Một gia đình thợ săn được chứng quả Dự lưu
"Bàn tay không trầy xước
Cầm thuốc độc chẳng sao
Lòng không có tham sân
Cầm vũ khí hại gì."
Khi ngụ tại Trúc Lâm, Thế Tôn dạy bài kệ trên từ chuyện của thợ săn Kukkutamitta.
Thuở đó ở thành Vương Xá có một cô gái con nhà giàu đã quy y Phật, nghe pháp, rồi chứng quả Dự Lưu. Vì cô đã đến tuổi cập kê nên cha mẹ cho ở một phòng trên tầng chót tòa nhà bảy tầng với một tỳ nữ hầu hạ. Một buổi chiều, cô đứng bên cửa sổ nhìn xuống đường thấy người thợ săn chuyên sống bằng nghề bẫy nai với năm trăm bẫy và năm ngàn giáo đang chở thịt nai vào thành để bán, cô bỗng bị tiếng sét ái tình và đem lòng say mê. Cô biết rằng nề nếp gia phong không bao giờ cho phép mình được lấy anh thợ săn nghèo khổ, nên cô đã âm thầm cho gia nhân tiếp xúc với người thợ săn để bỏ nhà theo anh ta. Ban đầu, anh này cũng rất ngỡ ngàng, nhưng đến khi gặp gỡ thì liền ưng thuận vì cô vừa giàu có vừa xinh đẹp.
Cô mang một ít tài sản rồi cùng anh về sống trong ngôi làng ven rừng để chồng cô tiện hành nghề săn bắn. Vì đã chứng quả Dự lưu nên cô sống rất tốt với mọi người xung quanh khiến làng xóm ai cũng thương quý. Còn người chồng thì hàng ngày vào rừng săn bắt, mỗi khi mang thú về cô cũng phải xẻ thịt chúng cho chồng đem ra chợ bán. Hai vợ chồng có với nhau được bảy người con trai, sau này thêm bảy cô con dâu là mười bốn người.
Khi ấy, Phật cũng đã lớn tuổi. Một hôm quan sát thế gian, Người thấy gia đình này có duyên sâu dày với Phật Pháp nhưng đi trong bao nhiêu kiếp luân hồi nên họ đã quên và nay cũng đã đến lúc được hóa độ. Sáng hôm đó, Phật chầm chậm đi đến khu rừng, để lại các đệ tử ở bên ngoài rồi đi sâu vào bên trong. Mọi người ngạc nhiên không biết tại sao Đức Thế Tôn đã lớn tuổi mà lại vào trong khu rừng vắng, hơn nữa là một khu rừng hoang vu nhiều thú dữ, có cả mấy trăm chiếc bẫy người thợ săn đã đặt sẵn.
Phật thong thả bước vào. Người dùng thần thông không cho con thú nào đến gần bẫy, đồng thời để lại dấu chân dọc theo những chiếc bẫy, các dấu chân nối nhau dẫn về một gốc cây cành lá xum xuê. Hôm đó Người không đi khất thực, chỉ tọa thiền chờ đợi nơi gốc cây.
Người thợ săn đã đặt mấy trăm chiếc bẫy từ buổi chiều hôm trước, sớm hôm sau vào rừng thăm bẫy như thường lệ. Ông rất ngạc nhiên vì không một con thú nào sa lưới, chỉ có những dấu chân của ai đó để lại. Ông nghĩ có kẻ nào đã chạy tới chạy lui phá không cho thú dính bẫy nên tức tốc rượt theo những dấu chân rồi lần đến gốc cây nơi Phật đang ngồi. Lúc này, Đức Phật dùng thần thông không cho ông thấy được uy đức của Người! Vì ác tâm còn nhiều, ông tức giận giương cung lên nhắm vào Phật mà bắn nhưng thần thông của Phật đã khiến ông không thả dây cung được, tức là lực kéo thì vẫn còn mà dây cung lại không thể buông ra, cứ kéo nặng như thế mãi nên rất mỏi. Giống như ai đó bắt ta phải đứng trung bình tấn lúc tập võ, mồ hôi đổ ra nhễ nhại mà không thể nhúc nhích. Cũng vậy, ông chẳng thể la lên hay buông cung ra, cứ phải đứng yên ở đó. Tới gần trưa thì ông cũng sắp đến ngưỡng không chịu đựng nổi.
