Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh


 
MƯỜI NHÂN DUYÊN CỦA SỰ PHÁT TÂM BỒ ĐỀ

 
01. Niệm Phật trọng ân
 
02. Niệm phụ mẫu ân
 
03. Niệm sư trưởng ân
 
04. Niệm thí chủ ân
 
05. Niệm chúng sanh ân
 
06. Niệm sanh tử khổ
 
07. Tôn trọng kỷ linh
 
08. Sám hối nghiệp chướng
 
09. Cầu sanh Tịnh độ
 
10. Linh chánh pháp cửu trụ.
 
1. Thế nào là nhớ ơn nặng của Phật? 
 
Ðức  Phật  Thích  Ca Như Lai của ta, lúc mới phát tâm , đã vì chúng ta mà tu Bồ tát đạo , trải qua vô  lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực. Khi ta tạo nghiệp , Ðức  Phật  xót  thương , phương tiện giáo hóa, mà  ta  ngu  si, không chịu tin theo. 
 
Ta  đọa  địa  ngục , Phật  càng thương xót , muốn thay ta chịu lấy khổ sở, nhưng vì nghiệp ta quá nặng, không  thể  cứu  vớt . Ta  sinh  làm người, Phật dùng phương tiện khiến cho ta gieo trồng căn lành.
 
Ðời đời kiếp kiếp, Phật luôn theo ta, lòng không tạm bỏ chốc lát. Khi Phật xuất thế ta còn trầm luân, nay được thân người Phật đã diệt độ. 
 
Tội  lỗi  gì  mà sinh vào  thời  mạt pháp, phước đức nào lại được dự vào hàng ngũ xuất gia, nghiệp chướng gì mà không thấy được thân vàng của Phật , may  mắn  nào  lại được cung nghinh xá lợi của Ngài. Suy nghĩ như vậy mới thấy, nếu đời quá khứ không gieo trồng căn lành thì làm sao được nghe Phật pháp , không  nghe  Phật pháp thì làm sao  được  biết  thường thọ ân đức của Phật.
 
Ân đức này , núi  non  cũng  khó sánh bằng . Nếu  không  phát  tâm quảng đại, hành Bồ tát đạo, xây dựng hộ trì Phật pháp, cứu độ chúng sanh, thì dù  cho  tan  xương  nát thịt  cũng không thể đền đáp được. Ðó là nhân duyên thứ nhất của sự phát Tâm Bồ đề.
 
2. Thế nào là nhớ ơn cha mẹ?
 
Thương thay cha mẹ sinh ta khó nhọc, mười tháng mang thai ba năm bú mớm, nhường khô nằm ướt, nuốt đắng nhả ngọt, mới được nên người. Mong ta tiếp nối gia phong, lo phần tế tự. Mà  nay  ta  đã  xuất  gia , lạm xưng Thích tử, nhục hiệu Sa môn, đồ ngon  vật  ngọt  đã  không  phụng dưỡng, cúng tế chạp tảo càng không chu tất. 
 
Cha mẹ còn sống , ta  đã  không thể nuôi dưỡng, khi cha mẹ qua đời, ta  lại  không  thể  hướng  dẫn  thần thức. Ðối với phương diện thế gian là sự tổn lớn, đối với phương tiện xuất thế lại không có ích chi. Hai đường đều tổn thất thì tội nặng khó thoát. 
 
Suy nghĩ như thế, chỉ có có cách trong  trăm  đời  ngàn  kiếp  thường hành Phật đạo, mười phương ba đời khắp độ chúng sanh. Ðược như thế thì không phải chỉ cha mẹ một đời, mà song thân nhiều đời nhiều kiếp đều được độ thoát; không phải chỉ cha mẹ một người, mà song thân tất cả mọi người cùng được siêu thăng. Ðó là nhân duyên thứ hai của sự phát Tâm Bồ đề.
 
3. Thế nào là nhớ ơn sư trưởng?
 
Cha mẹ tuy sinh dưỡng sắc thân ta , nhưng nếu không có  sư  trưởng thế gian thì không hiểu biết lễ nghĩa; không có sư  trưởng  xuất  thế  thì không hiểu Phật pháp.
 
