Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh


 

LÀM CHỦ SANH TỬ
 

Sanh tử là đại sự, chư Phật vì mục đích này mà xuất hiện ra đời.
Tại sao?

Sáu nẽo luân hồi trôi lăn chìm đắm, trong lục đạo, cõi người tương đối buồn vui lẫn lộn. 4 cõi dưới khổ nhiều,cõi trên chư Thiên quá sướng, chính vì thế, theo Phật,” cõi “người” là điểm then chốt giải quyết mắc xích tử sinh, dễ tu.

                                                  ***

Sự thường ở đời, người trí tự xử, người không tự xử cần nương nhờ người khác trước một sự kiện. Vấn đề “sinh tử”, dù trí hay ngu, đều cần một phương hướng giải quyết, giải quyết theo hướng được dẫn dắt, người trí cần nỗ lực và tự nỗ lực.Chính sự nỗ lực của người trí đầy bản lãnh, được tôn xưng là “đại nhân”, hơn hẳn kẻ tầm thường, gọi là “thượng nhân”

                                                   ***

Mỗi xã hội, mỗi thời đại đều có những vấn đề cần hành xử. Có những phương cách hành xử ở góc độ này hợp lý, lại là vô lý ở một góc độ khác; Cũng thế, trong tâm người, nhìn một sự kiện cảm thấy bất an, vô lý, thế nhưng thời gian sau lại đồng cảm chấp nhận. Một tập thể có chung cái nhìn cá biệt, làm thành một cộng đồng ý hệ, nếu vì quyền lợi hay bị kích động, trở thành phong trào đối nghịch với một cộng đồng dị biệt về quan điểm, chánh kiến.Tất cả đều là cộng nghiệp và biệt nghiệp.

                                                        ***

Xã hội Việt Nam ta, xưa cũng như nay, không tránh khỏi sự tương tranh về ý hệ, không tìm thấy mẫu số chung, tình nghĩa ruột thịt đồng bào phân ly, đó là một bi kịch; không ai hoàn toàn đúng, cũng chả ai hoàn toàn sai; vì thế, gà nhà bôi mặt đá nhau!Thu gọn trong phạm vi Phật giáo, vẫn là những hiện tượng trong xã hội thu hẹp. Ta chỉ nói đến phạm trù Phật giáo hoạt dụng. Những bậc chuyên tu miên mật tầm cầu giải thoát hiện đời, không phải là đối tượng bị bình phẩm, dị nghị, bị ném đá.Các ngài thu mình vào phạm vi hẹp nhất để đối diện với việc tử sanh, tìm ra mấu chốt để gỡ.Không vì thế mà các ngài được yên ổn; Trong những lúc căng thẳng với nghịch duyên và nghiệp thức trỗi dậy, lực phấn đấu không mệt mỏi luôn là năng lực hóa giải các chủng tử tiềm ẩn trong tàng thức, chúng luôn chờ cơ hội trỗi dậy chống phá hành giả. Mỗi hành giả có một pháp hành đặc thù; có những pháp nhìn thẳng vọng tưởng để hóa giải, có những pháp không quan tâm đến vọng tưởng, đường ta ta cứ đi, vọng tưởng tự nó thui chột trước công năng pháp hành miên mật. Tuy vất vả với nội tâm, nhưng niềm an lạc bao phủ thân hành trong đời sống ẩn cư.

                                                              ***

Trong thời Đức Phật và Thánh chúng, vừa nỗ lực hành trì, vừa giáo hóa chúng sanh, tuy có gặp không ít chướng duyên, do đạo lực của Phật và Thánh chúng, mọi ác duyên dần được hóa giải. Ngày nay, cuộc sống phát triển đa dạng, người tu phải đối diện với bao khó khăn khi chấp nhận nhập cuộc, vừa tu tập vừa giải quyết bao thế sự liên quan đến Phật giáo,một khi nhập cuộc liên quan đến xã hội thì bản chất chính trị khó mà thoát khỏi; Chính trị của người tu khác với thế nhân. chính vì thế, các ngài là những dũng sĩ đi giữa bao lằn tên mũi đạn ba bề bốn phía.Thương có, ghét có, đúng có, sai có, cho dù bao việc vây quanh của thế sự, mục đích chính của những dũng sĩ đó vẫn là giải quyết sanh tử tự thân.Giải quyết sanh tử vẫn không quên nhiệm vụ với cỏi trần, vì thế, những dũng sĩ như vậy phải hứng chịu bao lằn tên mũi đạn.

                                                         ***

Trong giai đoạn thập niên 1960, Phật giáo đứng trước cơn lốc bão chưa từng có tại miền Nam Việt Nam. Chư Tôn túc phần lớn là những nhà tu chân chánh, chưa từng đối mặt với những khó khăn về chính trị đe dọa sự tồn vong của đạo Phật. Một số tu sĩ tốt nghiệp các trường Phật học tại Huế, tài năng xuất chúng về mẫu người tu sĩ dấn thân, lúc bấy giờ chỉ có TT Trí Quang và TT Thiện Minh, tuổi trẻ đầy nhựa sống và óc sáng tạo. Chính thời cuộc nhiễu nhương đối với sinh mệnh Phật giáo, các ngài thuộc thành phần dấn thân để bảo vệ đạo; lúc bấy giờ, một vài Tỉnh miền Trung, các huynh trưởng GĐPT và các bác hội trưởng thường bị thủ tiêu, Phật giáo vẫn im lặng, mãi đến khi cao trào triệt tiêu PG, mới xuất hiện các nhà tu dấn thân đòi quyên bình đẳng Tôn giáo chứ không đòi lật đổ chế độ, nếu các tướng lĩnh quân đội đảo chánh là do chính sách Mỹ hậu thuẩn, Phật giáo không có quyền sai khiến quân đội trong khi các tướng lãnh đa phần tùy thuộc vào các cha cố.

