Lục Tổ Đoán Trước-Cuộc Đời Và Đạo Nghiệp Của Hoà Thượng Tuyên Hoá
Có một hôm, lúc Hòa Thượng ngồi thiền thì thấy Lục Tổ Đại Sư Huệ Năng. Lục Tổ bảo Hòa Thượng
rằng trong tương lai Hòa Thượng sẽ đến Tây phương hoằng dương Phật pháp, năm tông sẽ chia thành mười tông, sẽ gặp vô số người, giáo hóa
chúng sanh nhiều như cát sông Hằng, không thể tính đếm được; lúc đó là bắt đầu Phật giáo chân chánh ở phương Tây.
Nói xong Ngài biến mất, khi ấy Hòa Thượng mới chợt nghĩ ra: “Ồ! Phải chăng Lục Tổ là người ở đời Đường?” (Ghi chú: Lục Tổ Đại Sư nhập Niết Bàn vào năm 713 Tây lịch) Như nay lời tiên đoán của Lục Tổ đã ứng nghiệm, Hòa Thượng đã đem đại pháp truyền sang Tây phương, giáo hóa rất nhiều người Tây phương xuất gia tu đạo. Hòa Thượng là vị đầu tiên kiến lập Tam Bảo tại Tây phương.
Hòa Thượng kể:
Có một hôm, cũng không phải là ban ngày và cũng không phải là ban đêm, tức ngay lúc trời vừa nhá nhem tối, Lục Tổ Đại Sư đến. Tôi thấy có một vị Hòa Thượng tới, mặc áo tràng xám, khoảng 50-60 tuổi. Ngài nói các đạo lý, dạy tôi cách tu hành, bảo rằng: “Tương lai con sẽ đến nước Mỹ, gặp các người như vậy vậy... Xong, Ngài hốt nhiên biến mất. Lúc đó tôi cũng không phải ngủ mơ mà lại thấy được Lục Tổ, thật kỳ diệu thay!”
Ghi chú: Khi kết thúc khóa giảng kinh Lăng Nghiêm mùa Hè năm 1968, có năm người Mỹ, ba nam, hai nữ - xuất gia. Năm 1969, năm vị này thọ giới Cụ Túc tại chùa Hải Hội, Cơ Long, Đài Loan. Từ đó ở Tây phương bắt đầu chánh thức có Tỳ Kheo (Ni).
Ba vị Tỳ Kheo là: Quả Tiền Hằng Khiêm, Quả Ninh Hằng Tĩnh và Quả Tiên Hằng Thọ; hai vị Tỳ Kheo Ni là: Quả Dật Hằng Ẩn và Quả Tu Hằng Trì.
Hòa Thượng kể:
Các vị chỉ biết là Sư Phụ thâu rất nhiều đệ tử người Mỹ, nhưng không biết đó là chuyện không dễ làm! Chuyện người ta không làm được mà tôi làm được mới cảm động được họ. Năm 1962 (Hòa Thượng 44 tuổi), tôi đến nước Mỹ, chuẩn bị đào tạo một số nhân tài người Tây phương để phiên dịch kinh điển Trung Hoa, nhưng vì nhân duyên chưa chín muồi, cho nên tôi ẩn dật ở Mỹ 6, 7 năm. Cho đến năm 1968, chắc nhân duyên đã thành thục nên người Mỹ liên tiếp kéo tới.
Khóa hè thứ nhất có khoảng hơn 30 vị sinh viên từ trường Đại học ở Seattle, Washington tới. Tôi giảng Kinh Lăng Nghiêm cho nhóm sinh viên này hết 96 ngày. Đây là lần đầu tiên người Mỹ làm quen với Phật giáo, cũng có thể nói là một khởi đầu cho Phật giáo tại Hoa Kỳ.
Sau khi lớp Hè giảng kinh Lăng Nghiêm kết thúc, có năm người Mỹ phát tâm xuất gia. Năm 1969 tôi đưa họ đến chùa Hải Hội ở Đài Loan thọ đại giới. Từ đó người Tây phương bắt đầu chánh thức có Tỳ Kheo (Ni). Vào Tết năm 1968, tôi đã dự trù đến mùa Hè sẽ giảng kinh Lăng Nghiêm. Nhân ngày mùng một Tết năm đó, tôi nói với tín chúng rằng: “Năm nay Phật giáo Hoa Kỳ sẽ nở ra năm đóa hoa sen!
Bắt đầu từ năm đóa hoa sen này, trong tương lai sẽ xuất ra ngàn vạn đóa sen hầu truyền bá Phật giáo rộng khắp Tây phương!” Lúc đó ở nước Mỹ chưa có người xuất gia, nên mọi người cũng không hiểu tôi nói vậy với ý gì. Đợi đến mùa Thu thì có năm người Mỹ xuất gia, họ mới biết ra, nói: “Hôm mùng một Tết, Sư Phụ có nói trước là Phật giáo năm nay sẽ nở ra năm đóa hoa sen, hiện giờ có năm người xuất gia, thì ra là vậy!” Sau đó thì lục đục, tiếp nối có thêm người đến xuất gia.
Tôi không thâu nhận các người xuất gia ở Mỹ một cách dễ dàng đâu. Ai muốn xuất gia đều quỳ trước mặt tôi, cầu xin hơn ba lần, nói: “Con muốn xuất gia làm Tỳ Kheo!” Lần thứ nhất tôi nói: “Chú phải suy nghĩ kỹ lại đi, tôi cho chú thêm một thời gian, sau hãy tới nói cho tôi biết.” Hoặc là ba, năm tháng sau, họ lại tới tôi nói: “Con nhất định muốn xuất gia!” Tôi nói: “Chú hãy suy xét lại thêm lần nữa!
