Mười địa danh nổi tiếng
trong âm nhạc miền Nam
Trong vài chục năm ngắn ngủi, các nhạc sĩ thân thương của Miền Nam Tự Do đã dày công sáng tác nhiều bài hát để đời. Một số địa danh được nhắc nhở trang trọng qua những dòng nhạc lãng mạn trữ tình. Bài này xin nêu lên mười vùng đất quê hương để cùng nhớ lại trang sử “nhạc vàng” từng được ưa chuộng mê say trước cũng như sau 1975.
1. CẦU ÁI TỬ
“Mẹ thương con ra cầu Ái Tử
Vợ trông chồng lên núi Vọng Phu”
Chiều chiều trông về biên khu
Lòng căm hờn oán quân thù
<!>
Mở đầu là hai câu ca dao mà Nhạc Sĩ Duy Khánh nhắc lại trong bài Lối Về Đất Mẹ.
“Chiều qua giã từ đất Mẹ mà đi
Vì nghe tình quê tình nước đôi bề
Nước chia hai đường nước chưa về
Trót thương cho người lỡ câu thề
Lên đường từ ly, hỏi lòng mình lưu luyến gì”.
Vậy Ái Tử nằm ở đâu? Vì sao tác giã nói tới địa danh này?
Để lời lời câu hỏi đó, chúng ta hãy tham khảo wikipedia, lần giở lịch sử nước nhà giai đoạn Trịnh Nguyễn phân tranh.
Năm 1527 Mạc Đăng Dung cướp ngôi Nhà Lê, Nguyễn Kim (1468 - 1545) cùng một số danh tưởng khác chạy sang Ai Lao phù Lê diệt Mạc, lập nên Nhà Lê Trung Hưng (1533).
Vì quý mến tài năng Trịnh Kiểm nên Ông gả con gái Ngọc Bảo cho viên tướng này.
Sau khi Ông mất, Trịnh Kiểm lên nắm binh quyền, liền giết ngay anh vợ Nguyễn Uông. Người em còn lại Nguyễn Hoàng lo âu cho số phận mình. Thỉnh ý Trạng Trình Bỉnh Khiêm thì được lời khuyên “Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân”. Nghe xong Nguyễn Hoàng (1545 - 1613) nhờ Chị xin anh rễ cho vào trấn Thuận Hóa năm 1558. Nơi dừng chân đầu tiên là vùng đất hoang vu Ái Tử, Triệu Phong, Quảng Trị. Chúa Nguyễn đóng đô ở đây cho đến 1626 thì dời đi.
Trong thời chiến tranh Quốc- Cọng, một dạo Hoa kỳ từng sử dụng Ái Tử làm căn cứ quân sự.
Mới nghe qua ai cũng hiểu ái tử là thương con. Nhưng vì sao Duy Khánh lại mượn câu ca dao để mở đầu cho bài hát của mình?
Đây là chuyện kể của một người gốc Quảng Trị: vào giai đoạn toàn dân kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) có người chiến binh ôm mìn ngụy trang trôi theo đám lục bình bơi tới cầu Ái Tử đang thuộc quyền cai quản của Pháp với mưu toan giựt sập. Chẳng may viên lính gác cầu phát hiện bắn chết, có ngờ đâu đó là đứa con trai của mình.
Người Mẹ hay tin vội vã ba chân bốn cẳng chạy tới ôm xác kẻ lìa trần mà đau đớn tột cùng. Suốt mấy tháng trời bà vẫn hay ra cầu Ái Tử vật vã kêu gào thương khóc con. Phải chăng cảnh tượng này làm động lòng nhạc sĩ miền Trung đa tình?
2. PHÁ TAM GIANG
Năm 1972, Thi Sĩ Tô Thùy Yên cùng Nhạc Sĩ Trần Thiện Thanh viếng thăm vùng địa đầu giới tuyến. Bay ngang phá Tam Giang thấy cảnh sông nước lửng lờ trong buổi chiều tà, chợt nhớ Saigon đang bước vào mùa thi, Nhà Thơ dạt dào thi hứng làm bài thơ dài đưa cho Nhật Trường xem. Quá xúc động và đồng cảm với thi nhân, Trần Thiện Thanh phổ thành bài Chiều Trên Phá Tam Giang để rồi nhận ngay vòng nguyệt quế. Thi Sĩ nổi tiếng hơn mà Nhạc Sĩ cũng được hâm mộ nhiệt thành. Đã 50 năm trôi qua vẫn còn hằng triệu người khắp nơi ca hát xem như tâm sự của chính mình.
“Chiều trên phá Tam Giang
Anh chợt nhớ em
Nhớ ôi! Niềm nhớ! Ôi niềm nhớ
Đến bất tận
Em ơi! em ơi!”