Ở nhà không thấy cha trở về, những người con trai vội lao vào rừng tìm kiếm. Họ thấy những chiếc bẫy không bị sập bởi thú rừng và những dấu chân để lại nên quyết định men theo. Đến nơi gốc cây, họ thấy cha mình đang đứng đó, gương mặt tái xanh, mồ hôi nhễ nhại, đang cầm cây cung giương ra mà không bắn được, ú ớ không nói nên lời. Đoán rằng người ngồi dưới gốc cây kia có lẽ là thủ phạm, những thanh niên này cũng quyết định xông vào tấn công. Nhưng khi vừa rút dao ra chạy được mấy bước thì họ cũng phải đứng yên đó không làm được gì nữa, mồ hôi túa ra nhễ nhại. Phải đứng trong tư thế nghiêng với cánh tay cầm dao đưa lên làm họ mỏi rã rời.
Vì đã qua giờ ăn mà không thấy tám người đàn ông trở về, người mẹ lật đật mang theo bảy cô con dâu vào rừng tìm kiếm. Họ cũng thấy dấu chân để lại bên những chiếc bẫy và lần đến nơi thì cũng chứng kiến cảnh tượng kỳ lạ đó. Trừ người mẹ, không ai biết chuyện gì đang xảy ra. Bà nhận ra Đức Phật vì lúc ở thành Vương Xá bà đã quy y với Người, đã chứng quả Dự lưu và có lòng tôn kính Phật tột độ. Giây phút vừa trông thấy Phật, nhìn thấy mũi tên nhắm về Phật, thấy đao búa đang hướng về phía Phật, bà hét lên: “Đừng giết cha ta!” Tám người đàn ông chợt giật mình tưởng người đang ngồi dưới gốc cây là cha ruột của bà. Năm xưa, vì bà đã âm thầm trốn nhà đi nên người chồng không biết cha của bà là ai, các con cũng không biết ông ngoại của mình như thế nào, nên khi nghe bà la lớn “Đừng giết cha ta”, họ tưởng Đức Phật là cha của bà thật, tâm ác của họ lập tức được lắng xuống.
Lúc này, Phật mới thu thần thông lại. Người thợ săn mới bắt đầu chùng mũi tên xuống nhưng tay vẫn nắm chặt vì sợ mũi tên bay ra sẽ giết chết cha vợ của mình. Những người cháu cũng vội vàng buông dao xuống, chạy đến thăm hỏi vì tưởng đó là ông ngoại. Còn bà thì quỳ xuống đảnh lễ Phật trong nước mắt vì đã bỏ nhà lưu lạc bao nhiêu năm, hôm nay mới gặp được bậc đạo sư mà mình hằng tôn kính.
Phật từ tốn gọi cả gia đình đến ngồi quanh nghe Người thuyết pháp. Lúc này Phật hiện trở lại uy đức như bình thường khiến mọi người vô cùng choáng ngợp vì trước mắt họ là một Đức Phật rực rỡ như muôn nghìn ánh mặt trời. Nhờ lời pháp thiêng, chồng và toàn bộ mười bốn người con của bà đều chứng quả Dự lưu và sau khi quay về họ đã đổi sang nghề khác. Nhân duyên của gia đình này thật đặc biệt!
Sau sự việc, các tỳ kheo thưa hỏi Phật vì sao một cô gái đã chứng quả Dự lưu mà còn bị tâm luyến ái nặng nề, hơn nữa còn chọn một ông chồng làm nghề sát sinh, ngày ngày đều phải cầm dao xẻ thịt? Như vậy có phải đã phạm tội sát sinh không? Tại sao gia đình đó làm nghề thợ săn mà trong phút chốc gặp Phật đã chứng quả Dự lưu? - Nhân quả gì mà kỳ lạ như thế?
Đức Phật giải thích rằng người vợ đã chứng quả Dự lưu nên bà không có ác tâm, không sát sanh. Bà lấy người chồng làm thợ săn do duyên nợ quá khứ buộc phải lôi cuốn như vậy. Vì trong nhiều đời họ đã là vợ chồng nên gặp lại nhau thì tình thương yêu khởi lên không thể cưỡng lại được. Việc bỏ nhà đi theo anh chàng lang bạt cũng là do nhiều duyên nghiệp phức tạp buộc bà phải từ bỏ cuộc sống sang quý để nếm trải những năm tháng nghèo hèn. Tất cả đều bị chi phối bởi nhân quả rất chặt chẽ. Nhưng vì bà không có ác tâm mà chỉ tùy thuận theo chồng nên không có tội. Nếu tay một người không bị thương thì dù có cầm thuốc độc trong tay, thuốc độc cũng không thể hại họ. Và quan trọng là vì đã chứng quả Dự lưu nên bà sống với hàng xóm láng giềng rất tốt, rất độ lượng.
