Nguồn gốc tên gọi Sài Gòn và những địa danh quen thuộc ai cũng biết
Tên gọi Sài Gòn nghĩa là thị trấn trong rừng, Đa Kao là do đọc chệch âm, Hàng Xanh bởi viết sai chính tả, hay Gò Vấp là vùng đất cao trồng nhiều cây vắp… Mỗi vùng đất Sài Gòn đều có những cách lý giải thú vị, độc đáo. Bài viết này sẽ tìm hiểu về nguồn gốc một số tên gọi ở Sài Gòn có từ ngày xưa.
Người từng sống ở Sài Gòn sẽ thấy mảnh đất này trù phú và tốt lành nhường nào. Vì bao đời nay, mảnh đất phương Nam này đã đón nhận triệu người con tha phương tìm đến, lập nghiệp rồi thành công. Không phải ngẫu nhiên, Sài Gòn được mệnh danh là “Hòn ngọc Viễn Đông”, bởi cái lẽ sống tự nhiên mà đôn hậu như vậy.
Thế nhưng, sống ở Sài Gòn lâu nay, bạn có bao giờ từ đặt câu tên gọi Sài Gòn là gì? Quận Gò Vấp là thế nào? Hàng Xanh do đâu mà thành?… Câu chuyện về tên gọi quen thuộc của các địa danh Sài Gòn sau đây sẽ lý giải cho những câu hỏi đó.
Sài Gòn
Nguồn gốc tên gọi Sài Gòn vẫn chưa thống nhất mà có nhiều lý giải khác nhau.
Nhiều người cho rằng, tên gọi Sài Gòn là được phiên âm từ “Prai Nokor” trong tiếng Khmer, nghĩa là “thị trấn ở trong rừng”. Sau này, dần dà đọc chệch từ “Prai” thành “Rai” rồi thành “Sài”, từ “Nokor” đọc lướt thành “Kor” và thành “Gòn” nên mới có Sài Gòn như hiện nay. Cũng theo thuyết thì ở Sài Gòn xưa, cư dân bản địa chủ yếu sống quanh vùng Chợ Lớn hiện nay. Thời đó, có một rừng gòn bao bọc khu vực người dân Khmer sinh sống, vì vậy, người ta gọi đất này là Prai Nokor – nghĩa là thị trấn trong rừng.
Lý giải thú vị về tên gọi Sài Gòn và những địa danh quen thuộc ai cũng biết nhưng ít khi rõ nghĩa ảnh 0
Trong Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, Huỳnh Tịnh Của cũng bảo: “Sài tức là củi thổi, gòn là loại cây bông xốp nhẹ, nhẹ hơn bông thường, trong Nam thường dùng để dồn gối, dồn nệm…”. Cùng quan điểm, học giả Trương Vĩnh Ký đã quyết là xưa người Khmer có trồng nhiều cây gòn chung quanh đồn Cây Mai và chính cụ cũng đã thấy loại cây đó. Vậy nên Sài Gòn có thể đơn giản mang nghĩa là “rừng gòn”.
Gò Vấp
Hiện nay, Gò Vấp là một địa danh hành chính quen thuộc ở Sài Gòn, một quận tập trung đông cư dân sinh sống. Có thuyết cho rằng, cái tên Gò Vấp ra đời bởi trước đây nơi này là một gò đất cao có trồng nhiều cây vắp (loại cấy có nguồn gốc từ châu Á, cây thân gỗ lớn, thuôn thẳng, cao từ 15-20m, vỏ màu nâu đen, tán lá rậm). Loại cây này đã mọc nhiều thành rừng đã che chở cho đời sống của cộng đồng người Chăm, vì vậy, trong dấu tích tiếng Chăm vẫn gọi cây vắp là Krai.
Sau này, người dân do đọc chệch âm và viết sai chính tả thành Gò Vấp như hiện này. Còn về cây vắp, bấy giờ đã không còn trên địa bàn Sài Gòn, nhưng nhiều cư dân bản địa cho rằng: Ở Thảo Cầm Viên Sài Gòn vẫn còn 2 cây vấp có tuổi thọ trên trăm năm.
