Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh



 

NHỮNG CHUYẾN GHE ĐỜI MONG MANH


 

kim thanh

 

Từ trại tù Vĩnh Phú ngoài Bắc, sau tám năm ròng rã nhai sắn khô và lao động gian khổ, cuối cùng, tôi cũng được thả về quê quán Nha Trang, năm 1983, và bị quản chế liền. Quả vậy, phường khóm đã ưu ái sắp xếp ngay cho tôi công việc quét dọn, làm vệ sinh tại một hợp tác xã dệt quôc doanh mà thợ dệt toàn là con gái. Mục đích để các cô, vốn dễ sai bảo, và tên “thủ trưởng” già, loại cách mạng 30/4, rất hắc ám, kiểm soát và canh chừng tôi mỗi ngày. Trong khi đó, mẹ và em gái lớn của tôi, Huệ Trân, ráo riết tìm mánh vượt biên cho tôi, và Kim Trọng, người em kế, trung úy giáo sư Anh văn Võ Bị, nửa năm trước đã trốn trại cải tạo về sống chui tại gia –cả hai anh em đều là thứ bom nổ chậm, không thể chứa lâu trong nhà.

      
Chưa đầy một tháng sau, hai đứa nhận được lệnh xuất quân. Đi kèm theo là Tú, thằng cháu 12 tuổi, con của cô em. Chuyến đi được tổ chức bởi một ngư dân tên Trứ, đồng hương Quảng Bình với Thư, em rể tôi. Kế hoạch hơi phức tạp, không chắc ăn. Nghĩa là Trứ sẽ đưa khách bằng ghe nhỏ ra một hòn đảo nằm chờ trước, rồi sau đó mới tìm ghe lớn đến bốc đi. Nếu không có ghe lớn, Trứ bảo đảm sẽ chở tất cả về đất liền, an toàn, và trả lại tiền đặt cọc.

 

1. Đó là một đêm không trăng sao. Tám giờ, Thư chở tôi bằng Honda đến nhà Trứ trước –nằm dưới chân cầu Xóm Bóng, phía Khu Hà Ra. Sau đó, chở Trọng, hàng quốc cấm, được cải trang kín mít như một phi hành gia, chạy lòng vòng trong thành phố Nha Trang một hồi, để đánh lạc hướng địch, rồi bất ngờ Thư ngừng lại trước cửa nhà Trứ,  đẩy Trọng chui tọt vào, và biến mất. Trọng thở hổn hển, vì sợ hơn vì mệt.

     
Chủ nhà đãi chúng tôi bia, cho ấm lòng chiến sĩ. Hai đứa không nói gì nhiều, và vẻ mặt nghiêm trọng còn hơn thích khách Kinh Kha khi sắp vượt sông Dịch sang Tần. Đúng mười giờ, Trứ dẫn chúng tôi ra phía sau nhà, nơi một chiếc ghe nhỏ và dài giống như một périssoire (thuyền thoi), đang đậu. Chủ ghe là một ông già trên 65, ốm tong teo. Sau này tôi được biết, cứ gần nửa đêm ông già chèo ghe ra các đảo để chặt củi, sáng đem về bán  –điều mà bọn Công An đều rõ– và Trứ sẵn tiện mướn ông làm tài xế taxi, chở người ra ghe lớn.

