Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh


 
LÝ LUẬN CÙ NHẦY VỀ ĐỘC QUYỀN CAI TRỊ Ở VIỆT NAM


Thời gian gần đây, những người thương vay khóc mướn ở Việt Nam thường đem vấn đề Chủ nghĩa Xã hội và đảng có quyền một mình lãnh đạo  ra hù họa dư luận. Tuy nhiên, càng vênh váo và cù nhầy bao nhiêu lại càng lâm vào thế bí. Những bài viết không trả lời được câu hỏi: Ai đã trao quyền lãnh đạo cho Đảng, và tại sao Đảng sợ Dân chủ đến thế?
   
Thực tế “không ai trao quyền cai trị  độc quyền cho Đảng”. Nhân dân chưa bao giờ bỏ phiếu bầu Đảng vào vị trí lãnh đạo độc tôn. Đảng đã tự cho mình quyền lãnh đạo “toàn xã hội” như đã tự vẽ trong Điếu 4 Hiến pháp năm 2013, theo đó: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.”
   
Lời lẽ “tự biên, tự diễn” này đã đưa đất nước vào 30 năm nội chiến nồi da xáo thịt (1945-1975), đất nước tan hoang và lòng người ly tán sau 94 năm đảng có mặt trên đất nước (3/2/1930- 3/2/2024).
   
Bằng chứng Chủ nghĩa Cộng sản Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, người thành lập đảng CSVN, đã sụp đổ khi Chế độ Cộng sản và khối Liên Xô tan rã năm 1991. Sau 70 năm chịu sự lãnh đạo kìm kẹp của nhà nước Liên Xô, người dân Nga và các Dân tộc chư hầu Đông Âu đã vùng lên đạp đổ thành trì cai trị hà khắc này.
   
Thế nhưng, 23 năm sau (1972-2924), luận điệu “chữa lửa” vẫn tồn tại gượng ép ở Việt Nam như: “Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu trước đây chỉ là sự sụp đổ của một mô hình CNXH cụ thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, chứ không thuộc về bản chất của chế độ XHCN, không phải do sai lầm trong lý luận về CNXH của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đây cũng không phải là sự "cáo chung" của CNXH mà chỉ là "bước thụt lùi tạm thời", là bài học kinh nghiệm quý giá trong việc nhận thức và vận dụng đúng đắn lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về CNXH, cũng như trong việc xây dựng mô hình CNXH cụ thể, phù hợp với đặc điểm của từng quốc gia, dân tộc.” (Báo Nhân Dân, ngày 02/02/2024).
   
Lập luận “cố đấm ăn xôi” này không có cơ sở, vì sự tan rã của Liên Xô không phải là “bước thụt lùi tạm thời" mà vĩnh viễn. Thế nhưng, với thái độ ù lỳ và quan điểm chậm tiến, đảng CSVN vẫn cố bám lấy chiếc áo rách để lập luận: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.” (Theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qúa độ lên Chủ nghĩa Xã hội, bổ sung, phát triên năm 2011).
 
SA LẦY-THAM NHŨNG
 
Hy vọng hão huyền này đã lật tẩy mặt trái của Chế độ Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực và suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của cán bộ đảng viên, nhất là giới lãnh đạo, đã phơi ra “con người thật” của đảng CSVN. Đảng nhìn nhận đã có “một số không nhỏ” đảng viên “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa”, công khai phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
   
Những người này chê đảng lỗi thời, chậm tiến và ngoan cố  không nhận ra Chế độ Cộng sản đã chết. Họ cũng biết đảng cố bám lấy hình ảnh Hồ Chí Minh để làm chiếc phao cứu sống. Đảng cũng phải sử dụng Quân đội và Công an để bảo vệ chế độ, chống dân chủ và đàn áp đối lập.
   
Những lập luận “Chủ nghĩa Xã hội là một chế độ ưu việt nhất” của Tuyên giáo, cơ quan tuyên truyền của đảng CSVN, đã bị thực tế phủ nhận. Với bằng chứng Thé giới Cộng sản do Nga-Trung Quốc lãnh đạo đã tan rã. Trên Thế giới ngày nay, chỉ còn lại Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Bắc Hàn và Cuba theo Chủ nghĩa Cộng sản.
   
Để tồn tại, Việt Nam phải dựa vào Trung Quốc hầu hết mọi phương diện từ Chính trị đến Kinh tế và Ngoại giao. Việt Nam không dám “quay trục” sang Tư bản Chủ nghĩa khi Trung Quốc còn do đảng Cộng sản độc quyền cai trị. Việt Nam cũng không dám chống lại Trung Quốc ở Biển Đông, dù đã mất Quần đảo Hoàng Sa và một số vị trí chiến lược quan trọng ở Quần đảo Trường Sa.
   