Ngoài những tu sĩ tình nguyện dấn thân, số còn lại cũng là những bậc uyên thâm nội điển, tham gia vào việc hoằng dương PP bằng cách trước tác, phiên dịch, giáo dục quần chúng và đào tạo Tăng tài, truyền đăng tục diệm…Cho dù dấn thân nhập thế hay ẩn tu xuất thế, con đường thoát ly sanh tử vẫn là mục đích ưu tiên của tu sĩ.

                                                               ***

Dấn thân nhập thế: Tên tuổi Ngài T.Trí Quang trở thành một hiện tượng đương thời, một nhân vật khó hiểu, không một ai có thể đoán định đúng mẫu người thâm trầm sâu sắc hiếm có ở một tu sĩ trẻ, ta nghe sự nhận xét sau đây của các phía:

LỜI DẪN NHẬP: Đã 44 năm sau cuộc Chiến tranh Việt Nam, vẫn còn những câu hỏi chưa có lời giải đáp. Chỉ riêng tên tuổi Thích Trí Quang đã gây ra rất nhiều tranh cãi.(1) Có nhiều nhãn hiệu gán cho ông: với một số người Việt chống cộng thì cả quyết Thích Trí Quang là cộng sản đội lốt tu hành hoạt động với sự chỉ đạo của Hà Nội; nhưng ngay với giới chức cộng sản cũng đã từng coi Trí Quang là một loại CIA chiến lược; còn theo tài liệu giải mật của CIA thì đánh giá Trí Quang không phải cộng sản, mà là một nhà tu hành đấu tranh cho hòa bình và muốn sớm chấm dứt chiến tranh. Thêm nguồn tài liệu còn lưu trữ về những cuộc đàm luận giữa Trí Quang và các giới chức Hoa Kỳ, cho rằng Trí Quang chống cộng mạnh mẽ và hiểu được sự việc xử dụng quân đội Hoa Kỳ để chống lại Cộng sản Bắc Việt và Trung cộng.Với những rối loạn chính trị trong tuần lễ vừa qua, có một hiện tượng TRÍ QUANG trên khắp các báo chương ngoại quốc. Tuần báo Time coi ông như xuất hiện một Machiavel mới, trong khi báo L'Express gán cho ông là mẫu người đang làm rung động cả Mỹ quốc, đó là chưa kể tới những bài báo nói về ông đăng trên US News and World Report và Newsweek... Hiện tượng trên cũng được các báo Việt ngữ toa rập theo, thích thú đem ra phiên dịch và đăng tải; nhiều người coi đó như một khám phá mới lạ về một nhà tu hành tài ba, nhiều quyền lực nhưng cũng rất bí ẩn và khó hiểu.Trở lại trường hợp Thích Trí Quang, từ nhận định bảo ông là cộng sản đến ý nghĩ một tay quốc gia cực đoan, hình như chỉ cần một chút ngộ nhận. Nghĩ rằng tôn giáo sẽ còn đóng một vai trò quan trọng trong tương lai chính trị miền Nam, việc tìm hiểu mẫu một nhà tu-hành-dấn-thân đang có nhiều ảnh hưởng là điều cần thiết, đó là lý do cuộc gặp gỡ Chín mươi sáu phút với Thượng Toạ Thích Trí Quang buổi chiều ngày 5-5-1966 tại Chùa Từ Đàm Huế.Tuy chưa giáp mặt ông lần nào, chúng tôi đã biết mặt Thượng toạ qua hình ảnh báo chí, và đặc điểm đầu tiên để nhận ra ông là đôi mắt vô cùng sắc sảo. Không với một cử chỉ xa cách nghiêm trọng, không với cả tia nhìn mãnh liệt như thôi miên, Thượng toạ vui vẻ tiếp chúng tôi qua những nụ cười dễ gây thiện cảm và những cử chỉ tự nhiên thoải mái.Trái hẳn với triết lý nhà Phật hiểu theo nghĩa thông thường là xuất thế và yếm thế, Thượng toạ Thích Trí Quang mang khuôn mặt của một nhà tu hành mới: một Nhà-Sư-Dấn-Thân, dấn thân vào tất cả những biến động xã hội, dùng tất cả những uy tín và quyền năng sẵn có để lèo lái tới một cảnh đời thích hợp với sự phát triển của đạo giáo. NGÔ THẾ VINH

PHẠM ĐÌNH VY
Chùa Từ Đàm, Huế 05.05.1966
[Trích Nguyệt san Tình Thương, số 29, 1966]

Theo đài VOA:

Hòa Thượng Trí Quang là một trong những nhà lãnh đạo Phật giáo gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam. Mãi cho tới ngày nay, nhiều thập niên sau khi chiến tranh kết thúc, báo chí, dư luận quốc tế, trí thức trong và ngoài nước vẫn chưa hết thắc mắc, không biết Hòa Thượng Thích Trí Quang theo quốc gia hay cộng sản; là cao tăng dấn thân vì đạo, bị cộng sản Bắc Việt lợi dụng, hay là ‘CIA chiến lược’ như tố cáo của các cán bộ cộng sản, hoặc ‘cộng sản nằm vùng’ hoạt động theo chỉ đạo từ Hà nội. Những thắc mắc đó vẫn là đề tài tranh cãi không dứt giữa các nhà khoa bảng, các nhà báo, cũng như trong giới tình báo Mỹ.Nhưng điều mà dường như mọi người đều đồng ý là Hòa Thượng Thích Trí Quang là một lãnh đạo Phật giáo đầy quyền lực vào lúc mà sức mạnh của giáo hội Phật Giáo lên cao nhất trong những năm đầu và giữa thập niên 1960. Lúc đó, Time, tạp chí có uy tín của Mỹ, đã đăng ảnh của Hòa Thượng trên trang bìa với dòng chữ “người đã làm lung lay nước Mỹ”.Báo chí ngoại quốc gọi Hòa Thượng Thích Trí Quang là ‘người đã lật đổ chính quyền Tổng thống Ngô Đình Diệm’ vào năm 1963.