     
Ông nhét chúng tôi dưới đáy ghe hẹp, trên phủ một lớp gỗ thưa. Hai đứa phải nằm nghiêng, mặt đối mặt, nghe rõ hơi thở của nhau. Trọng bị suyễn, nên tiếng thở nghe khò khè, khá lớn. Từ nhà Trứ, tức từ chân cầu, ra bót Công An đặt giữa một khúc sông Cái, không xa bao nhiêu. Mười phút sau, ông già cập bót, trình báo. Chúng vẫy tay, cho đi. Bình thường ghe nhẹ tênh. Đêm ấy, chở theo hai đứa tôi, tổng cộng khoảng 120 ký lô, trừ bì rồi, ông loay hoay mãi, không đẩy nổi chiếc ghe ra khỏi bờ cát. Hai đứa hết hồn, nín thở. Tự nhiên Trọng dứt tiếng khò khè. Tên Công An nói lớn, giọng Quảng rặt: “Chòa, bữa ni ông giòa chỏ coái chi mòa nẹng rớ hè (dịch nghĩa: Chà, bữa nay ông già chở cái chi mà nặng rứa hề)? Rồi chiếu đèn pin khắp sàn ghe, dừng lại rất lâu chỗ chúng tôi nằm. Và sắp sửa leo lên xem thì thằng tà-lọt từ đâu chạy đến báo cáo một việc gi quan trọng, hắn trở vào đồn. Thằng tà-lọt đẩy ghe giúp ông già. Ghe đụng nước, chúng tôi nghe tiếng ông thở phào, bỏ nhẹ: “Hú dzía! Mô Phật”. Phần chúng tôi mừng hết lớn, và đọc kinh cảm tạ ơn Chúa. Rồi ông già hối hả chèo đến điểm hẹn, tuốt ngoài khơi.

     
Mười lăm phút sau, ghe máy của Trứ xình xịch đến. Hai anh em được chuyển sang. Trong bóng đêm, tôi thấy trên ghe chở một số khách, trong đó có thằng cháu Tú, một ông thượng sĩ già trường Hạ sĩ quan Đồng Đế (hỗn danh Thượng sĩ Heo, vì trước 1975, ông có trại nuôi heo rất lớn), tôi đã nghe tên, nhưng bấy giờ mới biết mặt, đi với đứa con trai và một thằng cháu nhỏ, cả hai khoảng 13, 14 tuổi. Số khách này, Trứ đã giấu kín dưới lòng ghe, và qua bót trót lọt, không bị khám xét, như những lần ra khơi đánh cá trước kia.

     
Trứ cho ghe tiếp tục chạy, và chừng nửa tiếng nữa, đến một hòn đảo nhỏ mọc trơ vơ giữa biển. Đêm tối quá, nhưng Trứ không dám bật đèn pin, dẫn cả đám len lỏi qua một con đường nhỏ ngoằn nghèo, lởm chởm đá nhọn và chằng chịt dây leo và rễ cây, khiến tôi phải dùng lưỡi lê nhà binh, mua ở chợ trời, phạt đi bớt. Cuối cùng, lên đến một mỏm đá rộng. Trứ bảo tất cả nghỉ đêm tại đó, chỉ định tôi làm trưởng nhóm, trao nhau mật khẩu, và hẹn đêm mai sẽ trở lại cùng với ghe lớn, bốc đi. An tâm, tôi hỏi, “đây là đâu?”, anh trả lời, vắn tắt: “Bãi Trũ”.

     
Bãi Trũ. Bao nhiêu kỷ niệm thời ấu thơ bỗng trở về rõ nét trong ký ức. Vào năm 1944, tại những làng mạc chung quanh thành phố, chiến tranh nổ lớn giữa lính Tây và du kích Việt Minh, đàn bà và trẻ em phải tản cư ra các hải đảo. Mẹ tôi thuê ghe, đưa hai con trai đầu (tôi và Trọng), lúc ấy còn bé tí, và đứa con gái kế mới ba tháng (Huệ Trân) ra Bãi Trũ, tránh máy bay và bom đạn của giặc Tây, và tạm trú tại nhà của người bạn bà ngoại tôi một tháng. Đó là một xóm hiền hòa, ít dân, phía trước là biển và bờ cát trắng xóa. Ngày ngày, tôi, Trọng, và mấy đứa cháu bà chủ nhà đi ra biển tắm, hoặc leo lên mỏm đá này chơi và hái trái chùm bao ăn. Gần nửa thế kỷ sau, hai đứa tôi trở lại, nhưng lần này để trốn chạy giặc Việt Cộng, còn tàn ác hơn giặc Tây gấp bội. Nằm duỗi thẳng trên một tảng đá lớn, thay giường, mà ôn lại chuyện cũ, tôi thiếp đi lúc nào không hay.

