Ông già Ba Tri
Miền Nam có thành ngữ Ông già Ba Tri để chỉ mấy ông già gân, hổng ngán gì hết!
Ông già Ba Tri tên thiệt là Thái Hữu Kiểm, sống ở Ba Tri, Bến Tre từ thế kỷ 18. Năm 1806, ông Kiểm dựng chợ Trong bên cạnh rạch Ba Tri, giúp cho dân cư ở khu này mần ăn. Dè đâu mấy cha ở chợ Ngoài đắp đập chặn không cho ghe thuyền từ sông Hàm Luông vô chợ Trong. Chợ ế, dân khóc ròng!
Ông Kiểm nổi quạu, kiện lên quan huyện. Hổng biết quan có ăn hối lộ không, mà phán: Sông bên làng xã nó nó đắp đập thây kệ cha nó! Ông Kiểm thua kiện!
Già mà gân, ông Kiểm nói: Kiện lên quan hổng được, lão kiện lên… vua!
Hèm, hồi đó làm gì có internet hay báo chí, nên ổng hổng có lên blog để kêu được, cũng không có báo chí, điện thoại, thư tín cũng không! Con đường chắc chắn nhất để khiếu kiện là… đi bộ ra kinh đô gặp vua.
Các bạn biết từ Ba Tri ra Huế bao xa hông? Theo bản đồ hiện nay với đường sá đàng hoàng là có… 1.035 cây số hà! Mà hồi đó hổng có xe khách chất lượng cao – giường nằm, càng hổng có máy bay. Đoạn đường miền Tây thì sông rạch chằng chịt mà đâu có đủ cầu như bây giờ. Ra tới Trung thì đèo núi cheo leo.
Hồi mấy năm trước, Hai Ẩu có dịp đi Ba Tri. Từ TP Bến Tre đến Ba Tri khoảng 35 km, Hai Ẩu đi bằng xe hơi mà nghe rêm cả mình mẩy vì ổ gà ổ voi quá chừng.
Vậy đó, vậy mà ông già Kiểm lặn lội từ Ba Tri ra Bến Tre, ra Mỹ Tho, Sài Gòn… rồi ra tuốt tới đèo Hải Vân, qua đèo để tới Huế. Bái phục ổng thiệt!
Ra tới kinh thành ổng oánh trống thùng thùng đòi gặp vua để kiện. Vua Minh Mạng ra tiếp, hỏi ổng: Khanh ở mô mà ra đến tê?
Ổng nói: Lão ở Ba Tri!
Rồi kể lể nguồn cơn sự việc. Minh Mạng nói: Trẫm pó-tay với khanh luôn.
Thế rồi vua xử cho ổng thắng kiện. Từ đó, ông Kiểm được tặng cho biệt danh Ông già Ba Tri. Và cũng từ đó thành ngữ Ông già Ba Tri ra đời để chỉ mấy ông già gân, đã chơi là chơi tới bến!
Như có kể một phần ở trên, đường đến Ba Tri chả thuận tiện tí nào. Xứ ấy cũng chẳng phải nơi có nhiều thú vui chơi cho những du khách ham dzui như rì-xọot, nhà hàng, khách sạn sang trọng… Thế nhưng Hai Ẩu vẫn muốn dụ các bạn đến đó chơi một lần cho biết. Trước là biết quê hương ông già Ba Tri (tới đó, bạn sẽ gặp ông già Ba Tri, bà già Ba Tri, chàng trai Ba Tri, cô gái Ba Tri, thằng nhỏ Ba Tri...). Sau là… sẽ là một điều bất ngờ đối với bạn.
Đó là thế này: Cái huyện Ba Tri nhỏ bé ở miền xa heo hút ấy có đến 3 ngôi mộ của 3 vị danh nhân văn hóa lớn trong lịch sử Việt Nam!
