Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh

 



NGUỒN GỐC VÀ TRUYỀN BÁ GIÁO LÝ CỦA ĐỨC PHẬT


 

1 | Origin and Spread of the Buddha’s Doctrine
 
Not all people think alike. They have different needs, interests, and dispositions in almost every area of life, including religion. As a skillful teacher, the Buddha gave various teachings to correspond to the variety of sentient beings. We’re going to look at the development of the two major Buddhist traditions containing these teachings, the Pāli and Sanskrit traditions.1 But first, we begin with the life story of Śākyamuni Buddha.

NGUỒN GỐC VÀ TRUYỀN BÁ GIÁO LÝ CỦA ĐỨC PHẬT

Edited version in black

Không phải tất cả đều nghĩ như nhau.  Họ có những nhu cầu, ảnh hưởng, và khuynh hướng riêng trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, ngay cả về tôn giáo.  Đức Phật là một Vị Thầy Tổ thiện xảo đã dùng phương tiện giáo huấn riêng biệt tùy hợp nhu cầu khác nhau của chúng sanh.  Chúng ta sẽ nhìn vào sự phát triển của hai truyền thống chính của Phật Giáo, Palivà Phạn (Sanskrit),bao gồm những giáo huấn của Ngài.  Trước hết, chúng ta bắt đầu với những câu chuyện về cuộc đời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Không phải tất cả mọi người đều nghĩ như nhau.  Họ có những nhu cầu khác nhau, những ảnh hưởng, và các khuynh hướng trong hầu hết mọi lĩnh vực của cuộc sống, kể cả về tôn giáo.  Là một thầy tổ thiện xảo, Đức Phật đã có những sự giảng dạy khác nhau để phù hợp với sự đa dạng của chúng sanh.  Chúng ta sẽ nhìn vào sự phát triển của hai truyền thống chính của Phật Giáo bao hàm những giáo huấn này, tiếng Ba Li (Pali) và Phạn Ngữ.  Nhưng trước tiên, chúng ta bắt đầu với những câu chuyện về cuộc sống của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
 
 
The Buddha’s Life
In the view common to both traditions, Siddhārtha Gautama, a prince from the Śākya clan, was born and grew up near what is now the India-Nepal border in the fifth or sixth century b.c.e. As a child, he had a kind heart and excelled in the arts and studies of his time. He lived a sheltered life in the palace during his early years, but as a young man he ventured out beyond the palace walls. In the town, he saw a sick person, an old person, and a corpse, prompting him to reflect on the suffering nature of life. Seeing a wandering mendicant, he considered the possibility of liberation from saṃsāra. And so, at age twenty-nine, he left the palace, shed his royal attire, and adopted the lifestyle of a wandering mendicant.

CUỘC ĐỜI CỦA ĐỨC PHẬT
Trong quan điểm chung của hai truyền thống, Siddhārtha Gautama, một Thái Tử thuộc dòng họ Sakya (Thích Ca), sinh ra trong thế kỷ thứ năm hoặc thứ sáu trước Tây Lịch (b.c.e.) lớn lên tại nơi ngày nay là biên giới giữa India (Ấn Độ) và Nepal. Từ lúc thơ ấu, ngài đã có thiện tâm và luôn xuất sắc trong các môn học và nghệ thuật.  Thái Tử sống một cuộc đời bảo bọc trong cung điện trong thời niên thiếu.  Khi thanh niên, ngài mạo hiểm ra ngoài cung điện.  Khi vào thị trấn, ngài thấy một người bệnh, một người già, và một xác chết, khiến ngài suy nghiệm về bản chất khổ của cuộc sống.  Khi nhìn thấy một hành khất, ngài đã nhận xétđược khả năng giải thoát khỏi vòng luân hồi.  Năm hai mươi chín tuổi, Siddhārtha Gautama rời khỏi cung điện, bỏ trang phục hoàng gia, để nhập vào lối sống hành khất.

Trong quan điểm chung cho cả hai truyền thống, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, một Thái Tử thuộc về dòng họ Thích Ca, được sinh ra trong thế kỷ thứ 5 hoặc thứ 6 trước Tây Lịch và đã lớn lên ở gần biên giới Ấn Độ và Nepal ngày nay. Từ lúc còn thơ ấu, ngài có một trái tim nhân hậu và đã tỏ ra xuất sắc trong nghệ thuật và sự học hỏi trong thời kỳ này của ngài.  Trong thời niên thiếu, Đức Phật sống một cuộc đời bảo bọc trong cung điện, nhưng lúc là một thanh niên trẻ ngài đã mạo hiểm ra ngoài những bức tường của cung điện.  Trong thị trấn, Đức Phật đã nhìn thấy một người bệnh, một người già, và một xác chết, khiến ngài phải suy nghĩ về bản chất khổ đau của cuộc sống.  Nhìn thấy một hành khất lang thanh, ngài đã cân nhắc khả năng giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.  Và ở vào tuổi hai mươi chín, Đức Phật rời khỏi cung điện, rời bỏ trang phục hoàng gia của mình, và chấp nhận lối sống của một hành khất lang thang.
 
 He studied with the great teachers of his time and mastered their meditation techniques but discovered they did not lead to liberation. For six years he pursued severe ascetic practices in the forest, but realizing that torturing the body doesn’t tame the mind, he adopted the middle way of keeping the body healthy for the sake of spiritual practice without indulging in unnecessary comforts.
Ngài theo học phương pháp thiền định với các đại thiền giả trong thời đó và đạt được các thiền định cao, nhưng ngài thấy rằngcác thiền định cao này vẩn không dẫn đến sự giải thoát.  Trong sáu năm, ngài tukhổ hạnh trong rừng, vànhận ra rằng, hành hạthân không thể chế ngự được tâm.  Sau đó, ngàiđã chọn đường tu trung đạo, giữthân lành mạnhđể có nhu cầu cần thiết cho sự tu tập tâm linh.

Ngài theo học với các đại thiền giả trong thời của ngài và đã khắc phục các thiền định của họ nhưng ngài phát giác những việc học này không dẫn đến sự giải thoát.  Trong sáu năm trời, ngài đã theo đuổi tu hành khổ hạnh khắc nghiệt ở trong rừng, nhưng ngài nhận ra rằng hành hạ cơ thể không chế ngự được tâm, Đức Phật đã chấp nhận con đường trung đạo để giữ cho thân lành mạnh vì lợi ích của sự luyện tập tâm linh mà không tham đắm ở những lạc thú không thiết yếu
 
 Sitting under the bodhi tree in what is present-day Bodhgaya, India, he vowed not to arise until he had attained full awakening. On the full moon of the fourth lunar month, he finished the process of cleansing his mind of all obscurations and developing all good qualities, and he became a fully awakened buddha (sammāsambuddha, samyaksaṃbuddha). Thirty-five years old at the time, he spent the next forty-five years teaching what he had discovered through his own experience to whoever came to hear.

Khi ngồi dưới gốc cây bồ đề tại Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ ngày nay (Bodhgaya, India), ngài nguyện sẽ không đứng dậy cho đến khi nàođạtđược toàn giác.  Vào ngày trăng tròn của tháng tư âm lịch, ngài đã hoàn thành tiến trình thanh khiết tâm thức, tẩy sạch chủng tử, kiến tánh, thành Đấng giác ngộtoàn hảo (sammāsambuddha, samyaksaṃbuddha).   Lúc đó, Đức Phật ba mươi lăm tuổi. Bốn mươi lăm năm tiếp theo, Đức Phật giảng dạy con đường giải thoátcho bất cứ những ai đến nghe.

Ngồi dưới gốc cây bồ đề tại Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ ngày nay, ngài thệ nguyện sẽ không khởi dậy cho đến khi nào ngài đạt được toàn giác.  Vào ngày trăng tròn của tháng tư âm lịch, ngài đã hoàn thành tiến trình thanh khiết tâm trí của ngài về tất cả những u minh và phát triển tất cả những phẩm chất tốt, và Đức Phật đã trở thành Đấng giác ngộ Toàn Hảo.  Lúc ấy Đức Phật mới có ba mươi lăm tuổi, ngài đã dành bốn mươi lăm năm tiếp theo để giảng dạy những gì ngài đã khám phá qua kinh nghiệm của mình cho bất cứ những ai đến để nghe.

 
The Buddha taught men and women from all social classes, races, and ages. Many of those chose to relinquish the householder’s life and adopt the monastic life, and thus the saṅgha community was born. As his followers attained realizations and became skilled teachers, they shared with others what they had learned, spreading the teachings throughout ancient India. In subsequent centuries, the Buddhadharma spread south to Sri Lanka; west into present-day Afghanistan; northeast to China, Korea, and Japan; southeast to Southeast Asia and Indonesia; and north to Central Asia, Tibet, and Mongolia. In recent years, many Dharma centers have opened in Europe, the Americas, the former Soviet republics, Australia, and Africa.

Đức Phật dạy nam,nữkhông phân giai cấp, chủng tộc, và lứa tuổi.  Nhiều đệ tửchọn từ bỏ cuộc đời cư sĩ vàocuộc sống tăng lữ, từ đó tăng đoàn được thành lập.  Các vịđệ tử chứng pháp, trở thành thầy tổ tinh xảo, truyền bá giáo pháp khắp Ấn Độ.  Trong những thế kỷ tiếp theo, Phật phápđược lan rộng về phía nam đến Tích Lan;vào phương tây nước Afghanistan ngày nay; phía đông bắc đến Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản; Đông Nam Á,Nam Dương; phía bắc Trung Á, Tây Tạng và Mông Cổ.  Trong những năm gần đây, nhiều trung tâm Phật giáo đã thành lập tại ÂuChâu, MỹChâu, các nước cộng hòa Xô Viết cũ, Úc Châu, và PhiChâu.

Đức Phật chỉ dạy những phái nam và nữ từ tất cả các giai cấp trong xã hội, chủng tộc, và lứa tuổi.  Nhiều người đã chọn từ bỏ cuộc sống của cư sĩ và chấp nhận một cuộc sống tăng lữ, và từ đó một cộng đồng tu sĩ đã được thành lập.  Khi những kẻ đồng đội theo Đức Phật đã đạt được chứng pháp và đã trở thành những thầy tổ tinh xảo, họ đã chia xẻ với những người khác những gì họ đã học , truyền bá giáo huấn khắp Ấn Độ thời cổ.  Trong những thế kỷ tiếp theo, phật pháp đã lan rộng về phía nam đến vùng Sri lanka; về phương tây vào nước Afghanistan ngày nay; phía đông bắc đến Trung Quốc, Hàn Quốc, và Nhật Bản; Đông Nam Á và Indonesia; và phía bắc Trung Á, Tây Tạng và Mông Cổ.  Trong những năm gần đây, nhiều trung tâm Phật Pháp đã mở ra tại Châu Âu, Châu Mỹ, các nước cộng hòa Xô Viết cũ, Úc Châu, và Châu Phi.
 
 I feel a deep connection to Gautama Buddha as well as profound gratitude for his teachings and for the example of his life. He had insights into the workings of the mind that were previously unknown. He taught that our outlook impacts our experience and that our experiences of suffering and happiness are not thrust upon us by others but are a product of the ignorance and afflictions in our minds. Liberation and full awakening are likewise states of mind, not the external environment.
Tôi cảm nhận một liênkết sâu sắc cùng lòng biết ơn đối với giáo lý và cuộc đời của Đức Phật Thích Ca.  Ngàithông suốt hoạt động của tâm và dạy cho ta biếtlà vọng tưởng ảnh hưởng rakinh nghiệm. Quảcủa những kinh nghiệm khổ đau, hạnh phúc gây ratừ sự vô minh và phiền não trong tâm chúng ta chứ không phải tạo ra do người khác.  Tương tự, giải thoát và giác ngộcũng là trạng thái của tâm, không phải do môi trường bên ngoài.

Tôi cảm thấy một kết nối sâu sắc với Đức Phật Cồ Đàm cũng như lòng biết ơn sâu sắc đối với giáo lý của Ngài và ví dụ về cuộc sống của mình.  Ngài đã có cái nhìn sâu vào các hoạt đọng của tâm mà trước đây chưa biết. Ngài dạy rằng tác động triển vọng của chúng ta ảnh hưởng đến kinh nghiệm của chúng ta và những kinh nghiệm về khổ đau và hạnh phúc của chúng ta sẽ không đẩy chúng ta do bởi những người khác, nhưng là một sản phẩm của vô minh và phiền não trong tâm trí chúng ta. Giải thoát và giác ngộ hoàn toàn là tương tự có trạng thái tâm, không phải là môi trường bên ngoài.
 
 Buddhist Canons and the Spread of the Dharma
 
Vehicle and path are synonymous. While they are sometimes used to refer to a progressive set of spiritual practices, technically speaking they refer to a wisdom consciousness conjoined with uncontrived renunciation.
KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO VÀ SỰ TRUYỀN BÁ GIÁO PHÁP

Thừa (vehicle)và Đạo haycon đường(path)đồng nghĩa.  Đôi khi những từ này được xử dụng để chỉ đếntiến triển của sựhành trì, đến tâm buông xả và trí tuệ.
Cỗ xe và con đường là đồng nghĩa.  Đôi khi những từ này được sử dụng để chỉ một tập tiến bộ của các thực hành tâm linh, về mặt kỹ thuật nó đề cập đến một ý thức của sự khôn ngoan dính liền với sự từ bỏ không giả tạo.
 
The Buddha turned the Dharma wheel, setting forth practices of three vehicles: the Hearer Vehicle (Sāvakayāna, Śrāvakayāna), the Solitary Realizer Vehicle (Paccekabuddhayāna, Pratyekabuddhayāna), and the Bodhisattva Vehicle (Bodhisattayāna, Bodhisattvayāna). According to the Sanskrit tradition, the three vehicles are differentiated in terms of their motivation to attain a specific goal, their principal meditation object, and the amount of merit and time necessary to attain their goals. Teachings and practitioners of all three vehicles exist in both the Pāli and Sanskrit traditions. In general, those practicing the Hearer Vehicle principally follow the Pāli tradition, and those practicing the Bodhisattva Vehicle principally follow the Sanskrit tradition. Nowadays in our world, hardly anyone follows the Solitary Realizer Vehicle.
 
Đức Phật chuyển bánh xe pháp luân, đưa ra thực hành ba cỗ xe: Thinh Văn Thừa(Sāvakayāna, Śrāvakayāna), Duyên Giác(Paccekabuddhayāna, Pratyekabuddhayāna), và Đại Thừa Bồ Tát.  Theo truyền thống Bắc Phạn, ba cỗ xe được phân biệt về động lực của chúng để đạt được một mục tiêu cụ thể, sự hành thiền khách quan chính yếu của chúng,  lượng phước đức và thời gian cần thiết để đạt được mục tiêu của mình.  Giáo huấn và những vị tu hành của tất cả ba cỗ xe được hiện hữu trong cả hai truyền thống Ba Li và Phạn Ngữ.  Nói chung, những ai thực hành về cỗ xe Thinh Văn Thừa chủ yếu đi theo truyền thống Pali, và những ai theo Đại Thừa Bồ Tát chủ yếu đi theo truyền thống Phạn Ngữ.  Ngày nay trong thế giới của chúng ta, hầu như chẳng có ai theo về Duyên Giác.

Đức Phật chuyển bánh xe pháp luân,tạo nênthực hành ba thừa: Thinh Văn Thừa (Sāvakayāna, Śrāvakayāna), Duyên GiácThừa(Paccekabuddhayāna, Pratyekabuddhayāna), và Đại Thừa Bồ Tát(Bodhisattayāna, Bodhisattvayāna).  Theo truyền thống Bắc Phạn (Sanskrit), ba thừa được phân biệt qua động lực ý thức để đạt được kếtquảqua sự hành trì, tùy theo phước đức và thời gian cần thiết đểchứng đắc.  Hai truyền thống Nam Tông (Pali) và Bắc Tông(Phạn - Sanskrit)đều có giáolý và có tu sĩcủa cả ba thừa.  Những vị thực hành Thinh Văn Thừa chủ yếu tu theo truyền thống Pali, và những vị theo Đại Thừa Bồ Tát tu theo truyền thống BắcPhạn.  Ngày nay, hầu như ítvịtu theo Duyên Giác.
 
3.The Buddha’s teaching spread widely in India in the centuries after the Buddha lived and was brought to Sri Lanka from India by King Aśoka’s son and daughter in the third century b.c.e. The early suttas were transmitted orally by the bhāṇakas—monastics whose job it was to memorize the suttas—and according to Sri Lankan sources, they were written down about the first century b.c.e. to form what is now the Pāli canon. Over the centuries, beginning in India and later augmented by Sinhala monks in the old Sinhala language, a body of commentaries on the scriptures built up. In the fifth century the great translator and commentator Buddhaghosa compiled the ancient commentaries and translated them into Pāli. He also wrote his famous masterwork the Visuddhimagga and numerous commentaries. Another South Indian monk, Dhammapāla, lived a century later and also wrote many commentaries in Pāli. Pāli is now the scriptural language uniting all Theravāda Buddhists.

3. Sau khi Đức Phật nhập niết bàn, Phậtphápđược truyền bá rộng rãi ở Ấn Độ quanhiều thế kỷ.  Vào thế kỷ thứ ba trước Tây Lịch  (b.c.e.), hai con của vua A Dục (Asoka)đã đưa Phật phápđến Sri Lanka.   Các bài kinh đầu được truyền khẩu từ các vị xuất gia  bhanakas- có nhiệm vụ ghi nhớ những khế kinh.  Theo nguồn tin từ Sri Lanka, kinh được viết xuống trong khoảng thế kỷ đầu tiên trước Tây Lịch để hình thành kinh Tạng Ba Li Nam Tông (Pali Canon).  Bắt đầu từ Ấn Độ và sau đó tăng cường qua nhiều thế kỷ bởi các nhà sư Sinhala bằng ngôn ngữ Sinhala, các luận giải được hìnhthành. Vào thế kỷ thứ năm,đại dịch giả và luận giảidanh hiệu Phật Âm (Buddhaghosa) biên soạn các bài luận thư cổ đại và dịch sang tiếng Pali. Buddhaghosa cũng đã viết Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga), một kiệt tác nổi tiếng và rất nhiều luậngiải.Vào thế kỷ thứsáu,Dhammapāla, một nhà triết học Du Già phía nam Ấn Độ, cũng đã viết nhiều bài luận giảng bằng tiếng Pali. Hiện nay, Pali là ngôn ngữ kinh điển đoàn kết Phật tử của Trường phái Nguyên Thủy (Theravada).