Hơn nữa Việt Nam đã phải lệ thuộc vào Kinh tế của Trung Quốc để tồn tại. Theo thống kê, mỗi năm  Việt Nam “nhập siêu” từ Trung Quốc từ 50 đến 60 tỷ Mỹ kim, tập trung vào máy móc và hàng dân dụng. Sự lê thuộc này là “chén thuốc độc” của Việt Nam. Tình hình sẽ nguy hiểm đến sự tồn vong của đất nước, nếu Trung Quốc “quay mặt” trừng phạt Việt Nam như họ đã làm trong 10 năm chiến tranh biên giới từ 1979 đến 1989.
   
Vì vậy, đảng CSVN đã phải làm theo Trung Quốc trong chủ trương kinh tế được gọi là “thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa” do nhà nước lãnh đạo. Kinh tế tư nhân được nhà nước đề cao, nhưng cũng do nhà nước giám sát.
   
Với chủ trương kinh tế “giở giăng, giở đèn” như vậy, Việt Nam không vượt qua được những khó khăn trong sản xuất, xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Bởi vì “cái bóng” Trung Quốc đã bao phủ mọi lĩnh vực.  Do đó, khi bị chỉ trích, Tuyên giáo đảng đã bịa ra chuyện kinh tế Tư bản đã bóc lột công nhân và người lao động để làm giầu cho thiểu số nhà Tư sản là giới tài phiệt và siêu giầu.
 
Đảng CSVN cũng rêu rao Kinh tế Xã hội chủ nghĩa là nhằm phục vụ “quảng đại quần chúng”, nhưng thực tế chỉ có “tư bản đỏ” mới giầu lên trong nền kinh tế chỉ huy này. Vậy mà đảng vẫn quanh co rằng: “Ở Việt Nam, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN không phải là kinh tế thị trường tự do theo kiểu TBCN, mà là một mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH, là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Các nước XHCN lựa chọn kế thừa những thành quả của nhân loại không phải là việc từ bỏ con đường CNXH, hay CNTB điều chỉnh, thích nghi không phải là thay đổi về bản chất. Cho nên, việc xác định chế độ chính trị, đi theo con đường nào cho đến ngày nay vẫn là cần thiết. Theo quy luật vận động khách quan của lịch sử xã hội loài người, CNXH vẫn là một chế độ xã hội mang bản chất ưu việt cần hướng tới, là một tất yếu.” (báo Nhân Dân, ngày 02/02/2024)
   
Đảng nói vậy mà “không phải vậy”. Đảng đã “tư bản hóa” chủ trương kinh tế, nhưng vẫn nắm quyền kiểm soát để hưởng lợi. Đảng không dám nói thẳng ra là nền “kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa” chỉ là cách nói để nhân dân không nghi ngờ. Vì vậy, đảng vẫn không từ bỏ độc quyền cai trị và độc đảng cầm quyền theo phương châm “đổi mới nhưng không đổi mầu, hòa hợp mà không hòa tan”.
   
Do đó, mỗi khi bị chỉ trích độc tài, đảng lại ra sức chống đỡ và chống đòi hỏi “đa nguyên, đa đảng”. Bằng chứng bởi lập luận: “Các đối tượng xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng, phủ nhận cơ sở lý luận về vai trò lãnh đạo, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ra sức tuyên truyền cho luận điệu “chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời”; “chủ nghĩa Mác - Lênin là lý thuyết suông về CNXH không tưởng, không có thực”... Đây là luận điệu hết sức nguy hiểm bởi nó cố tình đánh đồng giữa vấn đề đa nguyên, đa đảng với dân chủ và phát triển. Mục đích của chúng là phủ nhận vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với lịch sử của dân tộc, lấy cớ cổ suý cho ý đồ xây dựng, hình thành những đảng phái chính trị đối lập, chống phá từ bên trong.” (Báo CAND, ngày 05/02/2024).
   
Từ lâu các lãnh đạo đảng, kể cả ông Võ Văn Thưởng, đương kim Chủ tịch Nước, tuyên bố Việt Nam không chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Nhưng câu hỏi đặt ra là: tại sao đảng lại sợ Dân chủ đến thế?
   
Đảng sợ vì muốn độc quyền cai trị để hưởng lợi? Hay đảng sợ phải chia quyền với các đảng Chính trị khác?
   
