Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh


 
Lời thì thầm của một Nghĩa Trang
 
 
Cuối tháng 11 năm 1967, Đại đội 17 – Khóa 25 Sinh viên sĩ quan Thủ Đức chúng tôi được vinh dự làm Đại đội dàn chào, khánh thành Đài Tử Sĩ của Nghĩa trang quân đội Biên Hòa vừa được Công binh xây dựng. Trung tướng Trần văn Trung – Tổng cục chiến tranh chánh trị- thay mặt Tổng Thống Việt Nam Cộng hòa khánh thành. Toàn Đại đội sinh viên sĩ quan chúng tôi trong quân phục vàng, đứng dàn chào hai hàng từ ngoài đường, dưới chân Bức tượng Thương Tiếc, dài vào đến chân đài Tử Sĩ. Hàng quân chắc dài hơn 200 mét. Trên bậc thang đi lên Đài Tử Sĩ thì tay trái mỗi sinh viên đều cầm thêm bó đuốc đang cháy. Quang cảnh buổi lễ vô cùng trang nghiêm, lắng đọng.
 
Sau khi Tướng Trung đọc xong diễn văn, thì nghe có tiếng ai đó tiếp đọc sang sảng bài văn tế dài cả tiếng đồng hồ. Chen lẫn trong từng đoạn là tiếng tiêu ai oán như gọi hồn núi sông. Có khi là tiếng trống trận bừng bừng khí thế. Rồi tiếp theo là nhạc chiêu hồn tử sĩ trỗi lên nhè nhẹ, hòa trong bài văn tế. Lúc đó toàn vùng đồi nghĩa trang vang lên nhiều âm thanh lẫn lộn, hòa tan vào nhau, khi nhặt khi khoan, lúc hùng dũng, lúc nhẹ nhàng, làm cho tâm hồn mọi người hiện diện nơi đó như say như tỉnh. Ai cũng thấy rợn người, cảm giác như có hàng ngàn hàng vạn oan hồn đang tụ tập mọi nơi trong vùng đồi thấp nầy. Tiếng trống rộn ràng như thúc giục lên đường, hòa tan trong tiếng tiêu nhè nhẹ trong mây:
 
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
 
Buổi lễ kéo dài hơn 2 giờ mới kết thúc mà dư âm còn lắng đọng trong lòng mọi người quá nhiều nỗi xót xa ngậm ngùi. Năm đó vì mới xây dựng, nên Nghĩa trang chỉ mới có chừng ngót một ngàn ngôi mộ. Sau nầy khi chiến sự leo thang, tốc độ mai táng tử sĩ càng ngày càng gia tăng. Nhất là khi cuộc chiến leo thang đến chót đỉnh vào mùa Hè đỏ lửa năm 1972. Tử sĩ chở về nghĩa trang càng nhiều thì thành phần cơ hữu của nghĩa trang cũng phải gia tăng theo. Họ là thành phần tạp dịch, lo việc hậu sự của tử sĩ như: tắm rửa tử thi, tẩn liệm, đào huyệt, xây mộ … Từ một trung đội thành một đại đội khi cuộc chiến chấm dứt năm 1975.
 
Song song đó, Công binh cơ giới cũng bận rộn không kém. Họ tiếp tục đào đấp, xây cất thêm những công trình khác.Theo sơ đồ tổng quát toàn khu như đường sá ngăn chia từng khu mộ, bức tường Vành Khăn Tang …Vào sâu trong trung tâm nghĩa trang, còn có đài Tử Sĩ được xây trang trọng trên ngọn đồi thấp có hàng trăm bậc thang đi lên. Trước đài có cổng Tam quan uy nghi… Giữa nghĩa trang là một tháp xi măng cao 43 mét gọi là Trung Dũng Đài. Chung quanh Trung Dũng Đài là một bức tường lớn hình tròn gọi là Vành Khăn Tang. Không biết ai đặt tên cho bức tường nầy Vành Khăn Tang? Sao mà nghe ai oán, thê lương, não lòng cho người sống và cả cho những linh hồn người lính đã trở về cùng cát bụi, đã nằm im lìm theo năm tháng đi qua. Từng dãy mồ tiếp nối, dài thêm theo từng ngày, từng tháng. Bia mộ nằm thẳng hàng, yên lặng, bình đẳng, hàng hàng, lớp lớp, mút mắt cho đến cuối chân đồi. Việc xây thêm mồ mả đó dừng lại vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Như một định mệnh, như một sự an bài!
 
Lúc khánh thành thì nghĩa trang chỉ có ngót nghét ngàn ngôi mộ. Thế mà khi cuộc chiến chấm dứt vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, tổng số mộ phần ở đây đã lên gần 16 ngàn ngôi mộ. Đó là chưa kể nhiều tử sĩ đã được thân nhân đưa về đất nhà, mà con số nầy thì vô phương tổng kết. Tại nghĩa trang nầy cũng có hơn mười ông Tướng nằm chung với thuộc cấp của mình. Trong số đó có Đại tướng Đỗ Cao Trí. Nằm lại bình đẳng – Huynh đệ chi binh.
 
