn phải nghe theo, thấy được ý Trời đã rõ nên dù làm theo sau Trời mà lại như Trời làm. Đối với bậc đại-nhân như thế, Trời hãy còn nghe theo huống gì là người và quỷ thần? (theo Chu-Dịch, Sào Nam Phan-Bội-Châu, trang 6).

Kinh Tựa:

-Đại Định: Sự quán tưởng bền bỉ, lâu dài, thân tâm chẳng hề động đậy, chỉ chuyên chú vào một cảnh. Đây là sự Định của bậc thành Đạo.

-Pháp thân Đại-sĩ: Hàng Bồ Tát.

-Đức Phật Tỳ-Lô-Xá-Na (Vairochana Buddha): Dịch là Đại-Nhật-Phật, là vị Giáo chủ của cõi Tịnh Độ Liên Hoa Đài Tạng ở phương Đông (đối với cõi Ta Bà của Đức Phật Thích-Ca).

-Viên-đốn Giáo: Thứ giáo pháp viên mãn, đầy đủ, mà lại mau lẹ. Đây là giáo lý của tông Thiên-Thai, dạy cho đầy đủ một cách cấp tốc, dạy cho mau chóng thành Phật, chứ không dạy lần lược từ Tiểu-thừa rồi mới đến Đại-thừa.

-Lộc-dã uyển: Một khu vườn ở gần thành Ba-la-nại. Cũng gọi là Lộc-dã viên, Lộc-uyển, Lộc-viên, vườn Lộc-dã, vườn Lộc, hay vườn Nai.

-Tứ Niệm Xứ: Bốn phép quán tưởng về bốn vô-thường, vô-lạc (khổ), vô-ngã, bất-tịnh:

-Thân niệm xứ, hay Quán thân bất tịnh.

-Thọ niệm xứ, hay Quán thọ thị khổ.

-Tâm niệm xứ, hay Quán tâm vô thường.

-Pháp niệm xứ, hay Quán pháp vô ngã.

-Tứ Chánh Cần (bốn pháp siêng năng chánh đáng):

-Vị sanh thiện căn, linh sanh (chưa sanh thiện căn thì làm cho sanh)

-Dĩ sanh thiện căn, linh trưởng (đã sanh thiện căn thì làm cho tăng trưởng)

-Vị sanh ác, linh bất sanh (chưa sanh ác thì làm cho không sanh).

-Dĩ sanh ác, linh tiêu diệt (đã sanh ác thì làm cho tiêu diệt).

-Tứ Như-Ý Túc (hay Tứ Thần Túc) là bốn phép thần-thông:

-Dục Như-Ý-Túc: Lòng muốn có phép thần thông.

-Niệm Như-Ý Túc: Lòng niệm thần thông.

-Tinh-Tấn Như-Ý-Túc: Giữ gìn ý tưởng luôn hăng hái, siêng năng.

-Tư-Duy Như-Ý-Túc: Suy nghĩ về thần thông, tham cứu đạo-lý.

-Ngũ-Căn: Tín, Tinh-Tấn, Niệm, Định, Huệ.

-Ngũ-Lực: (Năm Sức): Tín, Tinh-Tấn, Niệm, Định, Huệ.

-Thất Bồ-Đề Phần (Bảy Giác-Ngộ): Trạch-Pháp Giác, Tinh-Tấn Giác, Hỷ-Giác, Trừ-Giác, Xả-Giác, Định-Giác, Niệm-Giác.

-Bát Chánh Đạo (Tám Phần Chánh Đạo): Chánh-Kiến, Chánh-Tư-Duy, Chánh-Ngữ, Chánh-Nghiệp, Chánh-Mạng, Chánh-Tinh-Tấn, Chánh-Niệm, Chánh-Định.

-Đại Trượng Phu: Đại là lớn, trượng-phu là người trai tráng, hàng nam tử. Đại trượng-phu là bậc nam tử cao trổi hơn người thường về sức hùng dũng, phước đức, trí huệ.

 

Chương 1

Xuất Gia Chứng Quả

Kinh Văn:

Hán Văn: Phật ngôn: "Từ thân xuất gia, thức tâm đạt bổn, giải Vô-vi Pháp, danh viết Sa-Môn. Thường hành nhị bách ngũ thập giới, tiến chỉ thanh tịnh, vi tứ chân đạo hạnh, thành A-la-hán."

Dịch Nghĩa: Đức Phật dạy: "Những vị từ giả người thân để xuất gia, biết tường tận tâm tánh, thấu hiểu pháp Vô-vi, được gọi là Sa-Môn. Họ thường xuyên hành trì 250 giới, tiến chỉ thanh tịnh, tu hành bốn đạo hạnh chân chánh, nên được thành bậc A-la-hán."

Lược giảng:

Đây là chương đầu tiên trong số bốn mươi hai chương. Chương này nói rằng bậc Sa-Môn có thể chứng đắc quả A-la-hán.

Đức Phật dạy: "Những vị từ giả người thân để xuất gia..." Theo giáo pháp nhà Phật, khi kẻ làm con muốn xuất gia đi tu thì phải được sự ưng thuận của cha mẹ, chứ không như ở nước Mỹ, cứ trên mười tám tuổi là được tự do, muốn làm gì thì làm. Trước kia, vì tùy thuận theo phong tục quốc gia nên Phật giáo ở Trung Hoa và Ần Độ đòi hỏi kẻ làm con phải thưa rõ chí nguyện của mình với song thân và xin phép cáo từ: "Thưa cha mẹ, con đi xuất gia!" Đó gọi là "từ giả người thân." "Xuất gia" có nghĩa là hiến dâng cả thân, tâm và tánh mạng của mình cho Tam-Bảo, và vĩnh viễn không còn đa mang những công việc của người thế-tục nữa. "Từ giả người thân để xuất gia," tức là từ biệt cha mẹ để rời gia đình, đi đến nơi đạo-tràng của Phật, Pháp, Tăng mà tu học, gần gũi ngôi Tam-Bảo.