Dù trong trường hợp nào thì đảng cũng không che được lòng tham và đã dùng võ lực để bào vệ quyền này. Nhưng cũng vì vậy mà đảng đã phản bội lời tuyên bố của Hồ Chí Minh ngày 7/6/1960, theo đó ông nói: “Đảng ta là một đảng cách mạng, ngoài lợi ích của công nhân và nông dân, Đảng ta không có lợi ích nào khác”.
   
Ông Hồ cũng đề cao quyền lợi của nhân dân, chống lại cá nhân chủ nghĩa, nhưng ngày nay “cá nhân chủ nghĩa” đã bàng bạc trong đảng, tạo ra bất công xã hội và lợi ích nhóm. Như vậy, Đại hội XIII của Đảng (tháng 2/2021) đã bịp dân khi tự đánh giá: "Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như hiện nay”.
   
Kết luận một chiều này không bảo đảm Việt Nam đã có dân chủ trong nhân dân vì đảng chỉ chấp nhận có “dân chủ trong đảng” mà thôi.  Bằng chứng như Hội đồng Nhân dân và Quốc hội, hai cơ chế bầu cử nhưng thực chất chỉ là “đảng cử dân bầu” để làm đẹp chế độ. Nhân dân không có quyền “không bỏ phiếu”. Quyền tự ứng cử chỉ là hình thức có tổ chức bởi Mặt trận Tổ quốc để loại bỏ những người muốn ứng cử độc lập hay đối lập với đảng.
   
Trường hợp bị loại ngay từ vòng “hiệp thương” năm nào của hai ứng cử viên Quốc hội sáng giá gồm ông Lê Kiên Thành, con trai Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn và Tiến sỹ Luật Cù Huy Hà Vũ, con Nhà thơ Cù Huy Cận là một bằng chứng phi dân chủ và độc tài. Ông Cù Huy Hà Vũ sau đó đã bị buộc ra nước ngoài sống lưu vong.
 
CỤ NGUYỄN TRỌNG VĨNH
 
Tình hình phi dân chủ đã nhắc ta nhớ lại tuyên bố đanh thép của lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh năm 2017, theo đó ông nói: “ĐCSVN nay đã hoàn toàn biến chất, trở nên quá hư hỏng, khó có thể sửa chữa được! Đảng đã đánh mất mình, không còn xứng đáng là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội nữa! Trong các hư hỏng trên, có 3 hư hỏng nguy hiểm nhất:
   
- Một là, ĐCSVN đã trở thành một ổ tham nhũng trầm trọng, khó có thể kiềm chế và kiểm soát được! Bọn tham nhũng đều là những cán bộ, đảng viên trung cao cấp của Đảng, chúng đã trở thành bầy sâu, tập đoàn sâu và ăn của dân không từ một thứ gì!
   
- Hai là, ĐCSVN không còn là một khối đoàn kết vững chắc như xưa. Nay đã chia rẽ, đang hình thành nhiều phe nhóm lợi ích tệ hại trong đảng, và các phe phái này đang ra sức đấu đá, tranh giành nhau quyền lợi và quyền lực, không thiết tha gì với lợi ích dân tộc, với quyền lợi đất nước như hồi ĐLĐVN trước đây nữa!
   
- Ba là, ĐCSVN ngày nay đã lệ thuộc nặng nề vào ngoại bang, cụ thể là vào ĐCSTQ! Sau khi bí mật ký kết thỏa ước Thành Đô (9/1990) với ĐCSTQ, Ban lãnh đạo ĐCSVN kể từ đó đã lệ thuộc gần như mọi mặt vào ĐCSTQ! ĐCSVN làm ngơ, không dám ra tuyên bố phản đối và thực hiện biện pháp đáp trả khi chủ quyền biển đảo của Tổ quốc bị bọn TQ xâm phạm, đặc biệt là sự kiện từ đầu tháng 5/2014 đến giữa tháng 7/2014, khi TQ ngang ngược coi thường luật pháp quốc tế và chủ quyền quốc gia của Việt Nam, chúng hạ đặt trái phép dàn khoan HD.981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, và mới đây Việt Nam phải nhẫn nhục đầu hàng, chấp nhận yêu sách ngang ngược của TQ đòi VN phải ngừng Dự án khoan thăm dò khí đốt tại Lô 136/03 thuộc bãi Tư Chính nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam!”
   
Với những nhận xét rõ ràng của Cụ Nguyễn Trọng Vĩnh, ta có thể hiểu tại sao trong đảng hiện nay không thiếu những kẻ chỉ muốn đảng tồn tại mãi để được vinh thân, phì gia.


Phạm Trần

____________


Đỗ Hứng gởi