Từng được coi là một trong những huyền thoại về sự can đảm, đức độ, ông già Ba Tri gần như là một khuôn mẫu cho hình ảnh một cụ già miền Tây Nam bộ. Xung quanh nhân vật mang đậm màu sắc dân gian này còn nhiều chuyện lạ lùng được truyền tai nhau qua nhiều thế hệ. Như chuyện ông đã đi bộ hơn ngàn cây số từ Bến Tre ra kinh thành Huế dâng đơn khiếu nại, thưa kiện với nhà vua đương triều về một việc đến nay vẫn còn tranh cãi, đó là chuyện lấp sông ngòi, kênh rạch phía thượng nguồn.
Chuyện đời người đi mở cõi
Ông già Ba Tri tên thật là Thái Hữu Kiểm (hay Cả Kiểm) sống vào thời đầu của triều vua Minh Mạng, tức là khoảng những năm 1820. Ông Kiểm là cháu nội của ông Thái Hữu Xưa, một người quê ở Quảng Ngãi nhưng đã xuôi thuyền vào vùng đất Ba Tri này dựng làng, lập nghiệp, xây chợ cho cư dân quanh vùng, được người dân vô cùng nể trọng và tôn kính. Ngoài ra, lúc còn trẻ, ông Kiểm còn có công giúp Nguyễn Ánh trong những năm tháng loạn lạc chinh chiến với nhà Tây Sơn nên được sắc phong chức “trùm cả An Bình Đông” của phủ Ba Tri ngày đó. Có lẽ, chính nhờ tước hiệu của vua Gia Long ban cho mà sau này, dân quanh vùng thường gọi ông là Cả Kiểm. Tuy nhiên, những câu chuyện lưu truyền hậu thế về ông chỉ thực sự đến khi vua Gia Long mất, thời điểm mà bản thân ông Cả Kiểm cũng đã già.
Có thể nói, với cư dân ven sông Hàm Luông thủa ấy, gia tộc họ Thái Hữu là một gia tộc giàu có, uy tín trong vùng. Lúc đó, để mở rộng sinh hoạt cũng như việc làm ăn buôn bán, ông Cả Kiểm đã cho xây dựng chợ Trong (nay là chợ Ba Tri) để người dân thuận tiện trao đổi hàng hóa, thông thương với môi trường bên ngoài nhằm phát triển kinh tế. Theo đó, do lưu thông đường thủy, đường bộ đều thuận tiện nên dân cư vùng lân cận như Phú Lễ, Bình Tây, Mỹ Chánh… kéo vào chợ Trong ngày một đông, không khí rất tấp nập, hàng hóa đa dạng vô cùng. Các thương lái buôn vải, thủy sản, nông sản, muối, rượu… ở tới tận Mỹ Tho, Trà Vinh, Tam Hiệp, Tân An…cũng men theo sông Hàm Luông, sông Cổ Chiên, đi qua kênh Ba Tri, con rạch duy nhất vào chợ để tìm đến đây thông thương khiến nơi này bỗng chốc trở nên nhộn nhịp khác thường. Có thể nói, từ khi chợ Ba Tri này được xây dựng, cuộc sống của người dân có nhiều thay đổi, ai cũng thích thú và vui mừng. Thế nhưng, có một người là ông Xã Hạc, chủ một khu chợ Ngoài đã xây dựng trước đó, nằm ở phía đầu con kênh Ba Tri ngày ấy đã tỏ ra không hài lòng bởi khu chợ của ông đã bị vắng khách từ đó. Thế là, ông Xã Hạc bèn cho người đắp kênh, ngăn đập chắn ngang dòng Ba Tri để ghe thuyền không thể đi từ sông Hàm Luông đi vào chợ Trong được nữa. Biết chuyện, ông Cả Kiểm bèn đâm đơn kiện ông Xã Hạc lên quan tri huyện, rồi quan tri phủ. Ngày ấy, vùng Ba Tri này còn thuộc địa phận hành chánh của tỉnh Vĩnh Long nên quan tri phủ Vĩnh Long xử cho ông Xã Hạc thắng kiện với lý lẽ theo kiểu “lệ làng” là đất, sông, kênh, rạch ở làng nào thì làng đó được quyền đào, đắp. Nghĩa là, chuyện ông Xã Hạc đắp một phần rạch Ba Tri chảy qua địa phận của làng ông ở là đúng, không xâm phạm đến đất, kênh rạch của cư dân ở làng khác, dưới dòng Ba Tri. Có thể nói, đây là cách mà hầu hết các quan lại thời phong kiến thời đó vẫn thường phán xử trong những vụ án tranh chấp. Nhiều người gọi đó là luật làng, là những điều mà dân gian đã từng cho là đúng. Thế nên, do bị bịt mất tuyến đường thủy quan trọng từ sông Hàm Luông dẫn vào, chợ Trong của ông Cả Kiểm lại trở nên vắng khách, tiêu điều. Tuy nhiên, không hài lòng với cách xử của quan tri phủ Vĩnh Long, ông Cả Kiểm đã quyết định lên tận kinh thành Huế xa xôi để dâng đơn kiện tới tận nhà vua, quyết trí kêu oan.