"Xuất gia" cũng có nghĩa là "Xuất thế tục gia" - ra khỏi cái gia đình của thế gian. Mỗi gia đình đều có những rắc rối riêng của nó, giữa bà con quyến thuộc với nhau lại thường hay xích mích, gây gỗ, chẳng có gì là thực sự vui vẻ, hạnh phúc cả. Vì thế, người ta muốn rời bỏ căn nhà thế-tục và cũng là nhà lửa này.

Lại nữa:

Tam giới vô an, do như hỏa trạch.

(Ba cõi không yên, giống như nhà lửa.)1

Cho nên "xuất gia" cũng bao hàm ý nghĩa "xuất tam giới gia" - ra khỏi căn nhà Dục-Giới, Sắc-Giới, và Vô-Sắc-giới.

"Xuất gia" còn có nghĩa là "xuất phiền não gia" - ra khỏi nhà phiền não. Vì những người còn chung sống với gia đình đều có phiền não, không được an vui thực sự, nên họ muốn xuất gia. Một khi đã xuất gia đi tu thì phải đoạn trừ phiền não và phát tâm Bồ-đề; như thế mới gọi là "xuất gia."

"Biết tường tận tâm tánh." Những vị từ giả thân nhân để đi tu ấy có thể nhận biết bổn tâm của chính họ một cách thấu đáo. Quý vị nên biết:

Tâm sanh, chủng chủng pháp sanh,

Tâm diệt, chủng chủng pháp diệt,

(Tâm sanh, các pháp đều sanh,

Tâm diệt, các pháp đều diệt!)

Ngoài tâm thì không có pháp, và ngoài pháp thì không có tâm. Tâm với pháp chẳng qua chỉ là một! Nếu biết rằng ngoài pháp vốn không có tâm, thì quý vị sẽ hiểu được tánh biến-kế-chấp, và như thế gọi là "thức tâm" - biết được bổn tâm của mình. Quý vị nên biết tâm và tánh xưa nay vốn không có thực thể, không có hình tướng. Nếu hiểu được đạo lý này, tất quý vị sẽ hiểu được rằng tánh y-tha-khởi là hư huyễn. Tánh biến-kế-chấp vốn là không, mà tánh y-tha-khởi cũng là giả tạm, hư huyễn - không có cái nào là thật sự tồn tại cả. Hiểu được như thế mới gọi là "thức tâm đạt bổn - biết tường tận tâm tánh." vậy!

"Thấu hiểu Pháp Vô-vi." Hiểu pháp Vô-vi tức là hiểu pháp Chân-như với tất cả các pháp không phải là một mà cũng chẳng phải là hai. Nếu quý vị hiểu được đạo lý này, tức là Chân-như cùng tất cả các pháp tuy không đồng một thể song cũng chẳng khác biệt gì nhau, tất quý vị sẽ hiểu được tánh viên-thành-thực, tỏ ngộ được bản-thể của mình. Đó gọi là "thấu hiểu Pháp Vô-vi" vậy.

"Được gọi là Sa-Môn." Nếu quý vị có thể làm được như thế - từ giả người thân để xuất gia, biết tường tận tâm tánh và thấu hiểu Pháp Vô-vi - thì quý vị mới xứng đáng để được mang danh hiệu Sa-Môn!

"Sa-Môn" là tiếng Phạn, và có nghĩa là "cần tức" (siêng năng, chấm dứt); đó là:

Cần tu Giới, Định, Huệ,

Tức diệt tham, sân, si.

(Siêng tu Giới, Định, Huệ,

Dứt sạch tham, sân, si.)

Sau khi xuất gia, quý vị không nên "siêng tu tham, sân, si; dứt sạch Giới, Định, Huệ." Nếu quý vị càng ngày càng không có trí huệ, càng ngày càng thêm ngu si, thì đó gọi là "siêng tu làm sao tham, siêng tu làm sao sân và siêng tu làm sao si!" Rồi hằng ngày, tham sân si thì không dứt bỏ được, mà Giới, Định, Huệ cũng chẳng chút tiến triển. Dần dần, quý vị không còn để tâm nghiên cứu xem mình cần phải tu hành như thế nào, phải trì Giới, tu Định, tu Huệ ra làm sao nữa; và những phiền não trong lòng quý vị cứ càng ngày càng gia tăng.

Vì sao lại ra nông nỗi như vậy? Đó là vì nghiệp chướng từ các đời trước của quý vị quá nặng nề. Các nghiệp báo quá nặng nề ấy đeo đuổi theo quý vị, xúi giục quý vị đừng phát Bồ-đề tâm, và xui khiến quý vị cứ xoi mói cái sai của kẻ khác! Từ sáng đến tối, quý vị cảm thấy mình là giỏi giang hơn ai hết, thậm chí còn tài ba lỗi lạc hơn cả thầy của mình nữa: "Thầy tôi không sánh kịp tôi đâu! Quý vị xem, tôi có biết bao là bản-lãnh. Có thể nói rằng trên trời, dưới trời, chỉ độc nhất mình tôi là tôn quý mà thôi!" Những kẻ có quan điểm như thế chắc chắn sẽ đọa lạc!