Không  hiểu  biế t lễ  nghĩa  thì chẳng khác gì cầm thú , Phật pháp không hiểu thì cũng như người phàm tục. Nay ta được biết chút  ít  về  lễ nghĩa , được hiểu sơ  lược  về Phật pháp, ca sa trang nghiêm đắp thân, giới pháp nhuận  thấm  thân  mình, được  như  thế là nhờ  ân  đức  sâu nặng của sư trưởng. 
 
Nếu chỉ cầu quả nhỏ thì chỉ có lợi riêng cho bản thân mình mà thôi. Nay phải phát tâm đại thừa, phổ nguyện lợi ích hết thảy chúng sanh. Như thế thì sư trưởng thế gian và sư trưởng xuất thế đều được lợi ích. Ðó là nhân duyên thứ ba của sự phát Tâm Bồ đề.
 
4. Nhớ ơn thí chủ là thế nào?
 
Chúng ta ngày nay, mọi thứ cần dùng hàng ngày đâu phải của mình. Cơm cháo hai  buổi , quần  áo  bốn mùa, tật bịnh cần dùng, thân miệng tiêu xài, đều xuất từ sức lực của kẻ khác mà đem đến cho ta sử dụng. 
 
Người nhọc sức cày cấy, còn khó nuôi miệng , ta  ngồi  không  mà ăn, vẫn chưa vừa ý. Kẻ dệt đan mãi hoài mà vẫn gian nan cực khổ, còn ta an nhàn  y  phục  thừa  thãi , há không thương tiếc ? Họ  nhà  tranh  cửa lá, cực nhọc suốt đời, còn ta phòng lớn sân rộng, thong thả cả năm. Ðem cái cực nhọc của họ cung phụng cái an nhàn cho ta, làm sao an lòng. 
 
Ðem  cái  lợi  ích  của người để cung cấp sự no ấm cho thân xác mình, có hợp lý chăng? Do đó, phải vận dụng cả hai thứ  bi  trí , trang nghiêm cả hai mặt phước huệ , để thí  chủ  nhờ  ơn , chúng  sanh  được phước, nếu không thì dù chỉ là một hạt gạo , một tấc vải , vẫn phải có phần trả nợ. Ðó là nhân duyên thứ tư của sự phát Tâm Bồ đề.
 
5. Thế nào là nhớ ơn chúng sanh? 
 
Ta cùng với chúng sanh , từ vô lượng kiếp đến nay, đời đời kiếp kiếp thay đổi làm cha mẹ , kia đây đều có ơn với nhau. Nay tuy cách đời hôn  mê, không nhớ biết nhau , nhưng lấy lý mà suy ra thì làm  sao  không  đem sức báo đáp! 
 
Ngày nay đội  lông  mang  sừng , nhưng biết đâu kiếp trước ta không phải là con cái của chúng. Hiện tại là các loài bò bay máy chạy, nhưng biết đâu quá khứ chúng đã không phải là cha của ta. 
 
Thường thường nhìn thấy thơ ấu mà lìa xa cha mẹ thì lớn lên đã quên hết hình dáng song thân, huống chi cha mẹ con cái đời trước, kiếp trước là họ Trương hay là họ Vương, ngày nay  khó  mà  nhớ  rõ. Họ  gào  thét trong địa ngục , ngất ngư trong ngạ quỉ, thống khổ ai biết, đói khát kêu ai. Tuy ta không thấy không nghe, nhưng họ tất cầu cứu độ. 
 
Ngoài Kinh ra  nơi  đâu  bày  tỏ được việc này, không Phật chẳng ai chỉ rõ cảnh ấy. Còn kẻ tà kiến làm sao có đủ sức mà biết được. Cho nên Bồ tát quán sát sâu kiến thấy toàn là cha mẹ  quá  khứ  và  chư  Phật  vị  lai , thường nghĩ cách lợi ích cho chúng và thường nhớ trả ơn cho chúng. Ðó là nhân duyên thứ năm của sự phát Tâm Bồ đề.
 
6.  Thế nào là nhớ khổ sinh tử? 
 
Ta cùng với chúng sanh, từ  vô  lượng kiếp đến nay , cứ  ở mãi trong vòng luân  hồi  sinh  tử , chưa  được  giải thoát. Khi sanh trong loài người, lúc ở trên thiên cảnh, khi ở thế giới này, lúc ở phương khác , ra vào đủ cách , lên xuống liền liền. 
 
