Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh



 
Miếng ăn
 
 


Trong thời gian đi tù “học tập cải tạo” ngoài Bắc, một ngày nọ ở trại Tân Kỳ, Nghệ Tĩnh, trong lúc tôi bị bệnh phải nằm nhà, có một thiếu tá bộ đội Bắc Việt ghé thăm trại.  
 
Ðến “lán” tôi ở, ông xưng là thiếu tá thuộc Bộ Nội Vụ và hỏi tôi thuộc quân binh chủng nào, cấp bậc gì.
 
Sau khi nói cấp bậc và cho ông ta biết là tôi thuộc ngành chiến tranh tâm lý đóng quân ở Saigon, viên thiếu tá la lên ra tuồng mừng rỡ như gặp bạn cố tri, ông ta hấp tấp hỏi tôi: - “Ở trong ngành tâm lý chiến, các anh biết anh Phạm Huấn và Phan Nhật Nam không?”
 
Tôi thực thà đáp rằng Thiếu Tá Phạm Huấn thì làm chung phòng với tôi, còn nhà văn Phan Nhật Nam cũng là người quen biết. 
 
Thế là hình như muốn tâm sự chuyện gì đấy với tôi, viên thiếu tá ngồi xuống trên cái chõng tre cạnh chỗ tôi nằm. Ông ta kể lại là hồi mấy năm trước khi miền Nam bị mất, có một phái đoàn quân sự bốn bên ra thăm Hà Nội, trong đó có mấy ông sĩ quan nhà báo Phạm Huấn, Phan Nhật Nam và Dương Phục đã được “bên ta” đón tiếp rất nồng hậu, còn đãi một bữa cơm trưa thịnh soạn, thế mà khi về các anh ấy lại viết báo nói xấu miền Bắc (!)  
 
Viên thiếu tá nhấn mạnh đến sự đãi đằng của một bữa cơm trưa hai lần, và có ý trách móc mấy ông phóng viên miền Nam đã không biết điều, người ta đã cho ăn một bữa cơm như thế mà không mang ơn, lại còn viết báo nói xấu chế độ. 
 
Có lẽ qua sự tuyên truyền quá đáng, họ cho rằng dân chúng miền Nam bị bóc lột đói rách tả tơi, đói khát, thèm ăn, thèm uống, do đó mới có chuyện sau tháng 4-1975, bà con ở ngoài Bắc vào thăm, đem cho chục chén ngang để ăn cơm.  
 
Nhưng tại sao trong khi đó họ lại cho rằng sĩ quan miền Nam hiếp đáp dân chúng, nên nhà cao cửa rộng (một đứa cháu tự miền Bắc vào đã hỏi tôi, cậu đại úy mà nhà có thế này thôi sao?), lại cho một bữa ăn đãi đằng là quan trọng như thế? 
 
Sau này tôi mới biết miếng ăn ở miền Bắc xhcn nó quý giá đến ngần nào, khiến viên thiếu tá thuộc Bộ Nội Vụ kia phải nghĩ rằng cả mấy ông sĩ quan miền Nam, phải “xôi chùa ngọng miệng”. 
 
Mới đây, ở Mỹ gặp Phan Nhật Nam, nhắc lại câu chuyện cũ, tôi muốn biết thực sự cái bữa ăn đó nó ghê gớm như thế nào, đến nỗi viên thiếu tá Bộ Nội Vụ cứ nhắc đi nhắc lại và cho rằng đáng lý ra các ông sĩ quan kia phải hàm ơn họ mới phải.  
 
Phan Nhật Nam đã ở tù “cải tạo” 14 năm mà trí nhớ còn rất tốt, anh còn nhớ rất rõ, đó là ngày Thứ Sáu 4 tháng 3 năm 1973, phái đoàn 4 phe từ Saigon ra Hà Nội bằng máy bay C.130, đã được đưa về khách sạn Metropole.  

Cái gì chứ chuyện “trình diễn” thì Hà Nội là chuyên viên số 1. Khách sạn mới quét còn hăng hắc mùi vôi, và bữa cơm “chiêu đãi” được coi là thịnh soạn vì có bia Trúc Bạch, cơm gạo tám thơm, giò chả… 
 
Những người miền Nam đi công tác vào vùng địch khi nào cũng cẩn thận mang theo sandwich, nước uống, do đó mà bữa cơm trưa hôm ấy, vì lịch sự bia phải nhấp môi, chứ không ai đụng đến thức ăn. Thế là phe chủ nhà, lâu lắm mới dược chút cơm trắng, tí bia, tha hồ mà đóng vai tiếp khách, “tiếp thu” tận tình.  
 