Sự giảng dạy của Đức Phật được truyền bá rộng rãi ở Ấn Độ trong  những thế kỷ sau khi Đức Phật đã sống và đã được đưa đến Sri Lanka từ Ấn Độ nhờ con trai và con gái của vua Asoka trong các thế kỷ thứ ba trước Tây Lịch.  Các bài kinh đầu được truyền miệng từ các vị xuất gia bhanakas- mà công việc là để ghi nhớ những khế kinh- và theo nguồn tin từ Sri Lanka, chúng được viết xuống trong khoảng thế kỷ đầu tiên trước Tây Lịch để hình thành những gì bây giờ là kinh tạng Ba li (Nam Tông).  Qua nhiều thế kỷ, bắt đầu từ Ấn Độ và sau đó tăng cường bởi các nhà sư Sinhala bằng ngôn ngữ Sinhala cổ, một cơ chế bình luận về các kinh điển được xây dựng lên. Vào thế kỷ thứ năm  dịch giả và nhà luận giảiđại tàitên Phật Âm biên soạn các bài  luận thư cổ đại và dịch sang tiếng Pali.  Ông cũng đã viết Thanh Tịnh Đạo, một kiệt tác nổi tiếng  của ông và rất nhiều bình luận.  Một nhà triết học Du Già phía nam Ấn Độ, sống một thế kỷ sau đó và cũng đã viết nhiều bài luận giảng bằng tiếng Pali.  Pali bây giờ là ngôn ngữ kinh điển đoàn kết tất cả Phật tử của Trường phái Tiểu Thừa.
 
 Beginning in the first century b.c.e., the Sanskrit tradition came into view and gradually spread in India. Philosophical systems in India— Vaibhāṣika, Sautrāntika, Yogācāra (a.k.a. Cittamātra or Vijñānavāda), and Madhyamaka—evolved as scholars developed divergent views on points not explained explicitly in the sūtras. Although many tenets of the Pāli tradition are shared with one or another of these four tenet systems, it cannot be equated with any of them.
 
Bắt đầu từ thế kỷ thứ nhất trước Tây Lịch  (1st Century b.c.e), truyền thống Bắc Phạn được phát triển và lan rộng ở Ấn Độ.  Trong đócóbốn trường pháitriết học (four tenet systems): 1)Tỳ Bà Sa hay Phân Biệt Bộ (Vaibhāṣika), 2)Kinh Lượng Bộ( Sautrāntika); 3) Du Giathiền pháicòn được biết là Duy Tâm hay Duy Thức (Cittamatra, Vijnanavada);4) Trung Quán(Madhyamaka).  Mặc dù nhiều điểm trong giáo lý KinhNguyên Thủy được chia xẻ  chung trong bốn trường phái triết họcnói trên, học giảcủa từng trường phái biện giãitheo hệ thốngriêng của mìnhcác điểm không được giải thích rõ trong kinh điển.
Bắt đầu từ thế kỷ thứ nhất trước Tây Lịch , truyền thống Phạn ngữ đã được  nhập cảnh quang và dần dần lan rộng ở Ấn Độ.  Giáo lý ở Ấn Độ -  luận sư Tỳ Bà Sa ,  Thành Thực tông thuộc Kinh Lượng Bộ , Tu tập thiền định (  còn được biết là Duy Tâm hoặc giáo lý duy thức), và phái Trung Quán – đã phát triển như các học giả đã biểu lộ những quan điểm khác nhau về các điểm không được giải thích một cách rõ ràng trong kinh điển.  Mặc dù nhiều giáo lý của truyền thống Pali được chia sẻ với một hoặc trong các những hệ thống bốn nguyên lý, nó không thể được tương đương với bất kỳ hệ thống nào cả.
 
Several monastic universities arose—Nālandā, Odantapuri, and and practiced together. Philosophical debate was a widespread ancient Indian custom; the losers were expected to convert to the winners’ schools. Buddhist sages developed logical arguments and reasonings to prove the validity of Buddhist doctrine and to deflect the philosophical attacks of non-Buddhists. The renowned Buddhist debaters were also great practitioners. Of course not all Buddhist practitioners were interested in this approach. Many preferred to study the sūtras or to practice meditation in hermitages.
 
Nhiều tu viện đại học đã đượcthànhlập– Nalanda, Odantapuri, và Vikramasila, các truyền thống khác nhau cùng nghiên cứu và thực hành. Mônbiện luận(debate) vềtriết học là một phong tụccổđược phổ biến rộng rãi tại Ấn Độ; những người thuathường phải chuyển sang trường phái của người thắng.  Những bậc Hiền Thánh Phật giáocần biện luậnhợp lý để chứng minh giá trị của giáo lý Phật qua nhữngcuộcbiện luậntriết lývới các hành giả ngoại đạo.  Vì vậy,những nhà biện luận Phật giáo danh tiếng cũng là những vị hành giảthâm sâu.  Tuy nhiên không phải tất cả các hành giả Phật giáo đều quan tâm vớikhuynh hướngbiện luận này.  Nhiều vịchỉ thích nghiên cứu kinh điển hoặc nghiên cứu để ẩn tu.
Nhiều trường đại học tu viện đã phát sinh – Nalanda, Odantapuri, và Vikramasila- và các Phật tử từ các truyền thống khác nhau cùng các trường  triết học đã nghiên cứu và thực hành với nhau. Cuộc tranh luận triết học là một phong tục Ấn Độ cổ đại đã được phổ biến rộng rãi; những người thua cuộc đã được dự kiện sẽ chuyển đổi sang trường học của những người chiến thắng.  Những bậc Hiền Thánh Phật giáo đã phát triển những lập luận và lý luận hợp lý để chứng minh giá trị của giáo lý Phật giáo và để làm chệch hướng các cuộc tấn công triết học  của những phi-Phật tử.  Những nhà tranh luận Phật giáo danh tiếng cũng đã là những vị hành giả vĩ đại.  Tất nhiên không phải tất cả các hành giả Phật giáo đã quan tâm trong tiếp cận này.  Nhiều vị đã ưa thích nghiên cứu những kinh điển hoặc để thực hành thiền định trong ẩn thất.
 
Nowadays, three canons exist: the Pāli, Chinese, and Tibetan; a Sanskrit canon was not compiled in India. Each canon is divided into three “baskets” (piṭaka)—or categories of teachings—which are correlated with the three higher trainings. The Vinaya basket deals chiefly with monastic discipline, the Sūtra basket emphasizes meditative concentration, and the Abhidharma basket is mainly concerned with wisdom.

Hiện nay, Đại Tạng kinh (Buddhist Canon)được ghi lại trong tiếng Pali, tiếng Hán, và tiếng Tây Tạng.  Đại Tạng Kinh tiếng Phạn (Sanskrit) không được ghi lại tại Ấn Độ. Trongmỗi bộĐạiTạng Kinh gồm có Tam Tạng (Tripitaka) - tương quan với ba giáo lý Giới, Định và Tuệ.  Luật Tạngvới chủ đề giớiluật cho tu sĩ, Kinh Tạng nhấn mạnh về thiền định, và Luận Tạng chủ yếu liên quan với trí tuệ.

Ngày nay, ba kinh điển tồn tại: tiếng Pali, Trung Quốc và Tây Tạng; Kinh điển Phạn không được biên dịch tại Ấn Độ. Mỗi giáo được chia thành ba  “ Kinh tạng”- hoặc các chủng loại giáo lý - được tương quan với ba huấn luyện cao hơn.  Luật Tạng đề chủ yếu với luật tu sĩ, Kinh Tạng nhấn mạnh về thiền định, và Luận Tạng chủ yếu liên quan với trí tuệ.
 
The Chinese canon was first published in 983, and several other renditions were published later. The standard edition used now is the Taishō Shinshū Daizōkyō, published in Tokyo in 1934. It consists of four parts: sūtras, vinaya, śāstras (treatises), and miscellaneous texts originally written in Chinese. The Chinese canon is very inclusive, sharing many texts with both the Pāli and Tibetan canons. In particular, the Āgamas in the Chinese canon correspond to the first four Nikāyas in the Pāli canon.

Đại Tạng kinhtiếng Hánđược xuất bản lần đầu vàonăm 983, và một số đã được tái bản sau đó. Đại Tạng kinh Hánthời nay ấn tống theoTaisho Shinshu Daizokyo(Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh), xuất bản tại Tokyo vào năm 1934, bao gồm bốn phần: kinh điển, giới luật,luận giải(sastras), và các văn bảnđược viết bằng tiếng Hán. Đại Tạng kinhtiếng Hánrất là toàn diện, tương ứng chia xẻ nhiều văn bản với cả Đại Tạng kinhtiếng Pali và Đại Tạng kinhtiếng Tây Tạng.  Đặc biệt, Kinh A Hàm (Agamas) trong kinh điển Hántương ứng với bốn cuốn kinh đầu tiên của trong kinh điển Pali (Four Nikayas).
Kinh điển Trung Quốc đã được xuất bản lần đầu vào năm 983, và một số các ấn bản  khác đã được công bố sau đó.  Các phiên bản tiêu chuẩn sử dụng thời nay là Taisho Shinshu Daizokyo, xuất bản tại Tokyo vào năm 1934.  Bao gồm bốn phần là: kinh điển, giới luật, satras (hiệp ước) và các văn bản khác nhau ban đầu được viết bằng tiếng Trung Quốc.  Kinh điển Trung Quốc rất là toàn diện, chia sẻ nhiều văn bản với cả tiếng Pali và Tây Tạng.  Đặc biệt, những Kinh A Hàm trong kinh điển Trung Quốc tương ứng với bốn cuốn kinh đầu tiên  trong kinh điển Pali.
 
The Tibetan canon was redacted and codified by Buton Rinpoche in the fourteenth century. The first rendition of the Tibetan canon was published in 1411 in Beijing. Later editions were published in Tibet in Nartang in 1731–42 and later in Dergé and Choné. The Tibetan canon is composed of the Kangyur—the Buddha’s word in 108 volumes—and the Tengyur— the great Indian commentaries in 225 volumes. Most of these volumes were translated into Tibetan directly from Indian languages, chiefly Sanskrit, although a few were translated from Chinese and Central Asian languages.

Đại Tạng Kinhtiếng Tây Tạng được biên tập và hệ thống hóa do Buton Rinpoche vàothế kỷ thứ mười bốn.  Các phiên bản đầu tiên củaĐại Tạng kinh Tây Tạngđược xuấtbản năm 1411 tại Bắc Kinh. Các phiên bản sau này được xuất bản tạiNartang, Tây Tạng năm 1731-1742 và sau đótại Derge và Choné. Đại Tạng kinhTây Tạng bao gồm Kinh (Kangyur)và Luận (Tengyur).  Trong Kangyur, gồmcó 108 quyển ghilời dạy của Đức Phật.  TrongTengyur, gồmcó trong 225 cuốn sáchluậngiảituyệt vờitừ các tổẤn Độ. Hầu hết các cuốn sách này đã được dịch sang tiếng Tây Tạng trực tiếp từ các ngôn ngữ Ấn Độ, chủ yếu là tiếng Phạn, mặc dù một số ít đã được dịch từ tiếngHánvà ngôn ngữ Trung Á.
 
Kinh tiếng Tây Tạng được biên tập và hệ thống hóa bởi Buton Rinpoche trong  thế kỷ thứ mười bốn .  Các phiên bản đầu tiên của kinh điển Tây Tạng được xuất bản năm 1411 tại Bắc Kinh. Các phiên bản sau này đã được xuất bản tại Tây Tạng trong Nartang năm 1731-1742 và sau đó ở Derge và Choné. Các kinh điển Tây Tạng bao gồm Kangyur- của từ Đức Phật trong 108 quyển và Tengyur- những bình luận Ấn Độ tuyệt vời có trong 225 cuốn sách. Hầu hết các cuốn sách này đã được dịch sang tiếng Tây Tạng trực tiếp từ các ngôn ngữ Ấn Độ, chủ yếu là tiếng Phạn, mặc dù một số ít đã được dịch từ tiếng Trung Quốc và Trung Á.
 
 Pāli Tradition-
 Buddhism spread to Sri Lanka, China, and Southeast Asia many centuries before coming to Tibet. As our elder brothers and sisters, I pay respect to you.

Truyền thống Pali

Phật giáo truyền bá đến Sri Lanka, Trung Quốc và Đông Nam Á từ nhiều thế kỷ trước khi đến với Tây Tạng. Tôi xin tôn kính cácbậc đàn anhđàn  chị.
Truyền thống Pali
Phật giáo truyền bá đến Sri Lanka, Trung Quốc và Đông Nam Á từ nhiều thế kỷ trước khi đến với Tây Tạng. Là những người anh chị em của chúng tôi, tôi tỏ lòng tôn kính các bậc đàn anh đàn  chị.
 
 Modern-day Theravāda was derived from the Sthaviravāda, one of the eighteen schools in ancient India. The name Theravāda does not seem to have indicated a school in India prior to Buddhism having gone to Sri Lanka. The Sinhala historical chronicle Dīpavaṃsa used the name Theravāda in the fourth century to describe the Buddhists on the island. There were three Theravāda subgroups, each with a monastery bearing its name: Abhayagiri (Dharmaruci), Mahāvihāra, and Jetavana. Abhayagiri Theravādins had close connections with India and brought in many Sanskrit elements. The Jetavanins did this as well, but to a lesser extent, while the Mahāvihārins maintained the orthodox Theravāda teachings. In the twelfth century the king abolished the Abhayagiri and Jetavana traditions and amalgamated those monks with the Mahāvihāra, which has since remained prominent.
Trường phái Nguyên Thủy (Theravada) ngày nay được bắt nguồn từ phái Sthaviravāda, một trong mười tám trường phái ở Ấn Độ cổ đại. Chữ Nguyên Thủy không có vẻ biểu thị một trường phái ở Ấn Độ trước khi Phật giáo đã đi đến Sri Lanka. Theo ghi chép những biến cố lịch sửSinhala, vào thế kỷ thứ tư,Dipavamsa dùng chữNguyên Thủy(Tiểu thừa) để mô tả các tín đồ Phật giáo sống trên đảo. Có ba tu việnthuộc trường pháiNguyênThủy, mỗi một tu viện mang một tên riêng: Abhayagiri (Dharmaruci), Mahavihara, và Jetavana.

Tu viện NguyênThủy Abhayagiri có duyên chặt chẽ với Ấn Độ và Phạn ngữ. Tăng đoàntu viện NguyênThủy Jetavanins cũnggiống vậy nhưng ít duyên hơn.  Tu viện Nguyên Thủy Mahāvihārins (Đại Tỷ Ha La) luôn duy trì giáo lý Nguyên Thủy chính thống. Trong thế kỷ thứ mười hai vua bãi bỏ hai truyền thống Abhayagiri và Jetavana và hợp nhất Tăng đoàn với Nguyên Thủy Mahāvihārins (Đại Tỷ Ha La).  Từ đó chỉ cònNguyên Thủy Mahāvihārinsđược chú ý đến.

Hiện đại ngày nay trường phái Tiểu thừa được bắt nguồn từ nhóm Sthaviravāda, một trong mười tám trường phái ở Ấn Độ cổ đại. Cái tên trường phái Tiểu thừa không có vẻ đã biểu thị một trường phái ở Ấn Độ trước khi Phật giáo đã đi đến Sri Lanka. Các Sinhala kỷ lục lịch sử Dipavamsa sử dụng tên của trường phái Tiểu thừa trong thế kỷ thứ tư để mô tả các tín đồ Phật giáo. Có ba nhóm trường phái Tiểu thừa, mỗi một tu viện mang tên của nó: Abhayagiri (Dharmaruci), Mahavihara, và Jetavana. Abhayagiri Thượng Tọa bộ đã có kết nối chặt chẽ với Ấn Độ và đưa vào nhiều yếu tố Phạn. Các Phật tử của truyền phái Tiểu thừa cũng đã làm điều này, nhưng đến một mức độ thấp hơn, trong khi Đại Tỷ Ha La duy trì giáo lý Nguyên thủy chính thống. Trong thế kỷ thứ mười hai vua bãi bỏ những truyền thống Abhayagiri và Jetavana và hợp nhất những tu sĩ với Đại Tỷ Ha La, mà từ đó đã vẫn đáng được chú ý đến.
 
Origin and spread of the buddha’s doctrine  - 5
 
Buddhism suffered greatly after the Sri Lankan capital fell to the Coḷa forces in 1017. The bhikkhu and bhikkhunī orders were destroyed, although the bhikkhu order was restored when the Sri Lankan king invited monksfrom Burma to come and give the ordination. The Buddhadhamma thrived once again in Sri Lanka, and Sri Lanka came to be seen as the center of the Theravāda world. When the state of Theravāda teachings or its ordination lineages in one country were adversely affected, leaders would request monks from another Theravāda country to come and give ordination. This has continued up to the present day.
Phật giáo chịu đựng nhiều gian nan sau khi thủ đô Sri Lanka bị rơi vào áp lựccủa nước Cola năm 1017. Tăng đoàn Tỳ kheo và Tỳ kheo ni đã bị phá hủy.   Khi vua Sri Lanka mời các Sư đến từ Miến Điện đến ban lễ thọ giới, Tăng đoàn tỳ kheo được phục hồi laị.Sri Lanka được xem là trung tâm của Phật giáo Nguyên Thủyvà Phật Phápphát triển trở lại. KhiPhật giáo Nguyên Thủy bị ảnh hưởng bất lợi, các nhà lãnh đạo luônyêu cầu các Sư từ một quốc gia Nguyên Thủy khác đến ban lễ thọ giới.  Truyền thốngnày được tiếp tục đến ngày nay.