Thoáng  chốc  làm  trời , thoáng chốc làm người , thoáng chốc sanh vào cõi địa ngục, ngạ quỉ , súc sanh. Cửa đen sáng ra chiều về, hang sắt mới tạm lìa khỏi lại bước vào. Lên núi đao thì thân thể không còn mảnh da nguyên vẹn , vào rừng kiếm  thì tim gan cũng bị cắt xả. Sắt nóng không hết đói , mà  nuốt  vào  thì  ruột  gan cháy nát, đồng sôi đâu khỏi khát, mà uống vào thì xương tan thịt nát. Cưa bén cắt thân, cắt đứt ra là liền lại, gió lạ thổi vào thì chết rồi lại sống ngay. Trong thành lửa dữ  chỉ  nghe  tiếng thét gào thảm thiết, trên bàn chưng nướng toàn nghe âm thanh đau khổ thống thiết. Băng tuyết  đông  lại thì như sen xanh kết nhụy, máu thịt rã ra thì như sen đỏ mới nở. 
 
Ở trong địa ngục, một đêm chết sống thường đến cả  vạn  lần , một buổi thống khổ mà như trăm năm ở nhân gian. Mãi hoài làm cho ngục tốt mệt nhọc, nhưng có ai chịu nghe lời Diêm vương khuyên bảo. 
 
Khi thọ quả báo mới biết đau khổ, dẫu hối  hận  cũng  đâu  có kịp ; lúc thoát khỏi cảnh khổ thì lại quên ngay, vẫn tạo nghiệp y như cũ. Ðánh con lừa đến đổ máu, đâu biết đó là cái bi thảm của mẹ mình; lôi con heo đến lò thịt , nào  hay  đích  thị  cái  đau thương của cha ta.
 
Ăn thịt con mà không biết, Văn vương mà còn như thế; ăn thịt cha mẹ mà không hay, phàm phu đều như vậy. Kiếp trước thương yêu mà đời nay trở thành oan gia, ngày xưa là giặc là thù mà ngày nay trở thành ruột thịt. Quá khứ là mẹ mà hiện tại là vợ, túc thế là cha mà hiện tiền là chồng. Nếu có cái trí túc mạng biết được  nhân  quả  đời  trước thì thật đáng hổ đáng thẹn , nếu dùng con mắt thiên nhãn để nhìn thì quả đáng cười đáng thương.
 
Bị bao bọc  trong  rừng  dơ  bẩn mười tháng thì thật khó chịu, ở chỗ máu mủ mà khi bị dốc xuống thì thật là đáng thương. Khi nhỏ thì biết chi, đông tây trước sau cũng chẳng phân biệt rõ , lớn lên hiểu biết , tham lam dục vọng bèn tăng trưởng. 
 
Nhưng khoảnh khắc là già bệnh truy tầm, chốc lát mà vô thường lại đến. Bấy giờ, gió với lửa giao tranh, tâm thức bấn loạn  trong  đó , tinh huyết đã kiệt lực, da thịt teo khô từ ngoài, không một sợi lông nào mà không như bị chích đốt, không một kẽ huyệt nào mà không như bị cắt xả. Con rùa đem nấu, sự thoát vỏ của nó còn dễ; thần thức lúc tàn, sự thoát xác của nó thật là quá khó.
 
Tâm không phải thường trụ nên giống như  thương  khách  bôn  ba giong ruổi mọi nơi , thân không có hình dáng cố định  nên  khác  nào phòng ốc thường dời đổi. Vi trần của đại thiên thế giới cũng khó sánh thân luân hồi , nước đầy trong  bốn  biển vẫn không bằng lệ biệt ly. Xương mà chất thì hơn núi cao, thây nằm ngang dọc thì nhiều hơn đại địa. 
 
Giả sử không được nghe lời Phật thì việc ấy ai thấy ai nghe, chưa được đọc văn Kinh thì lý này ai hay ai biết. Vậy mà có kẻ vẫn tham  luyến  như xưa, si mê như cũ, chỉ e rằng muôn kiếp ngàn đời một lần sai lầm là trăm lần sai lầm. 
 