Trong thời gian tìm hiểu về những giai thoại hư và thực quanh nhân vật ông già Ba Tri, chúng tôi may mắn gặp ông Trần Văn Tư, 77 tuổi, một người sinh ra và lớn lên ở vùng đất Phú Lễ, Ba Tri. Ông Tư kể với chúng tôi, ở khắp vùng này, từ phía An Thủy, Bảo Thuận cho tới tận Tân Thị, Vàm Hồ… không ai là không biết đến ông già Ba Tri mặc dù những thông tin về đời tư của ông đều là truyền miệng, từ đời này qua đời khác chứ chưa có một tài liệu chính sử nào nhắc tới. Theo đó, sau khi người dân vùng chợ Ba Tri đang buồn rầu vì con rạch Ba Tri bị lấp mất, chợ vắng vẻ nên ông Cả Kiểm quyết định khăn gói đi bộ cùng hai người bạn già của mình ra tận kinh thành để kêu kiện, dâng đơn lên nhà vua đương triều là Minh Mạng. Về chuyện này, có nhiều giai thoại khác nhau. Trong đó, có người bảo bên bị đơn là ông Xã Hạc thực ra cũng là một người bạn của ông Cả Kiểm. Hai ông đều muốn mình thắng kiện để chứng minh mình đúng chứ không phải ăn thua hơn thiệt gì nên ông Xã Hạc cũng theo ông Cả Kiểm ra tận kinh thành Huế với mong muốn được gặp vua đương triều là vua Minh Mạng đòi phân xử. Tuy nhiên, theo một số người già khác ở vùng Ba Tri thì đi theo ông Cả Kiểm ra kinh thành dâng đơn khiếu nại chỉ có 2 người bạn già là ông Nguyễn Văn Tới và Lê Văn Lợi.
Vụ kiện để đời
Kể tiếp về câu chuyện, vừa uống thêm ngụm nước, ông Tư vừa chậm rãi bảo, với những người dân miền Tây chúng tôi, vụ tranh chấp giữa ông Cả Kiểm và Xã Hạc không đơn giản chỉ là vụ kiện để tìm ra người thắng, kẻ thua mà còn là dấu mốc để xóa bỏ cách hành xử theo lệ làng, cũng được coi là dấu mốc của việc tranh chấp đất đai, dòng sông và nguồn nước đầu tiên ở mảnh đất này.
Riêng về chuyện lặn lội lên tận kinh thành Huế, ở những năm 1820, phương tiện đi lại hầu như chỉ có đi bộ nên phải mất gần nửa năm trời, đoàn cả “bị đơn-nguyên đơn” của ông Cả Kiểm mới tới nơi. Tương truyền, khi ấy ở thành Đại nội có một cái trống kêu oan gọi là trống Đăng Văn, đặt giữa sân trầu, tiếng của nó vang xa mười dặm, ai có oan ức đều có thể vào đó đánh ba hồi trống để vua biết. Sau khi nghe tiếng trống, vua sẽ lệnh cho quan Tam Pháp ty xử án. Nếu khiếu nại đúng, sẽ được minh oan, giải quyết thỏa đáng còn nếu sai, sẽ bị trị tội để tránh việc người gióng trống vu khống. Ngoài ra, một số vị vua nhà Nguyễn thời sau đó còn cấm người dân trong Đại nội đánh trống để vua phân biệt được với tiếng trống Đăng Văn, như một hình thức trân trọng những người đi kêu oan, khiếu kiện.