Bên cạnh cách giải thích về loài cây vắp, dân tiểu thương tại chợ Gò Vấp lại kể một câu chuyện hài hước: “Ngày trước đây ở đây cao, dân buôn bán nhà nghèo tụ họp thường bị rượt đuổi hoài, bỏ chạy thì vấp gò mà té nên gọi là Gò Vấp”. Dĩ nhiên đây chỉ là một lý giải cho vui chứ không có phần nào là sự thật.
Riêng bàn về quận huyện ở Sài Gòn, bên cạnh quận có chữ số: Q.1, Q.2, Q.3, Q.4…, vẫn còn những tên quận được đặt tên với ý nghĩa là vùng đất mới, trù phú và mong muốn an lành như Tân Bình, Bình Chánh, Bình Thạh,…
Ngã tư Bảy Hiền
Ngày nay, ngã tư Bảy Hiền là giao lộ trọng yếu của Q. Tân Bình nối Trường Chinh – Cách Mạng Tháng Tám – Hoàng Văn Thụ – Lý Thường Kiệt. Chắc hẳn người Sài Gòn đã quá quen thuộc với địa danh này. Thế nhưng Bảy Hiền là ai, và vì sao người ta lại lưu giữ cái tên này đến tận bây giờ không đổi thì ít ai hiểu được.
Theo đó, Bảy Hiền tên thật là Trần Văn Hiền, là một chủ điền nổi tiếng ngày xưa. Không chỉ giàu có, ông Hiền còn giàu lòng thương người. Vào mỗi dịp Rằm hằng tháng, ông thường đem bạc đựng trong hai thúng đầy trước nhà (nay là Trung tâm văn hóa Tân Bình) để phân phát cho dân nghèo. Vào ngày nọ, người dân tập trung đông đúc chen lấn lấy bạc khiến hai đứa trẻ chết ngạt. Ông Hiền đau khổ, dằn vặt. Từ đó, ông không phát tiền nữa, mà mỗi tháng sẽ cho người đem sổ sách ra ngay ngã tư bây giờ, cứ ai khó khăn thì trình bày, ký báo thì ông sẽ giúp đỡ.
Sau khi mất, người Sài Gòn nhớ ơn ông Bảy Hiền mà gọi địa danh này là ngã tư Bảy Hiền.
Ngã 4 Bảy Hiền
Hàng Xanh
Là nút giao thông lớn ở cửa ngõ phía Đông của Sài Gòn, Hàng Xanh quen thuộc với mọi người Sài Gòn. Thế nhưng, bạn có biết rằng, địa danh này hình thành là bởi sự đọc chệch, viết sai chính tả của người miền Nam?
Theo nhiều nghiên cứu, ban đầu địa danh có tên Hàng Sanh (Sanh là một loại cây lớn, nhánh có tua, về loại cây da, mà lá nhỏ). Ngày trước, dọc đường nay vẫn có 2 hàng cây sanh lớn được người dân trồng. Vì quen thuộc nên họ gọi khu vực bằng tên cây là Hàng Sanh. Song, do sau này người miền Nam không phân biệt “s” và “x”, cũng như viết sai chính tả đã tạo nên sự thay đổi của địa danh thành Hàng Xanh như hiện nay.
Ngã 4 Hàng Xanh
Cầu Bông
Người Sài Gòn vẫn quen thuộc với những cây câu nối liền các quận ở Sài Gòn như Chà Và, Thị Nghè… Cầu Bông cũng là một phần như thế. Cầu nằm trên đường Đinh Tiên Hoàng, hiện nay nối liền Q.1 với Q. Bình Thạnh. Theo đó, cầu Bông được xây dựng vào thế kỷ 18, do một viên vương người Khmer bắt cầu cho dân tiện đường sang sông.