Phật giáo phải chịu đựng rất nhiều sau khi thủ đô Sri Lanka rơi vào áp lực  bởi  nước Cola trong năm 1017. Các tăng đoàn Tỳ kheo và Tỳ kheo ni đã bị phá hủy, mặc dù tăng đoàn tỳ kheo đã được phục hồi khi nhà vua Sri Lanka mời nhà sư đến từ Miến Điện đến và ban cho lễ thọ giới.Điều này đã tiếp tục cho đến ngày nay.
 
In late eighteenth-century Thailand, King Rāma I began to remove elements of Brahmanism and tantric practice, although traces live on today with many Thai Buddhist temples hosting a statue of four-faced Brahmā in their courtyard. King Rāma IV (r. 1851–68), a monk for nearly thirty years before ascending the throne, witnessed the relaxed state of monastic discipline and Buddhist education and instituted a wide range of saṅgha reforms. Importing an ordination lineage from Burma, he began the Dhammayuttikā Nikāya, unified the other sects into the Mahā Nikāya, instructed both sects to keep the monastic precepts more strictly, and placed both under a single ecclesiastical authority. Revamping monastic education, he wrote a series of textbooks expressing a more rational approach to Dhamma and eliminated elements of non-Buddhist folk culture attached to ThaiBuddhism.
 As Thailand became more centralized, the government assumed the authority to appoint preceptors to give ordination. The Saṅgha Act of 1902 brought all monastics under royal control by centralizing administrative authority for the entire saṅgha in the Supreme Saṅgha Council (Mahathera Samakhom) headed by the saṅgharāja. King Rāma V’s half-brother, Prince Wachirayan, wrote new textbooks that were the basis for national saṅgha exams. These exams improved the monks’ knowledge as well as distinguished the monks who would advance in ecclesiastical rank.

Vào cuối thế kỷ mười tám ởThái Lan, Vua Rama I bắt đầu loại bỏ các yếu tốliên hệ đến Bà La Môn giáo và đến cácthực hành Mật thừa, tuy vẫn còn dấu vết lưu trữtại nhiều ngôi chùa ởThái Lan qua tượngThánh nhơn Bà La Môn bốn mặttrong sân chùangày nay. Vua Rama IV (r. 1851-1868),là một nhà sư gần ba mươi năm trước khi lên ngôi đã chứng kiếnsựlõng lẽo của giáo lý vàgiới luật trong Tăng đoàn.  Vua thiết lập mộthệ thống cải cách Tăng đoànvàthỉnh một Tăng đoàntừ Miến Điệnđến ban thọ giới.Vualập ra Dhammayuttika Nikaya, thống nhất các giáo phái khác vào Mahā Nikayadưới quyền Giáo Hội trungương, hướng dẫn giới luật trong tu viện chặt chẽ hơn. Vua Rama IVcải tổ hệ thống giáo dục tu viện, viết sách giáo khoavà loại bỏ các yếu tố văn hóa nào không  gắn liền với Phật giáo Thái Lan.Chính phủ Thái Lanthành lập một ủy banTăng đoànlàm lễ thọ giới. Đạo luật Tăng đoàn năm 1902,tập họp  tất cả tu sĩ dưới sự kiểm soát của hoàng gia bằng cách tập trung quyền hành toàn bộ Tăng đoàn trong Hội đồng Tăng già tối cao (Mahathera Samakhom) được cộng đồng tu sĩ Quốc vươngdẫn đầu.   Em trai của vua Rama V, Hoàng tử Wachirayan, dùngnhững sách giáo khoa mới để làm nền tảng cho các kỳ thi quốc gia Tăng đoàn,mục đíchđểnâng cao kiến thức của tu sĩ cũng như để tuyển lựavàsắp xếp cấp bậctrong giáo hội.
 
Vào cuối thế kỷ mười tám ởThái Lan, Vua Rama I đã bắt đầu loại bỏ các yếu tố của Bà La Môn giáo và thực hành Mật thừa, mặc dù dấu vết vẫn còn lưu trữ ngày hôm nay với nhiều ngôi chùa  ởThái Lan với một bức tượng bốn đối mặt của Thánh nhơn Bà La Môn trong sân của chùa. Vua Rama IV (r. 1851-1868), một nhà sư trong gần ba mươi năm trước khi lên ngôi, đã chứng kiến tình trạng cởi mở của luật tu sĩ và giáo dục Phật giáo và thiết lập một loạt các cải cách Tăng.  Du nhập một dòng dõi thọ giới từ Miến Điện, ông bắt đầu Dhammayuttika Nikaya, thống nhất các giáo phái khác vào Mahā Nikaya, hướng dẫn cả phái để giữ giới luật tu viện chặt chẽ hơn, và đặt cả dưới một quyền bính Giáo Hội duy nhất. Cải tạo hệ thống giáo dục tu viện, ông đã viết một loạt sách giáo khoa thể hiện một cách tiếp cận hợp lý hơn cho Giáo Pháp và loại bỏ các yếu tố của văn hóa dân gian không phải Phật giáo gắn liền với Phật giáo Thái Lan. Như Thái Lan trở nên tập trung hơn, chính phủ nắm chánh quyền để lập một ủy ban những thầy để làm lể thọ giới. Đạo luật Tăng đoàn năm 1902 đã mang tất cả tu sĩ dưới sự kiểm soát của hoàng gia bằng cách tập trung quyền hành chính cho toàn bộ Tăng đoàn trong Hội đồng Tăng già tối cao (Mahathera Samakhom) dẫn đầu bởi cộng đồng tu sĩ Quốc vương.  Người em trai của vua Rama V, Hoàng tử Wachirayan, đã viết những sách giáo khoa mới để làm nền tảng cho các kỳ thi quốc gia Tăng đoàn. Những kỳ thi này nâng cao kiến thức của các tu sĩ cũng như phân biệt các tu sĩ sẽ tiến lên  ở cấp bậc của  giáo hội.

Dhamekh Stupa, site of the Buddha’s first teaching, Sarnath, India Darima Daribazaron Wisdom Publications - Not for Distribution 6 | buddhism: one teacher, many traditions.
Phật Giáo: Một Giáo Chủ, nhiều truyền thống
 Colonialism hurt Buddhism in Sri Lanka, but the interest of a few Westerners in Buddhism, especially Theosophists Helena Blavatsky and Henry Olcott, spurred lay Buddhists such as Anagārika Dhammapāla to present Buddhism in more rational terms and to connect with Buddhists internationally. Buddhism provided a rallying point for Sri Lankans in dealing with colonialism and establishing an independent nation.

Chủ nghĩa thực dân(colonialism)gây ra sự tổn thương cho Phật giáo tại Sri Lanka, nhưng nhờ sự quan tâm của một số người TâyphươngvềPhật giáo, đặc biệt là nhà Thông Thiên Học Helena Blavatsky và Henry Olcott, đã thúc đẩy Phật tử Anagarika Dhammapala trình bày giáo lý Phật hợplý hơn đểkết nối với tín đồ Phật giáo quốc tế. Phật giáo cũng đã cung cấp một điểm tập hợp cho dân Sri Lanka trong việc đối phó với chủ nghĩa thực dân và thành lập một quốc gia độc lập.
 
Chủ nghĩa thực dân bị tổn thương Phật giáo tại Sri Lanka, nhưng sự quan tâm của một số người phương Tây trong Phật giáo, đặc biệt là nhà Thông Thiên Học Helena Blavatsky và Henry Olcott, đã thúc đẩy Phật tử như Anagarika Dhammapala để trình bày Phật giáo hợp lý hơn và kết nối với tín đồ Phật giáo quốc tế. Phật giáo cũng đã cung cấp một điểm tập hợp cho dân Sri Lanka trong việc đối phó với chủ nghĩa thực dân và thành lập một quốc gia độc lập ..
 
Colonialism did not harm Buddhism in Burma as much, and it actually stimulated the king to request monks to teach vipassanā meditation in the court. Soon laypeople from all social classes were learning to meditate. The monks Ledi Sayadaw (1846–1923) and Mingon Sayadaw (1868–1955) set up lay meditation centers, and Mahasi Sayadaw (1904–82) passed his teachings to lay teachers. This meditation style is now popular in Burma.
Chủ nghĩa thực dân không làm hại Phật giáo ở Miến Điện, ngược lại khuyến khích nhà vuathỉnh các nhà Sư đến dạy thiền Vipassanā tại cung điện. Khôngbao lâutất cả dântrong các tầng lớp xã hội đều tập thiền. Tu sĩ Ledi Sayadaw (1846-1923) và Mingon Sayadaw (1868-1955) thành lập các trung tâm thiền định, và Mahasi Sayadaw (1904-1982) đã truyền cácphương pháp thực tập cho cácgiáo thọ tu sĩ tại gia.  Cách thiền này hiện nay rất thịnh hành ở Miến Điện.
 
Chủ nghĩa thực dân không làm hại Phật giáo ở Miến Điiện không nhiều như vậy, và nó thực sự kích thích nhà vua yêu cầu các nhà sư để dạy thiền Vipassanā tại cung điện. Chẳng bao lâu giáo dân từ tất cả các tầng lớp xã hội được học tập để thiền. Các tu sĩ Ledi Sayadaw (1846-1923) và Mingon Sayadaw (1868-1955) thành lập các trung tâm thiền định, và Mahasi Sayadaw (1904-1982) đã truyền các giáo lý của mình cho các giáo viên giáo dân.  Phong cách thiền này hiện nay được phổ biến ở Miến Điện.
 
The means to select a saṅgharāja differ. In Thailand, they are generally appointed by the king. In other countries monastic seniority or a semidemocratic process are used. The authority of saṅgharājas varies: some are figureheads; others such as the late Mahā Ghosananda of Cambodia have great influence by virtue of their practice, beneficial works, and advancement of social change. Thailand’s saṅgharāja, a position existing since the eighteenth century, is part of a national hierarchy handling issues of importance to the saṅgha. He has legal authority over monastics, works with the secular government, and is assisted by the Supreme Saṅgha Council. In Cambodia the saṅgharāja position disappeared during the Khmer period, but in 1981 the government reestablished it.
Hệ thống tuyển lựaTăng đoàn Quốc vương khác nhau. Tại Thái Lan, được nhà vua bổ nhiệm. Ở các nước khác dựa vàothâm niên hay một quá trình bán dân chủ (semidemocratic). Thẩm quyền của Tăng đoànQuốc vương cũng khác: một số là bù nhìn; số khác như cố Mahā Ghosananda của nước Cam Bốt có uy tín và ảnh hưởng rất lớn do đức hạnh tu, và công phúc chuyển hóa tiến bộ của xã hội.

Tăng đoàn Quốc vương của Thái Lancó mặt từ thế kỷ thứ mười tám, là một phần của hệ thống quốc gia xử lýnhững vấn đề quan trọng trong Tăng đoàn.  Vuacó toàn quyềnvới tu sĩ, chính phủ dân, và được hỗ trợ bởi Hội đồng Tăng già tối cao. Ở Cam Bốt chức vụtrong Tăng đoàn Quốc vương Quốc vương bị dẹp trong thời kỳ Khmer, nhưng trong năm 1981, chính phủ đã tái lập lại.

Các phương tiện để lựa chọn một cộng đồng tu sĩ Quốc vương khác nhau. Tại Thái Lan, họ thường được bổ nhiệm do nhà vua. Ở các nước khác tăng lữ thâm niên hay một quá trình bán dân chủ được sử dụng. Thẩm quyền của cộng đồng tu sĩ Quốc vương không giống nhau: một số là bù nhìn; những người khác như cố Mahā Ghosananda của nước Cam bốt có ảnh hưởng rất lớn bởi đức hạnh của thực hành của họ, công trình phúc lợi, và tiến bộ của xã hội thay đổi.  Cộng đồng tu sĩ Quốc  vương của Thái Lan,có  một vị trí hiện thời từ thế kỷ thứ mười tám, là một phần của hệ thống phân cấp quốc gia trong các việc xử lý những vấn đề quan trọng đối với Tăng đoàn. Nhà Vua  có quyền hợp pháp đối với tu sĩ, làm việc với chính phủ thế tục, và được hỗ trợ bởi Hội đồng Tăng già tối cao. Ở Cam Bốt chức vụ cộng đồng tu sĩ Quốc vương  đã bị biến mất trong thời kỳ Khmer, nhưng trong năm 1981, chính phủ đã tái lập lại nó.
 
 In many cases, national governments instituted changes that had the side effect of lessening the saṅgha’s traditional roles as teachers and doctors and supplanting them with secular systems of modern education and medicine. As a result, Theravāda monastics, as well as their brethren in countries following the Sanskrit tradition, have had to rethink their role in society in the face of modernization.
Trong nhiều trường hợp, chính phủ quốc gia thiết lập những sự thay đổi trên đã làm giảm bớttrách nhiệm truyền thống trong Tăng đoàn,là nhiệm vụThầy và bác sĩ tâm linh,để thay thế vào đó hệ thống thế tục giáo dục và y họchiện đại. Kết quả, Tăng đoàn Nguyên thủy, cũng như Bắc Phạn phải suy nghĩ lại vai trò củaTăng đoàn trong xã hội khi đối mặt với hiện đại hoá.

Trong nhiều trường hợp, các chính phủ quốc gia thiết lập những sự thay đổi đó đã có những tác dụng phụ trong việc giảm bớt vai trò truyền thống của Tăng đoàn cũng như các giáo viên và bác sĩ và thay thế với hệ thống thế tục của giáo dục hiện đại và y học. Kết quả là, Nguyên thủy tu sĩ, cũng như tăng chúng của họ ở các nước theo truyền thống Phạn, đã phải suy nghĩ lại về vai trò của họ trong xã hội khi đối mặt với hiện đại hoá.
 
Buddhism in China
 
Buddhism entered China in the first century c.e., first via the Silk Road from Central Asian lands where Buddhism flourished and later by sea from India and Sri Lanka. By the second century, a Chinese Buddhist monastery existed, and translation of Buddhist texts into Chinese was under way. Early translations employed inconsistent terminology, leading to some misunderstanding of Buddhist thought, but by the fifth century, translation terms became more settled. The early fifth century also marked the translation of more vinaya texts. For many centuries, emperors sponsored translation teams, so a wealth of Buddhist sūtras, treatises, and commentaries from India and Central Asia were translated into Chinese.

Phật giáo vào Trung Quốc

Phật giáo vào Trung Quốc trong thế kỷ đầu tiên trước Tây Lịch , đầu tiên qua con đường buôn Tơ  Lụ a (Silk Road) từTrung Á, nơi Phật giáo phát triển mạnh và sau đó bằng đường biển từ Ấn Độ và Tích Lan (Sri Lanka). Đến thế kỷ thứ hai, tu viện Phật giáo Trung Quốc được thành lập, và việc dịch kinh sách tiếngHánđược tiến hành.  Những bản dịch đầu sử dụng thuật ngữ không phù hợp, dẫn đến một số hiểu lầm tư tưởng Phật giáo, nhưng đến thế kỷ thứ năm,thuật ngữ trở nên ổn định hơn. Đầu thế kỷ thứ năm đánh dấu sự tăng triểnnhiều bản dịch luật tạng. Trong nhiều thế kỷ, các hoàng đế tài trợdịchvụ, ấn tống, do đómột kho tàng kinh, luận từ Ấn Độ và Trung Á đã được dịch sang tiếngHán.

Phật giáo vào Trung Quốc trong thế kỷ đầu tiên trước Tây Lịch , lần đầu tiên thông qua con đường tơ lụa từ vùng đất Trung Á, nơi Phật giáo phát triển mạnh mẽ và sau đó bằng đường biển từ Ấn Độ và Sri Lanka. Đến thế kỷ thứ hai, một tu viện Phật giáo Trung Quốc được tồn tại, và sự dịch kinh sách Phật giáo bằng  tiếng Trung Quốc đang được tiến hành.  Những bản dịch đầu sử dụng thuật ngữ không phù hợp, dẫn đến một số hiểu lầm của tư tưởng Phật giáo, nhưng đến thế kỷ thứ năm, các điều khoản dịch trở nên ổn định hơn. Vào đầu thế kỷ thứ năm cũng đánh dấu các bản dịch của nhiều văn bản luật tạng. Trong nhiều thế kỷ, các hoàng đế tài trợ cho việc dịch thuật, do đó, một sự giàu có của kinh điển Phật giáo, luận, và bình luận từ Ấn Độ và Trung Á đã được dịch sang tiếng Trung Quốc.
 
Chinese Buddhism contains a diversity of schools. Some views and practices are common to all schools, while others are unique to individual schools. Some schools are differentiated based on their philosophical tenets, others on their manner of practice, others by their principal texts. Historically, ten major schools developed in China.

Phật giáo Trung Quốc bao hàmnhiều trường phái. Một số quan điểm và cáchthực hành được phổ biến chung cho tất cả các trường phái, một số chỉ áp dụng cho từng trường phái riêng biệt. Một số trường phái được phân biệt dựa trên nguyênlýtriết học (tenets), một số khácdựa trên cách hànhtrì, số khác dựatrên kinh luận tuyểnchọnriêng cho phái. Trong lịch sửcómười trường pháichínhphát triển ở Trung Quốc.
Phật giáo Trung Quốc bao hàm một sự đa dạng của các trường phái. Một số quan điểm và thực hành được phổ biến chung cho tất cả các trường phái, trong khi những trường phái khác lại độc nhất cho từng trường phái riêng biệt. Một số trường phái được phân biệt dựa trên nguyên triết lý học thuyết của họ, những trường phái khác về cách hành nghề của họ, những trường phái khác bằng văn bản chính của họ. Trong lịch sử, mười trường phái lớn phát triển ở Trung Quốc.
 