Thân người khó được mà dễ mất, giờ tốt dễ trôi mà khó kéo. Rồi đường hướng mịt mờ, biệt ly dài dặc, ác báo tam đồ tự mình phải chịu, thống khổ không nói hết được, mà ai chịu thay. Trình bày đến đây , há chẳng lo sợ sao? Cho nên hãy dứt nguồn sinh tử, vượt bể ái dục, mình người cùng siêu thoát, đồng lên bờ giác. Từ vô lượng kiếp cho đến nay quan trọng là ở chỗ này. Ðó là nhân duyên thứ sáu của sự phát Tâm Bồ đề.
 
7. Thế nào là trọng linh tánh của mình? 
 
Tâm hiện tiền của chúng ta cùng với đức Thích Ca Như Lai không hai không khác. Vậy mà tại sao Thế Tôn từ  vô  lượng  kiếp  đã  sớm  thành chánh giác, còn chúng ta thì vẫn còn là phàm phu hôn mê điên đảo. Lại nữa  Ðức  Phật  Thế  Tôn thì có vô lượng thần thông, trí huệ , công đức trang nghiêm, còn chúng ta chỉ có vô biên nghiệp chướng phiền não, sinh tử buộc ràng. 
 
Tâm tánh là một mà vì mê ngộ nên cách xa một trời một vực. Lặng đi mà nghĩ mới thấy hổ thẹn. Ví như ngọc báu vô giá vùi xuống  bùn  dơ mà xem như ngói gạch, không chút thương tiếc quí trọng. 
 
Vì thế hãy dùng vô lượng thiện pháp mà đối trị vô biên phiền não. Tu đức có công, thì tánh đức mới lộ. Bấy giờ thì như ngọc báu được rửa , treo trên phướn cao, ánh sáng rực rỡ, chói lấp tất cả. Thế mới gọi là không uổng công Ðức Phật giáo hóa, không phụ tánh linh của mình. Ðó là nhân duyên thứ bảy của sự phát Tâm Bồ đề.
 
8. Thế nào là sám hối nghiệp chướng? 
 
Kinh dạy : “Phạm một tội kiết la cũng phải đọa địa ngục bằng năm trăm tuổi thọ của bốn Thiên vương. Kiết la là tội nhỏ mà còn bị quả báo đến thế, huống chi tội nặng, quả báo thật khó tả. 
 
Nay chúng ta , mỗi cử chỉ động tác hằng ngày, hằng trái với giới luật, lúc ăn lúc uống thường phạm vào thi la. Một ngày tội lỗi đã phạm, cũng đã vô lượng , huống chi trọn đời nhiều kiếp, tội lỗi đã phạm khó mà nói hết. 
 
Cứ lấy ngũ giới mà xét, thì mười người đã có đến chín người phạm, phát lộ thì ít mà che giấu lại nhiều. Ngũ giới là giới của Ưu  bà  tắc mà còn không giữ gìn đầy đủ, huống chi các giới Sa di , Tỳ kheo , Bồ tát , thì không cần nói đến vậy.
 
Hỏi cái tên thì nói “Tôi là Tỳ kheo”, hỏi cái thật thì hãy còn chưa đủ làm Ưu bà tắc, như thế mà không xấu hổ sao! Phải biết , giới  luật  của  Phật không  thọ  thì  thôi , thọ  thì  không được hủy phạm, vì không phạm thì thôi, phạm thì cuối cùng nhất định bị đọa lạc. 
 
Trừ phi cảm thương thân mình, thân người, lại xót xa cho mình và kẻ khác, thân và khẩu cùng tha thiết, lệ rơi theo tiếng, khắp cùng với chúng sanh khẩn cầu sám hối, nếu chẳng thế thì quả báo ác ngàn đời muôn kiếp cũng khó tránh khỏi. Ðó là nhân duyên thứ tám của sự phát Tâm Bồ đề.
 
9. Thế nào là cầu sinh Tịnh độ? 
 
Ở cõi này tu hành thì sự tiến đạo rất khó khăn, vãng sinh cõi kia thì sự thành Phật cũng rất  dễ  dàng . Dễ dàng nên một đời đã có thể đạt đến, khó nên nhiều kiếp vẫn chưa thành tựu. Do đó mà thánh ngày xưa, hiền ngày trước, người người xu hướng; kinh cả ngàn, luận cả vạn, chỗ chỗ chỉ qui.
 