 

2. Giật mình tỉnh dậy thì mặt trời đã lên cao, nắng chiếu vào mắt, chói chang. Nhìn quanh, trong một thoáng, không nhớ ra mình đang ở đâu. Nằm rải rác trên những tảng đá sát bên tôi là năm “đồng bọn”. Tất cả được che giấu bởi một vòm cây lá xanh tươi duy nhất, khá kín, từ bên ngoài khó thấy gì bên trong. Hồi tản cư hơn bốn mươi năm trước, tôi nhớ cả hòn đảo còn um tùm cây cối, bây giờ chỉ là những tảng đá trọc lóc, to nhỏ không đều, trơ gan cùng tuế nguyệt. Chắc dân làng, năm này qua năm khác, đã leo lên chặt hết cây đem về làm nhà, hay đun bếp.

     
Tôi lấy giỏ thức ăn và nước uống, mà đêm qua Trứ giao cho, phân phát cho mỗi người một ổ bánh mì thịt, hai viên kẹo bột, và một ca nước. Dặn mọi người không được nói lớn, vì phía dưới là dân làng, và dĩ nhiên, theo VC. Quả thế, nhìn xuống tôi thấy một lá cờ đỏ sao vàng to tướng treo từ một mái nhà, chắc là trụ sở phường, phất phới bay theo gió. Thỉnh thoảng vẳng lên nhiều tiếng cười nói ồn ào, có cả tiếng cãi vã, chửi thề.   

     
Chín giờ tối, Trứ trở lại mỏm đá. Nghe đúng mật khẩu, tôi và Trọng xuống đón và nhận thức ăn mới, cũng là bánh mì thịt, và một nải chuối. Trứ nói nhỏ: “Chưa có cá mập (ghe lớn), có lẽ tối mai”. Đi theo Trứ ra đảo lần này là một cặp anh em ruột tuổi độ 20 và 18, tên Hùng và Cường, hai khách hàng mới toanh, nhập bọn với sáu tên “phản động” nằm vùng sẵn. Thằng em, cao ráo đẹp trai, chọn tảng đá kế Trọng, Tú và tôi, dáng vẻ hồn nhiên, nói năng lễ phép, trong khi thằng anh, mập lùn, mặt lầm lì, khó chịu. Kế sát tôi là ông thượng sĩ già. Ông bị cảm lạnh, nên quấn khăn trùm kín đầu và cổ, và bất luận đêm, ngày cứ mỗi mười lăm phút, ông ngứa cổ ho lên một tràng sù sụ. Tôi sợ quá, nên mỗi lần ông rè rè sắp lên cơn, tôi vội lấy tấm khăn lau vàng ố của ông, hôi rình, có lẽ lâu ngày không giặt, bịt miệng ông lại, không cho ho lớn (điều mà tôi làm trước cả người hùng Rambo đã dùng bàn tay che miệng một tù binh Mỹ bị ho vừa được anh cứu khỏi trại giam VC, khi cả hai bị địch đuổi theo, trong phim First Blood II, 1985) và bảo Trọng lấy dầu cù là bôi lên và xoa ngực cho ông. Thằng cháu và thằng con ông thì ngồi giương mắt ngó, với vẻ thích thú.

     
Cảnh sống bất thường và đầy lo âu, hồi hộp cứ tiếp tục ngày này qua ngày khác, nhàm chán. Có những đêm nằm nghe từng tiếng máy ghe ra khơi, hoặc đi đánh cá đêm, hoặc tiến về phía những chân trời tốt đẹp hơn, mà lòng náo nức, lóe lên một tia hy vọng mong manh, chóng tàn, so với thực tại mịt mùng bóng tối. Có những ngày máy bay quan sát (L19, bà già cũ) lướt qua, không biết có thấy gì không, nhưng cũng đủ làm nhức tim. Cả nhóm không thiết ăn uống nữa, không muốn nói năng gì nữa. Sáng dậy ai cũng ngồi thiền, tư lự, ngó mảng trời xanh xuyên qua kẽ lá, mà thở dài thườn thượt. Ông thượng sĩ Heo ngày càng bệnh nặng thêm. Vì là trưởng nhóm, tôi phải tỏ vẻ bình tĩnh, để làm gương, mặc dù nỗi thất vọng thêm ê chề sau mỗi lần Trứ đến tiếp tế, với câu thông báo duy nhất: chưa có cá mập.