Theo đồ án dự trù xây cất thì chung quanh vành tròn bức tường Vành Khăn Tang nầy, sẽ thi công nhiều công trình điêu khắc nghệ thuật ghi lại những chiến tích oai hùng chống ngoại xâm của dân tộc ta qua các triều đại, từ thuở vua Hùng mở nước kéo dài cho đến ngày nay. Việc thi công trên còn đang tiếp diễn hàng ngày, thì xảy ra biến cố 30 tháng 4 năm 1975. Những phá hoại lớn bắt đầu từ đó ở nghĩa trang nầy qua nhiều bàn tay của bên thắng cuộc. Chính quyền Cộng sản quản lý nghĩa trang nầy cắt bỏ 10 mét phần đầu của Nghĩa Dũng đài đem đâu mất, phần nầy bắng thép, chắc mắc. Bức tượng Thương Tiếc bị xe cần cẩu giựt sập, chở đi biệt tăm. May quá có một ký giả người Pháp chụp được hình lúc pho tượng bị kéo sập, phổ biến lên mang nên nhiều người xem được. Còn nhiều thứ trong nghĩa trang bị đánh cắp, chia chát nhau không ai dám kiểm soát. Con cóc làm sao dám kiện ông Trời?
 
Đứng trên khu vực dưới chân Nghĩa Dũng đài, ta thấy cả một cánh đồng mộ chí trùng trùng điệp điệp, dài đến mút mắt. Một quang cảnh tiêu điều, hoang vu nhưng lại có giá trị lịch sử, trong suốt thời gian điêu tàn vận nước vừa qua:
 
Tủi thân người lính nằm trong mộ
Nợ máu xương nầy …biết hỏi ai?
Đêm bấc hồn oan theo bóng đóm
Vật vờ ghềnh bãi …ánh ma trơi
 
Đại đội 17 –Khóa 25 Sinh viên sĩ quan trừ bị Thủ Đức chúng tôi, vào tháng 11 năm 1967, là những nhân chứng tận mắt ngày bắt đầu xây dựng Nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Và nhiều sinh viên khóa 25 nầy còn sống sót cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 trong đó có tác giả, lại cũng chứng kiến sự khép cửa Nghĩa trang vĩnh viễn. Một giai đoạn đau buồn của đất nước Việt Nam đã đến và cũng đã đi qua. Cầu xin anh hồn của 16 ngàn tử sĩ cùng độ trì, phù hộ cho Nghĩa trang không bị tàn phá tiếp. Xin hỏi núi cao, xin hỏi sông dài, hỏi em bé lên ba, hỏi bà già tám chục, thì chắc chắn rằng hồn thiêng sông núi và toàn dân Việt đều một lòng muốn bảo vệ Nghĩa trang yêu dấu nầy. Lúc nào toàn dân ở trong nước cũng như ở hải ngoại cũng dành một góc trang trọng trong lòng, tôn kính những người con anh hùng đã nằm xuống. Mười sáu ngàn tử sĩ nầy đã đem máu đào bảo vệ từng tấc đất ngọn rau và họ đã đền nợ nước. Mà than ôi! Kết quả khác nào như việc làm vô ích của những con dã tràng xe cát Biển Đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì? Xin đọc bài thơ Nghĩa Trang dưới đây:
 
          Nghĩa Trang
 
Ở đây lớp lớp mồ vô chủ
Nào có ai dành một nén hương?
Ở đây tối tối hồn oan khóc
Tiếng dế đêm sâu não nuột buồn
Bao nhiêu mộ chí nằm nghiêng đổ
Bạn với trâu bò mỗi giấc trưa
ối nhỏ hoang tàn gai mắc cỡ
Nào ai thăm viếng lúc sang mùa?
Người từ tuyến lửa chở về đây
Tử sĩ Bình Long ngăn đá đầy
Từng dãy Poncho về bãi H.
Trực thăng lên xuống bụi mù bay
Về đây rũ sạch trần duyên cũ
Lặng lẽ đi về cõi tịch liêu
Về đây hoàn tất phần chung sự
Đồi thấp thiên thu lộng gió chiều
Ở đây bình đẳng nằm thanh thản
Kẻ trước người sau… những dãy mồ
Ở đây tất cả là huynh đệ
Mật thiết nhau từ mảnh vải sô
Đồi vắng chiều hôm ai đứng đó
Bàng hoàng lịch sử đã sang trang
Xa xa Châu Thới xanh màu núi
Thánh giá nghiêng xiêu lệ mấy hàng
Người sống hôm nay còn thẹn mặt
Với hồn tử sĩ với trăng sao
Ngoài kia pho tượng … đi đâu mất
Chiếc bệ còn nguyên nỗi nghẹn ngào
Ở đây tháng Bảy mùa ân xá
Luống những điêu tàn chẳng khói hương
Ai thỉnh cho hồi chuông siêu độ?                                           
Giải oan hồn phách lạc mười phương
Bao nhiêu suối lệ, bao nhiêu máu
Rồi cũng ô hô kiếp dã tràng
Một sớm Xuân về nghe bão tới
Sơn hà xao xuyến lệ dầm chan
Từ đấy miền Nam… thành khánh tận
Sạch trơn bờ cõi… trắng tay chung
Nổi trôi vận nước bèo mây dạt
Xí xóa cho rồi cuộc phế hưng
Tủi thân người lính nằm trong mộ
Nợ máu xương nầy… biết hỏi ai?
Đêm bấc hồn oan theo bóng đóm
Vật vờ ghềnh bãi … ánh ma trơi
Nhân chứng là đây…t ừng dãy mộ
Đoạn trường chi lắm núi sông ơi!
Có nghe tiếng quốc buồn bi thiết
Hòa tiếng mưa rơi cuối… cuối trời
 
 
KB Hồ Thanh Nhã

________________


Đặng Hữu Phát gởi