Đã nhiều phen tôi trông thấy trong chúng xuất gia của chúng ta ở đây, có người ngay cả chắp tay mà cũng không biết chắp sao cho đúng - chỉ úp hai bàn tay lại với nhau một cách lộn xộn, tùy tiện. Chắp tay thì phải chắp trước ngực, đằng này quý vị lại chắp tay trước mắt! Khi chắp tay, mười ngón tay đều phải chụm sát vào nhau, và để ngay ngắn đằng trước ngực; chứ chẳng có ai chắp tay như kiểu của quý vị cả! Xuất gia đã bao nhiêu năm mà ngay cả chắp tay cũng không biết cách chắp, lạy Phật cũng không biết cách lạy, thắp nén nhang cũng không biết cách thắp, thì chao ôi, thật là đáng thương lắm thay! Nếu tự mình không biết thì phải chú ý nhìn xem những người đã tu hành lâu năm, coi cách thức họ chắp tay như thế nào mà học theo đó cho đúng chứ!

Khi giảng Sa-Di Luật-Nghi, tôi có dặn quý vị là đừng thọc ngón tay vào lỗ mũi. Tại sao lại có chuyện đó được? Là vì quý vị chắp tay mà chắp quá cao, cho nên đầu ngón tay mới đụng phải mũi! Chắp tay thì phải chắp ở ngang tầm ngực, chứ không phải ngang miệng, không phải ngang mũi, và cũng chẳng phải ngang mắt. Chắp tay thì phải chắp ngay ngắn ở trước ngực! Nếu chỉ một việc nhỏ nhặt như vậy mà cũng không hiểu rõ, thì làm sao tu Đạo cho được chứ! Nếu cứ theo chiều hướng ấy, thì quý vị càng tu Đạo chỉ càng không hiểu Đạo mà thôi! Tu Đạo thì dứt khoát không được bê bối, không được cẩu thả; bởi hễ sơ xuất một chút là chẳng thể thành công, hễ "sai một ly là đi một dặm" ngay!

"Họ, các vị Sa-Môn, thường xuyên hành trì 250 giới." "Thường xuyên hành trì" có nghĩa là các ngài luôn luôn tu hành đúng theo giới luật và không hề phạm giới. Nhờ vậy, sở học về giới luật của họ được tăng trưởng.

"Tiến chỉ thanh tịnh" "Tiến" là hướng về phía trước mà làm; và "chỉ" là đình chỉ, ngừng lại. Bất luận quý vị đang làm hay không làm gì cả, bất luận là trong lúc động hay tĩnh, quý vị cũng phải thanh tịnh, trong sạch, chẳng có chút nhiễm ô, nhơ bợn.

"Tu hành bốn đạo-hạnh chân chánh." "Bốn đạo-hạnh chân chánh" chính là Pháp Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt và Đạo. Các vị Sa-Môn đều siêng năng tu học Pháp Tứ-Đế.

"Nên được thành bậc A-la-hán, chứng được Thánh-quả."

"A-la-hán" là tiếng Phạn, và có ba nghĩa. Vì chứa đựng tới ba nghĩa nên từ ngữ này được xếp vào loại "đa hàm bất phiên" (từ ngữ bao hàm nhiều nghĩa thì không phiên dịch); và do đó vẫn giữ nguyên lối phát âm theo tiếng Phạn là "A-la-hán (Arhat)." Trường hợp giữ lại âm tiếng Phạn này gọi là "phiên tự bất phiên âm" (dịch chữ, không dịch âm) - tức là chữ thì dịch nghĩa sang Hán-văn, còn âm thì vẫn giữ theo cách phát âm của Phạn ngữ.

"A-la-hán" có ba nghĩa là Sát-tặc, Ứng-cúng và Vô-sanh.

1. Sát-tặc (kẻ giết giặc). Bậc A-la-hán rất lợi hại, hễ nơi nào có giặc cướp thì các Ngài liền tìm đến tận nơi để tiêu diệt bọn chúng. Song, như thế chẳng phải là các ngài đã phạm giới sao? Không phải! Bởi vì Ềsát-tặcỂ ở đây không phải là giết những tên giặc ở ngoài, mà giết bọn giặc phiền não ở bên trong! Tại sao lại có bọn giặc ở bên ngoài? Là vì có bọn giặc phiền não, có bọn giặc tham sân si chực sẵn ở bên trong! Tâm tham là một tên giặc, tâm sân là một tên giặc, và tâm si cũng là một tên giặc - đó là những tên giặc cần phải bị tiêu diệt. Vậy, nghĩa thứ nhất của từ A-la-hán là "sát-tặc."

2. Ứng-cúng. "Ứng cúng" nghĩa là xứng đáng để thọ nhận sự cúng dường của trời và người. Bậc A-la-hán đã chứng quả vị chính là một đấng Thánh-nhân đã khai ngộ. Người nào cúng dường cho một bậc A-la-hán, thì sẽ được vô lượng vô biên phước báo, không có cách gì tính đếm cho xuể!

Tỳ-khưu là nhân mà A-la-hán là quả. Làm Tỳ-khưu tức là gieo cái nhân thành A-la-hán, và thành A-la-hán là kết quả của việc đã làm Tỳ-khưu. Do đó, khi là Tỳ-khưu ở nhân địa, thầy Tỳ-khưu trồng nhân là Phá-ác thì sẽ được quả là Sát-tặc, nhân là Khất-sĩ thì quả là Ứng-cúng, và nhân là Bố-ma thì quả là Vô-sanh.

3. Vô-sanh. Thế nào gọi là "Vô-sanh" tức là "liễu sanh tử," có nghĩa là sự sanh tử đã kết thúc, không còn cái khổ của sự sanh ra và chết đi nữa. Tuy nhiên, sự sanh tử mà các bậc A-la-hán dứt được là Phần-đoạn Sanh tử, còn Biến-dịch Sanh tử thì các ngài vẫn chưa dứt được, do đó các ngài chỉ thành A-la-hán mà thôi.