Tên gọi cầu Bông có nhiều giả thuyết đặt ra, tuy nhiên theo nghiên cứu thì vào đời Tả quân Lê Văn Duyệt đã cho xây một vườn hoa gần cầu, người dân quen thuộc gọi là cầu Hoa. Sau này, vào đời vua Mạng, vì hiện tượng kỵ huý với tên gọi của vợ vua là bà Hồ Thị Hoa nên người ta phải đổi hẳn sang cầu Bông. Bởi lẽ, với người Nam, từ bông là cách gọi khác để chị hoa cỏ.
Cầu Bông
Bến Nghé
Từng là tên một bến nước xưa, rồi thành tên rạch, tên sông và giờ Bến Nghé trở thành địa phận hành chính của Q.1. Hiện nay, người ta vẫn có nhiều lý giải tên gọi của địa danh này, tuy nhiên nguồn gốc thì luôn gắn liền với hình ảnh con trâu.
Theo Trịnh Hoài Đức, Bến Nghé trước đây là bến nước tụ họp cho trâu con uống nước, do một tên rất cũ là Kompong Krabey (bến trâu) đã được Việt hóa. Nhưng nhiều nhà nghiên cứu khác cũng thêm rằng: Bến Nghè từng không phải là nơi trâu uống nước mà theo tương truyền, trên sông này ngày trước có rất nhiều cá sấu sống, đêm đêm chúng kêu lên văng vẳng như tiếng gầm của trâu rống, nên được người ta gọi là “nghé” kết hợp với “bến” trong từ bến nước.
Dù cách lý giải như thế nào, ta vẫn thấy rõ ràng, ở nơi này đã từng là một địa bàn có cuộc sống của thú rừng, cây cỏ trù phú,… đặc trưng của vùng sông nước phương Nam.
Rạch Bến Nghé
Đa Kao
Bạn có tin rằng, Đa Kao nghe có vẻ Tây hoá, nhiều người thường ngộ nhận là địa danh tiếng Pháp, thực ra lại là một từ rất Thuần Việt bị người dân đọc chệch và phiên âm mà thành.
Theo đó, Đa Kao bắt nguồn từ tên vùng đất Sài Gòn xưa gọi là Đất Hộ. Sau này, vào thời Pháp, người Việt phải phiên âm tên đất sang tiếng nước ngoài thành Đa Kao để dùng trong hành chính. Từ đó, cái tên Đất Hộ bị quên lãng, người hiện nay chỉ còn nhớ về địa danh Đa Kao là một phường hành chính thuộc Q.1.
Ông Lãnh, Bà Chiểu, Bà Hạt, Bà Điểm, Bà Quẹo, Bà Hom
Ở Sài Gòn, có lẽ ai cũng nghe tên 5 chợ mang tên các bà này. Có giả thuyết cho rằng đây là tên của 5 bà vợ của Lãnh Binh Thăng, là một lãnh binh tên Nguyễn Ngọc Thăng (1798-1866), võ tướng nhà Nguyễn thời vua Tự Đức. Địa danh cầu ông Lãnh cũng là từ ông Lãnh Binh nổi tiếng này.
Học giả Trương Vĩnh Ký cho rằng 5 người phụ nữ được đặt tên chợ ở Sài Gòn này vốn là các bà vợ của ông Nguyễn Ngọc Thăng. Những vị quan đa thê thời xưa thường áp dụng phương pháp kinh tế tự túc nên vị lãnh binh đã lập 5 chợ ở khu vực khác nhau, giao cho mỗi bà cai quản một cái. Việc này tránh các bà đụng mặt nhau, đồng thời chuyên tâm làm kinh tế.
Về cây cầu mang tên Ông Lãnh, nhà bác học Trương Vĩnh Ký khẳng định “chiếc cầu gỗ do ông Lãnh binh ở gần đó cho bắc qua, chắc là ông Lãnh Binh Thăng này, chớ không phải ai khác”. Cây cầu này đầu tiên (nối đại lộ Đông Tây ngày nay) bắc qua một con rạch nhỏ. Khi rạch bị lấp, cây cầu mới nối bến Chương Dương (quận 1) và Bến Vân Đồn (quận 4).
