Mạc Đĩnh Chi và câu chuyện trở thành Lưỡng quốc Trạng Nguyên nhờ “quay bài"
Nổi tiếng tài cao học rộng đến mức Hoàng đế nhà Nguyên khen ngợi là Lưỡng quốc Trạng Nguyên, Mạc Đĩnh Chi còn được lưu lại trong sử sách nhiều câu chuyện về văn tài của ông.
Tượng thờ Mạc Đĩnh Chi ở Bắc Ninh
Trưởng thành từ nghèo khó
Mạc Đĩnh Chi sinh năm 1280, tên tự là Tiết Phu, quê ở làng Lũng Động (Chí Linh). Tương truyền ông mồ côi cha từ nhỏ, hằng ngày phải vào rừng chặt củi kiếm sống, nuôi mẹ. Vì dáng người thấp bé, dung mạo xấu xí nên ông thường bị trêu chọc, khinh rẻ.
Ngay từ khi còn nhỏ, Mạc Đĩnh Chi đã ra sức học tập vì ông biết chỉ có học vấn mới giúp ông thoát khỏi cảnh sống nghèo hèn. Với tài văn chương của mình, ông được Chiêu Quốc Vương nhận là môn đồ, chu cấp tiền cho ăn học thành tài.
"Có công mài sắt, có ngày nên kim", năm 1304, khi mới 24 tuổi, Mạc Đĩnh Chi dự khoa thi Đình. Ông đỗ đầu, nhưng lúc vào yết kiến, vua Anh Tông thấy ông dung mạo xấu xí nên tỏ ý chê bai, không muốn cho đỗ đầu.
Mạc Đĩnh Chi biết ý vua nên ông làm bài phú Ngọc tỉnh liên (Hoa sen trong giếng ngọc) dâng vua. Bài phú có đoạn được dịch từ tiếng Hán có nghĩa:
Chẳng phải như đào trần lý tục; chẳng phải như trúc cỗi mai gầy.
Câu kỷ phòng tăng khó sánh; mẫu đơn đất Lạc nào tầy.
Giậu Đào Lệnh cúc sao ví được; vườn Linh Quân lan khó sánh thay!
Ấy là giống sen giếng ngọc ở đầu núi Thái hoa đây.
Mạc Đĩnh Chi tự ví mình như bông sen trong giếng ngọc ở núi, ý muốn nói nhà vua đừng chỉ đánh giá một người qua tướng mạo dung nhan bên ngoài. Anh Tông xem xong khen hay, liền ban áo mão võng lọng cho ông vinh quy bái tổ, rồi ban chức Thái học sinh hỏa dũng thủ, sung làm Nội thư gia.
Đấu trí ngay trên đất địch
Đại Việt Sử ký Toàn thư ghi: Năm 1308, sứ Nguyên là Thượng thư An Lỗ Khôi sang báo tin Vũ Tông (?) lên ngôi. Vua sai Mạc Đĩnh Chi sang Nguyên. Lúc này, việc Mạc Đĩnh Chi sang Nguyên được dự báo là "đầy nguy hiểm", bởi người phương Bắc vẫn chưa quên thất bại trong 3 cuộc xâm lược trước đây.
Mạc Đĩnh Chi sang Nguyên ban đầu rất bị khinh thường vì vẻ ngoài thấp bé, xấu xí. Ở buổi tiếp kiến đầu tiên tại kinh đô Yên Kinh, vua Nguyên ra câu đối thử tài Mạc Đĩnh Chi: Nhật hoả vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thố (Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày thiêu cháy mặt trăng. Ý nói nhà Nguyên lớn mạnh, luôn dễ dàng tiêu diệt các tiểu quốc như Đại Việt).
Mạc Đĩnh Chi liền ứng đối lại: Nguyệt cung tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô (Mặt trăng là cung, sao là đạn, hoàng hôn bắn rụng mặt trời. Ý nói nước nhỏ cũng có thể đánh bại quân đội nước lớn). Vua Nguyên nghe xong tức lắm, nhưng cũng phải khen Mạc Đĩnh Chi đối hay, đối chuẩn.
Lời bàn: Dân Tàu, đến ngay bây giờ, chúng nó vẫn khinh miệt nước ta. Chúng gọi dân Nam Việt là Man Di, Duế Nản, phản phúc. Các sứ thần qua chầu Thiên Triều chưa chắc, may phước đã được gặp Hoàng Đế Tàu. Ngay đến bây giờ lãnh tụ VN qua chầu quan thầy, khi đóng cửa, cũng khúm núm, thiếu điều quỳ lạy chủ nhân. Vua Tàu mà tức thì khó mà còn cái đầu để cúi lạy. Ở đó mà dám khi quân.