Nếu chú thật sự có thể ăn ngày một bữa, cũng có thể ngủ ngồi - chịu nổi cái khổ xuất gia này, rồi hãy tới nói với tôi.” Các người xuất gia theo tôi đều phải ăn một bữa, 3 giờ rưỡi sáng là thức dậy, 4 giờ sáng tụng công phu khuya, đến 10 giờ tối mới đi nghỉ, ngày nào cũng vậy, cho nên đây là điều không dễ làm đối với các vị xuất gia người Mỹ này.
Bây giờ tôi tuyên bố tên của năm vị xuất gia:
Đầu tiên là Quả Tiền, tự Hằng Khiêm. Lúc trước chú cảm thấy rằng trên cõi đời này không còn gì đáng lưu luyến nữa và thấy mình giống như một kẻ lang thang, không nhà để về, nay gặp được Phật pháp, nên xuất gia là chỗ quay về của chú.
Vị thứ hai là Quả Ninh, tự Hằng Tĩnh. Chú cũng cảm thấy đời người chẳng có ý nghĩa gì. Đợi đến khi gặp Phật pháp mới biết rõ chân lý chân chánh của Phật giáo và vì vậy chú mới xuất gia.
Vị thứ ba là Quả Tiên, tự Hằng Thọ, người trẻ tuổi này không giống với người ta. Vì chú muốn nghiên cứu về chân lý nhân sanh, cái quy hướng cứu cánh cùng vấn đề sanh tử, cho nên mới xuất gia.
Vị thứ tư là Quả Dật, tự Hằng Ẩn, cô trẻ tuổi này, một lòng muốn biết rõ ràng về vấn đề nhân sanh. Bây giờ gặp được Phật pháp, cô biết đó là chỗ nghiên cứu giá trị, cho nên cũng xuất gia tu hành.
Vị thứ năm là Quả Tu, tên Hằng Trì, cô quá hiểu về thế gian này. Cô đã nhìn thấu, buông xả tất cả, giờ chỉ một lòng tu đạo. Quả Tu từng đặt mấy câu kệ rằng: “Quả tất năng đắc, tu chư phước đức, hằng niệm định huệ, trì giới thành Phật.” Bốn câu này là do cô sáng tác, rất có đạo lý.
Nay tôi chỉ nói đại khái về nhân duyên xuất gia của năm vị người Mỹ này. Nếu muốn nói chi tiết hơn thì phải cần nhiều thời giờ mới nói hết được. Hôm nay tôi đặt tên và xếp thứ tự cũng trong âm thầm đã có cảnh giới không thể bàn. Mỗi tên mà tôi đặt cho mỗi người đều có nhân duyên của nó. Chuyện này tuy không lớn gì mấy, nhưng cũng là chuyện không nhỏ, bên trong đều có tiền nhân hậu quả.
Các vị xem! Đã lâu như vậy mà có rất ít người Tây phương hiểu rõ Phật pháp một cách chân chánh. Bây giờ chỉ mới là một cái bắt đầu. Lại có thể nói là cái mê tín, cũng có thể nói không phải là cái mê tín, vì ở kiếp trước các vị đều đã phát nguyện, nói: “Chúng tôi có ông Sư Phụ, ổng có nguyện lực đến nước Mỹ hoằng dương Phật pháp trong tương lai, chúng tôi làm đệ tử nên phát nguyện sẽ đi đến đó trước để làm người ở nước đó hầu giúp Sư Phụ hoàn thành tâm nguyện.”
Các vị đều vì thừa nguyện mà đến, các vị không nên quên đi nguyện xưa của mình! Phụ chú: Phiên dịch từ tập ghi chép của cô Quả Dật, vị đệ tử người Mỹ:
On the plane from New York to San Diego, on February 12, 1973, Shifu said, “ write this down. It’s a secret. Don’t let the others know yet. I wrote this verse many years ago. Seeing this verse, you all should know what you are all about.”
The next morning at Upasika Phuong’s home, he said to Heng Chih, Heng Hsien and me, “The verse I told you about yesterday was written while I was cultivating filial piety beside my mother’s grave. At that time the Sixth Patriarch and I talked about these matters. I observed the conditions yesterday and saw that you Bhikshunis could know this vow; these are affairs which took place decades ago.”
Ngày 12 tháng 2 năm 1973, trên chuyến bay từ New York đến San Diego, Sư Phụ nói:
“Tiền khiêm ninh tĩnh hằng thọ tiên, dật ẩn tu trì ngũ đóa liên; nhất cửu lục bát (1968) Lăng Nghiêm hội, tuyên dương Phật giáo hóa hữu duyên.” Các con hãy viết lại mấy câu bí mật này, đừng cho người khác biết! Đó là kệ mà Sư Phụ đã đặt từ nhiều năm về trước. Khi đọc mấy câu kệ này, các con sẽ biết ra mình là ai.”
Sáng sớm hôm sau, ở tại nhà của cô cư sĩ Phương, Hòa Thượng bảo sư cô Hằng Trì, sư cô Hằng Hiền và tôi rằng: “Câu kệ mà hôm qua ta nói cho các con nghe, đó là kệ mà ta làm trong thời gian (1937~1940) thủ hiếu bên mộ phần của mẹ ta.
Lúc bấy giờ Lục Tổ Đại Sư cũng từng nói với ta về những sự việc này. Hôm qua ta quán sát nhân duyên, nhận thấy đã đến lúc cho Tỳ Kheo Ni các con biết về chuyện đã xảy ra suốt mấy mươi năm qua.
Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát
___________________
Hoang Nguyen gởi