Các bậc Sa-Môn hành trì 250 giới của Tỳ-khưu (hoặc 348 giới của Tỳ-khưu ni) tức là làm cho sự học hỏi về Giới của họ được thành tựu, giữ gìn sự thanh tịnh trong mọi việc, mọi lúc, tức là làm cho sự học hỏi về Định được thành tựu, và tu tập bốn đạo-hạnh chân chánh tức là làm cho sự học hỏi về Huệ được thành tựu. Khi việc tu học Giới Định Huệ được viên mãn, thì tham, sân, si cũng bị trừ sạch. Dứt sạch tham, sân, si, thì chứng được quả vị A-la-hán.

Quả vị A-la-hán có tất cả bốn bậc; đó là Sơ quả A-la-hán, Nhị quả A-la-hán, Tam quả A-la-hán và Tứ quả A-la-hán. Phải chứng được Tứ quả A-la-hán thì mới chính thức chấm dứt sanh tử!

 

Hán Văn: "A-la-hán giả, năng phi hành biến hóa, khoáng kiếp thọ mạng, trú động thiên địa."

Dịch Nghĩa: "Các bậc A-la-hán đều có thể phi hành, biến hóa, có thọ mạng lâu dài tới cả khoáng kiếp và làm động trời đất nơi họ an trụ."

Lược giảng:

"Các bậc A-la-hán có thể phi hành, biến hóa." Thế nào gọi là "A-la-hán"? Vừa rồi, chúng ta nói đến Tứ quả A-la-hán. Chứng đắc được quả vị thứ tư trong hàng A-la-hán tức là ở vào vị trí không cần phải học nữa, nên gọi là Vô-học-vị. Riêng các bậc A-la-hán từ Sơ-quả đến Tam-quả thì đều ở vị trí còn phải học hỏi thêm, gọi là Hữu-học-vị. Tứ-quả A-la-hán còn được gọi là Chứng-Đạo-vị, tức là vị trí đắc Đạo; Nhị-quả và Tam quả thì đều được gọi là Tu-Đạo-vị, tức là vị trí đang còn tu Đạo; và Sơ-quả thì được gọi là Kiến-Đạo-vị, vị trí thấy được Đạo.

Phần sau của Kinh Phật Thuyết Tứ Thập Nhị Chương này có dạy rằng:

"Thận vật tín nhữ ý, nhữ ý bất khả tín."

(Hãy thận trọng, chớ tin nơi ý nghĩ của ông; ý nghĩ của ông chẳng thể tin được.)

Quý vị cần phải đặc biệt lưu tâm, đừng nên tin tưởng ý niệm của mình. Mọi ý niệm của quý vị đều không đáng tin cậy! Phải chứng được quả A-la-hán rồi, thì mới tin được ý mình. Chỉ khi nào quý vị chứng được quả vị thứ tư của hàng A-la-hán, bấy giờ, quý vị mới có thể tin tưởng ở ý niệm của chính mình được. Bậc Thánh nhân đã chứng đắc Tứ-quả A-la-hán thì không còn ái dục - các ngài đều đã cắt được lòng tham ái và lòng tham dục.

Căn cứ vào đâu để biết được đó là một bậc Thánh nhân đã chứng đắc quả vị thứ tư của hàng A-la-hán? Khi bậc Thánh nhân hàng Tứ-quả bước đi, chân không hề chạm đất - bàn chân ngài thường ở cách mặt đất khoảng ba phân, vì như thế mới khỏi giẫm chết các côn trùng hoặc kiến. Ngài chẳng phải như phàm phu chúng ta, thường đạp chết côn trùng và kiến trên lối đi. Ngài không hề giẫm lên trùng và kiến ở dưới chân; điều này chứng minh rằng ngài đã chứng Thánh quả! Không những bậc Thánh nhân ở hàng Tứ-quả, mà ngay cả các bậc ở hàng Sơ-quả cũng có được khả năng ấy; cho nên trong Kinh mới dạy rằng: "Các bậc A-la-hán đều có thể phi hành, biến hóa." Các bậc Tứ-quả A-la-hán muốn đến nơi nào là có thể đến ngay nơi đó, và các ngài đều có khả năng biến hóa khôn lường.

Lúc ở Đài Loan, tôi có viếng thăm ngài Quảng-Khâm, một vị sư tu hành đã lâu năm. Khi tôi tỏ ý mời ngài sang Mỹ, thì ngài chỉ vào ngực mình và nói rằng ngài có thể đến bất cứ lúc nào ngài muốn! Ngài muốn đến là đến được; và ngài tự biết mình có đến, chứ người khác thì vẫn không hay biết gì cả. Chỉ những người đã khai nhãn mới có thể thấy được là ngài có đến mà thôi.

Các bậc Tứ-quả A-la-hán không những chỉ có khả năng chuyển dịch tinh thần mà còn có thể chuyển dịch cả nhục thể của các ngài đến bất cứ nơi nào tùy ý nữa. Các ngài không cần mua vé máy bay, mà chỉ du hành trong không trung; cho nên nói: "Có thể phi hành, biến hóa." Các bậc A-la-hán có mười tám phép biến hóa, và những phép biến hóa ấy đều bất khả tư nghì.

"Có thọ mạng lâu dài tới cả khoáng kiếp." "Khoáng kiếp" tức là trường-viễn-kiếp, và cũng là vô-lượng-kiếp; nghĩa là quãng thời gian lâu xa, không thể nào tính đếm được. Các bậc Tứ-quả A-la-hán muốn sống bao nhiêu lâu cũng được, không trở ngại gì cả. Khi thân thể này hư hoại, già nua cằn cỗi, thì các ngài có thể đổi lấy một thân thể khác. Vì các ngài có thể thay đổi thân thể một cách rất dễ dàng, cho nên nói rằng các ngài "có thọ mạng lâu dài tới cả khoáng kiếp."