Còn về chuyện ông già Ba Tri, sau khi đơn khiếu nại được vua Minh Mạng xem xét, thấu đáo tình hình, nhà vua đã bác bỏ cách xử của quan phủ Vĩnh Long và phán rằng: “Lòng sông lòng rạch là của chung, không phải của làng này, làng kia nên quan huyện, phủ phải coi phá đập để dòng chảy thông thương”. Điều đó có nghĩa là ông Cả Kiệm đã thắng kiện và việc tự ý đắp đập khi dòng kênh Ba Tri chảy qua địa phận làng mình của ông Xã Hạc là sai trái. Có thể nói, đây cũng chính là vụ án đầu tiên được đích thân vua Minh Mạng xử và phán quyết ngược với những “luật làng” truyền miệng từ trước đến nay. Bản án này, sau đó đã làm nức lòng không chỉ người dân trong vùng Ba Tri mà ngay cả những người dân miền Tây đi mở cõi khác, giúp cho hệ thông sông ngòi kênh rạch được thông thương. Nhìn rộng ra, phán quyết của nhà vua cũng đồng ý với việc mở rộng buôn bán, phản bác tất cả các hình thức ngăn sông cấm chợ trước đây. Qua đó, họ coi ông Cả Kiểm chính là hình mẫu của những người già mà không chịu khuất phục, quyết tâm đi tìm công lý, lẽ phải và trên hết, luôn muốn có những điều tốt đẹp cho mọi người xunh quanh. Sau đó, chợ Trong đổi tên thành chợ Ba Tri (có người còn gọi là chợ Đập) để khắc ghi công lao của ông Cả Kiểm thời bấy giờ.
Sau hơn 200 năm trời, vùng đất ven biển Ba Tri ngày xưa đã trù phú hơn rất nhiều, con đường đất độc đạo ngày xưa giờ đã là bùng binh, nơi giao nhau của 5 tuyến đường tỉnh và huyện lộ khác nhau. Cư dân cũng tập trung đông đúc hơn và gia tộc họ Thái Hữu cũng đã chuyển đến vùng đất khác để định cư nhưng những câu chuyện gắn liền với huyền thoại ông già Ba Tri thì mãi mãi vẫn còn lưu truyền cho hậu thế như một câu chuyện đẹp đẽ về hình ảnh những người tuy tuổi cao nhưng vẫn tràn đầy nghị lực và sức sống trong cuộc đời.
Đoàn Đại Trí
Dùng 30.000 tấn vàng, Trung Quốc nuôi tham vọng đánh bại đồng đô-la Mỹ
Chuyên gia kinh tế Trung Quốc Kim Tử Hậu khẳng định với với báo New York Times (NYT) rằng Trung Quốc sẽ tích trữ 30.000 tấn vàng để hạ gục đồng đô-la Mỹ trên thương trường thế giới.
Ông Kim nhấn mạnh: Từ khi sức mạnh của đồng USD giảm dần, thì việc tích trữ 30.000 tấn vàng để hạ gục đồng đô-la Mỹ là điều hoàn toàn có thể, lúc đó, thế giới sẽ không còn lệ thuộc vào đồng đô-la Mỹ.
Dẫn lời cựu chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Alan Greenspan, ông Kim gợi ý, rằng đồng Nhân dân tệ TQ có thể giáng một “đòn hiểm độc” vào hệ thống tài chính ngày nay, nếu TQ chuyển đổi 4 nghìn tỷ USD tài sản hiện có thành vàng.
Đồng USD hiện vẫn là đồng tiền mạnh nhất, chiếm đến 60% lượng dự trữ toàn cầu. Tuy nhiên nhiều quốc gia vẫn luôn tìm cách hạn chế sức mạnh của đồng USD và giảm thiểu sự phụ thuộc vào đồng tiền này.
Theo ông Kim Tử Hậu, tích luỹ một số lượng vàng đáng kể, khoảng 30.000 tấn, là cách duy nhất để Bắc Kinh có thể chấm dứt sự thống trị của đồng USD.