Phá Tam Giang rộng 50 km² chạy dài từ Sông Ô Lâu tới Cầu Hai, ngang qua hai huyện Phong Điền và Quảng Điền, Thừa Thiên, với độ sâu 2 - 4 m. Phá này được biết tiếng từ lâu với câu ca dao:
“Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông Nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”.
Xưa có gã thư sinh từ xứ Nghệ vô kinh đô ứng thí. Khi ngang qua bến Sông Ô Lâu thì chàng phải lòng cô lái đò duyên dáng dễ thương. Hai người thề non hẹn biển sau khi đỗ đạt sẽ cùng kết tóc xe tơ.
Chàng thi đậu công thành danh toại, nàng ngày ngày ngóng trông tái hợp. Nhờ người nhắn gởi thì chàng mượn câu ca dao đó để thoái thác lời ước thề.
Về sau Nội Tán Nguyễn Khoa Đăng (1690 - 1725) đã điều động dân phu đào bới mở rộng cửa phá cho nên sóng biển không còn. Nhờ vậy mà tai nạn giật thuyền bè giãm hẳn.
“Phá Tam Giang ngày rày đã cạn
Truông Nhà Hồ Nội Tán dẹp tan”.
Còn cô lái đò vẫn giữ lòng chung thủy, mơ màng lặn lội băng rừng vượt núi kiếm tìm.
“Đói lòng ăn nửa trái sim
Uống lưng bát nước đi tìm người thương”.
Tới nơi mới hỡi ơi chàng đã yên bề gia thất. Nàng choáng váng xây xẩm mặt mày. Cố lê lết trở về quê cũ với nỗi niềm chua xót thở than:
“Đi đường những lách cùng lau
Những tràm với chổi bỏ nhau sao đành”.
Thế rồi không chịu nổi nghịch cảnh bị phụ tình, lỡ bước sang ngang, nàng trầm mình theo giòng nước nơi hai người từng tha thiết hẹn hò.
3. LẦU ÔNG HOÀNG
“Đường lên dốc đá nửa đêm trăng tà nhớ câu chuyện xưa
Lầu Ông Hoàng đó, thuở xưa chân Hàn Mặc Tử đã qua
Ánh trăng treo nghiêng nghiêng, bờ cát dài hoang vắng”.
Đó là lời trong bài “Hàn Mặc Tử” của Trần Thiện Thanh.
Theo wikipedia, tòa lâu đài này được công tước người Pháp vốn là cháu nội vua Louis xây cất năm 1911 rộng 500 m² cách tháp Chàm Pôshanu vài trăm mét thờ công chúa người Chăm và cách thành phố Phan Thiết 7 km. Vua Bảo Đại từng mua lại Lầu này làm chỗ nghỉ ngơi, thưởng ngoạn cảnh đẹp hoang dã nên thơ của bãi cát dài trắng xóa cùng tiếng sóng rì rào với gió thổi vi vu từ đại dương.
Về sau người Pháp xây dựng nhiều đồn bót quanh khu vực nên không tránh khỏi chinh chiến điêu linh, danh thắng này trở nên đổ nát hoang tàn chẳng còn để lại dấu tích. Nhưng nơi đây từng là chốn hẹn hò của đôi tình nhân Hàn Mặc Tử (1912 - 1940) và Mộng Cầm (1917 - 2007) trong những năm 1936 - 1937. Ta hãy nghe Hàn thổn thức khắc khoải nhớ nhung thần tượng bẻ nhỏ tên Nghệ (Mộng Cầm) qua bài Muôn Năm Sầu Thảm:
“Nghệ hỡi Nghệ muôn năm sầu thảm
Nhớ thương còn một nắm xương thôi
Thân tàn ma dại đi rồi
Rầu rầu nước mắt bời bời ruột gan
Thấy gió là ôm ngang lấy gió
Tưởng chừng như trong đó có hương
Của người mình nhớ mình thương
Nào hay gió tạt chẳng vương vấn gì
Nhớ lắm nhớ như si như dại
Nhớ quá nhiều mà bại hoại chân tay
Nhớ hàm răng nhớ hàm răng
Mà ngày nào đó vẫn khăn khít nhiều
Dẫu đau đớn vì lời phụ rãy
Nhưng mà ta không lấy làm điều
Trăm năm vẫn một lòng yêu
Và còn yêu nữa rất nhiều em ơi!”
Thêm nữa, hãy đọc bài Phan Thiết! Phan Thiết! để nghe Hàn thở than rên xiết:
“Rồi ngây dại nhờ thất tinh chỉ hướng
Ta lang thang tìm tới chốn Lầu Trăng
Lầu Ông Hoàng người thiên hạ đồn vang
Nơi đã khóc đã yêu thương da diết
Ôi trời ơi! là Phan Thiết! Phan Thiết!