Các Thánh nhân chứng đắc Tứ-quả A-la-hán đều đạt được sự tự do về vấn đề sanh tử. Các ngài thật sự được tự do - muốn sống, thì cứ tiếp tục sống; muốn chết, thì bất cứ lúc nào cũng có thể chết được. Các ngài muốn chết đứng, thì đứng mà chết; muốn chết ngồi, thì ngồi mà chết; muốn chết khi đang đi, thì chết khi đang đi; muốn chết trong lúc ngủ, thì chết trong lúc ngủ! Các ngài rất tự do, không ai có thể cai quản được cả. Chính vì thế mà nói là các ngài "có thọ mạng lâu dài tới khoáng kiếp" và được gọi là bậc "Vô-sanh" - không sanh ra mà cũng chẳng chết đi!

"Và làm động trời đất nơi họ an trụ." Các bậc A-la-hán trú ngụ ở nơi nào, thì Thiên-thần và Địa-thần đều sanh lòng cảm động, và đều thọ nhận sự giáo hóa của các ngài; đó là ý nghĩa của câu "trụ động thiên-địa - làm rúng động trời đất nơi các ngài an trụ." Nơi nào các ngài an trụ cũng đều có Trời, Rồng, cùng Tám bộ chúng thường xuyên lui tới hộ pháp. Hễ nơi nào có một bậc A-la-hán an trụ, thì nơi đó rất bình yên, không hề có các loại tai nạn như gió lốc, gió xoáy, mưa bão, động đất, vỡ đê, sóng thần...xảy ra. Đó là vì các Thiện-thần và các vị Hộ-pháp luôn luôn ủng hộ bậc A-la-hán làm cho mọi việc có liên quan đến ngài đều được may mắn, thuận lợi.

Tuy nhiên, lắm lúc các bậc A-la-hán cũng gặp phải chuyện không may. Đó chính là "nghiệp-cảm sở hiện" - sự ứng hiện của những nghiệp chướng mà các ngài đã gây ra trong đời quá khứ. Thỉnh thoảng những tình cảnh như thế cũng có xảy ra. Bởi vì nếu sự tu hành ở nhân-địa không được viên mãn, thì lúc ở quả-địa sẽ phải chịu đựng nhiều khó khăn, gian khổ. Cho nên nói rằng:

Tu phúc bất tu huệ, tượng thân quải anh lạc,

Tu huệ bất tu phúc, La-hán ứng cúng bạc.

(Tu phước mà không tu huệ, thì cũng như thân voi đeo chuỗi ngọc;

Tu huệ mà không tu phước, thì chẳng khác nào vị La-hán ít được cúng dường.)

Có nhiều khi các bậc A-la-hán cũng không có cơm ăn, đi hóa duyên khất thực mà chẳng ai cúng dường cả! Đó là vì lúc ở nhân-địa các ngài chỉ biết tu huệ chứ không biết tu phước, nên sau khi chứng được quả vị A-la-hán, các ngài không có phước báo, rất ít người cúng dường các ngài!

Câu "Trụ động thiên địa" cũng có thể được giải thích theo cách khác: Bất luận bậc A-la-hán làm gì, nhất cử nhất động của các ngài cũng đều làm cho trời đất bị chấn động, rung chuyển!

Trên đây là phần giải thích vắn tắt của từ ngữ "A-la-hán."

Kinh Văn:

Hán Văn: "Thứ vi A-na-hàm. A-na-hàm giả, thọ chung linh thần thượng thập cửu thiên, chứng A-la-hán."

Dịch Nghĩa: "Thứ đến là A-na-hàm. Khi bậc A-na-hàm mạng chung, linh-thần sẽ lên trên cõi thứ mười chín, và chứng được quả-vị A-la-hán."

Lược giảng:

"Thứ đến là A-na-hàm." Vị trí mà bậc Tứ-quả A-la-hán chứng đắc là Vô-học vị (không học nữa); còn bậc Tam-quả A-na-hàm (Anagamin), bậc Thánh nhân chứng được quả vị thứ ba, thì vẫn còn ở vị trí Hữu học (còn phải học hỏi thêm). Bậc Nhị-quả Tư-đà-hàm đã đoạn trừ sáu phẩm tư-hoặc đầu của cõi Dục-giới, và vẫn còn phải tiếp tục đoạn trừ nốt ba phẩm tư-hoặc cuối nữa. Một khi đã đoạn trừ đi ba phẩm tư-hoặc cuối ấy, ngài sẽ đắc Tam-quả A-la-hán, thành bậc A-na-hàm. Bậc Thánh nhân chưa đoạn trừ được ba phẩm tư-hoặc cuối ấy, được gọi là Tư-đà-hàm.

"Khi bậc A-na-hàm mạng chung, linh-thần sẽ lên trên cõi trời thứ mười chín, và sẽ chứng được quả-vị A-la-hán." Linh thần này, nếu làm quỷ, tức là thuộc âm thì gọi là thân trung-ấm; còn nếu thuộc dương, thì gọi là linh-thần, linh-hồn, hoặc linh-tánh. Vì bậc A-na-hàm chưa chấm dứt được sanh tử, do đó, khi thọ mạng của ngài chấm dứt, linh thần của ngài sẽ thăng lên trên cõi trời thứ mười chín.

Từ cõi trời Tứ-thiên-vương đếm trở lên cho tới Vô-phiền-thiên; thì cõi trời Vô-phiền này là ở phía trên cõi trời thứ mười chín. Trên cõi trời thứ mười chín, bậc A-na-hàm sẽ chứng đắc quả-vị A-la-hán. Do đó, tên của ngài có nghĩa là Ềbất laiỂ (không trở lại). Ngài không còn trở lại cõi nhân-gian nữa! Đó là nói về vị A-na-hàm, bậc Thánh nhân chứng đắc quả vị thứ ba của hàng A-la-hán.