Các học giả cánh hữu cho rằng Thích Trí Quang có nhiều khả năng là cán bộ cộng sản hoạt động dưới sự chỉ đạo của Hà Nội. Còn các học giả cánh tả lại cho rằng ông là một Thủ lãnh tôn giáo đấu tranh bất bạo động cho hòa bình và để bảo vệ Phật giáo.

Trong bài tham luận mang tựa đề “Political Monks: The Militant Buddhist Movement during the Vietnam War” - “Tăng Sĩ làm chính trị: Phong trào đấu tranh Phật giáo trong Chiến tranh Việt Nam”, tác giả Mark Moyar của Đại học Cambridge viết trong phần tóm lược nội dung:

Một nữ phóng viên chiến trường, từng đoạt giải Pulitzer và làm phóng viên tại Toà Bạch Ốc, bà Marguerite Higgins, là một trong những người hiếm hoi đã trực tiếp phỏng vấn Hòa Thượng Trí Quang. Sau cuộc phỏng vấn tại Chùa Xá Lợi vào cuối năm 1963, bà Higgins không dấu vẻ hoài nghi của bà đối với Hòa Thượng. Bà viết trong quyển ‘Our Vietnam Nightmare - Cơn Ác mộng Việt Nam của chúng ta’, miêu tả vị cao tăng của Phật giáo Việt Nam là “một Machiavelli thắp nhang.” Machiavelli ám chỉ một người quỷ quyệt, không có đạo đức, chủ trương “cứu cánh biện minh cho phương tiện.”

Nhà đấu tranh cho nhân quyền và Phật giáo Võ Văn Ái, cũng là một sử gia chuyên nghiên cứu về đạo Phật và lịch sử Việt Nam, nói cá nhân ông rất khâm phục Hòa Thượng Thích Trí Quang, vì ông là nhà sư am hiểu giáo lý Phật giáo rất thâm sâu, và có nhiều đóng góp cho Phật giáo Việt Nam.

Ông Võ Văn Ái nói:“Ngài là đại biểu, là tiếng nói của tinh thần Phật giáo qua suốt 2000 năm, mà qua suốt 2000 năm đó đã chứng tỏ sự kết hợp của Phật giáo Việt Nam, đối với dân tộc Việt Nam trên lĩnh vực tâm linh, văn hóa cũng như trong vấn đề chống ngoại xâm. Trong cuộc đóng góp cho dân tộc Việt Nam trên phương diện tôn giáo, tôi thấy sự đóng góp của Hòa Thượng Trí Quang rất lớn và cho thấy tinh thần của Phật giáo Việt Nam.”

Theo một tài liệu được giải mật của CIA có tựa đề “Momorandum for the Director”- (Báo cáo lên Giám Đốc) ghi ngày 11/9/1964 về đề tài ‘Động cơ, Mục tiêu và Ảnh hưởng của Thích Trí Quang’ ký tên George A.Carver, Jr., đại diện nhóm ‘South Vietnam Working Group’, các tác giả nói về Hòa Thượng Thích Trí Quang như sau:

“Đầy tham vọng, khôn khéo, một người không ngần ngại dùng mọi mánh khóe để lôi kéo, vận động chính trị và là một kẻ mị dân bẩm sinh. Ông là một trong những người hiếm khi xuất hiện - một nhà lãnh đạo chính trị thiên bẩm.”

Sau khi phân tích, tài liệu này kết luận rằng ‘không có bằng chứng thuyết phục để kết luận Thích Trí Quang là cộng sản’. Các tác giả nói rằng những người tố cáo Hòa Thượng Trí Quang là cộng sản thường là người của chế độ Tổng thống Ngô Đình Diệm, tuy cũng có một số nhà quan sát Mỹ hiểu biết và công tâm cũng tin như vậy.

“Sau khi suy xét cẩn thận, kết luận của chúng tôi là Trí Quang có phần chắc không phải là một người cộng sản, hoặc một gián điệp Việt Cộng.”

Kết luận đó được dựa trên cơ sở ‘Không một ai trong số nhiều người Việt thù ghét Thầy Trí Quang, chỉ chờ cơ hội để bôi nhọ ông, và không ngừng tìm cách chứng minh ông là cộng sản, có thể đưa ra bằng chứng vững chắc về bất cứ liên kết nào giữa ông với cộng sản.”
Đây cũng là ý kiến của nhà nghiên cứu James McAllister của Đại học Cambridge, trong bài tham luận “Thích Trí Quang và Chiến Tranh Việt Nam” (Only Religions Count in Vietnam: Thich Tri Quang and the Vietnam War) được Nhà Xuất Bản Modern Asian Studies ấn hành năm 2007. Bài tham luận viết:

“Nói tóm lại trong quá trình nghiên cứu của tôi, tôi không tìm ra được bất cứ quan chức Mỹ nào có thể nhận diện được, chưa nói tới bất cứ quan chức cấp cao nào, nghĩ Thích Trí Quang là người cộng sản hay có cảm tình với cộng sản.”

                                                           ***

Quả là bản năng chính trị bẩm sinh mặc dù xuất thân dưới mái chùa từ bé, khác nào một Lý Công Uẩn.Tuy nhiên, không vì bẩm sinh mà sa lụy vào chính trị thế tục.Có những kẻ chủ quan tin rằng Thích Trí Quang có mộng tham chính hay ít nữa là một quốc sư, Ngài từng trả lời với báo chí rằng điều đó không thể có trong xã hội ngày nay khi mà VN là quốc gia đa Tôn giáo.