  1.  
Early Chan masters relied on the Laṅkāvatāra Sūtra and on Prajñāpāramitā sūtras such as the Vajracchedikā Sūtra, and some later adopted tathāgatagarbha, or “buddha essence,” ideas. The Śūraṅgama Sūtra is popular in Chinese Chan. Nowadays most Korean Chan practitioners and some Chinese ones learn Madhyamaka—Middle Way philosophy. Dōgen Zenji and Myōan Eisai were instrumental in bringing Zen to Japan in the thirteenth century.
 
  1. Thiền sưẤn Độ Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma)đưa ThiềnTông,( C.Chan ; J. Zen) đến Trung Quốc vào đầu thế kỷ thứ sáu.  Ngài là tổ thứ hai mươi tám của Ấn Độ và làtổđầu tiên của Thiền Tông Trung Hoa. Hiện nay, hai chi nhánh củaThiền TônglàLinji Lâ m tế (J. Rinzai) và Caodong Tào Động  (J. Soto). Linji chủ yếu sử dụng công án (hua-tous) –thách thức thiềnsinh vượt qua những giới hạn của khái niệm tâm và nói về đốn ngộ. Caodong tập trung vào tiệm tu "ngồi" tu từtừ.

Các thiền sưđầu của Thiền Tông dựa vào Kinh Lăng Già (Lankavatara) và Bát nhã Tâm Kinh (Prajñāpāramitā), Kinh Kim Cang (Vajracchedikā Sutra).  Các thiền sư sau đó áp dụng Kinh Như Lai Tạng (tathāgatagarbha), hay Phậttánh. Kinh Lăng Nghiêm (Śūraṅgama Sūtra)phổ biến ở Trung Quốc thời Thiền Tông Trung Hoa.  Ngày nay, các thiền sinh ở Hàn Quốc và một số ởTrung Quốc học theo triết lý Trung Quán (Madhyamaka—Middle Way philosophy). Dogen Zenji(Đạo Nguyên Thiền Sư) và Myōan Eisai(Dinh Tây) đã góp phần vàoviệc đưa Thiền vào Nhật Bản vào thế kỷ thứ mười ba.
 
1. Chan (J. Zen) đã được đưa đến Trung Quốc bởi thiền sư Ấn Độ Bồ Đề Đạt Ma vào đầu thế kỷ thứ sáu. Ông là tộc trưởng  thứ hai mươi tám của Ấn Độ và là Sơ Tổ Thiền của Trung Quốc thuộc  trường trường phái này. Hiện nay, hai chi nhánh của Chan tồn tại: Linji (J. Rinzai) và Caodong (J. Soto). Linji chủ yếu sử dụng hua-tous (công án) –những sự phát biểu bối rối thách thức học viên vượt qua được những giới hạn của khái niệm tâm và nói về sự giác ngộ đột ngột. Caodong tập trung hơn vào "chỉ ngồi" và một cách tiếp cận từ từ hơn. Các Thiền Sư Thiền Tông Chan sớm dựa vào Kinh Lăng Già và Bát nhã Ba La Mật như Vajracchedikā Sutra, và một số sau đó được áp dụng ý tưởng Như Lai Tạng, hay "bản chất Phật," . Các Kinh Lăng Nghiêm là phổ biến ở Trung Quốc thời Chan.  Ngày nay các học viên thời Chan ở Hàn Quốc và một số những người Trung Quốc học triết lý Trung Quán-Trung Đạo. Dogen Zenji và Myōan Eisai đã góp phần vào trong việc đưa Thiền vào Nhật Bản vào thế kỷ thứ mười ba.
 
 
  1.  
 
Tịnh Độ Tông(C. Jingtu, J. Jodo)dựa trên ba bộ Kinh-  tiểu và đại Vô Lượng Thọ kinh, và Quán Vô Lượng Thọ kinh (Sukhāvatīvyūha sūtras and the Amitāyurdhyāna Sūtra). Tịnh Độ Tôngnhấn mạnh tụng nhất tâm bất loạn danh hiệu Phật A Di Đà với lời cầu nguyện tha thiết được tái sinh trong Tịnh Độ. Phái Tịnh Độtu tập giác ngộ viên mãn qua phương pháp tụng kinh, niệm Phật A Di Đà. Thế giới Tịnh Độ cũng chính là Phật tánh, bản chất tinh khiết của tâm chúng ta. Những bậc thầy Tịnh Độ củaTrung Quốc như Zhiyi, Hàn Sơn Đức Thanh (Hanshan Deqing), và Ouyi Zhixu (Ouyi Zhixu) viết những bài luận về cách thực hành Tịnh Độ, thảo luận thế nào để đạt được sự thanh thản, anlạc và nhận ra Phật tánh khi thiền quán về Phật A Di Đà. Sau thế kỷ thứ chín, Tịnh Độ Tôngđã được phối hợp vào nhiều thiền phái của Trung Quốc, và ngày nay nhiều tu viện ở Trung Quốc thực hành cả hai phương pháp Thiền và niệm Phật. Honen(Pháp Nhiên) đem giáo lý Tịnh Độ đến Nhật Bản vào cuối thế kỷ thứ mười hai.
 
2,Thiền phái Tịnh Độ (C. Jingtu, J. Jodo) được dựa trên ba bộ Kinh-  tiểu và đại Vô Lượng Thọ kinh, và Quán Vô Lượng Thọ kinh. Nó nhấn mạnh tụng danh hiệu Phật A Di Đà và làm cho những lời cầu nguyện tha thiết được tái sinh trong Tịnh Độ, và cung cấp tất cả các trường hợp cần thiết để thực hành Phật Pháp và đạt được đầy đủ giác ngộ. Tịnh Độ cũng có thể được xem như là bản chất tinh khiết của tâm thức chúng ta. Những bậc thầy củaTrung Quốc như Zhiyi, Hàn Sơn Đức Thanh, và Ouyi Zhixu viết những bài bình luận về thực hành Tịnh Độ, thảo luận làm thế nào để đạt được sự thanh thản và nhận ra bản chất của thực tại trong khi thiền định về Phật A Di Đà. Sau thế kỷ thứ chín, tập quán Tịnh Độ đã được tích hợp vào nhiều trường phái khác của Trung Quốc, và ngày nay nhiều tu viện của Trung Quốc thực hành cả Thiền và Tịnh Độ. Honen(Pháp Nhiên) đem giáo lý Tịnh Độ đến Nhật Bản vào cuối thế kỷ thứ mười hai.
 
 
Wisdom Publications - Not for Distribution 8 | buddhism: one teacher, many traditions
 
  1. Tiantai ( J. Tendai) was founded by Huisi (515–76). His disciple Zhiyi (538–97) established a gradual progression of practice from the easier to the most profound, with the ultimate teachings found in the Saddharmapuṇḍarīka Sūtra, the Mahāparinirvāṇa Sūtra, and Nāgārjuna’s Mahāprajñāpāramitā-upadeśa. This school balances study and practice.
 
3. PháiThiên Thai (Tendai J.) được thành lập bởi Huisi (515-76).  Đệ tử của ông là Zhiyi (538-97) sáng lập cách thực hành, tiến triểntừ dễ đếnsâu, với những lời dạy tiệm tu thâmsâuđược tìm thấy trong các Kinh Diệu Pháp Liên Hoa,  Kinh Đại Bát Niết Bàn, và Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Nghị Luận Kinhcủa ngài Long Thọ Bồ Tát ( Saddharmapuṇḍarīka Sūtra, the Mahāparinirvāṇa Sūtra, and Nāgārjuna’s Mahāprajñāpāramitā-upadeśa).  Trường pháiThiên Thai (Tendai J.) cân bằng học tập và thực hành.
 
Thiên Thai (Tendai J.) được thành lập bởi Huisi (515-76).  Đệ tử của ông là Zhiyi (538-97) sáng lập sự thực hành trong tiến triển dần dần từ dễ dàng hơn đến sâu sắc nhất, với những lời dạy cuối cùng được tìm thấy trong các Kinh Diệu Pháp Liên Hoa,  Kinh Đại Bát Niết Bàn, và Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Nghị Luận Kinh của ngài Long Thọ Bồ Tát.  Trường phái này cân bằng học tập và thực hành.
 
 4. Huayan ( J. Kegon) is based on the Avataṃsaka Sūtra, translated into Chinese around 420. Dushun (557–640) and Zongmi (781–841) were great Huayan masters. Huayan emphasizes the interdependence of all people and phenomena and the interpenetration of their worlds. The individual affects the world, and the world affects the individual. Huayan philosophy also emphasizes the bodhisattvas’ activities in the world to benefit all beings.
 
  1. Phái Hoa Nghiêm (Japanese: Kegon; Chinese: Hua Yen) được dựa trên Kinh Hoa Nghiêm (Avataṃsaka Sūtra). Kinh (Avataṃsaka Sūtra) được dịch sang tiếng Hán khoảng năm 420. Dushun (557-640) và Zongmi Fa-tsang (781-841) là hai Thầy Phái Hoa Nghiêm. Phái Hoa Nghiêm nhấn mạnh nhân duyên, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các pháp.  Giáo lý Hoa Nghiêm cũng nhấn mạnh hoạt động của các vị Bồ Tát trong thế giới để mang lại lợi ích tất cả chúng sinh.
 
4. Hoa Nghiêm (J. Kegon) được dựa trên Kinh Hoa Nghiêm, dịch sang tiếng Trung Quốc trong khoảng năm 420. Dushun (557-640) và Zongmi (781-841) là bậc thầy Hoa Nghiêm tuyệt vời. Hoa Nghiêm nhấn mạnh sự phụ thuộc lẫn nhau của tất cả mọi người và các hiện tượng và sự thâm nhập trong thế giới của họ. Các cá nhân có ảnh hưởng trên thế giới, và thế giới ảnh hưởng đến cá nhân.  Triết lý Hoa Nghiêm cũng nhấn mạnh hoạt động của các vị Bồ Tát trong thế giới để mang lại lợi ích cho  tất cả chúng sinh.
 
 
 5. The Sanlun ( J. Sanron) or Madhyamaka school was founded by the great Indian translator Kumārajīva (334–413) and principally relies on the Mūlamadhyamakakārikā and Dvādaśanikāya Śāstra by Nāgārjuna and the Śataka Śāstra of Āryadeva. Sometimes Nāgārjuna’s Mahāprajñāpāramitā-upadeśa is added as the fourth principal Sanlun text. Sanlun relies on the Prajñāpāramitā sūtras and follows the Akṣayamatinirdeśa Sūtra in asserting that these sūtras reveal the definitive meaning of the Buddha’s teachings.
 
5.Trường phái Sanlun Tam Luậ n Tô n (J. Sanron) hoặc trường phái Trung đạo được thành lập bởi các dịch giả nổi danh như Kumarajiva- Cưu Ma La Thập  (334-413) của Ấn Độ, chủ yếu dựa vào hai luận bản Trung Quáncủa ngài Long Thọ(Mūlamadhyamakakārikā and Dvādaśanikāya Śāstra)  và luận bản Śataka của ngài Aryadeva. Đại Bát Nhã BaLa Mật Nghị Luận Kinh (Mahāprajñāpāramitā-upadeśa) của ngài Long Thọ cũng được thêm vào như là chủ yếu thứ tư của văn bản trường phái Sanlun.  Trường phái Sanlun dựa trên kinh Bát nhã và các Kinh điển của Akṣayamatinirdeśa.  Trường phái Sanlun khẳng định rằng những kinh này tiết lộ ý nghĩa tuyệt đối của lời Đức Phậtdạy.
 
5..Trường phái Sanlun (J. Sanron) hoặc trường phái Trung đạo được thành lập bởi các dịch giả nổi danh tên Kumarajiva (334-413) của Ấn Độ và chủ yếu dựa vào Trung luận và những luận văn bản giáo lý Dvādaśanikāya của ngài Long Thọ và luận văn bản giáo lý Śataka của ngài Aryadeva. Đôi khi Đại Bát Nhã BaLa Mật Nghị Luận Kinh của ngài Long Thọ được thêm vào như là chủ yếu thứ tư của văn bản trường phái Sanlun.  Trường phái Sanlun dựa trên các kinh Bát nhã và đi theo các  Kinh điển của Akṣayamatinirdeśa  trong việc khẳng định rằng những lời kinh tiết lộ ý nghĩa dứt khoát của những lời dạy của Đức Phật.
 
 
6. Yogācāra (C. Faxiang, J. Hossō) is based on the Saṃdhinirmocana Sūtra and on the Yogācāryabhūmi Śāstra, Vijñaptimātrasiddhi Śāstra, and other treatises by Maitreya, Asaṅga, and Vasubandhu. Xuanzang (602–64) translated these important texts and established this school after his return from India.
 
6. Phái Du Già (Chinese: Faxiang, Japanese: Hossō-Vietnamese:Pháp Tướng) được dựa trên Giải Thâm Mật Kinh (Saṃdhinirmocana sutra) và Du già sư địa luận (Yogācāryabhūmi Śāstra),     (Vijñaptimātrasiddhi Śāstra) và luận văn bản của và các luận của Di Lặc (Matreya), Vô Trước (Asanga) và Thế Thân (Vasubhandhu). Nhà sư Huyền Trang (602-64) dịch những văn bản quan trọng và lậpPhái Du Già này sau khi trở về từ Ấn Độ.
 
6. Du Già (C. Faxiang, J. Hossō) được dựa trên Kinh Saṃdhinirmocana  và trên Du già sư địa luận, luận căn bản của nhà sư Huyển Trang, và các luận khác của Di Lặc, Vô Trước và Thế Thân. Huyền Trang (602-64) dịch những văn bản quan trọng và lập trường phái này sau khi trở về từ Ấn Độ.
 
Wisdom Publications - Not for Distribution origin and spread of the buddha’s doct rine
 
 7. Vajrayāna (C. Zhenyan, J. Shingon) is based on the Mahāvairocana Sūtra, Vajraśekhara Sūtra, Adhyardhaśatikā Prajñāpāramitā Sūtra, and Susiddhikara Sūtra, which explain yoga tantra practices. Never widespread in China, this school was brought to Japan by Kukai (774–835) and is still extant there.
 
  1. Kim Cang Thừa- Mật TôngTrung Hoa, Nhật Bản(C. Zhenyan, J. Shingon Vietn. Chơn Ngôn) được dựa trên kinh của Đại Nhựt Như Lai (Mahāvairocana Sūtra), Kinh Kim Cang(Vajraśekhara Sūtra),  Bát Nhã Tâm Kinh (Adhyardhaśatikā Prajñāpāramitā Sūtra), và kinh Susiddhikara, giải thích phương pháp Du già mật chútu hành.Kim Cang Thừa- Mật Tông không thịnh hành ở Trung Quốc, trường phái này đã được đưa đến Nhật Bản bởi Kukai-Không Hải  (774-835) và vẫn còn tồn tại ở đó.
 
7. Kim Cang thừa (C. Zhenyan, J. Shingon) được dựa trên kinh của Đại Nhựt Như Lai, kinh Kim cang phong lầu(Vajraśekhara Sūtra), Adhyardhaśatikā Bát nhã kinh, và kinh Susiddhikara, mà giải thích những thực hành của Du già Chú . Chưa bao giờ phổ biến ở Trung Quốc, trường phái này đã được đưa đến Nhật Bản bởi Kukai (774-835) và vẫn còn tồn tại ở đó.
 
 8. The Vinaya (C. Lu, J. Ritshū) school was founded by Daoxuan (596– 667) and principally relies on the Dharmaguptaka vinaya, translated into Chinese in 412. Four other vinayas were also translated into Chinese.
 
8.Trường phái Luật tạng (The Vinaya )(C. Lu, J. Ritshū-Vietn. Luật Tông) được thành lập bởi Daoxuan- Đạo Tuyên  (596- 667), chủ yếu dựa vào tứ phần luật của Đàm Vô Đức (Dharmaguptaka vinaya) dịch sang tiếng Hánvào năm 412. Bốn Luật tạng khác cũng đã được dịch sang tiếng Hán.
8.Trường phái Luật tạng (C. Lu, J. Ritshū) được thành lập bởi Daoxuan (596- 667) và chủ yếu dựa vào các Tứ phần luật của Đàm Vô Đức, dịch sang tiếng Trung Quốc vào năm 412. Bốn Luật tạng khác cũng đã được dịch sang tiếng Trung Quốc.
 
 9. The Satyasiddhi (C. Chengshi, J. Jōjitsu) school is based on the Satyasiddhi Śāstra, an Abhidharma-style text that discusses emptiness among other topics. Some say it emphasizes the Śrāvaka Vehicle, others say it bridges the Śrāvaka Vehicle and Bodhisattva Vehicle. This school is not extant now.
 
  • Trường phái Thành Thật Tông – Satyasiddhi (J. Jōjitsu; C. Chengshi,) được dựa trên luận bản củaThành Thật Tông (Satyasiddhi Śāstra), một luận bản theo cách giảng của Vi Diệu Pháp (Abhidharma-style), bàn về tánh không của mọi hiện tượng. Một số nói trường pháinày nhấn mạnh Thanh Văn thừa, người khác nóitrường pháinày là nhịp cầu nối Thinh Văn thừa và Bồ Tát Thừa. Trường phái này không còn tồn tại.
9Trường phái Thành Thật Tông (J. Jōjitsu C. Chengshi,) được dựa trên luận văn bản củaThành Thật Tông , một văn bản theo phong cách  của Vi Diệu Pháp bàn về sự trống rỗng trong những chủ đề khác. Một số người nói nó nhấn mạnh Thanh Văn thừa, người khác nói nó là cầu nối Thinh Văn thừa và Bồ Tát Thừa. Trường phái này không còn tồn tại.
 