Năm 1874, một ngôi chợ được xây ở khu vực này, mang tên chợ Cầu Ông Lãnh. Nơi đây tàu ghe tấp nập từ miền Tây theo sông Sài Gòn vào kênh Tàu Hủ buôn bán. Chợ được chia làm 3 khu vực: bán trái cây, bán cá và bán tạp hóa.
Tuy nhiên trong cuốn “Sài Gòn năm xưa”, học giả Vương Hồng Sển lại cho rằng nên thận trọng khi cho “Ông Lãnh” và “Bà Chiểu”, Bà Điểm”, “Bà Hom”, “Bà Hạt”, “Bà Quẹo” là vợ chồng.
Bởi theo ông, Bà Hạt, Bà Điểm, Bà Chiểu có thể là người đầu tiên buôn bán tại các chợ này, sau lấy tên đặt cho chợ. Giống như chợ Bà Hoa ở khu ngã tư Bảy Hiền (quận Tân Bình), do người đàn bà tên Hoa đã hiến đất xây chợ và là người đầu tiên buôn bán nên người ta lấy tên bà đặt cho ngôi chợ.
Lý giải về Bà Hom, có sách chép rằng do Bàu Hom (bàu ngâm hom tre) nói chệch thành. Còn tên Bà Quẹo cũng đọc chệch từ Bờ Quẹo hoặc Bàu Quẹo vì khu này có một khúc quẹo rất rõ. Từ quẹo vốn cũng được đặt cho nhiều địa danh như Cống Quẹo ở xã Phạm Văn Hai (huyện Bình Chánh) hay lộ Quẹo tại huyện Cần Giờ.
Thị Nghè
Ở quận Bình Thạnh có cầu, chợ và kênh mang tên Thị Nghè. Người này vốn tên Nguyễn Thị Khánh, con gái quan khâm sai Nguyễn Cửu Vân. Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí viết rằng, “do có chồng là thư ký mỗ, nên người đương thời gọi là Thị Nghè. Do bà khai hoang đất ở, bắc cầu để tiện việc đi lại, nên dân gọi là kênh, cầu Thị Nghè”.
Ông Tạ
Địa danh Ông Tạ là vùng đất thuộc các phường 3, 4, 5, 7 thuộc quận Tân Bình hiện nay, cũng là tên một ngôi chợ ở phường 5, cạnh chợ có một tiệm thuốc Nam của ông Tạ.
Ông Tạ tên thật là Trần Văn Bỉ, lấy hiệu Tạ Thủ là một thầy thuốc nam chữa bệnh nổi tiếng trong vùng.
Trước đây, ông Tạ có mở một tiệm thuốc nằm ở góc đường Phạm Văn Hai – Cách Mạng Tháng Tám hiện nay. Đa số người bệnh tìm đến ông và lấy thuốc về đều khỏi. Tiếng lành đồn xa nên người dân ở các tỉnh Nam Kỳ tìm về cơ sở của ông không ngớt.
Ông còn là một nhà hảo tâm, thường xuyên chữa bệnh và bốc thuốc miễn phí cho người nghèo. Khu đất xung quanh tiệm thuốc của ông Tạ được đặt tên là ông Tạ ngay khi ông còn sống, là cách nhân dân tỏ lòng tôn kính ông vì đã chữa bệnh giúp người.
Ngã 5 Chuồng Chó
Đây có lẽ là địa danh lạ nhất, được nhân dân quen gọi cho dù khu đất này ngày nay đổi tên chính thức thành Ngã 6 Gò Vấp.
Nguồn gốc tên gọi là vào những năm 1945, thực dân Pháp cho xây dựng ở khu vực ngã năm này một cơ sở nuôi, huấn luyện chó lớn nhất Đông Dương, phục vụ việc tuần tra và cảnh giới.
Theo Saostar
Đặng Hữu Phát gởi