Vừa rồi, khi nghe nói là nơi nào có bậc A-la-hán an trụ thì nơi đó không có tai nạn, thì có nhiều người sanh lòng hoài nghi - họ nghi ngờ rằng nơi bậc A-la-hán an trụ có thể không được thanh bình, yên ổn! Tôi không giải đáp nghi vấn này cho quý vị; song, bây giờ tôi sẽ thuật lại một vài sự cảm ứng xảy ra trong cuộc đời của Lão Hòa-Thượng Hư-Vân tại nước Trung Hoa.

Có lần, trong thời kỳ chiến tranh Trung-Nhật, khi Lão Hòa Thượng Hư-Vân ở tại Chùa Nam Hoa (gần tỉnh Quảng-Đông), quân đội Nhật cho oanh tạc phi cơ dội bom khu vực ấy. Họ thả xuống mấy quả bom nhưng không có quả nào phát nổ cả!

Có người cho rằng đó chẳng qua chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên; song, nếu là tình cờ thì người khác cũng phải được gặp sự tình cờ ấy chứ! Nếu sự tình cờ không xảy đến cho quý vị, thì thế là thế nào? Còn nếu nói rằng "tình cờ" nghĩa là gặp phải lúc Nhật ném nhằm loạt bom không nổ, thế thì tại sao người khác lại không gặp được sự tình cờ như vậy! Tại sao sự tình cờ ấy chỉ xảy ra ở Chùa Nam Hoa mà thôi?

Một lần khác, khi Lão Hòa-Thượng Hư-Vân đang truyền Giới tại Chùa Vân-Thê ở tỉnh Vân-Nam, thì cây cối nơi ấy đều trổ hoa sen. Vì sao ở những nơi ngài không đến thì lại không có hiện tượng hoa sen nở rộ trên cây như thế? Chẳng những thế, trên các lá cây, lá rau mọc ở nơi đó đều có hiện lên hình tượng của Phật. Tuy nhiên, người đời vẫn không nhận biết được sức cảm ứng mạnh mẽ ấy, và vẫn cứ cho rằng đó chẳng qua chỉ là những điềm lành nhất thời mà thôi!

Lại nữa, khi Lão Hòa-Thượng Hư-Vân ở Chùa Nam-Hoa, có một cây bách chết đã mấy trăm năm bỗng dưng bừng sống trở lại và đâm chồi nẩy lộc rất tươi tốt. Đó quả là một cảnh giới không thể nghĩ bàn, tương tự như trường hợp con chồn trắng (bạch-hồ-ly) đến xin quy-y với ngài vậy.

Tất cả sự kiện này đều là những trường hợp bất khả tư nghì. Có điều, ngay lúc sự việc xảy ra thì người ta vẫn chưa nhận thức được vấn đề cho lắm; đợi đến khi Lão Hòa-Thượng Hư-Vân viên tịch rồi, thì ai nấy đều tán tụng, nói rằng Lão Hòa-Thượng là bậc Thánh nhân đã chứng quả, là đấng Bồ-tát tái thế! Chao ôi! Người đời là như thế cả - khi sờ sờ trước mắt thì để cho vuột mất; vuột mất rồi thì lại hối tiếc, ăn năn. Con người quả là những sinh vật ngu si, kỳ quặc!

Hiện nay, tại nước Mỹ, tôi muốn đào tạo nên những vị Phật sống, Bồ-tát sống, A-la-hán sống, cũng như A-na-hàm, Tu-đà-hàm và Tư-đà-hoàn. Người nào có thể dứt trừ lòng tham ái, thì người ấy sẽ có phần. Người nào không thể đoạn trừ lòng tham dục và tham ái - những kẻ chẳng có chút triển vọng nào cả - thì tôi cũng hết cách, không giúp đỡ gì được. "Tất cả đều do tâm tạo." - quý vị muốn làm quỷ thì làm quỷ, muốn làm Phật thì làm Phật, muốn làm người thì làm người, muốn làm súc sanh thì làm súc sanh - mọi sự đều tùy thuộc vào con đường mà tâm trí quý vị muốn hướng tới!

Quý vị chớ xem thường quyển Thập Pháp Giới Bất Ly Nhất Niệm Tâm (Mười Pháp-Giới Không Ngoài Một Niệm Tâm)! Trong tương lai, chừng một ngàn năm sau, có thể sẽ có rất nhiều người nhờ xem quyển sách này mà được khai ngộ! Đó là chuyện của tương lai. Hiện tại, vẫn chưa biết được sẽ có ai khai ngộ hay không!

 

Kinh Văn:

Hán Văn: "Thứ vi Tư-đà-hàm. Tư-đà-hàm giả, nhất thướng nhất hoàn, tức đắc A-la-hán. Thứ vi Tu-đà-hoàn. Tu-đà-hoàn giả, thất tử thất sanh, tiện chứng A-la-hán. Aịi dục đoạn giả, như tứ chi đoạn, bất phục dụng chi."

Dịch Nghĩa: "Thấp hơn Tư-đà-hàm. Bậc Tư-đà-hàm còn một lần lên và một lần trở lại nữa là đắc quả A-la-hán. Thấp nữa là Tu-đà-hoàn. Bậc Tu-đà-hoàn còn bảy lần sanh và bảy lần tử nữa mới chứng được quả vị A-la-hán. Đoạn trừ ái dục thì cũng như chặt đứt tứ chi, không còn dùng lại nữa."