10. The Abhidharma (C. Kośa, J. Kusha) school was based on the Abhidharmakośa by Vasubandhu and was introduced into China by Xuanzang. While this school was popular in the “golden age of Buddhism” during the Tang dynasty (618–907), it is small now.
 
  • A. Trường phái Vi Diệu Pháp (C. Kosa, J. Kusha, Vietn.Câu Xá) được dựa trên A Tỳ Đạt Ma Câu Xá của Thế Thân (Abhidharmakośa by Vasubandhu), được giới thiệu vào Trung Quốc doNgài Huyền Trang (Xuanzang). Trường phái này đượcthịnh hành trong Thời Thịnh Pháp của Phật giáo (Golden Age of Buddhism) trong triều đại nhà Đường (618-907), bây giờ còn rất nhỏ.
 
10 A. Trường phái Vi Diệu Pháp (C. Kosa, J. Kusha) được dựa trên A Tỳ Đạt Ma Câu Xá của Thế Thân và được giới thiệu vào Trung Quốc bởi Ngài Huyền Trang. Trong khi trường phái này đã được phổ biến trong "thời kỳ vàng son của Phật giáo" trong triều đại nhà Đường (618-907), bây giờ còn nhỏ thôi.
 
 
 Some of the ten schools still exist as separate schools. The tenets and practices of those that do not have been incorporated into existing schools. Although the Vinaya school does not exist as a separate entity now, the practice of vinaya has been integrated into the remaining schools, and the saṅgha is flourishing in Taiwan, Korea, and Vietnam. While no longer distinct schools, the Abhidharma, Yogācāra, and Madhyamaka philosophies are studied and meditated upon in the indigenous Chinese schools as well as in Korea, Japan, and Vietnam.
 
Hiện nay có một số trong mười trường phái nói trên vẫn giữ trủ trương độc lập.  Nhưng trường phái Luật Tạng (Vinaya school) không còn là một pháiriêng, vì giới Luật Tạng có trong tất cả các phái.Vi Diệu Pháp, Du GiàPháp, và Trung Quán được nghiên cứu và quán chiếu trong các trườngphái của Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam và được kết hợp bổ túc cho nhiều tông phái khác nên không còn đứng riêng rẽ nữa. Ở Đài Loan, Hàn Quốc và Việt NamPhật pháp, tăng đoàn được hỗ trợrất mạnh.
 
Một số trong mười trường phái vẫn tồn tại như những trường phái riêng biệt. Các nguyên lý và thực hành của những trường phái mà đã không được đưa vào các trường phái đang hiện có. Mặc dù các trường phái Luật Tạng không hiện hữu như một thực thể riêng biệt hiện nay, việc thực hành giới Luật Tạng đã được tích hợp vào các trường phái còn lại, và Tăng đoàn được hưng thịnh ở Đài Loan, Hàn Quốc và Việt Nam. Trong khi không còn những trường phái riêng biệt, Vi Diệu Pháp, tu tập thiền định, và những triết lý củaTrung đạo được nghiên cứu và suy niệm trong các trường phái  bản địa của Trung Quốc cũng như ở Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam.
 
 
Changes in society in the early twentieth century spurred Buddhist reform and renewal in China. The fall of the Qing dynasty in 1911 stopped imperial patronage and support of the saṅgha, and the government, military, and educational institutions wanted to confiscate monasteries’ property for secular use. Buddhists wondered what role Buddhadharma could play in their encounter with modernity, science, and foreign cultures.
 
Những thay đổi trong xã hội trong đầu thế kỷ thứ hai mươi thúc đẩy cải cách Phật giáo ở Trung Quốc. Sự sụp đổ của triều đại nhà Thanh năm 1911 làm ngưng sự bảo trợ của hoàng gia cho tăng đoàn.  Chính phủ, quân đội, và các tổ chức giáo dục muốn tịch thu tài sản của những tu viện để sử dụng choviệc đời. Phật tử hoang mang về vai trò của Phật Pháp chuyển vận ra sao khi gặp gỡ khoa học, hiện đại và văn hóa nước ngoài.
 
Những thay đổi trong xã hội trong những năm đầu thế kỷ thứ hai mươi thúc đẩy cải cách Phật giáo và đổi mới ở Trung Quốc. Sự sụp đổ của triều đại nhà Thanh năm 1911 đã dừng lại sự bảo trợ của hoàng gia và hỗ trợ cho tăng đoàn, và chính phủ, quân đội, và các tổ chức giáo dục muốn tịch thu tài sản của những tu viện " để sử dụng cho thế tục. Phật tử tự hỏi vai trò gì Phật Pháp có thể chuyển vận gì trong cuộc gặp gỡ của họ với hiện đại, khoa học và văn hóa nước ngoài.
 
 
This social change provoked a variety of reactions. Taixu (1890–1947), perhaps the most well-known Chinese monk of that time, renewed the study of Madhyamaka and Yogācāra and began new educational institutesfor the saṅgha using modern educational methods. He also incorporated the best from secular knowledge and urged Buddhists to be more socially engaged. Traveling in Europe and Asia, he contacted Buddhists of other traditions and established branches of the World Buddhist Studies Institute. He encouraged Chinese to go to Tibet, Japan, and Sri Lanka to study, and he established seminaries in China that taught Tibetan, Japanese, and Pāli scriptures. Taixu also formulated “Humanistic Buddhism,” in which practitioners strive to purify the world by enacting bodhisattvas’ deeds right now as well as to purify their minds through meditation.
 
 
Biến chuyển của xã hội gây ra một loạt các phản ứng. Taixu- Thái Hư (1890-1947), một nhà sư Trung Quốc có tiếng thời đó, đổi mới lạitrương trình Trung đạo và Du Già, thànhlập các viện giáo dục mới cho tăng đoàn sử dụng các phương pháp giáo dục hiện đại. Taixu kết hợp kiến thức, hữu dụngngoài đờivà kêu gọi Phật tử tham gia vào việc xã hội. Taixuthăm viếngchâu Âu và châu Á, liên lạc với các Phật tử trong các truyền thống khác, và thành lập chi nhánhViện Nghiên Cứu Phật Giáo Thế Giới. Ông khuyến khích dân Trung Quốc đi Tây Tạng, Nhật Bản, và Sri Lanka để nghiên cứu.Taixuthành lập các học  viện ở Trung Quốc để dạy kinhTây Tạng, Nhật Bản, và Pāli . Taixu cũng xây dựng "Nhân Văn Phật giáo", trong đó các vị thực hành nổ lực để thanh tịnh hóa thế giới bằng cách thực hành Bồ Tát đạo, trong lúc thanh tịnh hóa tâm qua thiền định.
 
Sự thay đổi của xã hội này đã gây ra một loạt các phản ứng. Taixu – Thái Hư  (1890-1947), có lẽ một nhà sư Trung Quốc nổi tiếng nhất của thời điểm đó, đổi mới lại sự học hỏi của Trung đạo và Du Già và bắt đầu các viện giáo dục mới cho tăng đoàn sử dụng các phương pháp giáo dục hiện đại. Ông cũng kết hợp kiến thức thế tục nào tốt nhất và kêu gọi Phật tử tham gia vào xã hội nhiều hơn. Du lịch ở châu Âu và châu Á, ông liên lạc với các Phật tử thuộc các truyền thống khác, và thành lập những chi nhánh về Viện Nghiên cứu Phật giáo Thế giới. Ông khuyến khích dân Trung Quốc đi đến Tây Tạng, Nhật Bản, và Sri Lanka để nghiên cứu, và ông đã thành lập các học  viện ở Trung Quốc để dạy những kinhTây Tạng, Nhật Bản, và Pāli . Taixu cũng xây dựng "nhân văn Phật giáo", trong đó các vị thực hành nổ lực để thanh tịnh hóa thế giới bằng cách đưa ra những hành động Bồ tát "ngay bây giờ cũng như để thanh tịnh hóa tâm trí của họ qua thiền định.
 
 
 Wisdom Publications - Not for Distribution 10 | buddhism: one teacher, many traditions
 
 Several young Chinese monks studied Buddhism in Tibet in the 1920s and 30s. Fazun (1902–80), a disciple of Taixu, was a monk at Drepung Monastery, where he studied and later translated into Chinese several great Indian treatises and some of Tsongkhapa’s works. The monk Nenghai (1886–1967) studied at Drepung Monastery and, upon returning to China, established several monasteries following Tsongkhapa’s teachings. Bisong (a.k.a. Xing Suzhi 1916–) also studied at Drepung Monastery and in 1945 became the first Chinese geshe lharampa.
 
Một số tu sĩ trẻ Trung Quốc nghiên cứu,tu tập Phật pháp ở Tây Tạng trong những  năm 1920 và 1930. Fazun (1902-1980), một đệ tử của Taixu, là một nhà sư học tậptại tu viện Drepung, dịch ra tiếngHán nhiều luận thuyết Ấn Độ tuyệt vời, vàmột số tác phẩm của Tông Khách Ba(Je Tsongkhapa). Nhà sư Nenghai (1886-1967) học tại Tu viện Drepung, khi quay trở lại về Trung Quốc, ngài đã thành lập nhiều tu viện theo giáo lý của Tông Khách Ba. Bisong (còn gọi là Xing Suzhi 1916-) cũng nghiên cứu tại Tu viện Drepung, vào năm 1945 là người Trung Quốcđầu tiênđã trở thành đại sư tiến sĩ Phật họcTây Tạng (Geshe Lharampa)
 
Một số tu sĩ trẻ Trung Quốc đã nghiên cứu Phật giáo ở Tây Tạng trong những năm 1920 và 30. Fazun (1902-1980), một đệ tử của Taixu, là một nhà sư tại tu viện Drepung, nơi ông học tập và sau đó dịch ra tiếng Trung Quốc nhiều luận thuyết Ấn Độ tuyệt vời và một số tác phẩm của Tông Khách Ba. Nhà sư Nenghai (1886-1967) học tại Tu viện Drepung, khi quay trở lại về Trung Quốc, ngài đã thành lập nhiều tu viện theo giáo lý của Tông Khách Ba. Bisong (còn gọi là Xing Suzhi 1916-) cũng nghiên cứu tại Tu viện Drepung và vào năm 1945 là người Trung Quốc đầu tiên đã trở thành geshe lharampa.
 
The scholar Lucheng made a list of works in the Tibetan and Chinese canons to translate into the other’s language in order to expand Buddhist material available to Chinese and Tibetan practitioners and scholars. In the first half of the twentieth century, Chinese lay followers had increased interest in Tibetan Buddhism, especially in tantra, and invited several Tibetan teachers to teach in China. They and their Chinese disciples translated mostly tantric materials. Taixu’s disciple Yinshun (1906–2005) was an erudite scholar who studied the sūtras and commentaries of the Pāli, Chinese, and Tibetan canons. A prolific writer, he was especially attracted to Tsongkhapa’s explanations. Due to Yinshun’s emphasis on Madhyamaka and the Prajñāpāramitā sūtras, many Chinese Buddhists have renewed interest in this view. He developed the schema of the major philosophical systems in Chinese Buddhism today: (1) False and unreal mind only (C. Weishi) is the Yogācāra view. (2) Truly permanent mind only (C. Zenru) is the tathāgatagarbha doctrine, which is popular in China and has a strong impact on practice traditions. (3) Empty nature, mere name (C. Buruo) is the Madhyamaka view based on the Prajñāpāramitā sūtras. Yinshun also encouraged Humanistic Buddhism.
 
Đểmở rộngsự hiểu biếtvề kinh luậnPhật giáo, học giả Luchenglàm một danh sách Đại Tạng Kinh tiếng Hán vàĐại Tạng KinhTây Tạng để dịch sang cho các học giảTrung Quốc và Tây Tạngtrao đổivà tu bổ thêm. Trong nửa đầu của thế kỷ thứ hai mươi, cư sĩ Trung Quốc quan tâm về Phật giáo Tây Tạng, đặc biệtvề mật chú tantra, và mời một số thầy Tây Tạng giảng dạy tại Trung Quốc. Thầy Tây Tạng và các đệ tử Hoa dịch các tài liệu mật tông. Đệ tử của Taixu,  Yinshun (1906-2005) là một học giả uyên bác, nghiên cứu Kinh, luận của Pāli, Hán, và Tây Tạng. Yinshunlàmột nhà văn sung mãn,đặc biệt chú ý về những giải thích của Tsongkhapa. Do sự chú trọng của nhà sư học giả Yinshun, sự quan tâm về Trung Quán và các bộ kinh Bát Nhã cho Phật tử Trung Quốcđã khởi lại.
 
Sư Yinshunđã phát triển lược đồ của các hệ thống triết học chính trong Phật giáo Trung Quốc ngày hôm nay: (1)  tâm vọng và tâm ảo huyền (C. Weishi) quan điểm của Du Già. (2)  thực tánh(C. Zenru) là Như Lai Tạng, được phổ biến tại Trung Quốc và có tác động mạnh mẽ về truyền thống thực hành. (3) Bản chất rỗng, của các pháp (C. Buruo) là quan điểm Trung quán dựa trên các kinh Bát nhã. Yinshun cũng khuyến khích đem đạo vào đời qua việc xã hội.
 
 
Học giả Lộ làm một danh sách các công trình kinh điển củaTây Tạng và Trung Quốc để dịch sang ngôn ngữ khác để mở rộng các tài liệu Phật giáo dành cho các học viên và các học giả Trung Quốc và Tây Tạng. Trong nửa đầu của thế kỷ thứ hai mươi, những người Cư Sĩ  Trung Quốc đã quan tâm thêm hơn về Phật giáo Tây Tạng, đặc biệt là trong tantra, và mời một số thầy Tây Tạng Tsongkhapa. Do sự chú trọng của nhà sư và học giả Yinshun về phái Trung Quán và các bộ kinh Bát nhã, nhiều Phật tử Trung Quốc đã đổi mới quan tâm đến quan điểm này. Ông đã phát triển các lược đồ của các hệ thống triết học chính trong Phật giáo Trung Quốc ngày hôm nay: (1) chỉ có tâm vọng và tâm ảo huyền (C. Weishi) là quan điểm của Du Già. (2) chỉ có tâm vĩnh cửu (C. Zenru) là học thuyết của Như Lai Tạng, nó được phổ biến tại Trung Quốc và có tác động mạnh mẽ về truyền thống thực hành. (3) Bản chất rỗng, chỉ có tên (C. Buruo) là quan điểm Trung quán dựa trên các kinh Bát nhã. Yinshun cũng khuyến khích đem đạo vào đời.giảng dạy tại Trung Quốc. Họ và các đệ tử của Trung Quốc của họ dịch các tài liệu chủ yếu là mật tông. Đệ tử của Taixu Yinshun (1906-2005) là một học giả uyên bác, nghiên cứu Kinh điển và bình luận của Pāli, Trung Quốc, và Tây Tạng. Một nhà văn sung mãn, ông đã đặc biệt thu hút về những sự giải thích của Tsongkhapa. Do sự chú trọng của nhà sư học giả Yinshun, sự quan tâm về Trung Quán dựa trên các Kinh Bát Nhã cho Phật Tử Trung Quốc đã khởi lại.
 
 
Wisdom Publications - Not for Distribution origin and spread of t he buddh a’s doct rine | 11
Buddhism in Tibet-
 Tibetan Buddhism is rooted in Indian monastic universities such as Nālandā. Beginning in the early centuries of the Common Era and lasting until the early thirteenth century, Nālandā and other monastic universities consisted of many erudite scholars and practitioners emphasizing different sūtras and espousing a variety of Buddhist philosophical tenets.
 
Phật giáo Tây Tạng
Phật giáo Tây Tạng bắt nguồn từ Đại học tu viện Ấn ĐộNalanda. Bắt đầu từ những thế kỷ đầu của kỷ nguyên thông thường (the Common Era) và kéo dài cho đến đầu thế kỷ thứ mười ba, Nalanda và các Đại học tu viện bạn gồm nhiều học giả thông thái và các thiền sinhtu học kinh và nghiên cứu, biện luận triết lý Phật họcsâu sắc.
 
Phật giáo Tây Tạng là bắt nguồn từ Đại học tu viện Ấn Độ như Nalanda. Bắt đầu từ những thế kỷ đầu của kỷ nguyên thông thường và kéo dài cho đến đầu thế kỷ thứ mười ba, Nalanda và các Đại học tu viện khác bao gồm nhiều học giả thông thái và các học viên nhấn mạnh những kinh khác nhau và tán thành một loạt các học thuyết triết học Phật giáo.
 
 Buddhism first came to Tibet in the seventh century through two wives of the Tibetan monarch Songtsen Gampo (605 or 617–49), one a Nepali princess the other a Chinese princess, who brought Buddhist statues to Tibet. Buddhist texts in Sanskrit and Chinese soon followed. From the late eighth century onward, Tibetans preferred the texts coming directly from India, and these formed the bulk of Buddhist literature translated into Tibetan.
 
Phật giáo đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ bảy qua hai người vợ của quốc vương Tây Tạng Songtsen Gampo (605 hoặc 617-49),một công chúa Nê-pan (Nepal) và công chúa Trung Quốc.  Hai công chúa đã mang tượng Phật làm của hồi mônđến Tây Tạngvà kinh sách Phật bằng tiếng Phạn đếntiếp theo đó. Từ cuối thế kỷ thứ tám trở đi, người Tây Tạng thích kinh sách trực tiếp từ Ấn Độ.  Do đó phần lớn kinhtrong Đại Tạng KinhTây Tạng được dịchtừ kinh sách Ấn Độ.
 