  

3. Sau sáu ngày trông chờ ghe lớn, một buổi trưa nắng gắt, chúng tôi thấy một bầy con gái trong làng ra biển tắm, đúng ra nhúng nước cho mát, vì trên người vẫn mặc quần áo bình thường, đùa giỡn ồn ào, phía dưới mỏm đá. Không gian yên tĩnh, tiếng họ vọng lên nghe rõ mồn một. Ai cũng sợ, tự nhiên ngồi sụp xuống, nín thinh. Ông thượng sĩ Heo bỗng quên ho. May quá, bởi chỉ cần một tiếng ho, hay nhảy mũi, là bị lộ tẩy. Lòng tôi như lửa đốt. Khoảng nửa giờ sau, một đứa bỗng chỉ tay về hướng chúng tôi, nói lớn: Trời nóng quá, mình lên lùm cây trên mỏm đá kia ngồi nghỉ cho mát!

     
Nghe thế, tôi hoảng kinh, đến bên Trọng, ông thượng sĩ, và Hùng mở cuộc họp khẩn cấp bàn kế hoạch đối phó. Ông thượng sĩ đề nghị: “Hay là mình dùng lưỡi lê bắt một con làm con tin?” Tôi lắc đầu, hỏi: “Rồi sau đó mình sẽ làm gì? Còn những con khác, bộ tụi nó không biết chạy đi và la lên cho công an nghe?” Không biết phải làm sao nữa, cả ba đồng ý để tôi toàn quyền hành động. Tôi bình tĩnh, mà run trong lòng, chờ tai họa đến, vì biết chắc không còn chỗ nào ẩn náu nữa. Tôi ra hiệu cho tất cả, nhất là ba đứa con nít, hãy ngồi yên.      

     
Một lát sau, các cô leo lên thật, vừa đi vừa nói chuyện. Thấy chúng tôi, cả bốn cô bỗng im tiếng, dừng bước, trố mắt, nhìn sửng, nhưng không hoảng sợ, hoặc rú lên, dường như đã quen cảnh này. Một cô lớn tuổi nhất, có vẻ tử tế, trầm tĩnh hỏi, giọng Bình Định vừa đủ nghe:

-
 Bộ mấy nẩu (các ông) núp ở đây để dượt biên, phải chớ?

     
Tôi trả lời:

     
- Đúng vậy. Mấy cô làm ơn đừng báo công an, phường khóm. Chỉ còn đêm nay nữa thôi, ghe lớn sẽ ra đón đi. Tôi trả ơn bằng một chỉ vàng nghe…

     
Vừa nói tôi vừa móc túi áo và trao cho cô gái chiếc nhẫn vàng –quà tặng đi đường của Huệ Trân để ba cậu cháu xài khi hữu sự. Cô lưỡng lự, đưa mắt ngó đám bạn, ngầm hỏi ý kiến. Ai nấy lặng thinh. Cô gật đầu, cầm lấy nhẫn, nói:

     
- Thôi được, tụi tui không báo cho ai biết. Nhưng mấy nẩu nhớ, từ giờ đến sớm mai thôi nghen. Để lâu, người ta biết, kẹt cho tụi tui. Bây giờ tụi tui dìa nghen.

     
Bốn cô xuống núi, tôi đứng ngồi không yên, sợ họ phản phé. Thời buổi này, làm sao tin được ai? Rồi tự an ủi: chối cũng không xong, thà khai thật “tội” vượt biên, nhẹ hơn là tội “phản động, âm mưu trốn ra đảo để đánh phá Cách Mạng”. Đành phó mặc cho mệnh số. Chuẩn bị tinh thần và chờ Công an lên hốt. Chờ mãi, không thấy động tĩnh gì, mới dám chắc các cô đã giữ lời hứa.