Nổi cộm trong thời chiến là một hiện tượng hiếm hoi đối với một tu sĩ Phật giáo, nhưng thời bình, sau 1975, việc im hơi lặng tiếng của “người” cũng là đợt sóng ngầm cho bao vấn nạn:

Sự 'im lặng' của Hòa thượng Thích Trí Quang, một lãnh tụ của các phong trào đấu tranh sôi động của Phật giáo Việt Nam thời chiến, người được cho là đã từng làm 'rúng động' nước Mỹ, từ sau ngày 30/4/1975 có thể được nhìn nhận như thế nào là một chủ đề được các khách mời Bàn tròn thứ Năm tranh luận tuần này.

Trước hết, từ California, Hoa Kỳ, ông Mặc Lâm, nhà báo từng nhiều năm làm việc tại RFA Tiếng Việt, nêu quan điểm với cuộc hội luận hôm 14/11/2019:

"Về sự im lặng của Hòa thượng Thích Trí Quang từ sau tháng Tư 1975 đến bây giờ, chúng ta ai cũng ngạc nhiên và có rất nhiều câu hỏi đặt ra xung quanh thái độ này của Hòa thượng.

"Nhưng chúng tôi nghĩ rằng, chung quy đó là quyền tự do biểu đạt của từng người một trong thế giới này và khi Hòa thượng đã xuống đường, đã đem bàn thờ Phật xuống đường hay là đã biểu tình (tuyệt thực) trong vòng 100 ngày, cũng như những hoạt động khác, để chống lại một chế độ mà Hòa thượng cho rằng đã không phù hợp với Việt Nam, thì đó cũng là một quyền tự do của người tu hành, kể cả người tu hành đó là Phật giáo, Công giáo hay bất cứ một tôn giáo nào khác.

"Chúng tôi rất trân trọng những chuyện đó. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh Việt Nam bao nhiêu năm nay, mà Hòa thượng không lên tiếng một chút nào, thì người dân cũng có quyền của họ về suy nghĩ về thái độ sống và thái độ tranh đấu của Hòa thượng, trước đây, nó đã rất mạnh mẽ và rất là dấn thân, nhưng bây giờ lại im lặng hoàn toàn như vậy, thì người dân cũng có thể đánh giá rằng đây là một thái độ có vẻ là nó bị khuất phục trước cường quyền, hay là một thái độ mà ngài có thể là ăn năn.

"Hay là có thể cảm thấy rằng bây giờ nếu có chống lại chế độ hiện thời đi nữa, thì cũng không đi tới đâu. Cho nên đó là suy nghĩ riêng của ngài mà chúng ta không ai có thể đoán được, hay xét đoán được qua hành động của ngài."
'Không thể đổ tội cho một người'

Tiến sỹ triết học, nhà nghiên cứu Phật giáo Thái Kim Lan trước hết phản biện một số quan điểm liên quan Hòa thượng Thích Trí Quang và nêu quan điểm về bản chất tình hình chính trị của giai đoạn lịch sử hơn một nửa thế kỷ trước, có liên quan tới các phong trào Phật giáo ở miền Trung và miền Nam Việt Nam, bà nói:

"Trước hết, tôi muốn nói như thế này là nhận định lịch sử phải khách quan và rất kỹ lưỡng, bình tĩnh nữa. Bởi vì nếu chúng ta dùng chữ sai, thì sai một li là đi một dặm. Dùng chữ "tiếp tay", là tôi không đồng ý.

"Ví dụ như dùng chữ tiếp tay là cuộc vận động Phật giáo, hoặc là Hòa thượng Thích Trí Quang đã tiếp tay cho Cộng sản, tôi không đồng ý. Tôi không đồng ý ở cái chỗ trong lúc cuộc vận động Phật giáo xảy ra, thì mục tiêu của Phật giáo lúc ấy rất là hòa hoãn, chỉ muốn chính quyền ông Diệm chấp nhận sự bình đẳng tôn giáo.

"Và chấp nhận thứ hai là những nạn nhân của cái đêm Phật đản phải được bồi thường, chính tôi là một trong những người đi tuyệt thực để đòi sự thực thi công bằng như vậy.

"Thì trong mục tiêu này, không bao giờ có vấn đề tiếp tay cho Cộng sản một chút nào cả, nếu có sự tiếp tay, thì có thể những chuyện xảy ra là sau này, mà đó là xảy ra bên ngoài, chứ không phải là tự thân của cuộc vận động 1963. Thành thử chữ "tiếp tay", chúng ta nên cẩn thận để sử dụng.

"Điểm thứ hai là vấn đề lật đổ ông Ngô Đình Diệm không có ở trong chương trình của cuộc vận động 1963, mà chúng tôi khẳng định là mặc dù có nhiều cái giải thích khác nhau, nhưng mục tiêu và cuộc tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức chỉ muốn đánh động sự công bằng, tinh thần công bằng mà ông Ngô Đình Diệm và chính quyền Ngô Đình Diệm nên chú trọng.

"Bởi vì chính quyền đã buộc tội, cáo buộc tất cả đều là Cộng sản, mà chúng tôi thực sự lúc đó là sinh viên, rất là trong sáng, ngây thơ, không có một chút gì là chúng tôi nghĩ chúng tôi theo Cộng sản cả. Chúng tôi chỉ thấy nhà Chùa và người dân bị đánh đập và tuyệt thực, chúng tôi can thiệp, chúng tôi muốn đứng ra.

"Và đó là một tinh thần tự do ngôn luận, và phải nói đó là một điểm son ở trong chế độ đó, chúng tôi có quyền, chúng tôi đã được nói và chúng tôi được phản đối. Còn về lịch sử, tại sao Việt Nam sau này rơi vào tay như các ngài nói là "tiếp tay để rơi vào tay Cộng sản", thì chúng ta phải hỏi tất cả những nhà cầm quyền kế tiếp - trách nhiệm của họ thế nào? Tất cả những hành động của người Mỹ như thế nào?