Một hôm khác, Tể tướng nhà Nguyên [Tên gì? Nhà Nguyên không có chức Tể Tướng] mời ông vào phủ ngồi. Lúc ấy đương hồi tháng 5, tháng 6. Trong phủ có bức trướng mỏng thêu hình con chim sẻ vàng đậu cành trúc. Đĩnh Chi vờ ngỡ đây là con chim sẻ thực, vội chạy đến bắt.
"Nhà Nguyên có Trung thư tỉnh là cơ quan hành chính cao nhất, chức quan đứng đầu Trung thư lệnh thường do Hoàng thái tử đảm nhận, dưới có Tả Hữu thừa tướng, sau lại có Bình chương chính sự (平章政事); chức phó có Tả hữu thừa (左右丞) cùng Tham tri chính sự."
Người Nguyên cười ồ, cho là người phương xa quê kệch. Thấy vậy, Đĩnh Chi kéo bức trướng xuống xé đi. Mọi người đều lấy làm lạ hỏi tại sao.
Kém lịch sự của ông tổ ngoại giao của VN (sau này) chỉ vì quê kệch, nên xé tranh của khách để chửa thẹn cái quê mùa, ngu dốt của mình? Ông tổ của "văn hóa kém văn hóa, bất lịch sự, hổn láo?"
Đĩnh Chi trả lời: "Tôi nghe người xưa vẽ cành mai và chim sẻ, chứ chưa thấy vẽ chim sẻ đậu cành trúc bao giờ. Nay trong bức trướng của Tể tướng lại thêu cành trúc với chim sẻ".
"Trúc là bậc quân tử, chim sẻ là kẻ tiểu nhân. Tể tướng thêu như vậy là để tiểu nhân trên quân tử, sợ rằng đạo của tiểu nhân sẽ mạnh, đạo của quân tử sẽ suy. Tôi vì thánh triều mà trừ giúp bọn tiểu nhân". Nghe vậy, mọi người đều phục tài của ông.
Người Trung Hoa có luật lệ vẻ tranh của họ. Chúng ta không thấy chim sẻ [tiểu nhân] đậu cành tre [quân tử] trong tranh của Tàu, là do điển tích của họ chứ không phải vì Mạc Đĩnh Chi dạy khôn họ.
Một lần khác, trong thời gian Mạc Đĩnh Chi đang ở kinh đô Yên Kinh thì hay tin công chúa [tên gì? Có tài liệu nói chuyện này không có xảy ra trong thời gian đó? Và bài văn tế này là của Tàu bị ai đó đạo văn] được vua Nguyên thương yêu nhất qua đời. Mạc Đĩnh Chi được quan nhà Nguyên cử đọc văn tế, nhưng đến khi mở ra chỉ thấy có đúng một chữ "Nhất".
Đám tang là chuyện trọng đại cho chủ nhân, vậy thì họ làm khó dể khách An Nam, tới phúng điếu, với mục đích gì? Tại sao họ ghét sứ ta quá vậy ngay cả lúc họ có tang tế?
Bất ngờ đến vậy song Mạc Đĩnh Chi lập tức ứng khẩu:
Thanh thiên nhất đóa vân,
Hồng lô nhất điểm tuyết,
Thượng uyển nhất chi hoa,
Dao trì nhất phiến nguyệt.
Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết!
(Một đám mây trên bầu trời xanh
Một bông tuyết trong lò lửa hồng
Một bông hoa trong vườn thượng uyển
Một vầng trăng ở cung Dao Trì
Than ôi! Mây tán, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết!)
Chỉ với một chữ "Nhất", Mạc Đĩnh Chi đã đọc lên bài văn tế khiến cả vua Nguyên cùng toàn thể bá quan nghe xong mắt cũng long lanh ngấn lệ.
Trở thành Lưỡng quốc Trạng Nguyên nhờ "quay bài"
Thời gian Mạc Đĩnh Chi đi sứ, trong một buổi chầu có người nước ngoài dâng quạt lên tặng vua Nguyên. Nhân có cả sứ thần Cao Ly ở đó, vua Nguyên bèn mời Mạc Đĩnh Chi và sứ thần Cao Ly cùng làm thơ vịnh đề lên quạt.
Lúc này Mạc Đĩnh Chi bất ngờ, không chuẩn bị trước nên có phần "bí" ý. Ông quay sang bên sứ thần Cao Ly, nhìn [cọp dê, quay bài?] vào thế bút viết của sứ thần nên đoán được ông này viết: "Uẩn long trùng trùng, Y Doãn, Chu Công/Vũ tuyết thê thê, Bá Di, Thúc Tề" (Khi nóng bức thì quạt đắc dụng như Y Doãn, Chu Công, khi mùa đông giá rét thì xếp xó như Bá Di, Thúc Tề bị chết đói).