Còn nguyên nhân cả gia đình này được chứng quả Dự lưu là vì vào thời xa xưa khi Đức Phật Ca Diếp nhập Niết bàn, cả gia đình này đã tình nguyện dâng hết gia tài để xây một ngôi tháp lộng lẫy nguy nga thờ xá lợi của Ngài và cùng vào làm nô lệ coi sóc quét dọn ngôi tháp thờ xá lợi Đức Phật Ca Diếp, phục vụ người đến viếng. Nhờ công đức này, đến kiếp gặp Đức Phật Thích Ca, họ được chứng quả Dự lưu, riêng người phụ nữ đó thì có nhiều công đức hơn nên bà chứng sớm hơn một chút, nhưng nhân quả đều không sai biệt. Rồi Phật đọc bài kệ: Bàn tay không trầy xước/ Cầm thuốc độc chẳng sao/ Lòng không có tham sân/ Cầm vũ khí hại gì.
Nghề và nghiệp
Các tỳ kheo hỏi Phật vì sao cả gia đình đó làm nghề thợ săn, tại sao người phụ nữ đó lại phải dính vào nghiệp săn bắt của chồng. Đức Phật kể lại rằng vì ngày xưa trong một hội thi về săn bắn, gia đình này đã đứng ra thưởng cho người thắng cuộc tạo thành cái nhân khiến họ bị cuốn vào nghiệp thợ săn. Tức là ngành nghề của ta làm trong kiếp này đôi khi do kiếp xưa ta đã khen ngợi, thưởng cho người nào làm trong ngành nghề đó.
Ví dụ, vua nhạc Rock Elvis Presley hay vua nhạc Pop Michael Jackson. Nếu kiếp xưa họ là người có thế lực giàu có, tại sao kiếp này lại trở thành ca sĩ? Có thể do lúc đó họ thường khen ngợi, ban thưởng cho những người trong gánh hát rất nhiều tiền vàng, suốt đời họ rất ưu ái cho những người nghệ sĩ, nên kiếp này khi bước vào lĩnh vực nghệ thuật, họ lập tức trở thành huyền thoại và được nhiều người tôn thờ như những ông vua trong thể loại âm nhạc rock và pop.
Tán thán khen ngợi ai làm ngành nghề gì thì sẽ có kiếp ta bước vào đúng nghề đó. Nếu ta xem đá gà mà vui mừng khen con này, con kia thì kiếp sau ta sẽ được ‘làm gà để đá'. Nếu ta thấy ai trúng đề mà ta vui mừng thì kiếp sau ta sẽ làm người đi ghi số đề rồi ‘bị công an bắt’. Còn nếu thấy người xuất gia mà ta yêu quý cung kính thì sao? …
Dùng thần thông để nhiếp phục kẻ cang cường nhưng cuối cùng vẫn phải dùng đạo lý hóa độ
Phật đã dùng thần thông nhiếp phục làm cho gia đình người thợ săn kính sợ. Nhưng cái sợ bằng thần thông này chưa mang đến đạo quả nên Phật phải thuyết một bài pháp rồi sau đó họ mới chứng Dự lưu và hưởng được quả phước đã gieo từ thời Đức Phật Ca Diếp. Kiếp đó họ đã vì lòng tôn kính mà đến chăm lo tháp thờ Phật nên số phước này được dồn vào trong tâm linh. Thế nhưng vẫn phải nhờ một bài pháp thì số phước này mới trổ ra thành đạo quả. Thần thông có thể làm người khác nể sợ và thêm niềm tin kính nhưng để chứng quả thì cần phải có đạo lý soi sáng như vậy.
Nhiều người giàu, có quyền chức hoặc quá ngang ngược chỉ thích tìm tới ông thầy nào có phép: “Đến ông thầy đó ban phép, ta sẽ giữ chức mãi”, “Xin thầy nọ ban phép, ta sẽ buôn may bán đắt”; còn nghe nói ai thuyết giảng đạo lý thì họ lại không quan tâm. Lúc bản ngã quá lớn thì người ta thường sẽ như vậy.