 
Phật giáo đầu tiên đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ bảy qua hai người vợ của quốc vương Tây Tạng Songtsen Gampo (605 hoặc 617-49), một công chúa Nê-pan và người kia là công chúa Trung Quốc, đã mang tượng Phật đến Tây Tạng.  Kinh sách Phật giáo bằng tiếng Phạn và Trung Quốc tiếp theo ngay sau đó. Từ cuối thế kỷ thứ tám trở đi, người Tây Tạng ưa thích các văn bản trực tiếp từ Ấn Độ, và các thành phần lớn của văn học Phật giáo được dịch sang tiếng Tây Tạng.
 
Buddhism flourished in Tibet during the reign of King Trisong Detsen (r. 756–ca. 800), who invited the monk, Madhaymaka philosopher, and logician Śāntarakṣita from Nālandā and the Indian tantric yogi Padmasambhava to come to Tibet. Śāntarakṣita ordained Tibetan monks, establishing the saṅgha in Tibet, while Padmasambhava gave tantric initiations and teachings.
 
Phật giáo phát triển mạnh ở Tây Tạng dưới thời vua Ngật-lật-song Đề-tán (King Trisong Detsen  r. 756-ca. 800).  Vua đã mời hai Vị  tổ quan trọng: 1) Đại sưluận lý, triết học Madhyamaka, Tịch Hộ  (Śāntarakṣita)từ Na-lan-đà và 2)Đại giácMật thừa Ấn Độ, Liên Hoa Sanh đến Tây Tạngtruyền giáo. Ngài Tịch Hộthành lập Tăng đoàn vàthực hành những nghi lễ truyền giới cho tu sĩ Tây Tạng, trong khi nhà Đại giácLiên Hoa Sanh ban những quán đảnh Mật thừa vàhướng dẩn việchành trìMật.
 
 
Phật giáo phát triển mạnh mẽ ở Tây Tạng dưới thời trị vì của vua Ngật-lật-song Đề-tán (r. 756-ca. 800), người đã mời các nhà sư, nhà triết học Madhaymaka, và nhà luận lý học Tịch Hộ từ Na-lan-đà và nhà sư Ấn Độ truyền giáo Liên Hoa Sanh đến Tây Tạng. Ngài Tịch Hộ đã thực hành những nghi lễ truyền giới cho những tu sĩ Tây Tạng, thành lập Tăng đoàn ở Tây Tạng, trong khi nhà sư Liên Hoa Sanh đã ban cho những quán đảnh Mật thừa và giáo
 lý.
 
 Śāntarakṣita also encouraged the Tibetan king to have Buddhist texts translated into Tibetan. In the early ninth century, many translations were done, and a commission of Tibetan and Indian scholars standardized many technical terms and compiled a Sanskrit-Tibetan glossary. However, Buddhism was persecuted during the reign of King Langdarma (838–42), and monastic institutions were closed. Since Dharma texts were no longer available, people’s practice became fragmented, and they no longer knew how to practice all the various teachings as a unified whole.
 
SưTịch Hộkhuyến khích vua Tây Tạng dịchkinh điển sang tiếng Tây Tạng. Vào đầu thế kỷ thứ chín, nhiều bản dịch đã được thực hiện, và một ủy ban Tây Tạng và học giả Ấn Độ đã tiêu chuẩn hoá nhiều thuật ngữ và soạn thảo một bản kê thuật ngữ tiếng Phạn-Tạng. Tuy nhiên, Phật giáo bị đàn áp dưới thời trị vì của vua Langdarma (838-42), và các tu viện đã bị đóng cửa. Vìthiếu bản dịch, sự hành trì của người dân bị phân tâm, họ không còn biết làm thế nào để thực hành giáo lý mộtcáchthống nhất.
 
Nhà sưTịch Hộ cũng khuyến khích nhà vua Tây Tạng để có những văn bản Phật giáo được dịch sang tiếng Tây Tạng. Vào đầu thế kỷ thứ chín, nhiều bản dịch đã được thực hiện, và một ủy ban của Tây Tạng và học giả Ấn Độ đã làm cho đúng tiêu chuẩn nhiều thuật ngữ kỹ thuật và soạn thảo một bản kê thuật ngữ tiếng Phạn-Tạng. Tuy nhiên, Phật giáo bị đàn áp dưới thời trị vì của vua Langdarma (838-42), và các sáng lập tu viện đã bị đóng cửa. Kể từ khi  văn bản Pháp  không còn có sẵn, thực hành của người dân trở nên bị phân mảnh, và họ không còn biết làm thế nào để thực hành tất cả các giáo lý khác nhau như một thực  thể thống nhất.
 
 
At this crucial juncture Atiśa (982–1054), a scholar-practitioner from the Nālandā tradition, was invited to Tibet. He taught extensively, and to rectify misconceptions, he wrote the Bodhipathapradīpa, explaining that both sutra and tantra teachings could be practiced by an individual in a systematic, noncontradictory manner. As a result, people came to understand that the monastic discipline of the Vinaya, the bodhisattva ideal of the Sūtrayāna, and the transformative practices of the Vajrayāna could be practiced in a mutually complementary way. Monasteries were again built, and the Dharma flourished in Tibet.
 
Tại thời điểm quan trọng này, A-đề-sa ( Atisa 982-1054), một thiền sư, học giả từ truyền thống Na-lan-đà, đã được mời đến Tây Tạng. Thiền sưAtisa dạy rộng, phá tanđược nhiềuquan niệm sai lầm. Ngài đã viết Bodhipathapradīpa, giải thích rằng cả hai sự giáo huấn của Kinh điển và mật điển (tantra) có thể được thực tập song songkhông có mâu thuẩn. Nhờ Ngài mà, ngườiTây Tạng hiểusự áp dụng của Luật Tạng (vinaya), Bồ tát giới của kinhthừa (sutrayana), vàphương tiện chuyển hóa thiện xảo qua quán Kim Cương thừa (Vajrayāna)vàvững vàng thực hành đểbổ sung lẫn nhau. Các tu viện được xây dựng lại, và Phậtpháp đã phát triển mạnh mẽ ở Tây Tạng.
 
Tại thời điểm quan trọng này A-đề-sa (982-1054), một học giả từ truyền thống Na-lan-đà, đã được mời đến Tây Tạng. Ông đã dạy rộng rãi, và để khắc phục những quan niệm sai lầm, ông đã viết Bodhipathapradīpa, giải thích rằng cả hai sự giáo huấn của Kinh điển và tantra có thể được thực hiện bởi một cá nhân trong một hệ thống, một cách thức không mâu thuẩn. Kết quả là, người ta đã hiểu rằng giới luật tăng lữ của Luật Tạng, Bồ tát lý tưởng của kinh thừa, và những biến đổi của những tập quán Kim Cương thừa có thể được thực hành một cách bổ sung lẫn nhau. Các tu viện được xây dựng lại, và đạt ma đã phát triển mạnh mẽ ở Tây Tạng.
 
 
Wisdom Publications - Not for Distribution 12 | buddhism: one teacher, many traditions
 
 
The Buddhism in Tibet prior to Atiśa became known as the Nyingma or “old translation” school. The new lineages of teachings entering Tibet beginning in the eleventh century became the “new translation” (sarma) schools, and these slowly crystallized to form the Kadam, Kagyu, and Sakya traditions. The Kadam lineage eventually became known as the Gelug tradition. All four Tibetan Buddhist traditions that exist today—Nyingma, Kagyu, Sakya, and Gelug—emphasize the Bodhisattva Vehicle, follow both the sūtras and tantras, and have the Madhyamaka philosophical view. Following the example of Śāntarakṣita, many Tibetan monastics engage in rigorous study and debate in addition to meditation.
 
Trước khi A-đề-sa (Atisha) đến Tây Tạng, Phật giáo Tây Tạngđược gọi là phái Ninh-Mã(Nyingma) hay "cựu phái dịch thuật" . Các dòng mới của giáopháp vào Tây Tạng bắt đầu từ thế kỷ thứ mười một đã trở thành "tân phái dịch thuật" (Sarma), và tạo thành những tông phái Mật Tông như Kadam, Kagyu và Sakya.  Truyền thống Kadam sau nàyđược gọi là Gelug. Bốn truyền thống Phật giáo Tây Tạng tồn tại ngày nay: Nyingma, Kagyu, Sakya và Gelug đều nhấn mạnh tu pháp hànhBồ Tát,dựa theo cả Kinh điển và Mật điển (tantra),vớiquan điểm triết học Trung Quán. Theo gương nhà sư Tịch Hộ, nhiều tu sĩ Tây Tạng, ngoài việc thiền định, cònnghiên cứu kinh,luật và luận biện giáo lý.
 
Phật giáo ở Tây Tạng trước khi A-đề-sa được gọi là phái Ninh-Mã hay "cựu phái dịch thuật" . Các dòng mới của giáo pháp vào Tây Tạng bắt đầu từ thế kỷ thứ mười một đã trở thành "tân phái dịch thuật" (Sarma), và thong thả kết tinh để tạo thành những tông phái Mật Tông như Kadam, Kagyu và Sakya. Các hệ  thống Kadam cuối cùng được gọi là truyền thống Gelug. Tất cả bốn truyền thống Phật giáo Tây Tạng tồn tại ngày nay-Nyingma, Kagyu, Sakya và Gelug-nhấn mạnh các cỗ xe Bồ Tát, theo cả những Kinh điển và tantra, và có quan điểm triết học Trung đạo. Theo gương nhà sư Tịch Hộ, nhiều tu sĩ Tây Tạng tham gia vào các nghiên cứu nghiêm ngặt và tranh luận thêm vào việc thiền định.
 
 
Some misnomers from the past- the terms “Lamaism,” “living buddha” and
“god king”—unfortunately persist. Westerners who came in contact with Tibetan Buddhism in the nineteenth century called it Lamaism, a term originally coined by the Chinese, perhaps because they saw so many monks in Tibet and mistakenly believed all of them were lamas (teachers). Or perhaps they saw the respect disciples had for their teachers and erroneously thought they worshiped their teachers. In either case, Tibetan Buddhism should not be called Lamaism.
 
Trong quá khứ, đáng tiếc, một số ngườidùng thuật ngữ sai) vàgọiPhật giáo Tây Tạng là"Lạt ma giáo" (Lamaism), "Phật sống" (living Buddha)  và " vua thượng đế " (God king). Người  Tây phươngtiếp xúc với Phật giáo Tây Tạng vào thế kỷ thứ mười chín gọi“Lạt-ma giáo”, một thuật ngữ ban đầu được đặt ra bởi người Trung Quốc, có lẽ bởi vì họ nhìn thấy rất nhiều tu sĩ ở Tây Tạng và lầm tưởng tất cảtu sĩ đều là các vị Lạt Ma (Thầy). Hoặc có lẽ người Trung Quốc thấy sự kính trọng các môn đệ dành cho những Lạt Ma và nghĩ  lầm rằnghọ quá tôn thờ Thầy. Trong cả hai trường hợp, không nên gọi Phật giáo Tây Tạng là Lạt-ma giáo.
 
Một số sự dùng thuật ngữ sai trong quá khứ- các điều khoản "Lạt ma giáo ", "phật sống"  và " vua thượng đế " – đáng tiếc vẫn tồn tại. Người  Tây phương đã tiếp xúc với Phật giáo Tây Tạng vào thế kỷ thứ mười chín gọi nó Lạt-ma giáo, một thuật ngữ ban đầu được đặt ra bởi người Trung Quốc, có lẽ bởi vì họ nhìn thấy rất nhiều tu sĩ ở Tây Tạng và lầm tưởng tất cả trong số họ là các vị Lạt Ma (giáo viên). Hoặc có lẽ họ thấy sự tôn trọng các môn đệ đã cho những vị Thây  của họ và sai lầm nghĩ rằng họ tôn thờ vị Thầy của  họ. Trong cả hai trường hợp, Phật giáo Tây Tạng không nên được gọi là Lạt-ma giáo.
 
 Lamas and tulkus (identified incarnations of spiritual masters) are respected in Tibetan society. However, in some cases these titles are simply social status, and calling certain people tulku, rinpoche, or lama has led to corruption. It saddens me that people put so much value on titles. Buddhism is not about social status. It is much more important to check a person’s qualifications and qualities before taking that person as one’s spiritual mentor. Teachers must practice diligently and be worthy of respect, whether or not they have titles.
 
Lạt ma (lamas)  vàtulkus những bậc hóa thân (xác định các hiện thân của bậc Thầy) được tôn trọng trong xã hội Tây Tạng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, các chức danh này đơn giản chỉ là địa vị trong xã hội.   Cách gọi một người nào đó bậc hóa thân (tulku),quý báu (rinpoche), hay Lạt ma (lama) đã dẫn đến sự tham nhũng, lạm dụng.
 
{Chú thích của dịch giả:
Lama nghĩa lả Thầy, không phải tu sĩ nào cũng là Thầy. Nhưng có rất nhiều Lamas. Đức ĐalaiLama là vị lãnh đạo tâm linh của người Tây Tạng và chỉ có một Đức Đalai Lama trong hiện tạilà Thánh Đức Đalai Lama đời thử 14
}
 
Tôi buồn là con người đặt quá nhiềugiá trị vào các chức danh. Phật giáo không phải là về địa vị xã hội. Cái quan trọng là nên kiểm tra trình độ và phẩm chất đức độ của một vị Thầy trước khi nhận người đó làm cố vấn tinh thần.Thầyphải tu luyện chăm chỉ và xứng đáng với sự tôn kính, dù vị Thầy có chức danhhay không.
 
Lạt ma và những bậc hóa thân (xác định các hiện thân của bậc thầy tâm linh) được tôn trọng trong xã hội Tây Tạng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp các chức danh này đơn giản chỉ là địa vị trong xã hội, và kêu gọi một người nào đó bậc hóa thân, Rinpoche, hay Lạt ma đã dẫn đến sự tham nhũng. Nó khiến tôi buồn là mọi người đặt giá trị quá nhiều vào các chức danh. Phật giáo không phải là về địa vị xã hội. Nó quan trọng hơn nhiều là nên kiểm tra trình độ và phẩm chất của một người trước khi nhận người đó là cố vấn tinh thần của một ai. Tăng Sĩ ấy  phải luyện tập chăm chỉ và xứng đáng với sự tôn trọng, dù có hoặc không có các chức danh.
 
 
Some people mistakenly believed that since tulkus are recognized as incarnations of previous great Buddhist masters, they must be buddhas and thus called them “living buddha” (C. huofo). However, not all tulkus are bodhisattvas, let alone buddhas.
 
Một số người lầm tưởng rằng,những bậc hóa thân được công nhận là táisinh của các bậc thầy lớnđời trước, họ chắclà chư Phật và do đó gọi họ là "Phật sống" (C. huofo). Tuy nhiên, không phải tất cả các vị hóa thân(tulkus) đều là Bồ tát, làm saolại gọi họ là chư Phật?
 
Một số người lầm tưởng rằng kể từ lúc những bậc hóa thân được công nhận là sự hóa thân  của các bậc thầy lớn của Phật giáo trước đó, họ chắc là những chư Phật và do đó gọi họ là "Phật sống" (C. huofo). Tuy nhiên, không phải tất cả các vị hóa thân là Bồ tát, đây là chưa đề cập đến  chư Phật.
 
“God king” may have originated with the Western press and was attributed to the position of the Dalai Lama. Since Tibetans see the Dalai Lama as the embodiment of Avalokiteśvara, the bodhisattva of compassion, these journalists assumed he was a “god,” and since he was the political leader of Tibet, he was considered a king. However, since I currently hold the position of Dalai Lama, I repeatedly remind people that I am a simple Buddhist monk, nothing more. The Dalai Lama is not a god, and sincethe Central Tibetan Administration located in Dharamsala, India, is now headed by a prime minister, he is not a king.
 
" Vua thượng đế" có thể đã bắt nguồn từ báo chí Tây phương.  Nhà báo cho tôi là vua do vị trí của Đức Đạt Lai Lạt Ma.  Từ khi người Tây Tạng thấy Đức Đạt Lai Lạt Ma là hiện thân của Quán Thế Âm, vị Bồ Tát từ bi, các nhà báo cho rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma là một "thượng đế".  Và từ khi Đạt Lai Lạt Ma làm nhà lãnh đạo chính trị của Tây Tạng,  được báo chí coi là một vị vua. Tuy tôi hiện đang nắm giữ chức vụ của Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi liên tục nhắc nhở mọi người rằng tôi là một tu sĩ Phật giáo đơn giản, không có gì hơn. Đức Đạt Lai Lạt Ma không phải là một vị thượng đế.  Hiệngiờ, người đang đứng đầu Trung tâm hành chính Tây Tạng ở Dharamsala, Ấn Độ, là một vị thủ tướng, do đó Đạt Lai Lạt Ma không còn là một vị vua.
 
" Vua thượng đế" có thể đã bắt nguồn từ báo chí Tây phương và được cho là do vị trí của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Kể từ khi người Tây Tạng thấy Đức Đạt Lai Lạt Ma là hiện thân của Quán Thế Âm, vị Bồ Tát từ bi, các nhà báo cho rằng ông là một "thượng đế", và kể từ khi ông là nhà lãnh đạo chính trị của Tây Tạng, ông được coi là một vị vua. Tuy nhiên, kể từ khi tôi hiện đang nắm giữ chức vụ của Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi liên tục nhắc nhở mọi người rằng tôi là một tu sĩ Phật giáo đơn giản, không có gì hơn. Đức Đạt Lai Lạt Ma không phải là một vị thượng đế, và kể từ khi Trung tâm hành chính của người Tây Tạng ở Dharamsala, Ấn Độ, hiện đang đứng đầu là thủ tướng, ông không phải là một vị vua.
 
 
 Wisdom Publications - Not for Distribution origin and spread of t he buddh a’s doct rine | 13
 
 
 Some people mistakenly think the position of the Dalai Lama is like a Buddhist pope. The four principal Tibetan Buddhist traditions and their many sub-branches operate more or less independently. The abbots, rinpoches, and other respected teachers meet together from time to time to discuss issues of mutual interest under the auspices of Central Tibetan Administration’s Department of Religion and Culture. The Dalai Lama does not control their decisions. Similarly the Dalai Lama is not the head of any of the four traditions. The Gelug is headed by the Ganden Tripa, a rotating position, and the other traditions have their own methods of selecting leaders.
 