 Sự  tu  hành  trong  thời kỳ mạt pháp này, không có pháp nào vượt qua pháp môn này. Nhưng kinh đã nói : ” Căn lành nhỏ thì khó được vãng sanh, phước đức nhiều mới chắc chắn đến được”. Nói phước đức nhiều thì không chi  bằng  sự chấp trì danh hiệu, nói căn lành lớn thì không chi bằng  sự  phát  tâm quảng đại. 
 
 Vì thế tạm trì danh hiệu Phật hơn cả trăm năm bố thí, một niệm phát tâm Bồ đề rộng lớn vượt hơn cả sự tu hành trong nhiều kiếp. Vì niệm Phật vốn mong thành Phật , vậy tâm lớn không phát thì niệm Phật để làm chi; còn phát tâm vốn để tu hành , vậy Tịnh độ không sanh thì có phát cũng dễ thối chuyển. 
 
 Cho nên gieo hạt giống Bồ đề, cày bằng lưỡi cày niệm Phật, thì đạo quả  tự  nhiên  lớn  lên ; ngồi chiếc thuyền đại nguyện, vào trong bể cả Tịnh độ , thì Tây Phương Cực Lạc quyết định vãng sanh. Ðó là nhân duyên thứ chín của sự phát Tâm Bồ đề.
 
10.  Thế nào là làm cho Phật pháp tồn tại lâu dài? 
 
 Ðức Thế Tôn của ta, từ vô lượng kiếp đến nay, vì chúng ta mà tu đạo Bồ đề , Ngài  đã  làm  việc  khó  làm, nhẫn sự khó nhẫn , nhân tròn , quả mãn, mới được thành Phật. Sau khi thành Phật, giáo hóa tròn đầy, nhập vào Niết bàn. 
 
 Nay thì thời kỳ Chánh pháp tượng pháp đã diệt tận, chỉ còn tồn tại thời kỳ mạt pháp. Giáo pháp còn đó mà không  người  hành  trì , tà  chánh không phân, thi  phi  lẫn  lộn , tranh giành nhân ngã, mãi chạy theo danh lợi. Mở mắt ra là thấy đầy dẫy thiên hạ đều là như vậy. Chẳng ai biết Phật là bực nào, Pháp là nghĩa gì, Tăng là người chi. Suy tàn đến thế, bất nhẫn thốt ra lời. 
 
 Mỗi khi nghĩ đến, bất giác rơi lệ. Ta là con Phật mà ta không thể báo đáp ân đức của ngài. Trong vô ích cho mình, ngoài vô ích  cho  người , sống vô ích đương thời, chết vô ích mai sau. Trời  tuy  cao  cũng  không che nổi ta, đất tuy dày cũng khó chở ta. Tội nhân cực trọng, không phải ta thì là ai?
 
 Vì  thế  mà  đau  lòng  không thể nhẫn  nổi , nhưng  suy  nghĩ  thì lại không thấy có cách nào khác hơn , nên quên ngay tư cách quê mùa, liền phát tâm rộng lớn. Tuy không thể vãn hồi mạt vận  ngay  lúc này , nhưng quyết có thể hộ trì chánh pháp trong mai sau. 
 
 Vì  thế  nên  cùng  với  chư  thiện hữu, cùng đến đạo tràng, soạn thuật sám pháp , lập  pháp  hội  này , phát bốn  mươi  tám  điều  đại  nguyện, nguyện nguyện hóa độ chúng sanh, mong thâm tâm suốt trăm ngàn đời kiếp, tâm tâm  thành  Phật , từ ngày hôm nay cho đến cùng tận đời vị lai, hết một đời này nguyện  sanh  Cực Lạc, lên chín phẩm xong thì trở lại Ta bà. Khiến cho  mặt  trời  Phật  pháp rạng soi, pháp môn rộng mở, để tăng giới được trong lặng ở cõi này , dân chúng  được  tiếp  hóa  ngay  cõi  phương Ðông, vận Chánh pháp nhờ đó mà kéo dài thêm nữa, Phật pháp do đó được tồn tại lâu dài. Ðây  là tấm lòng khổ tâm chân thành , tha thiết nhỏ mọn của tôi. Ðó  là  nhân duyên thứ mười của sự phát Tâm Bồ đề.
 
St Bang Chủ Hoàng

_________________


Hoang Nguyen gởi