"Chúng ta không thể nào nói một cách võ đoán được để mà buộc tội một người được!," Tiến sỹ Thái Kim Lan nói:
'Chánh pháp và hành động'

"Thì dù có nói lớn hay không nói lớn, vẫn chưa ai làm được gì cả. Tôi nghĩ rằng trong trường hợp của cố Đại lão Hòa thượng Thích Trí Quang, thì trong thuật ngữ Phật giáo có một câu nói rằng: nói năng như Chánh pháp, im lặng như Chánh pháp.

"Nghĩa là ngài có nói năng, có phê bình, có xuống đường, có biểu tình, hay là không có tất cả những việc đó, tất cả những điều đó đều là Chánh pháp, chân lý của Đạo Phật."

"Sau năm 1975, cố Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang ở Bình Định và Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ vẫn tiếp tục con đường đòi hỏi công lý và hòa bình cho dân tộc.
"Tất nhiên, không có một sự im lặng, không có một sự thối lui, không có một sự khuất phục nào cả."

"Và ông giữ vững quan điểm của mình là sự im lặng này vượt lên trên hết tất cả các tranh cãi mà toàn là giả thuyết và ông không bao giờ trả lời," bà nói với Bàn tròn của BBC News Tiếng Việt.

Từ Paris, Pháp, ông Võ Văn Ái, một nhà biên khảo và hoạt động Phật giáo chia sẻ quan điểm của mình, đặc biệt về những câu hỏi đặt ra về "sự im lặng" sau 30/4/1975 của Hòa thượng Thích Trí Quang, ông nói:

Ông giữ vững quan điểm của mình là sự im lặng này vượt lên trên hết tất cả các tranh cãi mà toàn là giả thuyết và ông không bao giờ trả lời.

Thích Trí Quang và Chiến tranh Việt Nam – James McAllister
 
Nghiên cứu của James McAllister, giáo sư Williams College, dựa trên hồ sơ lưu trữ của Bộ ngoại giao Mĩ. Trần Ngọc Cư dịch từ tiếng Anh.
 
Tóm tắt

…Qua thời gian lâu dài, Thích Trí Quang vẫn là một trong những nhân vật gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam. Học giả bên cánh hữu thì cho rằng Trí Quang chắc chắn là tay sai cộng sản hoạt động theo chỉ thị của Hà Nội. Học giả bên cánh tả thì lí luận rằng Trí Quang là một lãnh đạo tôn giáo ôn hoà dấn thân cho dân chủ và quyết tâm đòi chấm dứt chiến cuộc nhanh chóng. Bài viết này cho rằng cả hai lối lí giải ấy đều không có tính thuyết phục. Như nhiều giới chức Hoa Kì đã kết luận đúng đắn ngay trong thời gian cuộc chiến còn diễn ra, không ai có bằng chứng vững chắc để nói được rằng Trí Quang là một công cụ của cộng sản hay chí ít là có thiện cảm với những mục tiêu của Hà Nội hay Mặt trận Dân tộc Gỉải phóng Miền Nam (MTDTGPMN). Nếu căn cứ vào những bằng chứng được lưu trữ qua các cuộc đàm thoại của Trí Quang với giới chức Mĩ thì rõ ràng là, Trí Quang thực sự có thái độ chống cộng mạnh mẽ và hoàn toàn chấp nhận việc Mĩ dùng sức mạnh quân sự đối với Bắc Việt và Trung Quốc. Yếu tố chính dẫn đến xung đột giữa phong trào Phật giáo và chính quyền Johnson là việc Trí Quang quả quyết rằng các chế độ quân sự tiếp theo Ngô Đình Diệm có thái độ thù nghịch với Phật giáo và thiếu khả năng đưa cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa Cộng sản đến một kết thúc thắng lợi.

Khó có thể xem nhẹ vai trò quan trọng của Thích Trí Quang trong việc tìm hiểu quá trình diễn biến của Chiến tranh Việt Nam.

Đáng tiếc là, các sử gia đương thời vẫn chỉ biết được rất ít ỏi về những mục tiêu và động lực chính trị của Trí Quang trong giai đoạn nghiêm trọng này của Chiến tranh Việt Nam. Cũng như nhiều yếu nhân khác ở Miền Nam, những nhân vật chính trị và tôn giáo như Trí Quang rõ ràng là ít được giới sử gia về quan hệ đối ngoại của Mĩ quan tâm; những sử gia này vẫn tiếp tục dành sự chú ý ưu tiên cho tiến trình hoạch định chính sách tại Washington, chiến lược quân sự hay những nỗ lực ngoại giao nhằm chấm dứt chiến tranh qua các cuộc đàm phán. Như George Herring đã nhận xét từ lâu : “Sự tương tác giữa người Mĩ và người Miền Nam Việt Nam là một trong những lãnh vực ít triển khai nhất trong kho tư liệu ngày một nở rộ về Chiến tranh Việt Nam. Người ta càng viết nhiều về cuộc chiến bao nhiêu, thì Sự thiếu quan tâm của giới học giả dành cho Trí Quang và cho mối quan hệ của ông với các giới chức Mĩ là điều đặc biệt đáng tiếc bởi vì chắc chắn không thiếu gì các nguồn tư liệu trực tiếp (primary sources) để các sử gia nghiên cứu. Các giới chức Mĩ thường xuyên gặp gỡ Trí Quang suốt những năm 1964 – 1966 ; những cuộc đàm thoại này đủ cung ứng một cái nhìn toàn diện về những tín lí của ông đối với hàng loạt vấn đề. Mặc dù Trí Quang trên một số mặt nào đó vẫn còn là một nhân vật mà giới sử gia khó nắm bắt, nhưng những tương tác giữa ông và giới chức Mĩ có thể cung ứng một nguồn tư liệu không thể thiếu và chưa được sử dụng đúng mức cho việc tìm hiểu cả phong trào Phật giáo lẫn sự thất bại chính trị to lớn của Mĩ tại Miền Nam 