Mà tang thương còn lại mãnh trăng rơi
Ta đến nơi nàng ấy vắng lâu rồi
Nghĩa là chết từ muôn trăng thế kỷ
Trăng vàng ngọc, trăng ân tình, chưa phỉ
Ta nhìn trăng khôn xiết ngậm ngùi trăng
Ta vãi vung thơ lên tận sông Hằng
Thơ phép tắc bỗng kêu lên thống thiết
Hỡi Phan Thiết! Phan Thiết
Mi là nơi ta ôm hận nghìn thu
Mi là nơi ta sầu muộn ngất ngư”.
Nghe lời thơ tưởng chừng như không có ai đau thương vì tình hơn chàng thi nhân đoản mệnh. Có biết đâu rằng trong một lúc nào đó song đôi với Mộng Cầm mà nhà thơ họ Hàn đã dịu dàng thỏ thẻ như trong bài Đà Lạt Trăng Mờ:
“Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều
Để nghe dưới đáy nước hồ reo
Để nghe tơ liễu run trong gió
Và để nghe trời giãi nghĩa yêu”.
Hiện nay khu vực Lầu Ông Hoàng là địa điểm du lịch của tỉnh Phan Thiết.
4. ĐỒI THÔNG HAI MỘ
Cạnh Hồ Than Thở, Dalat có ngôi mộ đôi nằm hiu quạnh hoang vu trên đồi thông. Ngang qua đây mấy ai mà không khỏi chạnh lòng một nỗi u hoài. Trong tâm trạng đó, nhạc sĩ Hồng Vân đắm mình sáng tác bài ĐỒI THÔNG HAI MỘ kể lại cuộc tình bi thương ai oán có một không hai trên cõi đời này.
Chàng tên Tâm, con nhà địa chủ ở Gò Công. Đang theo học khóa Võ Bị Dalat thì gặp Thảo, con một gia đình công chức. Hai người thầm yêu trộm nhớ và thường hẹn hò bên Hồ Than Thở. Mãn khóa ra trường, Tâm xin cưới Thảo nhưng bị cha mẹ từ chối vì vì không môn đăng hộ đối.
Buồn tình trắc trở, chàng xin ra tiền tuyến. Phần Thảo còn đau khổ hơn khi biết song thân người yêu khước từ và chàng vì phẩn chí mà tình nguyện xông pha ngoài biên ải. Tuy vậy nàng luôn một lòng chung thủy đợi chờ, lấy niềm vui qua những giờ phút trông ngóng thư người tình từ nơi phương trời lửa đạn.
Bỗng một hôm có thư báo về cái tin sét đánh ngang tai: Tâm vừa anh dũng hy sinh ngoài trận tuyến. Trời đất quay cuồng sụp đổ.
“Rồi nàng buồn thơ thẩn chẳng còn ngồi trang điểm qua màu phấn
Để phai úa đến tàn cả hương sắc
Tháng ngày luôn héo hon”.
Chờ ai đây đợi ai đây khi mà người thương vĩnh viễn ra đi. Thế rồi tuyệt vọng tình, nàng nhảy xuống bờ hồ quyên sinh theo người yêu. Gia đình thương tiếc cho lập mộ trên đồi thông.
Ngang trái thay lá thư báo tử là lá thư lầm lẫn chết người. Tâm không tử trận mà vẫn còn chiến đấu dưới cờ. Tám tháng sau chàng trở về thăm thì nghe hung tin Thảo không còn.
“Sao người về đây để tìm nhưng thôi đã mất còn đâu
Ôi buồn làm sao đồi thông xưa nay vắng bóng người yêu
Đời hợp tan, hợp rồi tan như mây kia gặp gió”.
Thật đắng cay chua xót, đồng cảnh ngộ của Thi Bá Vũ Hoàng Chương thuở nào: Đời vắng em rồi say với ai!
“Sóng dậy đìu hiu biển dấy sầu
Lênh đênh thương nhớ dạt trời Âu
Thôi rồi tay nắm tay lần cuối
Chia nẻo giang hồ vĩnh biệt nhau
“Gặp gỡ chừng như chuyện Liêu Trai
Ra đi chẳng hẹn một ngày mai
Em ơi! lửa tắt bình khô rượu
Đời vắng em rồi say với ai?”.
Nghĩ mình đã tới đường cùng. Chàng quẩn trí tự vẫn với ước nguyện mồ chôn nằm bên cạnh người yêu. Cha mẹ chấp nhận và cho mai táng gần Thảo.
“Rồi mộ chàng được ở bên cạnh nàng như lời xưa thề ước
Nằm hiu hắt đến ngàn thu an giấc dưới mộ sâu đất khô”.
Nhưng từ sau 1975, do tuổi già sức yếu, đường sá đi lại quá khó khăn nên cha mẹ phải đành đoạn di dời mộ chàng về quê quán. Còn Thảo tuy xa Tâm nhưng vẫn nằm yên nghỉ bên cạnh ngôi mộ trống của chàng. Ai qua đây mà không khỏi bùi ngùi cho số kiếp người bạc mệnh.