Một số người nhầm lẫn nghĩ rằng chức vị của Đức Đạt Lai Lạt Ma giống như một giáo hoàng của Phật giáo. Bốn truyền thống chính trong Phật giáo Tây Tạng và chi nhánh của họ hoạt động nhiều hoặc ít một cách độc lập. Các tu viện trưởng, rinpoche, và các Thầy có uy tín thỉnh thoảng gặp nhau để thảo luận về các vấn đề cùng quan tâm dưới sự bảo trợ của Bộ Tôn giáo và Văn hóa trung tâm hành chính của Tây Tạng. Đức Đạt Lai Lạt Ma không kiểm soát các quyết định của họ. Tương tự,  Đức Đạt Lai Lạt Ma không phải là người đứng đầu của bất kỳ truyền thống nào.Đứng đầu giòngGelug là Ganden Tripa, một chức vịcó  nhiệm kỳluân phiên, và các truyền thống khác đều có phương pháp riêng trong việc lựa chọn các nhà lãnh đạo cho giáo phái.
 
Một số người nhầm lẫn nghĩ rằng chức vị của Đức Đạt Lai Lạt Ma là giống như một giáo hoàng của Phật giáo. Bốn truyền thống Phật giáo Tây Tạng chính và nhiều chi nhánh của họ hoạt động nhiều hoặc ít hơn một cách độc lập. Các tu viện trưởng, rinpoche, và các giáo viên có uy tín  thỉnh thoảng gặp nhau để thảo luận về các vấn đề cùng quan tâm dưới sự bảo trợ của Bộ Tôn giáo và Văn hóa trung tâm hành chính của Tây Tạng. Đức Đạt Lai Lạt Ma không kiểm soát các quyết định của họ. Tương tự như Đức Đạt Lai Lạt Ma không phải là người đứng đầu của bất kỳ trong bốn truyền thống nào. Các Gelug đứng đầu là Ganden Tripa, một chức vị luân phiên, và các truyền thống khác có phương pháp riêng của họ về các nhà lãnh đạo được  chọn.
 
 Our Commonalities and Diversity –
Sometimes people mistakenly believe that Tibetan Buddhism, especially Vajrayāna, is separate from the rest of Buddhism. When I visited Thailand many years ago, some people initially thought that Tibetans had a different religion. However, when we sat together and discussed the vinaya, sūtras, abhidharma, and such topics as the thirty-seven aids to awakening, the four concentrations, four immaterial absorptions, four truths of the āryas, and noble eightfold path, we saw that Theravāda and Tibetan Buddhism have many common practices and teachings.
 
Sự tương đồng và khác biệt giữa Phật giáo Tây Tạng và các Tông phái khác
 
Đôi khi người ta nhầm lẫn cho rằng Phật giáo Tây Tạng, đặc biệt là Kim Cang thừa, tách biệt ra ngoài Phật giáo. Khi tôi đến thăm Thái Lan trong nhiều năm trước, một số người ban đầu nghĩ rằng người Tây Tạng có tôn giáo khác. Tuy nhiên, khi ngồi lại với nhau và thảo luận về Luật tạng, Kinh, Luận, và các chủ đề như Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo (thirty-seven aids to awakening), Tứ Niệm Xứ (the four concentrations), Bốn sự hấp thụ phi vật chất(four immaterial absorptions), Tứ diệu đế(four truths of the āryas), và Bát chánh đạo(noble eightfold path), chúng tôi thấy rằng phật giáo Nguyên Thủy và Phật giáo Tây Tạng có nhiều thực hành và giáo lýtương đồng như nhau.
 
Tương đồng và đa dạng của chúng tôi -
Đôi khi người ta nhầm lẫn tin rằng Phật giáo Tây Tạng, đặc biệt là Kim Cang thừa, tách biệt với phần còn lại của Phật giáo. Khi tôi đến thăm Thái Lan trong nhiều năm trước đây, một số người ban đầu nghĩ rằng người Tây Tạng có một tôn giáo khác nhau. Tuy nhiên, khi chúng tôi ngồi lại với nhau và thảo luận về Luật tạng, Kinh, Luận, và các chủ đề như ba mươi bảy viện trợ để giác ngộ, bốn sự tập trung, bốn sự hấp thụ phi vật chất, Tứ diệu đế, và Bát chánh đạo, chúng tôi thấy rằng phật giáo Nguyên Thủy và Phật giáo Tây Tạng có nhiều thực hành phổ biến và giáo lýtương đồng như nhau.
 
 
 With Chinese, Korean, and many Vietnamese Buddhists, Tibetans share the monastic tradition, bodhisattva ethical restraints, Sanskrit scriptures, and the practices of Amitābha, Avalokiteśvara, Mañjuśrī, Samantabhadra, and Medicine Buddha. When Tibetan and Japanese Buddhists meet, we discuss the bodhisattva ethical restraints and sūtras such as the Saddharmapuṇḍarīka Sūtra. With the Japanese Shingon sect we share the tantric practices of the Vajradhātu maṇḍala and Vairocanābhisaṃbodhi.
 
Phật tử Trung Quốc, Hàn Quốc, và Việt Nam,Phật giáo Tây Tạngtương đồngchia sẻ truyền thống Giới luật, Bồ TátGiới, Kinh sách Phạn, và hànhtrì quán Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm, Văn Thù, Phổ Hiền, và Đức Phật Dược Sư. Khi Phật tử Tây Tạng và Nhật Bản gặp gỡ, chúng tôi thảo luận về Bồ TátGiới và kinh điển như kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharmapuṇḍarīka Sūtra). Với phái Chân Ngôn (Shingon) của Nhật Bản, chúng tôi chia sẻthực hành Mật thừa của Kim Cương giới Mạn đà la (Vajradhātu maṇḍala) và Tỳ Lô Giá Na Chính Giác (Vairocanābhisaṃbodhi).
 
Với những Phật tử Trung Quốc, Hàn Quốc, và Việt Nam, người Tây Tạng chia sẻ truyền thống tăng lữ, những hạn chế về  Bồ tát đạo, kinh sách tiếng Phạn, và thực hành của Phật A Di Đà, Quán Thế Âm, Văn Thù, Phổ Hiền, và Đức Phật Dược Sư. Khi Phật tử Tây Tạng và Nhật Bản gặp gỡ, chúng tôi thảo luận về những hạn chế về giới luật  Bồ tát và kinh điển như kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Với phái Chân Ngôn của Nhật Bản, chúng tôi chia sẻ những thực hành Mật thừa của Kim Cương giới Mạn đà la và Tỳ Lô Giá Na Chính Giác.
 
 While there are differences in the texts that comprise each canon, there is considerable overlap of the material discussed in them. In subsequent chapters we will explore some of these in greater depth, but here are a few examples.
 
Tuy có nhữngkinh riêngtrong mỗi Đại Tạng Kinh,có rất nhiều điểm chung đáng kể trong tài liệu thảo luận. Chúng ta sẽ khảo sát tỉ mỉ sâu xa hơn, nhưng sau đây là một vài ví dụcủa sự tương đồng.
 
Trong khi có những sự khác biệt trong các văn bản bao gồm mỗi tạng kinh, sự chồng chéo đáng kể của các tài liệu đã được thảo luận trong đó. Trong những chương tiếp theo chúng ta sẽ khảo sát tỉ mỉ sâu xa hơn, nhưng đây là một vài ví dụ.
 
The Buddha spoke at length about the disadvantages of anger and the antidotes to it in the Pāli suttas (e.g., SN 11:4–5). The teachings for overcoming anger in Śāntideva’s Bodhicaryāvatāra echo these. One sutta (SN 4:13) recounts the story of the Buddha experiencing severe pain due to his foot having been cut by a stone splinter. Nevertheless, he was not distressed, and when prodded by Māra, he responded, “I lie down full of compassion for all beings.” This is the compassion generated when doing the taking-and-giving meditation (Tib. tonglen) taught in the Sanskrit tradition, where a practitioner imagines taking the sufferings of others upon himself and giving others his own happiness.
 
Trong kinh Pali (SN 11: 4-5), Đức Phật đã nói chi tiết về những nhược điểm của sự tức giận, vàthuốc giải.
Trong luận Nhập Bồ-đề Hành luận, của ngài Tịch Thiên (Śāntideva’s Bodhicaryāvatāra), ngàicũng đãdạy giáo lý khắc phục sự tức giận.
 
Kinh (SN 04:13) kể lại câu chuyện của Đức Phật trải quacơn đau khi chân của ngài đã bị cắt bởi một mảnh đávụn. Tuy nhiên, ngài không bị phiền muộn.  Khi bị thúc giục của Ma vương, ngài trả lời: "Tôi đặt đầy lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh “. 
 
Trongtruyền thốngPhạn, pháp tu thiền Tonglen dạy lòngtừ bi, “chovà-nhận”. Thiền sinh quán chiếu nhận lấy những sự đau khổ của người khác bỏ vào bản thân mình, và đem hạnh phúc của riêng mình cho ra người khác.
 
Đức Phật đã nói đầy đủ chi tiết về những nhược điểm của sự tức giận, và những thuốc giải độc cho nó trong kinh điển Pali (ví dụ, SN 11: 4-5). Những giáo lý cho việc khắc phục sự tức giận trong Nhập Bồ-đề hành luận của ngài Tịch Thiên cũng đã vang lên những điều này. Một bài kinh (SN 04:13) kể lại câu chuyện của Đức Phật trải qua những đau đớn khốc liệt do chân của ngài đã bị cắt bởi một mảnh đá vụn. Tuy nhiên, ngài đã không bị phiền muộn, và khi đã bị thúc giục của Ma vương, ngài trả lời: "Tôi nằm xuống đầy lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh." Đây là tình thương tạo ra khi cho-và-nhận theo thiền tập pháp tu Tonglen dạy trong tiếng Phạn truyền thống, nơi mà một học viên tưởng tượng lấy những sự đau khổ của người khác  cho trên bản thân mình và đem hạnh phúc của riêng mình cho người khác.
 
Wisdom Publications - Not for Distribution 14 | buddhism: one teacher, many traditions
 
 Furthermore, the altruistic intention of bodhicitta so prominent in the Sanskrit tradition is an extension of the four brahmavihāras, or four immeasurables, taught in the Pāli canon. The Pāli and Sanskrit traditions share many of the same perfections (pāramī, pāramitā). The qualities of a buddha, such as the ten powers, four fearlessnesses, and eighteen unshared qualities of an awakened one are described in scriptures from both traditions. Both traditions speak of impermanence, the unsatisfactory nature, selflessness, and emptiness. The Sanskrit tradition sees itself as containing the teachings of the Pāli tradition and elaborating on certain key points—for example, by explaining true cessation according to the Prajñāpāramitā sūtras and the true path according to the Tathāgatagarbha sūtras and some of the tantras.
 
Hơn nữa, nguyện Bồ đề tâm quan trọng trong truyền thống Phạn qua Tứ Phạm Hạnh (four brahmavihāras), Tứ Vô Lượng Tâm (four immeasurables), cũng đượcdạy trong Đại Tạng KinhPāli. Các truyền thốngPāli và Sanskrit tương đồngchia sẻ rất nhiều Ba La Mật. Những phẩm chất của một vị Phật, như Thập Lực Như Lai (ten powers), Tứ Vô Úy (four fearlessness), và Thập Bát Bất Cộng(eighteen unshared qualities) được mô tả trong kinh điển từ cả hai truyền thống. Cả hai truyền thống nói về vô thường, bản chất bất toại nguyện, vị tha, và tánh không. Truyền thống Bắc Phạnbao gồm các giáo lý của truyền thống Pāli vànhấn mạnh thêm một số điểm chính ví dụ cách quán về diệt đế theo các bộ kinh Bát Nhã và theo kinh Như Lai Tạng và một số Mật pháp.
 
Hơn nữa, mục đích vị tha của Bồ đề tâm quá nổi bật trong truyền thống Phạn là một phần mở rộng của Tứ phạm hạnh, hoặc Tứ Vô Lượng Tâm, đã dạy trong kinh điển Pāli. Các truyền thống Pāli và Sanskrit chia sẻ rất nhiều các sự viên mãn giống nhau (Ba La Mật, Ba La Mật-đa). Những phẩm chất của một vị Phật, chẳng hạn như Thập Lực Như Lai, Tứ Vô Úy, và Thập Bát Bất Cộng được mô tả trong kinh điển từ cả hai truyền thống. Cả hai truyền thống nói về vô thường, bản chất bất toại nguyện, vị tha, và tánh Không. Truyền thống Phạn thấy mình như có chứa các giáo lý của truyền thống Pāli và khởi thảo trên một số điểm chính ví dụ- bằng cách giải thích sự yên tịnh thật sự đúng theo các bộ kinh Bát nhã và con đường đúng theo kinh điển của Như Lai Tạng và một số các Mật pháp.
 
 The terms Thai Buddhism, Sri Lankan Buddhism, Chinese Buddhism, Tibetan Buddhism, Korean Buddhism, and so on are social conventions. In each case, Buddhism in a country is not monolithic and contains many Buddhist practice traditions and tenet systems. Within these, there are subreclining Buddha, Thailand Anandajoti Bhikkhu groups consisting of monasteries or teachers with various affiliations. Some subtraditions emphasize study, others meditation. Some stress practicing serenity (samatha, śamatha), others insight (vipassanā, vipaśyanā), and others both together
 
Xã hộitạo ra từ ngữ Phật giáo Thái Lan, Phật giáo Sri Lanka, Phật giáo Trung Quốc, Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Hàn Quốc. Trong mỗi trường hợp, Phật giáo ở trong một quốc gia chứa nhiều truyền thống. Trong số này, chia ra thêm những pháiphụ như pháiAnandajoti của Thái Lan gồm các tu viện, giáothọ với đảng phái khác nhau. Một sốnhững truyền thống phụnhấn mạnh nghiên cứu,số khác về thiền. Một sốthiền chỉ quán (samatha), sốkhác thiền minh sát  tuệ (vipassana), quán sát (vipaśyanā), hay thiền cùng hai.
 
Các thuật ngữ Phật giáo Thái Lan, Phật giáo Sri Lanka, Phật giáo Trung Quốc, Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Hàn Quốc, và như vậy là ước xã hội. Trong mỗi trường hợp, Phật giáo ở một quốc gia không phải là đơn nhất và chứa nhiều truyền thống Phật Giáo, và các hệ thống nguyên lý. Trong số này, có những subReclining Phật, nhóm tỳ kheo Anandajoti của Thái Lan gồm các tu viện hay những Thầy dạy  với đảng phái khác nhau. Một số những truyền thống thứ yếu nhấn mạnh nghiên cứu, trong những số khác là về thiền. Một số căng thẳng luyện tập thanh thản (thiền chỉ quán (samatha), những người khác về tuệ giác (minh sát  tuệ (vipassana), quán sát (vipaśyanā), và những người khác cả cùng hai truyền thống.
 
Wisdom Publications - Not for Distribution origin and spread of t he buddh a’s doct rine | 15
 
 While one country may have many traditions in it, one tradition may also be practiced in many countries. Theravāda is practiced in Sri Lanka, Thailand, Burma, Laos, Cambodia, and is also found in Vietnam. Within Theravāda countries, some follow early Buddhism—the suttas themselves— without relying on the commentaries very much, while others follow the explanations in the commentarial tradition. Even the robes in one country or in one tradition may vary.
 
Trong khi một quốc gia có thể có nhiều truyền thống, một truyền thống cũng được thực hànhở nhiều quốc gia.Phật giáo Nguyên thủy(Theravada)được thực hànhở Sri Lanka, Thái Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia, và cũng được tìm thấy ở Việt Nam. Trong những quốc giaNguyên thủy(Theravada), một sốdựa theonhững bài kinhPhậtđầu tiênmà không dựa vào luậngiải, trong khi một số khác theo luận giải. Ngay cảy phục Tăng đoàn cũng khác. 
 
Trong khi một quốc gia có thể có nhiều truyền thống trong đó, một trong  truyền thống cũng có thể được thực hiện ở nhiều quốc gia. Phật giáo Nguyên thủy(Theravada)được thực hànhở Sri Lanka, Thái Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia, và cũng được tìm thấy ở Việt Nam. Trong những quốc giaNguyên thủy(Theravada), một số theo Phật giáođầu tiên-những bài kinh của chúng- mà không dựa vào những bài bình luậnnhiềucho lắm, trong khi những người khác làm theo những lời giải thích trong truyền thống chú giải. Ngay cả những chiếc  tăng bào  trong một quốc gia hoặc một truyền thống cũng có thể thay đổi.
 
 Similarly, Chan is practiced in China, Taiwan, Korea, Japan, and Vietnam. While Chan practitioners in all these countries rely on the same sūtras, the teachings and meditation style vary among them.
 
Tương tự, thiền tông(Chan, Zen) được thực hành ở Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam. Trong khi thiền sinh và Phật tử thực hành thiền trong các quốc gia này dựa theo những kinh giống nhau, giáo lý và cách thiền khác nhau.
 
Tương tự như vậy, thiền phái Chan được thực hành ở Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam. Trong khi các người thực hành thiền phái Chan trong tất cả các quốc gia này dựa trên cùng những kinh điển giống nhau, giáo lý và phong cách thiền khác nhau giữa chúng.
                                                   
 
In Western countries, Buddhism from many different traditions and countries is present. Some groups consist primarily of Asian immigrants, and their temples are both religious and community centers where people can speak their native language, eat familiar food, and teach their children the culture of their homeland. Other groups in the West are composed mostly of Western converts. A few are mixed.
 