Trong trường hợp này, TQ có thể thách thức vị trí thống trị lâu dài của Mỹ trên thị trường tài chính và thương mại toàn cầu.
Điều đáng chú ý là Alasdair Macleod - một nhà nghiên cứu và cựu giám đốc điều hành của một ngân hàng nước ngoài tại Guernsey và Jersey - đã chỉ ra rằng giữa năm 1983 và 2003, TQ có thể đã bí mật tích lũy gần 20.000 tấn vàng .
Theo các chuyên gia, thì "Từ năm 2002, TQ chắc chắn đã mua thêm 5.000 tấn vàng, bằng nhiều hình thức".
Ông cho rằng bằng việc cho phép người dân sở hữu vàng vào năm 2002, và việc hình thành Trung tâm giao dịch vàng Thượng Hải , Bắc Kinh đã làm giảm sự cần thiết của việc can thiệp tiền tệ để ngăn chặn sự tăng giá của đồng nhân dân tệ.
“Theo đó, Nhà nước TQ có thể đã tích lũy từ 20.000 đến 30.000 tấn vàng từ năm 1983, và không cần thiết mua thêm từ thị trường"- các chuyên gia nhấn mạnh.
TQ có thể sớm đưa ra con số mới nhất về lượng vàng dự trữ thực tế, trong khi các quan chức Bắc Kinh đang nỗ lực để đưa đồng nhân dân tệ vào rổ tiền tệ của Quỹ tiền tệ quốc tế, cùng với đồng USD Mỹ và các ngoại tệ khác .
Trong khi đó, TQ đã ký kết thỏa thuận hoán đổi tiền tệ với khoảng 28 quốc gia và thành lập một trung tâm giao dịch bằng đồng Nhân dân tệ tại Thụy Sĩ.
Hơn nữa, Bắc Kinh đang khuyến khích chống đô-la hóa giữa các thành viên của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải .
Các thỏa thuận năng lượng giữa Nga và TQ được ký kết bằng đồng Nhân dân tệ và đồng rúp trong năm 2014, được các chuyên gia báo trước như một tín hiệu cho sự thay đổi của một hệ thống tiền tệ khác.
Tuy nhiên, các nhà kinh tế phương tây bày tỏ nghi ngờ về khối lượng vàng dự trữ của TQ.. Theo ước tính , Ngân hàng Trung ương TQ có thể dự trữ đến 3.510 tấn vàng trong năm 2009, và điều này giúp TQ trở thành quốc gia sở hữu vàng lớn thứ hai thế giới, sau Mỹ với 8.133,5 tấn.
Đồng thời , theo báo cáo mới nhất của Hội đồng Vàng Thế giới - tổ chức phát triển thị trường cho ngành công nghiệp vàng – TQ chiếm vị trí thứ bảy trong danh sách chính thức các quốc gia nắm giữ vàng của thế giới chỉ với 1.054,1 tấn vàng dự trữ.
Theo Duowei News, một kênh truyền thông tại Mỹ, lượng dự trữ vàng của TQ có thể không lên tới con số 30.000 tấn .
Tuy nhiên , sẽ không ai tranh luận về việc TQ đã tích lũy vàng quy mô lớn trong những năm gần đây, khi mà ảnh hưởng quốc tế và vị thế trong thương mại toàn cầu của TQ đã được tăng cường mạnh mẽ.
Nền kinh tế TQ có thể vượt mặt Mỹ vào năm 2016 và không loại trừ khả năng đồng Nhân dân tệ sẽ thay thế đồng USD Mỹ, trở thành đồng tiền dự trữ chính của thế giới.
==============================
Xóm không căn cước
Dưới những túp lều rách nát chen chúc rất nhiều số phận không quốc tịch, không căn cước, không có lấy mảnh đất cắm dùi. Họ từng bơ vơ, lạc lỏng trên Biển Hồ, Campuchia.
Từ năm 2015, chính quyền Campuchia thắt chặt kiểm soát, những người Việt sống lây lất trên Biển Hồ bằng nghề đánh cá, chài lưới phải đóng thuế mỗi năm 250.000 riel để tồn tại, bằng không, sẽ bị bắt nhốt trong trại cải tạo. Hết đường sống, họ quay trở lại quê hương với danh nghĩa Việt kiều Campuchia nhưng không có quốc tịch.