Như các nhà phân tích của CIA đã kết luận tháng Chín 1964 : “ Không một ai trong số nhiều người Việt thù ghét Trí Quang, những kẻ chỉ chờ cơ hội để bôi nhọ ông, hay thậm chí những kẻ hoài nghi về động lực chính trị của ông, có thể đưa ra bằng chứng vững chắc về bất cứ liên kết nào hiện có giữa ông và Cộng sản  ”. Giới tình báo Mĩ và Sứ quán Mĩ ở Sài gòn không bao giờ do dự trong cách đánh giá của họ về những động lực chính trị của Trí Quang, ngay cả vào thời cao điểm của cuộc khủng hoảng Phật giáo năm 1966,. Vào thời đó và cả ngay bây giờ, người ta vẫn có nhiều lí lẽ rất thuyết phục để phản bác luận cứ cho rằng Trí Quang cố tình làm tay sai cho Cộng sản hay thậm chí trên bình diện trí thức đã có thiện cảm với chương trình chính trị của MTDTGPMN. Sự thể về sau này Trí Quang bị chế độ Cộng sản hành hạ và phải sống trong tình trạng quản thúc ở Việt Nam thời hậu chiến chỉ là một trong nhiều lí do để hoài nghi luận điểm của Higgins/Moyar .

Sau khi đánh giá kĩ lưỡng các bằng chứng do nhiều người chỉ trích Trí Quang đưa ra, CIA kết luận rằng không có bất cứ bằng chứng vững chắc nào để xác nhận giá trị của những luận cứ cho rằng ông ta chịu ảnh hưởng của cộng sản. Nhìn vào bản chất cá tính của Trí Quang, nhân viên CIA kết luận: “ Khó mà tưởng tượng được Trí Quang chịu làm ‘tay sai’ cho bất cứ ai, dù đó là Hà Nội, Bắc Kinh hay Mạc Tư Khoa ” . Vì bất cứ một nỗ lực nào nhằm triệt hạ Trí Quang khỏi sân khấu chính trị Việt Nam sẽ gặp thất bại thảm hại, CIA kết luận rằng ông ta là một “thực tế” không thể bỏ qua được vì “ bất cứ một chế độ chống cộng nào ở Miền Nam muốn có cơ may tồn tại đều phải được Trí Quang ủng hộ hay chí ít, chấp nhận ” 

Sau cùng, điều khá lí thú về quan điểm của Toà Đại sứ Mĩ ở Sài Gòn là chính Toà Đại sứ lại lo lắng về một chính phủ có nhiều nhân vật thân cận với Tâm Châu, vị sư thường được coi là chống cộng hơn [Trí Quang], hơn là lo lắng về một chính phủ mà thành viên là người thân cận với Trí Quang.

Theo quan điểm riêng của Komer, chính quyền Johnson cần phải đặt vụ khủng hoảng Phật giáo trong một tầm nhìn xa rộng và cần phải “trấn an những người hoảng hốt ” : “ Trí Quang và nhiều người khác nhất định là không cố tình làm cho người Mĩ phải rời bỏ Việt Nam. Chúng tôi cũng không hề thấy những Phật tử bất đồng chính kiến cũng là những người chủ trương trung lập, hay muốn thương thuyết với VC..

James McCallister
Nguyên tác tiếng Anh : “Only Religions Count in Vietnam :
Thich Tri Quang and the Vietnam War,”
tạp chí Modern Asian Studies 42, 4 (2008), pp. 751–782

Nhiều chứng liệu tương tự đưa đến một kết luận giản dị hơn : Thích Trí Quang chắc không phải là một cán bộ cộng sản và Hà Nội đã coi ông như một nhân vật độc lập, một nhân vật có tiềm năng đe doạ quyền thống trị của họ như ông từng làm tại miền Nam Việt Nam …
(Nguồn: diendan.org)

                                                            ***

Một nhân vật xuất thân dưới mái chùa từ bé, làm dậy sóng chính trường, các nhà hoạt động chính trị chuyên nghiệp và lão luyện cả hai phía, không thể đánh giá, nắm bắt được tư tưởng thầy Trí Quang, bởi vì họ quan trọng hóa tư tưởng chính trị mà quên rằng thầy không phải nhà chính trị chuyên nghiệp đi đúng bài bản, Nguyên chất vẫn là một chân sư dấn thân vì thời cuộc. Dựa vào đâu xác định như thế? Hãy xét trên quan điểm tu tập của nhà Phật.

Dân thân hành trì: Sau 1975, Phật giáo nói riêng và bất cứ tổ chức hay Tôn giáo nào, không còn nhiệm vụ cá biệt đối với xã hội, nhà nước gom chung vào “Mặt trận”, xem như là một trong những thành viên của Mặt trận. Vì thế, HT Trí Quang “phong kiếm quy ẩn” chuyên lo tu tập, san định kinh sách. Gần 45 năm giam mình trong tư thất, chuyên tâm tu tập và biên dịch, chú thích kinh điển Bắc truyền. Thời kỳ dấn thân vào xã hội đã qua, đã đến lúc phải dấn thân giải quyết nghiệp thức và tô bồi công đức lưu truyền kinh pháp.

Qua hiện tượng viên tịch đã gây chấn động trong và ngoài nước (một người còn sống gây chấn động đã đành, viên tịch vẫn còn tác hưởng dư âm một thời quả là hy hữu). Ngài lưu lại xá lợi “thượng thủ” và để lại di ngôn như một cuộc cách mạng xây dựng nền văn hóa sinh tử cho PGVN.