5. ĐỒI CHARLIE
Dựa theo bút ký Người Ở Lại Charlie của Nhà Văn Phan Nhật Nam, Nhạc Sĩ Trần Thiện Thanh đã soạn thành ca khúc cùng tên.
Charlie với cao độ gần 1000 m là dãy đồi nằm cạnh huyện Dakto, Kontum.
Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 khởi đầu giai đoạn chiến tranh khốc liệt nổ ra khắp các chiến trường miền Nam. Binh sĩ Cọng Hòa hành quân liên miên không một ngày thư thả.
Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù của Người Anh Cả Nguyễn Đình Bảo đã quần thảo ở Toumorong, Dakto, Dambe, Krek, Snoul, Đức Cơ, Khe Sanh, Hạ Lào... Có nơi chỉ đáo qua vài ngày rồi phải vội vàng từ giã theo tình hình chiến sự nóng bỏng trên bốn vùng chiến thuật.
Tháng 4.1972 được lệnh trấn đóng đỉnh đồi Charlie với nhiệm vụ án ngữ và kiểm soát ngã 3 biên giới Việt Miên Lào. Chừng 500 binh sĩ nhảy dù đối đầu lực lượng địch hùng hậu cấp sư đoàn. Chúng vẫn sử dụng chiến thuật tiền pháo hậu xung quen thuộc, cường tập pháo kích hàng ngàn hỏa tiễn suốt ngày đêm nhằm uy hiếp tinh thần và làm tiêu hao quân số trú phòng.
Sau hơn mười ngày đêm tử thủ dưới làn mưa pháo, Trung Tá Bảo bị sập hầm trúng đạn tử thương. Ngay sau đó Thiếu Tá Tiểu Đoàn Phó Lê Văn Mễ lên thay thế khi mà đơn vị gần như cạn kiệt vũ khí và lương thực.
Tình hình quá khẩn trương không thể cầm cự lâu hơn. Nếu chậm trể sẽ bị bao vây tràn ngập. Thiếu Tá Mễ cùng một số đồng đội phải gấp rút kiếm đường thoát thân, tìm cái sống trong cái chết rồi kêu gọi thượng cấp cho pháo đài bay B52 dội bom ngay ngọn đồi vừa rút đi. Hàng ngàn cán binh sinh bắc tử nam bị tiêu diệt. Còn theo Nhà Văn Phan Nhật Nam, bên ta thiệt mất 400 binh sĩ đền nợ nước.
Trong số sĩ quan thoát ra từ tử địa có Y Sĩ Tô Phạm Liệu. Tuy thương tích ở chân nhưng Anh vẫn không nản chí ngã lòng. Rán điều trị rồi chờ đơn vị tái bố sung để cùng ra trận trong tháng 6 nơi vùng hỏa tuyến.
Tới tháng 9.1972 tất cả quân cọng sản xâm lăng phải tháo chạy về phương bắc. Y Sĩ Phạm Anh Dũng cho hay Đại Úy Tô Phạm Liệu được tuyên dương sĩ quan xuất sắc nhất của Sư Đoàn Dù.
Hy sinh vì đại nghĩa, Trung Tá Bảo được truy thăng Đại Tá, để lại bao tiếc thương cho hình ảnh người chỉ huy tài ba, gan dạ, luôn hết lòng thương yêu thuộc cấp. Ông giã biệt vợ trẻ và 3 con thơ lúc mới 36 tuổi đời. Bà Nguyễn Đình Bảo là cựu chiêu đãi viên hàng không vẫn ở vậy thờ chồng nuôi con ăn học thành tài.
“Anh! Anh! hỡi Anh ở lại Charlie
Anh! Anh! hỡi Anh giã từ vũ khí
Vâng, chính Anh là ngôi sao mới
Một lần này chợt sáng trưng
Là cánh dù đan bằng tiếc thương vô cùng
Anh! cũng Anh vừa ở lại một mình
Charlie, tên vẫn chưa quen người dân thị thành
Xin một lần thôi, một lần thôi
Vẫy tay tạ từ Charlie
Xin một lần nữa, một lần nữa
Vẫy tay chào buồn Anh đi”.
Vời lòng cảm phục vô biên những Người Anh Hùng Mũ Đỏ, nhiều cựu binh và dân thường đã lặn lội tìm đường tới Charlie thăm chiến trường xưa. Trong tận sâu thẳm đáy lòng, ai ai cũng đều ngậm ngùi khi nhìn lại ngọn đồi nơi mà 50 năm về trước những người con thân yêu của Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù oanh liệt ra đi chẳng hẹn ngày về.
Phạm Văn Duyệt
__________________
usaelection gởi