“ Tôi là Việt Kiều Campuchia, về đây nghèo quá, bởi bên đó cũng nghèo. Tôi quá khổ rồi, bên Miên quá khổ rồi nên mới về tới đây, không có gạo mà ăn. Mà cũng không có chỗ để ở nữa, không có giấy tờ gì cả." Bà Nguyễn Thị Thô nói .
Chị Trần Thị Bé là một người trong số đó, hiện sống tạm bợ ở hồ Dầu Tiếng, Tây Ninh. “Trên đây rất là khổ. Vợ chồng em về đây được tháng này. Nhà em bảy người, năm đứa con với hai vợ chồng là bảy người. Sống lây lất vậy thôi, bà con cho gạo, muối, thức ăn để sống qua ngày chứ em không có giấy chứng minh nhân dân. Ở đây không ai có giấy chứng minh nhân dân cả, chẳng ai dám mướn mình đi làm. Con cái không đứa nào được đi học cả.”
Một người đồng cảnh ngộ với chị Bé ở xóm này, ông Nguyễn Văn Huyện, cho biết: “Ở bên đó, họ bắt mình đóng thuế mỗi năm 250.000 riel mỗi người. Không đóng thì họ bắt mình đi cải tạo, làm cho đủ số tiền đó mới được về. Năm 2015 đến 2016, Campuchia họ tiến hành làm vụ này.”
Thiếu lương thực, thiếu vệ sinh an toàn thực phẩm, thiếu phương tiện làm ăn, và đặc biệt là thiếu giấy tờ hợp pháp để làm việc, sinh sống là hoàn cảnh chung của hơn hai trăm gia đình người Việt về từ Campuchia đang sống tạm bợ trong những căn chòi hở trước trống sau bên bờ hồ Dầu Tiếng. Đàn ông may mắn lắm mới được người dân địa phương thuê làm việc. Phụ nữ hầu như không ai kiếm được việc làm, quanh quẩn với mẻ lưới, con cá, nải chuối, bó rau mua đi bán lại. Mọi thứ hầu như bế tắc.
“Tôi là Việt Kiều Campuchia, về đây nghèo quá, bởi bên đó cũng nghèo. Tôi quá khổ rồi, bên Miên quá khổ rồi nên mới về tới đây, không có gạo mà ăn. Mà cũng không có chỗ để ở nữa, không có giấy tờ gì cả,” bà Nguyễn Thị Thô chia sẻ với VOA.
"Ở bên đó, họ bắt mình đóng thuế mỗi năm 250.000 riel mỗi người. Không đóng thì họ bắt mình đi cải tạo, làm cho đủ số tiền đó mới được về. Năm 2015 đến 2016, Campuchia họ tiến hành làm vụ này." Ông Nguyễn Văn Huyện
“Ở đây không có giấy tờ gì cả nên chẳng thể nào đi làm thuê cho ai được. Giờ bên đó (Biển Hồ) cũng không còn cá mắm gì để mà đánh nữa, nên lại về đây. Mà về đây thì đói liên tục. Xin bà con hỗ trợ cho chút gạo để sống,” chị Phạm Văn Lang, một cư dân trong xóm, than thở.
Lương thực, thực phẩm, muối, dầu ăn, nước mắm, rau cải, thịt, trứng, những thứ rất quen thuộc trong bữa ăn hằng ngày của các gia đình bình thường lại là những thứ rất xa lạ, xa xỉ với xóm không căn cước này.
Nguồn nước uống và vệ sinh an toàn thực phẩm ở đây là một vấn đề nhức nhối. Không có chỗ ở ổn định, không có phòng vệ sinh, không có phòng tắm, mọi thứ đều diễn ra theo lối nguyên thủy. Nhưng cũng may là người ta còn có áo quần để mặc.
Những tiếng kêu xin lương thực của xóm không căn cước như một chỉ dấu cho thấy họ vẫn còn liên lạc được với loài người.
Đỗ Hứng gởi
|
|