Làm chủ sanh tử là gì? Người tu hành dụng công phu phải làm chủ sanh tử mới cho là công phu liễu sanh thoát tử, mới cho là công phu minh tâm kiến tánh, mới cho là công phu đại triệt đại ngộ, mới cho là công phu thành Phật làm Tổ. Nói tóm lại, chỉ có công phu tham thiền mới có thể khiến mọi người làm chủ sinh tử.(Tổ sư Thiền)

Làm Chủ Sanh TửTrong Tín Tâm Minh nói: “Nhị nhân nhất hữu, nhất diệc mạc thủ” (hai do một mà có, một cũng chẳng trụ), đó mới là thật một tâm, là thật lìa sanh diệt, là thật lìa sanh tử. Phải biết, sanh diệt là nhân, sanh tử là quả. (tổ sư thiền)
Lời Phật dạy:

“Này các Tỳ kheo! Chính vì không giác ngộ, không chứng đạt bốn pháp mà Ta và các Ngươi, lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử. Thế nào là bốn pháp?
1- Này các Tỳ kheo, chính vì không giác ngộ, không chứng đạt Thánh giới mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử.
2- Này các Tỳ kheo chính vì không giác ngộ... Thánh định mà...
3- Này các Tỳ kheo chính vì không giác ngộ... Thánh tuệ mà...
4- Này các Tỳ kheo, chính vì không giác ngộ... Thánh giải thoát mà...
Này các Tỳ kheo Thánh giới được giác ngộ được chứng đạt... thời tham ái một đời sống tương lai được diệt trừ” những gì đưa đến một đời sống mới được dứt sạch, nay không còn một đời sống nào nữa. (Trường Bộ, kinh số 16 Ðại Bát Niết Bàn, Mahàparinibbàna Sutta, DN.16)Trong bốn pháp môn này chỉ cần chúng ta giác ngộ và chứng đạt một pháp cũng đủ cho chúng ta không còn trôi lăn trong biển sanh tử.

Ðó là Thánh giới, Thánh định, Thánh tuệ, Thánh giải thoát“Giới luật còn là Phật giáo còn, giới luật mất là Phật giáo mất”.Ðó là đức Phật đã dạy như vậy, hãy lắng nghe: “Này các Tỳ kheo, chính vì không giác ngộ và chứng đạt Thánh giới mà Ta và các ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển khổ sanh tử”.Thu nhiếp tâm mình là một kỳ công tu tập, chớ không thể chỉ hiểu biết trong kinh sách suông là thu nhiếp được tâm. hãy nghe đức Phật dạy: “Thế nào là các Tỳ kheo tự thu nhiếp tâm mình? Ấy là các Tỳ kheo trước quán THÂN trong thân, tiếp theo quán thân ngoại thân, sau này là quán thân trong thân và ngoại thân.

Phải quán một cách siêng năng, không lười biếng, ghi nhớ không quên để từ bỏ lòng tham dục, lo buồn của thế gian….(Trường A Hàm tập một 1 trang 110
“qua dòng sanh tử mà không tu tập theo pháp cấm giới” thì bị Ma Ba Tuần chiếm phần tiện lợi, đó là theo con đường đi tìm cầu Niết Bàn mong được giải thoát trọn không đạt kết quả, tự tạo tội lỗi và nghiệp báo cho mình, lại còn làm cho người khác đắm chìm trong tội lỗi và nghiệp khổ”. (Tăng Nhất A Hàm, tập 4, trang 179)

Phật dạy:

“Không thở ra thở vào
Tâm trú vào chánh định
Không tham ái tịch tịnh
Với tâm an bất động
Như đèn sáng chợt tắt
Tâm giải thoát Niết Bàn”.


(Tương Ưng Kinh)

“Như đá tảng kiên cố
Không gió nào lay động
Cũng vậy giữa khen chê
Người trí không dao động”.

(Kinh Pháp Cú, 81)
 
“Vô minh sanh ảo tưởng .  Ảo tưởng chấp ngã nhân .  Sanh tử vô lượng kiếp . Chỉ là niệm chấp thân .  Duyên sanh trong vạn vật . Thuần tịnh một tánh không .  Phật mở khoa phương tiện . Nói tứ đế nhân duyên .  Để lìa tâm chấp ngã . Thấy duyên giả tánh không . Tự tại nơi cõi lòng . Thuận duyên hành tùy pháp . Nhất thừa đạo vô thượng . Phật Phật hiện toàn chân !”

Theo HT Thanh Từ ái là gốc sanh tử luân hồi;Thiền sư Trung Phong nói: người thời nay tham thiền không linh, nguyên nhân là không xem việc sanh tử vô thường là đại sự. Cũng vậy, niệm Phật không linh nguyên nhân do không xem việc sanh tử là chuyện lớn, tâm sanh tử không tha thiết, đây là vấn đề to lớn, thế nhưng đại đa số người đều xem thường.Tâm sanh tử là căn bản để nhập đạo“Nếu không thật vì sanh tử mà phát tâm.Tất cả những khai thị đều là hí luận”.
 
Giải Thoát Sanh Tử:
một trong những vấn đề chính của Phật giáo là giải thoát khỏi sanh lão bệnh tử,  Thiền tông là một con đường của Phật giáo, chủ đề chính của Thiền phải là giải thoát khỏi sanh tử.
Tại sao có sanh tử ?
vua Trần Thái Tông có bài kệ về núi Sanh như sau :

Châu tể luân đào vạn tượng thành
Bản lai phi triệu hựu phi manh
Chỉ sai hữu niệm vong vô niệm
Khước bối vô sanh thọ hữu sanh
Tỵ trước chư hương thiệt tham vị
Nhãn manh chúng sắc nhĩ văn thanh
Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách
Nhật viễn gia hương vạn lý trình.)

Trời đất nấu nung vạn tượng thành
 Xưa nay không móng cũng không manh         
Chỉ sai hữu niệm quên vô niệm
Liền trái vô sanh nhận có sanh
Mũi lưỡi đắm tham hương lẫn vị
Mắt tai mờ mịt sắc cùng thanh
Lang thang làm khách phong trần mãi
Ngày cách quê hương muôn dặm trường.
(HT. Thanh Từ dịch)

Kinh Pháp Hoa nói : ‘Các pháp từ xưa nay, thường tự tịch diệt tướng.’ Chỉ vì tâm động cho nên có thế giới  chuyển động, vì tâm phân biệt khởi lên nên có thế giới phân chia. Vì tư tưởng phân biệt khởi lên nên có thời gian cách biệt, 
 ‘Pháp ấy trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ’ (Kinh Pháp Hoa). ‘rỡ ràng thường tự tại’ (minh minh thường tự tại).