Ông Phan Nhật Nam lại đùa dai bằng cách lấy một nắm cơm gạo tám nói là đem về Saigon cho biết gạo tám thơm như thế nào, thế là ông văn nô Tô Hoài sau này hô hoán lên là quả  miền Nam đang đói thật. 
 
Sau khi ra tù, nhân dịp về Huế và gặp lại một đứa cháu hiện làm cho một công ty gia công nhôm đồng hay lâm sản gì đó đã mô tả miếng ăn như sau:  

Mỗi khi có “chiêu đãi” phái đoàn này nọ, anh chàng giám đốc luôn luôn nói nhỏ với nhà hàng gói thêm cho anh ta ba phần ăn đem về cho vợ con và tính luôn vào hóa đơn thanh toán cho cơ quan. 
 
Ðiều này, thực ta cũng thấy làm lạ là vì “giải phóng” đã được hơn mười năm, đâu đến nỗi còn đói khát như những ngày đầu, hay là vì bản chất tham ô, bần tiện thì lúc nào cũng vậy. 

Ai mời đi ăn điểm tâm buổi sáng, thì phải sữa, soda, hột gà là thứ đắt tiền nhất, ăn thì phải tô đặc biệt có hai hột gà, có khi ăn bún bò cũng thêm hai hột gà cho ra dân chơi sành điệu. 
 
Mấy mươi năm sau, mặc dù sau khi đã có chức, có quyền, đối với quan quân trong chế độ ấy, miếng ăn vẫn còn là một thứ gì quý giá, được đánh giá quá lớn, bây giờ, đi theo chữ “ăn” lại thêm chữ “nhậu”.  

Chuyện kể, ở Biên Hòa có một Việt kiều về mở quán cà phê kinh doanh, nhưng công an phường không thích uống cà phê mất ngủ mà chỉ thích nhậu thịt rừng với bia ngoại.  

Họ mời ông đi nhậu bữa đầu tiên, ông nghĩ đó là xã giao và làm quen, ông nhận lời và lần đó dù công an mời ông, ông phải trả hơn một triệu đồng tiền ăn uống. 
 
Lần thứ hai, công an phường mời nhậu, ông Việt Kiều không né tránh được đành dẫn xác đi, lần này con số người tham gia đông hơn, không phải chỉ toàn thể công an phường treo bảng “đi họp” mà cả bạn bè, bà con của các bạn dân nữa.  
 
Ông chủ quán cà phê bấm gan vay nợ trả hơn hai triệu đồng cho một bữa nhậu, két bia chất cao thành tháp. Ðến lần thứ ba, thì ông Việt Kiều “tam thập lục kế, dĩ đào vi thượng sách”, ông trốn trong cầu tiêu, và nhờ vợ ra báo ông đi Saigon mua hàng vắng.  
 
Công An vẫn có kế hoạch, chúng dẫn nhau ra quán cũ, ăn nhậu ngất trời và bảo chủ quán ghi “hóa đơn” cho ông Việt Kiều nọ, đặc biệt là còn hào hoa, rộng rãi “boa” cho ba em chiêu đãi, chuốc rượu trong quán nhậu, và số tiền này cũng cộng luôn vào phiếu thanh toán. 
 Tôi nghĩ là sau vụ này, chắc vợ chồng ông Việt Kiều đã đóng quán kinh doanh, “di tản chiến thuật” về Mỹ rồi. 
 
Cũng như nhiều người có cơ sở làm ăn trong quận, một ông chủ lò nhôm phải thay phiên tổ chức các bữa nhậu linh đình “đóng hụi chết” cho công an quận, không phải ngoài quán xá, mà ngay trong cơ quan mỗi chiều Thứ Bảy để tránh né “tai mắt của nhân dân”. 

Nhân viên công an, phường xã là những con ma đói, luôn luôn có mặt trong các buổi tang lễ, cưới hỏi, hội hè, đâu có miếng ăn thì ở đó có chính quyền địa phương.  