Mạc Đĩnh Chi có ý tưởng rồi, liền lập tức viết: "Lưu Kim thước thạch thiên địa vi lô, nhĩ ư tư thời hề Y Chu cự nho/Bắc phong kỳ thê vũ tuyết tái đồ, nhĩ ư tư thời hề Di Tề ngã phu/Y, dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng, duy ngã dữ nhĩ hữu thi phù (Chảy vàng tan đá, trời đất như lò, ngươi bấy giờ là Y Chu đại nho. Gió bấc căm căm, mưa tuyết mịt mù, ngươi bấy giờ là Di Tề đói xo. Ôi, được dùng thì làm, bỏ thì nằm co, chỉ ta cùng ngươi là thế ru)".
Về ý, bài “văn hóa quay bài” của Mạc Đĩnh Chi cũng có ý tương tự bài của sứ Cao Ly nhưng lại "đắt" ở việc trích dẫn câu trong sách Luận ngữ, có nghĩa: "Ai dùng ta thì ta làm, ai không dùng ta thì ta để đó. Điều ấy chỉ người với ta mới có được thôi".
Cảm phục văn tài [quay bài, thay vì trừng phạt] của Mạc Đĩnh Chi, vua Nguyên liền phê lên chiếc quạt bốn chữ: "Lưỡng quốc Trạng Nguyên."
Phét như cuội? Nổ như kho đạn. Làm ba bài đối vớ vẩn như vậy, mà được vua Nguyên cấp phát bằng tiến sĩ như tiến sĩ dởm của VC bây giờ.
Tấm gương liêm khiết, lấy vợ Cao Ly và hậu duệ xưng đế
Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư ghi lại: Đĩnh Chi là người liêm khiết, sống rất đạm bạc. Vua rất hiểu ông, sai người ban đêm đem 10 quan tiền bỏ vào nhà ông. Hôm sau, Đĩnh Chi vào chầu, tâu vua hay chuyện đó. Vua bảo: "Không ai đến nhận, cho khanh lấy mà tiêu".
Thời Hiến Tông, Mạc Đĩnh Chi làm Nhập nội hành khiển Hữu ty lang trung rồi thăng Tả ty lang trung. Trong thời gian ở Yên Kinh, ông kết thân với sứ thần Cao Ly. Mến mộ tài năng của Mạc Đĩnh Chi, vị sứ thần này mời ông sang Cao Ly chơi và gả cháu gái cho. Thiệt không đó?
Người thiếp này có một con gái, một con trai với Mạc Đĩnh Chi. Sau này hậu duệ của Mạc Đĩnh Chi ở lại Cao Ly và lập ra một dòng tộc tại đó. An Nam tạp chí số 4, năm 1926 từng đăng bài của học giả Lê Khắc Hòe với tiêu đề Người Triều Tiên đi bán sâm là hậu duệ của Mạc Đĩnh Chi.
Tương truyền khi Mạc Đĩnh Chi ứng đối "bắn rụng mặt trời" trước bá quan văn võ nhà Nguyên, có người nói: "Hậu duệ người này tất sau này sẽ tự lập làm vua".
May là vua Nguyên chưa chém đầu, không thì làm gì có chuyện con cháu sau này làm vua nước Nam, có con cháu bán sâm Đại Hàn.
Đúng như vậy, sau này cháu 7 đời của Mạc Đĩnh Chi là Mạc Đăng Dung đã lật đổ vua Lê để lập ra nhà Mạc. Đại Việt Sử ký Toàn thư viết: Đăng Dung là người xã Cao Đôi, huyện Bình Hà (tức là xã Long Động, huyện Chí Linh), tiên tổ Đăng Dung là Mạc Đĩnh Chi, Trạng nguyên triều Trần, làm quan đến Tả bộc xạ.
Đĩnh Chi sinh ra Cao, Cao sinh ra Thuý, Thuý sinh ra Tung, dời sang ở xã Lan Khê, huyện Thanh Hà rồi sinh ra Bình, Bình lại dời sang xã Cổ Trai, huyện Nghi Dương rồi trú tại đó. Bình sinh ra Hịch, Hịch lấy con gái trưởng của Đặng Xuân người cùng xã, sinh được ba con trai, con trưởng là Đăng Dung.
Sau khi lên ngôi, Mạc Đăng Dung truy tôn Mạc Đĩnh Chi làm Kiến Thủy Khâm Ninh Văn Hoàng Đế. Nhà Mạc tồn tại trong 150 năm, trải qua 4 đời vua.
05/06/2020
_____________
tle8464953 gởi