 

Tối đến, Trứ lại ra tiếp tế, như thường lệ. Vẫn không có cá mập. Tôi vắn tắt thuật cho Trứ nghe câu chuyện bị bại lộ buổi trưa. Nhưng anh vẫn câu giờ, hẹn tối mai, chắc chắn sẽ có ghe lớn. Tôi bực quá, ra tối hậu thư: “Anh hứa lèo quá nhiều rồi. Chúng tôi không thể tin và chịu đựng được nữa. Ai cũng kiệt sức. Phải chở chúng tôi về đất liền ngay trong đêm nay. Nếu không, sáng mai chúng tôi sẽ xuống làng trình diện, và dĩ nhiên sẽ khai tên anh. Tùy anh!” Cuối cùng, Trứ phải đồng ý. Và phác họa kế hoạch: “Tôi cần bốn người biết bơi, tôi sẽ chở qua Nha Trang trước, thả xuống cách Bưu điện chừng 100 thước, rồi lội vào bờ. Còn bốn người khác, tôi sẽ đưa qua bót.”  Bốn người biết bơi giơ tay tình nguyện, gồm Trọng, tôi, và hai anh em Hùng, Cường, được sắp xếp ngồi trên khoang thoáng mát, cởi hết quần áo ngoài giao cho Trứ, chỉ còn quần tắm. Ông thượng sĩ và ba em bé, phải qua bót, bị ém chặt dưới lòng ghe như cá hộp, như lần trước.

 

4. Xong xuôi, ghe nổ máy trực chỉ Nha Trang. Tôi ngoái cổ, nhìn về phía lùm cây, mỏm đá, và Bãi Trũ, vẫy tay chào vĩnh biệt, như một cơn ác mộng. Hai mươi phút sau, đến khu vực Bưu điện và thành phố leo lét ánh đèn đường. Trứ giục: “Nhảy xuống đi.” Tôi không chịu: “Anh bảo 100 thước, sao còn xa đến 200 thước vậy?”. Trứ nói, giọng sợ sệt: “Vô sâu thêm nữa, sẽ bị lộ.” Hùng lên tiếng: “Để tôi lội vô trước, coi tình hình”, rồi nhảy xuống trước tiên, bỏ mặc thằng em ở lại với hai đứa tôi.

     
Trọng và tôi bơi song song, gần nhau, liếc mắt trông chừng lẫn nhau. Cường bơi theo, lúc đầu ngang hàng, cách bên trái tôi độ nửa thước. Rồi càng lúc em càng tụt dần ra sau, và tôi không còn thấy bóng đâu nữa. Còn cách bờ khoảng 90 thước, hai chúng tôi bỗng nghe tiếng gọi thất thanh của Cường vang lên trong không gian vắng ngắt: “Anh Quý ơi, anh Trọng ơi, em đuối lắm rồi, cứu em với.” Tôi quay nhìn đằng sau, thấy Cường trồi lên ngụp xuống, và nghe tiếng mếu máo: “Anh Quý ơi! Cứu em với!”. Không hiểu sao, có lẽ vì phản xạ tự nhiên, có lẽ vì thương Cường, tôi bơi trở lại, về phía em, mà quên rằng mình chưa bao giờ học cách, mà cũng chưa có kinh nghiệm, cứu người sắp chết đuối, không phao. Trọng bơi theo sau, la lớn: “Đừng, đừng, anh Quý ơi, anh sẽ bị chết theo đó.” Lúc ấy tôi đã đến chỗ Cường rồi, vừa giơ tay trái ra, thì em chụp liền, giật mạnh xuống và toan ôm thân tôi. Tôi hoảng hốt, dùng tay phải, và lấy hết sức bình sinh, cố đẩy em ra. Tuy trẻ, nhưng đã trải qua bảy ngày đêm cực khổ trên mỏm đá, chăc Cường không còn sức, hoặc bơi không khá, hoặc cả hai, chứ bình thường, tôi nghe nói, người bị nạn sẽ ôm cứng lấy người cứu, tưởng như một cột nhà, nhất là khi đến giai đoạn “trồng cây chuối” (đứng thẳng đơ). Sau một hồi vật lộn, Cường cuối cùng buông tay tôi. Tôi vội vàng đạp nước bơi đi thì em cố chụp lấy chân, và hụt. Trong đường tơ kẽ tóc. Tôi thoát ra một khoảng cách vừa phải, rồi ngừng bơi, hai giây, để thở. Vừa lúc ấy, Trọng sà tới, thấy tôi không nhúc nhích, tưởng cũng đang trồng cây chuối, nghĩa là hết cứu nổi, bèn bật khóc. Tôi nói: “Anh không sao. Chỉ mệt.” Trọng mừng lắm, đổi thế bơi ngửa, một tay khoát nước, một tay dìu tôi bơi theo. Không đến nửa phút sau, có tiếng thét lẫn tiếng khóc của Cường: “Anh Quý ơi! Anh Trọng ơi! Cứu em! Em chết mất!” Rồi im bặt.     