As followers of the Buddha, let’s keep these variations in mind and not think that everything we hear or learn about another tradition applies to everyone in that tradition. Similarly not everything we hear about how Buddhism is practiced in a particular country applies to all traditions or temples in that country.
 
Ở các nước Tâyphương, nhiều truyền thống Phật giáo đang hiện diện. Một số chùaÁchâu di dân, được thành lậpnhưnhững trung tâm tôn giáo, nơicộng đồng Áchâu sinh hoạt dùng ngôn ngữ mẹ đẻ, thức ăn quen thuộc, và dạytrẻvề văn hóa của quê hương. Cộng đồng Tâyphương, phần đông là những người Tây phương chuyển đạo. Họ ít hòa hợp vào chùa Áchâu.
 
Là đệ tử của Đức Phật, chúng ta hãy ghitâm sự phong phú của nhiều truyền truyền thống và không nên nghĩ rằng tất cả các truyền thống có thể hòa hợp lẫn nhau.
 
Ở các nước Tây phương[SD1] , Phật giáo từ nhiều truyền thống và các quốc gia khác nhau đang hiện diện. Một số nhóm bao gồm chủ yếu những người nhập cư Á châu, và những ngôi chùa của họ đều là những trung tâm tôn giáo và cộng đồng nơi mọi người có thể nói được ngôn ngữ mẹ đẻ của họ, ăn thức ăn quen thuộc, và dạy cho con cái họ về văn hóa của quê hương. Các nhóm khác ở phương Tây được cấu tạo phần đông là của những người Tây phương đổi đạo. Một số ít được hòa hợp chung.
 
Là đệ tử của Đức Phật, chúng ta hãy giữ cho các biến thể trong tâm trí và không nghĩ rằng tất cả mọi thứ chúng ta nghe hoặc tìm hiểu về truyền thống khác áp dụng đối với tất cả mọi người trong truyền thống đó. Tương tự như vậy không phải tất cả mọi thứ chúng ta nghe về cách Phật giáo được thực hành trong một quốc gia cá biệt ứng dụng cho tất cả các truyền thống hoặc các đền thờ trong quốc gia đó.
 
 
 Indeed we are a huge and diverse Buddhist family following the same wise and compassionate Teacher, Śākyamuni Buddha. I believe our diversity is one of our strengths. It has allowed Buddhism to spread throughout the world and to benefit billions of people on this planet.
 
 
Chúng ta là một gia đình Phật giáo lớn, đa dạng theo cùng một  vị thầy từ bi trí tuệ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Tôi tin rằng sự phong phú của nhiều trường phái là một trong những thế mạnh cho phép Phật giáo lan rộng khắp thế giới, làm lợi ích cho hàng tỷ người trên hành tinh này.
 
Quả nhiên chúng ta là một gia đình Phật giáo rất lớn và đa dạng đang đi theo cùng một bậc thầy có trí tuệ và từ bi, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Tôi tin rằng sự đa dạng của chúng ta là một trong những thế mạnh của chúng ta. Nó đã cho phép Phật giáo lan rộng khắp thế giới và làm lợi ích cho hàng tỷ người trên hành tinh này.
 
 

 [SD1]
 
________________________________





 
帝京平成大学での講演のテーマ(1枚め)
どうしてベトナム人が外国に出ていくのか
1)日本語について
私にとって日本語は外国語です。1972年(昭和47年)に初めて来日したときは日本語が全然わかりませんでした。私はベトナム人で仏教の僧侶です。
1971年(昭和46年)にベトナムで高校を卒業しました。その後は日本に留学したかったので、その手続きをするため在南ベトナムの日本大使館を訪ねて留学の申請をしました。その結果、1972年(昭和47年)2月22日に来日することができました。最初に私は日本語学校を探して、東京・四ツ谷の日本語学校で九か月ほど日本語を学びました。その後、大学の入学試験を受け東京・八王子の帝京大学文学部教育学部教育学科に入学しました。
みなさんご存知でしょか?日本に来る際は、保証人がいなければなりません。この時、後時日本で大学の先生になり 秋山先生がベトナムに
毎日新聞の記者として何回も来ていらした、取材をしているうちにひとつのベトナム人の家族と知り合いになりました。その関係で秋山さんに私の保証人になっていただきました。
今思いえばもうあれから45年も経ちます。昨年、2016年10月に日本を見学するためにドイツから38人の団体を連れて多くのお寺にお参りしました。(つづく)
 

 
(2枚め)
そのとき、秋山先生のご夫妻と神奈川県の愛川町にあるベトナム寺院で会いました。帝京大学について先生に聞いてみると、ほとんど大学との連絡がなかった。なぜならば、私が1977年(昭和52年)の3月に大学を卒業してから私と大学の間に何も情報がありませんでした。秋山先生が、私が書いた本を読まれ 感激され、それでは帝京大学と連絡を取ってみましょうか、とおっしゃいました。
私は今年2017年(平成29年)の4月に再び来日する際、秋山先生と内野教授に相談してから今日みなさんにはベトナム難民についてお話しする機会をあたえでいただきました。
もう40年近く日本語を使わない日常生活から離れているので、日本語を話すのは下手ですが、もし私の日本語が分からなければ英語ドイツ語フランス語でもご説明できます。
2)歴史について
大昔から今まで日本、韓国、ベトナムという国々は中国の影響を受けています。ですから、文学、宗教、習慣などに多くの共通点を見出せる。しかし、日本語はその中で漢字だけでなく、(つづく)

 
(3枚め)
ひらがな、かたかな、ローマ字も使じょします。また、漢字には音読み(おんよみ)と訓読み(くんよみ)の違いもあります。
1.200年ぐらい前の8世紀に空海大師(弘法大師)が平仮名とカタカナを 発表されました。
外国人が日本語を勉強する場合は最初はローマ字、そして漢字、ひらがな、かたかなという順番が良いかもしれません。
現代の日本の茶道、華道、剣道、柔道などは中国からの影響が
あります。
振り返ってみると歴史的には、1868年に始まった明治維新により、日本の学者がヨーロッパからいろいろな技術を学んだため、今の日本があるわけです。ベトナムの場合は少し違います。16世紀まで伝統的にベトナム人は生活の中で漢字を使っていました。その後、ヨーロパの人々がベトナムに来て、その発音を聞いてローマ字を編み出しました。19世紀までお寺の中には漢字がほとんど残っていません。
1904年日露戦戦により 日本は 勝った ベトナムから徹退
し そのときフランスの植民地になり 政冶 宗教などの自由がうばられたので 多くの苦しいベトナム人が革命者phanboichau の助けになり 日本へ留学することを結団しました。
そして、第一次、第二次世界大戦が(つづく)

 
(4枚め)
起こりました(第一次世界大戦:1914年~1918年、第二次世界大戦:1939年~1945年)。世界に平和はみられなくなり、大混乱におちいりました。昭和時代に「大東亜共栄圏」主義を主張したベトナム国もその影響を受けました。日本が敗戦となり大東亜主義は忘れ去られました。戦争目的が何であるかは分かりませんが、多くの人間がなくなりいろいろ犠牲をこうむりました。
3)国とともに戦う
1954年(昭和29年)7月20日、ベトナム国がジュネーブ会議で南北二つに分かれ、南ベトナムが共和主義、北ベトナムが共産主義になりました。
国が二つに分断されたのはベトナムだけでなく、かつてのドイツの東西、現在の朝鮮の南北もそうです。
1954年(昭和29年)から1963年(昭和38年)まで南ベトナムはゴ・ディン・ジェム大統領をはアメリカ政府からの大きい影響を受けました。しかし、家族はカトリックだったので、キリスト教が優過され仏教が弾圧されました。仏教徒のベトナム人ティック・クアン・ドック大師が焼身自殺した事件は世界をアッといわせました。それをきっかけに1963年(昭和38年)11月1日に軍事南ベトナムでクーデターが起こり、それは成功しました。その結果、新しいグエン・バン・チュー大統領により南ベトナムは第二共和国、自由主義が引きされました。その後1975年(昭和50年)4月30日のサイゴン陥落により、南ベトナムが北軍に奪い取られました。それにより現在までベトナムまだ共産主義になりました。
(4枚めおわり)

 
(5枚め)
北ベトナム、東ドイツ、北朝鮮と比べると日本は自じゅうがあるな国で幸いだと思います。なぜならこれらの国は、共産主義国です。北ベトナム政府は中国と連携して、南ベトナムに戦いました。その結果 南ベトナムの、グエン・バン・チュー大統領の政府が負け、ベトナム人の多くは外国に自由を求め、逃げ出しました。
4)どうしてベトナム人が統一独立後に外国に逃げたか?
理由は共産主義をきらい自由を探しに行きます。国の政策が良ければベトナム人はどこにも行く必要もありませんでした。
南ベトナムの軍人と警察は多くがしゅうじょ所にいれられ、しゅうほおなれるみこみもありませんでした。しかし 友和、南北の和解を共産国になった ベトナム政府は主さんしましたが、これは宣伝ばかりでした。
多くの家族は政策により新しい地域へきょせい的に移働されました。それは不便な場所や水が汚染された場所でした。これは地権を所ゆう者からはく奪するための政策でした。きぎょおの権利や家、土地の権利は全て政府に属された。
以前のみなみベトナム政府のために働いていた軍隊をもつ子供たちは大学に入学許可をえられませんでした。
共産主義の独裁政権のために、ひといとはだん圧され,不平どおにあゆられ、人権もなく、すべての宗教も禁止され、だん圧されました。そのため多くのベトナム人は外国にとおぼおをよきなくされました。
1979から1986年の間 200万人ベトナム人がちさいな船にのって海外へとおぼおをこころみるしたが、その多くはちさいな船にはいりきれないくらいの人数が乗っていたので、海にちんほおし、半分の100万人以上のベトナム人が 海で死んだ。この事実は政界おどろかされ、また共かんさせられました。
歩いてカンボジア、ラオスやタイ国きょおをわたった、ベトナム人は多くがゆくえ不明になりました。
みなさんは現在の北朝鮮と韓国の状況をみればそれは分かると思います。自由はお金で買えるものではありません!自由の国で生活していて、自由の価値が分からないとしたらもったいないことです!いつか自由がなくなるとそのとき自由を探しても間に合いません。
1975年(昭和50年)の前には南ベトナムから二千人の留学生が来日しました。しかし、そのとき日本政府は難民を受け入れる政策を取っていなかったため留学後、日本に留まることができず、
アメリカ、オーストラリア、あるいはヨーロッパに逃げました。その後1980年度(昭和55年)から2000年(平成12年)まで日本政府は国際連合(UnitedNations)の政策を受け、何千人ものベトナム難民を受け入れました。その世代の人は、現在三十年以上日本国内で活躍し、日本の社会でいろいろな分ので日本人とともに一生懸命働いています。おかげさまで私たちベトナム人は日本政府に感謝しています。ありがとうございます。
2017年度(平成29年)には外国にいるベトナム人が約三百万人になりました。どの国においてもベトナム人は学問に熱心です。そのなかでとりれけベトナム人が最も多く住んでいる国はアメリカ合衆国です。
ベトナムの第一世代にとって新しい生活習慣や言語について、たいへん難しいこともありますが第二世代からはその国の言葉を習得する問題はありません。今、一番大きな問題は母国語のベトナム語を外国に移住したこども達が忘れてしまうことです。その国の言葉を国語として使っているので両親が困ります。なぜなら、子供達がベトナム語をしゃべれないからです。このことは日本人においても似ています。
私はサンフランシスコ、オーストラリア、アンカレッジ、ハワイなどで経験したことです。日本人の顔をみて日本語で話しても全然通じません。ただ、「ありがとう」と感謝の言葉を言うだけです。「もし日本語で話したければ、私の父と話してください」と英語で答えられます。ベトナム人も中国人も同じじょおに、がいこくで生まれ、生活している人々言葉もとの国の言葉を習得していません。
 
 
 
7)東欧(東ヨーロッパ)をみてごらん
最初はドイツについてお話します、1989年(平成元年)11月9日はドイツの国にとって歴史的な日です。このひ東西ベルリンの壁が取り去られました。こうして東ドイツの共産主義がなくなりました。東ドイツは1949年(昭和24年)から1989年(平成元年)までの40年間しか存在しませんでしたが、西ドイツと比べるとおいつ後の両国民の生活には違いがあります。
これまでの29年間、東西ドイツが統一されたものの、考え方や経済的な面で大きく区別されています。平等についても両国社会の根本的な思想が具体ていきに説明します。たとえばぶつ質てきに東西ドイツ人のきゅりょのかくさがありますし、習慣てきには東ドイツは共産主義時代の教いくのえいきょうがまだ深くのこっています。共産主義とは何かをドイツの現状をぜひ見て考えてください。もうひとつは、東ヨーロッパの国々の中でもソビエト連邦(現在のロシアがあり、1990年(平成2年)から2017年(平成29年)の今までを見ると27年間にもなりますが、東ヨーロッパと西ヨーロッパの生活を比べるとまだまだ、たとえばしそおの自じゅうや人権も尊じゅしない、経済や社会福祉など です。なぜならば、共産主義は長い間、東欧を統治していたことが原因だからです。
みなさんは、日本人であることは本当に幸いだと思います。それは、日本では何をするにも自由であり、誰に何を話しても心配ありません。しかし、ベトナムや北朝鮮ではそうはいきません。ですからみなさんは毎日を大切に過ごしてください。

 
(8枚め)
第二次世界大戦は1945年(昭和24年)に終わりました。日本はアメリカとの戦いに降伏しましたが、もし、ドイツも日本もアメリカからの援助がなければ今のようにドイツと日本という国々が立派にならなかったでしょう。
その中で、もちろん日本人とドイツ人の勤勉さは世界中どこの国をみても見つからないほど立派です。
6)私にとって
私は、日本とドイツに感謝しなければならないと思います。私はベトナムの出身であることはお話ししましたが、1964年(昭和39年)に15歳で僧侶になってお寺で生活しながら学校に行き、外国にも行くのはこれも何かの縁のこと思いっています。
1972年(昭和47年)に来日したとき、私の予定は大学か大学院を卒業して自分の国ベトナムに戻り、学力を生かして国と仏教に尽くすことが一番良いと考えていました。なぜかというと現在のベトナムの共主義政府のもとではわたしのきぼを実現するこができないためです。。
私は今まで、ベトナムと日本以外に世界五大陸の中で73ケ国を訪問しました。しかし、どこに行っても何をしても年をとるといつもホームシックになります。「郷にいれば郷にしたがえ」という日本のことわざがありますが、それを思うと母国語、故郷を思い出したときにいつもこれらが心の中に残っていることを改めて思います。(8枚めのおわり)

 
(9枚め)
私にとってフランス語は第一外国語であり、英語は第二外国語、そして日本の大学で勉強したのは顔などがアジアの人間として日本人に似ているので日本語を勉きょほおと思います。
大学の卒業論文を日本語で書かなければなりませんでした。卒業から40年ほど経って日本をはなれたにもかかわらず、日本語をまだ憶えていることは不思議です。
1977年(昭和52年)に私はひとりで当時の西ドイツに来ました。ドイツ語は全然分かりませんでしたが、今はドイツ人に対してドイツ語でお説法ができます。ドイツの大学で勉強しながらお寺の面倒をみて「円覚寺」というお寺をドイツの北、ニーダーザクセン州のハノーヴァーに建立しました。ベトナム人の仏教徒だけでなく、いろいろな国の人々が私たちのお寺にお参りに来ます。
今は多くのドイツ人が仏教を理解しているので、感動(感謝)しています。
2003年(平成15年)度まで私の所には、出家してしょりょおになった弟子は45人います。在家の弟子は約7千人です。25年間でドイツの円覚寺が住職でしたが現在は、弟子にゆずりました、お寺の「師(長老)」になりました。
私は、出家してからすでに53年が経ちます。(1964年(昭和39年)から2017年(平成29年)の53年間)その間、時間を利用して本を68冊くらい出版しました。その中で、ベトナム語はもちろんのこと、日本語の本もあり日本語の本ベトナム語にも翻訳しました。中国語、英語、ドイツ語などにも翻訳しました。

 
(10枚め)
テーマがありました。それらは、仏教、文字、げ術、教育などに関する本です。日本語からベトナム語に翻訳したのは10冊ぐらいです。それらは、原始仏教教団の研きゅ、臨済宗、浄土真宗、曹洞宗、真言宗、法華経、禅宗などについてです。ベトナム人とドイツ人これらの本を翻して、紹介しました。
どこに行っても英語は重要ですからみなさんのような若い世代のかたが、日本で一層成長して一生懸命勉強してください!(人生はずっと勉強することが大事です)
お釈迦さまはおっしゃっています「すべて法は無常と苦と無我である」ですから何か形や色(色相)があれば、それは全部無常です。無常の原因は苦であり、もし無我を悟ってあきらめるならばこれは私ではありません。私に自己もないのです。誰があきらめることができれば仏教の教えが理解できます。すぐにわからないかたははんやしんぎょおの本をbんきょなさって下さい。
その関連でいえば、日本と外国で45年間もいろいろなほおに世話になったのもその縁です。仏さまは次のように言いました。「これが生まれたからそれも生まれる、もし、これがなければあれもない」。少し難しいかもしれませんが、その原因と結果、その空が般若心経の中に書かれています。中国人でも日

 
 
本人でも。韓國人でも。べトナム人でも。あるいはヨロツパ人でも。そのゆうい意味がやかるようになりました。
だかう仏教はアジアを はなれ。世界のひとびとのあいだでさかんになりました。
 
最後に秋山先生の御夫婦と帝京平成大学の內野教授と私の昔しの同級生 伊田さんに敬意を表します。
では。もし皆さんから質問があれば。何語でもかまいません。どおぞお御願いします。
 
合掌
 
ドイツのベトナムの圓覺寺方丈

釋如典(THICH NHU DIEN)

レ・クオン(LE CUONG)

1973 年度八王子の帝京大学の留学生

 

Chùa Viên Giác gởi