Lược giảng:

"Thấp hơn là Tư-đà-hàm." Bậc Thánh nhân thuộc hàng Nhị-quả được gọi là Tư-đà-hàm. "Tư-đà-hàm" (Sakridagamin) là tiếng Phạn và có nghĩa là "nhất lai" (một lần trở lại). Đây là bậc Thánh nhân ở vị trí Tu-Đạo. "Bậc Tư-đà-hàm còn một lần lên và một lần trở lại nữa là đắc quả A-la-hán." Thế nào gọi là "nhất lai"? Bởi bậc Tư-đà-hàm còn đến cõi trời một lần, và đến cõi người một lần nữa mà thôi. Do đó mà cũng gọi là "nhất thượng, nhất hoàn" - một lần lên cõi trời và một lần trở lại chốn nhân gian.

Bậc Tư-đà-hàm đã đoạn trừ được sáu phẩm tư-hoặc của cõi Dục-giới. Thế nào gọi là Ềtư-hoặcỂ? ỀTư,Ể là tư tưởng, ý nghĩ; và cũng là sự phân biệt. Nếu chỉ đơn thuần một cái ỀtưỂ mà thôi, không có chữ ỀhoặcỂ kèm theo, thì tư tưởng ấy cũng có thanh tịnh, trong sạch. Một khi quý vị dùng trí huệ để phân biệt, thì không gọi là tư-hoặc.

ỀTư-hoặcỂ tức là mê muội rồi, không còn tỉnh táo, sáng suốt nữa. Do không sáng suốt, nên cứ nghĩ về những sự việc không rõ ràng, minh bạch. Cũng giống như tánh biến-kế-chấp vậy. Thí dụ, ban đêm quý vị trông thấy mẩu dây thừng, nhưng vì không nhận ra nên quý vị nghĩ rằng: ỀÔi! Đó là con rắn!Ể Ồ đây gọi là tánh biến-kế-chấp. Tại sao quý vị lại tưởng sợi dây là con rắn? Bởi vì quý vị dựa vào hình thù của sợi dây mà nảy sanh tánh biến-kế-chấp. Sợi dây tức là tánh y-tha-khởi. Khi quý vị quan sát kỹ lưỡng và biết được rằng đó vốn là sợi dây được làm từ cây gai chứ không phải là con rắn, thì đây là tánh viên-thành-thực.

Cõi Dục-giới có chín phẩm Tư-hoặc. Bậc Nhị-quả chỉ mới đoạn trừ được sáu phẩm tư-hoặc đầu. Bậc Tam-quả thì đã đoạn trừ xong ba phẩm tư-hoặc còn lại. Đoạn trừ được sáu phẩm tư-hoặc đầu của Dục-giới thì đắc Nhị-quả A-la-hán; nếu không đoạn trừ sáu phẩm tư-hoặc này thì không chứng được Nhị-quả.

Như vậy, bậc Tư-đà-hàm còn đến Dục-giới-thiên một lần và trở lại chốn nhân-gian một lần nữa; do đó ngài được gọi là bậc Nhất-lai. Sau một lần trở lại ấy, ngài chứng đắc quả-vị A-la-hán, chấm dứt sanh tử.

"Thấp nữa là Tu-đà-hoàn." Bậc Tu-đà-hoàn là Thánh nhân chứng được Sơ-quả, quả vị đầu tiên của hàng A-la-hán. "Tu-đà-hoàn" (Srotaapanna) là tiếng Phạn và có nghĩa là Nhập-lưu (vào dòng), Dự-lưu (tham dự vào dòng), hoặc Nghịch-lưu (ngược dòng). "Nhập-lưu" tức là "nhập Thánh nhân Pháp-tánh lưu" - gia nhập dòng Pháp-tánh của Thánh nhân. "Nghịch-lưu" nghĩa là "nghịch phàm phu Lục-trần-lưu" - đi ngược lại dòng Lục-trần của phàm phu. Lục-trần là hình sắc, âm thanh, mùi hương, mùi vị, cảm xúc và pháp.

Chứng được Sơ-quả tức là đã đoạn trừ được kiến-hoặc. Chúng ta đều có kiến-hoặc và tư-hoặc - đều bị mê hoặc bởi cái thấy (kiến) cũng như bởi ý nghĩ (tư). Chính hai thứ "hoặc" (u mê) này chi phối con người đến nỗi trở nên hồ đồ, mê muội. Vì thế, nếu muốn chân chánh khai-ngộ thì phải đoạn trừ hai thứ "hoặc" này - kiến hoặc phải được đoạn dứt và tư-hoặc cũng phải được trừ khử! Thế nào gọi là "kiến-hoặc"? "Kiến-hoặc" có nghĩa là "đối cảnh khởi tham ái" - hễ trông thấy sự vật thì sanh lòng ham muốn và yêu thích. "Tư-hoặc" có nghĩa là "mê lý khởi phân biệt" - bị mê mờ, không hiểu đạo lý, nên nảy sanh lòng phân biệt.

"Kiến" có nghĩa là nhìn thấy, trông thấy. Quý vị trông thấy sự vật và bị chúng mê hoặc, cám dỗ. Vì bị mê hoặc nên quý vị chạy theo cảnh giới, bị cảnh giới lay chuyển. Do bị giao động bởi cảnh giới nên quý vị sanh lòng tham lam và yêu thích. Có lòng tham tất sẽ có sự chấp-trước, và có lòng yêu thích thì sẽ không thể buông bỏ. Vì chấp-trước và không thể buông bỏ, nên quý vị không thể chứng được Thánh quả. Nếu quý vị muốn chứng được Thánh quả, thì cần phải đoạn trừ kiến-hoặc! Có bao nhiêu phẩm kiến-hoặc? Có tám mươi tám phẩm! Nếu đoạn dứt được tám mươi tám phẩm kiến-hoặc này, thì sẽ chứng được quả vị đầu tiên của hàng A-la-hán và trở thành bậc Tu-đà-hoàn. Bậc Tu-đà-hoàn là Thánh nhân Sơ-quả.