     
Bơi miết đến bờ cát trống, thấp hơn mặt đường, gần Bưu điện, chỗ có quán nhậu Gió Khơi Số Một trước 1975, với hàng thùy dương lưa thưa, nay bị dẹp bỏ. Lúc ấy, xem đồng hồ tay thấy ba giờ sáng. Trên đường không một bóng người hay xe. Không thấy Hùng đâu. Tôi bảo Trọng: “Bây giờ còn sớm quá, mình hãy ngồi núp dưới bờ tường kia, chờ đến bốn giờ rưỡi, rồi hãy đi, giả người đi tắm biển sớm, rồi về nhà Mạnh.” Mạnh là bạn thân của tôi, Đại úy Lực Lượng Đặc Biệt. Về nhà chúng tôi thì xa quá, phải qua hai cây cầu dài, và không ai chạy bộ vào giờ ấy, sẽ bị lộ.

     

Đúng bốn giờ rưỡi, trời bắt đầu sáng. Trên đường, đã có người chạy, hoặc đi ra biển. Hai anh em rời chỗ núp, leo lên đường, và bắt đầu chạy lúp xúp, như tập thể dục, theo đường Duy Tân, về hướng Xóm Bạch Đằng, nơi Mạnh ở. Đi ngang một đồn công an, Trọng bỗng quýu chân, như muốn khựng lại. Tôi phải liên tục nhắc: “Cứ chạy tỉnh bơ, để chúng khỏi nghi.”


Cuối cùng cũng đến địa chỉ của Mạnh, có hai căn giống nhau và sát nhau, tôi không nhớ căn nào là của Mạnh. Sau một giây lưỡng lự, tôi gõ đại. Một tiếng Bắc kỳ hai nút nhừa nhựa của một người đàn bà còn ngái ngủ vọng ra: “Ai đấy? Tìm ai?”. Tôi trả lời: “Tôi muốn tìm ông Mạnh!”. Vẫn tiếng Bắc kỳ hai nút, cộc lốc: “Nhà ông Mạnh bên kia!”

     
Chị Mạnh mở cửa, ngón tay đặt lên môi, ra dấu bảo im lặng, và đẩy ngay hai đứa vào trong, khóa trái cửa lại. Nghĩa là chị đã nghe những câu đối đáp từ căn bên cạnh. Mạnh cười cười nhìn hai đứa, nói nhỏ: “Nhà đó là của thằng Công an khu vực, chuyên nhốt người vượt biên. May cho hai ông, nó mà mở cửa, là tiêu đời.” Rồi Mạnh pha cà phê, mời uống. Đưa cho mỗi đứa một bộ quần áo, và nói: “Chút nữa, tôi sẽ chở Quý về trước, và nói với Thư đến tối qua chở Trọng về.”