Như thế, một trong những giải quyết vấn nạn sanh tử của Thiền là ở ngay trong sanh tử để thấy bản tánh của sanh tử chính là tánh Không, do đó không có ai để tìm cách tránh và không có cái để phải tránh đi đâu cả. Thiền sư Giới Không, Thế hệ thứ 15, dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi, một hôm không bệnh, Sư nói kệ dạy chúng :

Ta có một việc kỳ đặc
Chẳng xanh, vàng, đỏ, trắng, đen
Thiên hạ tại gia, xuất gia
Yêu sanh, ghét tử là giặc
Không biết (nên) sanh tử khác đường
Sanh tử chỉ là được mất.
Nếu cho sanh tử khác đường
Lừa cả Thích Ca Di Lặc.
Nếu biết sanh tử sanh tử
Mới biết lão tăng ở đâu
Các người môn nhân, hậu học
Chớ nhận vòng vo phép tắc.
Nói kệ xong, Sư cười lớn một tiếng, chấp tay mà mất.

                                                         * * *

“Đạo phật dạy làm chủ nhân quả, vượt qua nhân quả, chớ không dạy ngăn chặn và dừng nhân quả. Vì từ nhân quả con người tạo ra thì chỉ có làm chủ tâm không tạo nhân quả ác nữa thì nhân quả sẽ chấm dứt, như Phật đã dạy trong pháp Tứ Chánh Cần (“ngăn ác, diệt ác pháp, sanh khởi thiện, tăng trưởng thiện”). Đó là pháp tu tập làm chủ nhân quả, hay là pháp môn tu nhập định để làm chủ sanh, tử, luân hồi.”
 Phật dạy : “1- Hộ trì các căn 2- Tiết độ ăn uống 3- Chú tâm tỉnh giác”.

“Trong Kinh Di Giáo, Ðức Phật có dạy: "Không nên quan tâm chuyện thế gian. Không nên loan truyền các tin đồn". Tại sao vậy? Bởi vì các chuyện thế gian thường là những chuyện thị phi, phải quấy, đúng sai, tranh chấp hơn thua, còn các loại tin đồn thường là vô căn cứ, không xác thực, khó kiểm chứng được, chỉ làm hại thanh danh người khác, tất cả đều làm cho tâm trí chính mình bất an, xao động chẳng ích lợi gì.”

Người đạo đức, là người hiền trí. Trí để không ai lợi dụng mình. Hiền để không ai ghét mình. Chỉ có bậc hiền trí mới tránh được cạm bẫy của người khác.(trang tử)

                                                                ***

Bậc xuất ly, thân tuy nhập trần, hành sự vì chúng sanh, nhưng tâm luôn an trú vào chánh niệm. Đời sống các bậc chân sư thể hiện qua những tiêu chuẩn như:

“1- Thích giản dị, không thích sống rờm rà, cầu kỳ.
2- Ưa thích yên lặng, không thích nói nhiều.
3- Ít ngủ nghỉ, không ham ngủ.
4- Không kết bè, kết bạn, không nói những điều vô ích.
5- Không tự khoe khoang trong khi mình thiếu đức.
6- Không kết bạn với những người xấu ác.
7- Thích ở một mình nơi rừng núi thanh vắng”.

(Trường A Hàm tập 1 trang 92)

Làm chủ sanh tử, qua việc dẫn chứng trên đây; có thể hiểu 2 trường hợp:
 – làm chủ sanh tử như Đức Phật muốn trụ thế bao lâu cũng được,gia đình Bàng Long Uẩn muốn bỏ xác lúc nào tùy ý. Người rời bỏ xác thân vẫn còn minh mẫn, lưu lại xá lợi, do tâm nguyện và công hạnh lúc sanh tiền, đó là làm chủ lúc Tử,nhưng cũng là cái nhân cho việc lai sanh.Người không tu không thể được như vậy.
_ Làm chủ sanh tử, lúc sanh tiền luôn làm chủ cảm thọ, giới luật tinh nghiêm, tâm luôn chánh niệm, đó là làm chủ nhân sanh để đến lúc quả tử xuất hiện vẫn tỉnh giác ra đi tùy ý.

Như vậy làm chủ sanh tử là người làm chủ thân tâm lúc sống, lúc mãn nghiệp ra đi tỉnh táo không bị lạc dẫn hôn mê vào cảnh giới trầm luân.Làm chủ sanh tử là làm chủ tạo nhân chứ không phải làm chủ diệt quả đã tạo.

                                                               ***

Qua công hạnh của một danh Tăng, lưu lại thế gian lắm sóng cuộn gió dồi, nhưng mọi người chỉ nhìn hiện tượng hành hoạt  mà không thấy được bản chất ẩn mật, công năng tu tập của người,vì thế, cho là người khó hiểu; Một đặt để cho người ở vị thế bên này hay bên kia đều vô nghĩa. Thế nhân đánh giá sai lầm cũng đúng. Đến lúc ra đi, lời đàm tiếu cũng không xóa mờ hiện tượng công phu tu tập 96 năm trụ thế.Dù tán thán ca tụng, dù phẩn nộ sỉ vả, cũng chỉ mây trôi giữa khung trời miên viễn; Đạo đức làm người, xin tặng chân sư một niệm hoan hỷ bao dung!vì dẫu sao, di ngôn người để lại cũng đã trở thành viên gạch đầu tiên làm nền tảng xây dựng văn hóa sinh tử cho PGVN hiện nay, thật giản dị, nhưng vô cùng mầu nhiệm!
 
MINH MẪN
17/11/2019
 
MinhMan CuSi gởi