Thế nào gọi là "Dự-lưu"? "Dự" tức là tham dự, tham gia, và cũng ngụ ý "đạt được." Do đó, "Dự-lưu" có nghĩa là được tham dự dòng Thánh, được gia nhập hàng ngũ của các bậc Thánh nhân.

"Bậc Tu-đà-hoàn còn bảy lần sanh và bảy lần tử nữa mới chứng được quả A-la-hán." Bậc Thánh nhân đã chứng được Sơ-quả còn phải trải qua bảy lần sanh ra và bảy lần chết đi - bảy phiên sanh tử nữa. Sau khi đã trải qua bảy phiên sanh tử ấy, các ngài sẽ đắc Tứ-quả A-la-hán và chấm dứt sanh tử.

Bảy phiên sanh tử được phân ra như sau:

-Tại phẩm thượng-thượng của Dục-giới, bậc Tư-đà-hoàn nhậm vận đoạn trừ tham, sân, si, mạn; và ngài phải trải qua hai phiên sanh tử mới đoạn trừ xong.

-Tại phẩm thượng-trung của Dục-giới, ngài trải qua một phiên sanh tử;

-Tại phẩm thượng-hạ của Dục-giới, ngài trải qua một phiên sanh tử;

-Tại phẩm trung-thượng của Dục-giới, ngài trải qua một phiên sanh tử;

-Tại các phẩm trung-trung và trung-hạ của Dục-giới, ngài trải qua một phiên sanh tử;

-Tại các phẩm hạ-thượng, hạ-trung và hạ-hạ của Dục-giới, ngài trải qua một phiên sanh tử.

Như vậy tổng cộng là bảy phiên sanh tử. Sau khi trải qua bảy lần sanh ra và bảy lần chết đi như thế, bậc Tu-đà-hoàn mới có thể chứng đắc quả vị A-la-hán. Chứng được quả vị A-la-hán là chấm dứt Phần-đoạn sanh tử.

Trình tự trên đây là dựa theo những lý lẽ rất tự nhiên mà liệt kê thôi. Gặp trường hợp cá biệt, như kẻ tu hành là những người đặc biệt, thì không nhất định. Những người có căn-khí đặc biệt mà tu hành thì họ có thể từ Sơ-quả trực tiếp chứng được Tứ-quả A-la-hán. Trường hợp của thân-mẫu ngài Cưu-Ma-La-Thập là từ Sơ-quả mà chứng đắc Tam-quả A-la-hán. Cho nên, trình tự chứng quả vị không phải là cố định.

Tuy rằng kiến-hoặc và tư-hoặc trong Tam-giới có nhiều phẩm, nhiều loại như thế, nhưng nói tóm lại thì cái làm cho con người điên đảo nhất chính là lòng ham mê ái dục! Aịi tình và dục vọng chi phối con người đến nỗi ai nấy đều thành ra điên đảo, mê muội - biết rõ là sai mà vẫn muốn theo, còn biết chắc chắn là đúng thì lại phản kháng, chẳng chịu làm theo! Con người là những sinh vật hết sức kỳ quái Ồ biết rõ rằng đó là việc không tốt, mà cứ nhất định làm cho bằng được, mặc dù đã được khuyên can và chẳng bị sai khiến; còn biết rõ đó là việc tốt, thì lại khăng khăng không chịu làm mặc dù có người bảo làm. Nói chung là không bao giờ chịu nghe lời! Vì sao ư? Vì bị hai chữ "ái" và "dục" chi phối và làm cho điên điên đảo đảo!

"Đoạn trừ ái dục thì cũng như chặt đứt tứ chi, không còn dùng lại nữa." Nếu có thể dứt trừ lòng tham ái và lòng tham dục, thì nhất định sẽ thành tựu được Đạo quả! Đoạn trừ lòng tham ái và tham dục thì cũng giống như chặt đứt cả hai tay và hai chân vậy - một khi tứ chi đã lìa khỏi cơ thể thì chẳng thể nào còn dùng lại được nữa. Lòng ham mê ái dục một khi đã dứt bỏ rồi thì cũng phải y hệt như tay chân đã bị chặt đứt vậy - tuyệt đối không dùng lại nữa! Quý vị cần phải có một quyết tâm dứt khoát như thế; chớ nên chần chừ, tìm cách trì hoãn hoặc tránh né vấn đề; bằng không, thế nào quý vị cũng gặp phải sự rắc rối!

Nếu quý vị cứ phân vân - muốn đoạn trừ ái dục rồi lại lưỡng lự, không muốn tiến hành; không muốn đoạn trừ ái dục rồi lại ngần ngừ, muốn đoạn trừ - như thế gọi là "nhân nhu quả đoán," nghĩa là nhu nhược, thiếu cương quyết, không có tánh quyết đoán. Người có tánh "nhân nhu quả đoán" là người không có trí huệ chân chánh; cho nên, đến lúc cần có sự dứt khoát thì họ lại do dự, không quyết định được! Có nhiều người đối với bất cứ chuyện gì cũng dùng dằng thụt tới thụt lui, hết nghĩ thế này lại nghĩ thế khác, hết muốn thế nọ lại muốn thế kia, không có một chút chủ ý hay tôn chỉ nào rõ rệt cả! Như thế thì rất là không tương ưng với việc tu Đạo, chẳng ích lợi gì cho sự tu hành cả!

Người tu Đạo cần phải có chí khí "đầu đội trời, chân đạp đất" và phải mang một quyết tâm như "chém đinh chặt sắt"; có như thế thì mới tu Đạo được!


 Tải về xem