 

5. Mẹ và ba em gái, Huệ Trân (vợ Thư), Bội Trân, và Huyền Trân, đã biết tin “bể mánh”, do Trứ chở cháu Tú đến trả tận nhà, báo cho biết. Cho nên không ai ngạc nhiên khi thấy Mạnh đậu xe trước ngõ, thả tôi xuống. Hỏi han đủ chuyện trên đảo, tất cả quay về đề tài người chết đuối, Cường. Khi thấy tôi cứ ân hận mãi, mẹ bảo: “Con đã làm hết sức mình để cứu nó rồi, mà không được, thôi đừng áy náy nữa”.

      Trong khi tôi nằm đảo, mẹ đã sai Huyền Trân đạp xe ra xưởng dệt báo tôi bị bệnh nặng, xin nghỉ một tuần. Cho nên, trở về, ngay sáng hôm sau, hết hạn nghỉ, tôi phải đi làm lại. Không ai nghi ngờ, vì bảy ngày đêm kham khổ làm mặt tôi tái xanh, hốc hác thấy rõ. Trừ một cô, bạn của Huyền Trân, tên Thanh, là người ghiền đi vượt biên, bị bắt mấy bận, nên mũi rất thính. Thấy tôi đâu, cô tủm tỉm cười, thông cảm.

     
Hai ngày sau, xác Cường nổi lên, tắp vào bờ. Thiên hạ hiếu kỳ đi xem đông. Nghe Trứ kể, có cả Hùng, mẹ và người chị của Cường. Họ chỉ biết đứng nhìn và khóc thầm. Không dựa vào chứng cớ nào, Công an cho đó là xác của một người vượt biên, chứ không phải đi tắm. Cho nên thân nhân không dám đứng ra nhận, vì sợ bị tra hỏi, hoặc tống giam. Bọn chúng, vào thời đó, quá ác ôn đối với những người “phản bội tổ quốc trốn ra nước ngoài”, có lẽ, đúng hơn, cốt moi tiền. Khác với sau này, no rồi, chúng dễ dãi hơn. Mẹ Cường phải bỏ tiền thuê một người dưng liều mình đứng ra nhận xác con đem đi chôn. Sợ lộ, tôi không đến xem. Nhưng sau đó một mình lên lầu, trước bàn thờ Chúa, tôi quỳ xuống, đọc kinh cầu nguyện cho em: “Em Cường, anh xin lỗi đã không thể cứu em được. Xin em thông cảm và đừng giận anh. Suốt đời anh sẽ không quên em. Thôi em hãy ra đi bình an, không còn lo lắng, hồi hộp, sợ hãi gì nữa, vĩnh viễn xa lìa cái chế độ khốn nạn này…”

 

6.  Liên, vợ của Trọng, ở Phan Rang, giới thiệu một ông thầy bói Chàm, đoán về vượt biên, “như thần”. Mẹ bảo tôi vô Tháp Chàm thăm gia đình Liên, nhân tiện gặp hỏi ông về việc đi đứng trong tương lai. Tôi là chúa ghét, và không tin, thấy bói, sáng hay mù, Kinh hay Chàm. Nhưng chiều mẹ, một sáng thứ bảy, nghỉ việc, tôi lấy xe đò đi Phan Rang cùng với em Bội Trân. Ăn trưa xong, Liên dẫn chúng tôi đến nhà ông Chàm, gần đó.