Người thợ săn trong tích truyện trên cũng thế nên Đức Phật đã phải dùng thần thông chiết phục, dùng tình cảm thu phục (“nhờ” người vợ kêu Phật là cha) nhưng cuối cùng vẫn phải bằng bài thuyết pháp mới giúp người thợ săn được chứng quả. Vì vậy, khi gặp ai có thế lực và ngang ngược, không cần đạo lý, chỉ cần thần thông phép lạ… thì ta hãy khuyên họ: “Đừng sợ thần thông phép lạ. Điều anh phải kính sợ là đạo lý, vì chỉ đạo lý mới mang lại lợi ích đời đời còn tư tưởng trông nhờ để có chức có quyền chỉ là tà kiến mê tín mà thôi!”
Tâm thiện - ác của chúng ta khiến những gì ta sở hữu sẽ trở thành lợi ích hay thành mối nguy hại cho đời
Đức Phật đã nói rằng:
Tay không bị trầy xước
Cầm thuốc độc hại gì.
Người nào tay đang có vết thương hở mà động vào nọc rắn thì chất độc sẽ lập tức ngấm vào máu dẫn đến tử vong mà chỉ đôi tay lành lặn mới không sợ chất độc. Cũng vậy, Phật nói rằng tâm không ác thì cầm vũ khí hay thuốc độc cũng chẳng hại gì. Tức là những thứ ta cầm sẽ trở thành điều lợi ích hay thành điều có hại là do tâm mình. Tiền bạc, thuốc men, đao kiếm, súng đạn, quyền lực… tất cả đều nguy hiểm, đều thành công cụ hại người hại đời nếu tâm ta hiểm ác.
Ví dụ, trong chiến tranh có những người lính phải cầm súng ra trận, nhưng người có ác tâm thì họ giống như cái máy giết người, còn người có tâm thiện thì không hề muốn giết ai, chỉ chiến đấu theo mệnh lệnh của hồn thiêng sông núi để bảo vệ nhân dân, bảo vệ tổ quốc. Cũng là người lính, cũng cầm súng nhưng hai người mang hai tâm thiện - ác khác nhau thì quả báo dành cho họ cũng không hề giống nhau.
Hoặc người vợ hiền cầm con dao sẽ chế biến nhiều món ăn ngon cho gia đình, một bác sĩ cầm dao sẽ phẫu thuật cứu người bệnh… nhưng kẻ ác cầm dao thì lại là chuyện khác.
Với quyền lực cũng thế. Quyền lực vào tay người có đạo đức sẽ ích nước lợi dân, nhưng vào tay kẻ ích kỷ, tham lam, thủ đoạn thì sẽ thành nỗi khổ cho muôn dân. Đáng tiếc là người tốt lại ít tham quyền lực, còn kẻ xấu lại dùng mọi thủ đoạn để tranh quyền đoạt lợi. Khi người xấu giành được chức quyền rồi thì dân sẽ rất khổ. Họ lừa qua gạt lại là công quỹ bị chiếm đoạt, tiền thuế của dân bị cướp mất mà người dân không hề biết. Người dân chỉ thấy đời sống của mình sao không phát triển, không ngờ rằng kẻ tham nhũng đã cướp mất tiền thuế.
Với người thiện tâm thì bất cứ thứ gì vào tay họ đều trở thành điều tốt đẹp cho đời. Ngược lại, với kẻ còn chất chứa ác tâm thì bất cứ thứ gì vào tay họ đều trở thành sự nguy hiểm, thành nỗi đau khổ cho cuộc đời. Đối với người bình thường chúng ta, tuy không phải là kẻ ác độc nhưng cũng chưa hoàn toàn thuần thiện, trong tâm vẫn còn sự ích kỷ, ganh tỵ, hơn thua… nên mỗi khi ta cầm bất cứ thứ gì vẫn có thể trở thành mối nguy hại cho chính mình và cho mọi người. Chúng ta hãy cố gắng rèn luyện đạo đức, trừ diệt hết mọi tâm ác độc còn ẩn núp trong mọi góc tối của tâm hồn để sau này mọi thứ vào tay mình đều thành vô số lợi ích cho cuộc sống. Sau này nếu ta có may mắn giàu lên, có quyền chức lớn… thì tất cả những gì ta sở hữu đều mang lại an vui hạnh phúc cho tha nhân.
Trích PC 42 - Giặc cướp phục kích
__________________
Hoang Nguyen gởi