Chúng ta hãy nghe một đoạn văn của Lâm Chương viết về một hoạt cảnh ở nông thôn, trong những tiệc rượu luôn luôn có bọn “quỷ thần chứng giám”: 
 
“Xã nghèo, có người dám chơi thế là chơi ngon. Bữa giỗ xem ra rất linh đình. Khách được mời ăn giỗ cũng rất phấn khởi. Thời buổi khó khăn, người ta thường trông vào miếng ăn. Có rượu thịt là có ruồi nhặng vo ve. 

Nhà chật, Tám Nưa che cái chái ngoài sân, đặt thêm bàn. Cánh đàn bà ngồi trong nhà, mồm mép tía lia. Cánh đàn ông ngồi ngoài sân, cười nói ồn ào. Mọi người hỉ hả ăn uống.  
 
Hai bàn ngoài cùng, dành đãi công an và nhân viên chính quyền xã. Tám Nưa nói, đó là thủ tục không thể thiếu. Chỗ quy tụ đông người phải có quỷ thần chứng giám mới yên. Tôi nghĩ thời đốn mạt, người ta sống bằng mặt, không phải bằng tim. Kẻ có quyền thì tập thói lưu manh, bóc lột. Người yếu thế thì học chước dối trá, luồn lách…” 
(trích trong “Những Đoản Văn Rời” của Lâm Chương) 
 
Lại thêm một chuyện nữa về miếng ăn trong cuốn “Viết Về Huế” của nhà văn Tuệ Chương: “Ngay sau 30 tháng 4, ông anh cả của anh rể tôi từ ngoài Bắc về. Anh rể tôi dọn cơm mời ông anh, có tôi dự. Tôi hỏi anh ta: 

– Về đây, anh tính “công tác” gì? 

– Tôi muốn làm Chủ Tịch Phường. 

Tôi ngạc nhiên hỏi: 

– Anh là kỹ sư đóng tàu, sao lại muốn làm chủ tịch Phường? 

Anh ta cười: 

– Ngoài Bắc, mấy người Chủ tịch Phường là sướng nhất, hết nhà này mời ăn giỗ, tới nhà kia” 
(trích trong Viết Về Huế của Tuệ Chương) 
 
Ðó là chuyện ăn nhậu trên bàn tiệc, có hải sản, thịt rừng, bia ngoại, có chiêu đãi viên ngồi một bên chuốc rượu, đút thức ăn vào miệng, kể cả lau mồm lau mép cho thực khách.  

Ðây là nói theo nghĩa đen, còn về nghĩa bóng trong xã hội này, tôi nghĩ không cần phải chùi mép cho người khác khỏi thấy, vì nhân dân thì đã quá biết, còn cơ quan liên hệ hay cấp trên, cấp dưới, cấp ngang, cấp dọc, thằng, con nào cũng ăn, thì cần chi phải giấu giếm, che đậy.  
 
Do vậy truyền thống của XHCN là những hợp đồng, những khế ước không bao giờ được thảo luận hay hoàn tất trong phòng sở, mà phải là nơi quán rượu, nhà hàng, bia ôm hay karaokê. 

Ðó là lối ăn có rượu để đưa cay thực hiện tại các nhà hàng, còn như ăn xi măng, sắt, gạch đá, hắc ín, xăng nhớt kể cả máy móc, dây nhợ thì không cần có rượu mà cơ quan nào cũng thi đua làm tốt.  
 
Chính báo chí trong chế độ đã xác nhận mỗi công trình đều bị cắt xới từ 30% đến 50% là chuyện thường tình, vì nhà thầu hay người cho thầu phải chi qua nhiều chặng, nhiều cấp, hàng ngang, hàng dọc, y như chiếc xe khách phải đứng lại quá nhiều trạm kiểm soát của công an vậy. 
 
Do đó, chung cư thì thiếu xi măng, cầu cống thì thiếu sắt, nhà trường thì thiếu gạch… đương nhiên là sẽ sụp đổ, có khi trước ngày khánh thành, mà nạn nhân thường là quần chúng vô tội.  

Ðó là những miếng ăn độc hại, và ăn đã trở thành một thói quen, một lề thói, trở thành một nếp sống văn hóa trong xã hội Việt Nam hiện nay.

 
Huy Phương


Đặng Hữu Phát gởi