     
Tôi vừa lò dò bước vô cửa, chưa kịp chào, thì ông thầy, tuổi độ 60, mặc áo và xà-rông trắng, như người Miên, vẻ dữ tợn, lấy tay chỉ vào bản mặt tôi, mà nói một tràng như hét, giọng lơ lơ: “Ông mới đi vượt biên hụt trở về phải không? Có một con ma nam nó đang theo ông, vì nó thương ông. Con ma nó còn trẻ, chừng độ 17, 18 thôi. Nó chết đuối trong chuyến vượt biên cùng với ông. Ông ráng cứu nó, mà không được.” Tôi giật mình, sửng sốt nhìn Liên, rồi Bội Trân, ngầm hỏi có phải Liên đã “mách nước” cho ông Chàm, để quảng cáo? Nhưng thấy nét mặt Liên cũng ngạc nhiên không kém, tôi an lòng. Vả lại, thời ấy chưa có cell phone, ipad, và Trọng đang trốn nhà tôi, Liên lấy đâu ra đầy đủ tin tức, mà nhanh đến thế?  Phần khác, tôi sợ ông thầy là công an giả dạng, chơi đòn phủ đầu, nên ngậm miệng, không cho biết ông nói đúng hay sai. Chỉ hỏi: “Tôi có số xuất ngoại không?”. Ông khẳng định: “Không! Phải cúng con ma đó, xin nó tha đừng theo phá anh nữa, mới được!”. Bội Trân nói: “Nhưng gia đình tôi theo đạo Chúa, không biết cúng.” Ông trả lời: “Thì mướn người khác cúng thế. Cũng được!” Khi ra về, Bội Trân không quên trả “tiền quẻ” cho ông.

 

Về lại Nha Trang, Bội Trân kể hết chuyện ông thầy Chàm cho cả nhà nghe. Ai cũng lấy làm lạ. Mẹ tin, và ưu tư với việc “cúng con ma nam”, mà mẹ muốn làm lắm, nhưng biết chắc chắn các con không đứa nào chịu, mà cũng chưa biết nhờ ai cúng thay. Một tuần sau, một bà bạn của mẹ từ Sài Gòn báo tin gấp, có chuyến đi sắp sửa khởi hành, “bảo đảm” một trăm phần trăm. Ưu tiên cho Trọng và Tú đi trước, có mẹ và Huệ Trân đưa vô tận nhà bà bạn, ở chợ Vườn Chuối. Hai đứa đi thoát, đến Indonesia.

      Trọng đi rồi, bớt được một trái bom nổ chậm trong nhà, mẹ vui lắm. Lòng thấy nhẹ hơn. Còn lại, tiếp theo, là tôi, trái bom thứ hai, và Bội Trân, tiếp viên hàng không ngụy, cũng là hàng độc, bị những thằng công an trồng cây si, nườm nượp thay nhau đến nhà quấy rầy, quá phiền. Loay hoay tìm mánh, mẹ quên mất chuyện “cúng con ma nam”. Một tháng sau khi Trọng “ra đi cứu nước”, từ Cầu Chữ Y, thành công “hoành tráng”, thì bà mối Chợ Vườn Chuối lại nhắn tin có chuyến mới, vô gấp. Chắc ăn quá rồi. Tôi làm đơn xin nghỉ làm tại xưởng dệt, lấy cớ đi Sài Gòn kiếm việc dạy học, nghề cũ của tôi, để “phục vụ tốt đất nước”. Thằng phường trưởng mới nhậm chức là em cùng cha khác mẹ với một người bạn đồng ngũ thân thiết của tôi, hai gia đình quen biết nhau trước 1975, nhắm mắt ký đơn liền, sau khi nhận được một số tiền trà nước từ tay mẹ. Thấy tôi nhăn mặt, mẹ bảo: “Của đi thay người mà con. Bây giờ, muốn được việc gì, chỉ còn cách đó thôi.”

     

Hai anh em tôi lên đường ngay. Nhưng đó là chuyện khác, lần khác, trong một bài khác. Cũng gian truân, hồi hộp, đau thương và tràn nước mắt. Như trăm, ngàn chuyến ghe đời mong manh khác, ở một địa ngục trần gian, còn kinh khiếp hơn địa ngục trong Virgile, Dante, và Phạm Công Cúc Hoa, có tên “Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” của một loài khỉ đột đã biến thành người, hiểm ác nhất hành tinh, được gọi là Việt Cộng.


Portland, 30 tháng 4, 2016

Kỷ niệm Ngày Quốc Hận lần thứ 41
 

Thanhlam Le gởi