ÔNG "MỘT ÁO" VÀ CUỘC ĐẤU TRANH NỘI TÂM
Có một người đàn ông nghèo đến nỗi chỉ sở hữu duy nhất một manh áo rách, cũ rích và vá chằng chịt nên thường được mọi người gọi là “ông một áo”. Hễ thấy áo của ông phơi ngoài sân thì người ta hiểu rằng ở trong nhà ông đang phải co ro không có gì mặc, tối đến không thấy ai mới bò ra sân lấy áo. Chính vì lâu lâu mới giặt một lần nên trước ngày ông giặt mọi người không ai dám đến gần.
Nói là tấm áo nhưng thực sự chiếc áo của ông chỉ là miếng vải vuông được cột quấn lại. Y phục của người Ấn Độ thời xưa đã chậm tiến hơn so với y phục của Trung Hoa và Âu châu. Tại Trung Hoa hay Âu châu thời xưa, người ta đã biết cắt may vải cho phù hợp với vóc dáng con người, có ống tay ống chân đàng hoàng. Trong khi đó ở Ấn Độ, kỹ thuật về y phục chưa tiến bộ nhiều nên họ chỉ để miếng vải vuông rồi tìm cách quấn cột lại cho khỏi bung ra. Hình ảnh các sư Nam tông đắp y quanh cơ thể cũng phản ánh y phục của người Ấn Độ xưa như thế.
Một hôm nghe nói có Đức Phật xuất hiện và thuyết pháp với đông đảo đồ chúng khiến cho ai nấy đều được an lạc hạnh phúc... ông một áo hơi tò mò. Sau đó, ông lại được biết Phật sẽ giảng pháp suốt đêm và vua Ba Tư Nặc cũng đến nghe nên càng thêm vui thích và háo hức. Ngày xưa giữa dân và vua có khoảng cách rất lớn. Vua ở trong cung điện bận rộn việc triều chính, đi đâu cũng có cận vệ theo hầu trước sau, bảo vệ rất nghiêm ngặt nên người dân hiếm khi được gặp vua. Chỉ khi ở trong hội chúng của Phật thì người dân mới được tận mắt trông thấy đức vua của họ. Khi ấy vua cũng trở nên bình dân, hiền lành, không có sự ngăn cách lớn. Đến với cửa Phật, mọi người như được xích gần lại bên nhau, bình đẳng với nhau. Bởi vậy mới có câu:
Mỗi người mỗi nước mỗi non
Bước vào cửa Phật thành con một nhà.
Từ thời Đức Phật, vua chúa trước khi bước vào tinh xá đều phải để gươm, vương phục, mũ mão ngoài cổng, thậm chí có những vị vua còn cởi giày và đi chân trần. Vua Ba Tư Nặc cũng thế, lòng vua rất tôn kính Đức Phật. Đêm đó, vua cũng đến nghe pháp.
Vào thời đó, Phật thường thuyết pháp cả đêm nhưng kinh điển không ghi chép lại hết được. Nghe nói có vua đến, ông một áo cũng lật đật tìm tới, và dĩ nhiên cũng chỉ mặc chiếc áo duy nhất của mình. Bước vào tinh xá, ông thấy Tăng chúng rất trang nghiêm, còn mọi người thì đang lũ lượt kéo đến rất đông. Thấy vua ngồi gần Đức Phật, ông cũng chen lên ngồi gần đó để được nhìn vua. Thì ra mục đích của ông là ngắm vua chứ ông cũng không biết Đức Phật là ai cả.
Thế nhưng từ khi Phật bắt đầu thuyết pháp, ông liền bị cuốn hút bởi dung mạo phi phàm và lời nói của Người. Giọng của Đức Phật là giọng từ thành Ca Tỳ La Vệ, tuy hơi khác một chút nhưng cũng gần giống giọng ở kinh đô Xá Vệ nên mọi người vẫn nghe hiểu được. Và Phật có một giọng đặc biệt gọi là phạm âm, tức là giọng trầm ấm, từ ái, dễ nghe. Hội chúng dù lớn cách mấy, thính chúng ngồi xa cách mấy, thì vẫn nghe như Người nói bên tai mình, thật ngân vang, rõ ràng. Đây là tính chất đặc biệt của một Đức Phật.
Chính bởi hai lý do này mà khi Phật vừa cất lời, ông một áo lập tức bị cuốn hút theo. Cảm xúc đầu tiên là trong ông dâng trào lòng tôn kính Phật thiết tha. Rồi dần dần, khi nghe Phật nói về nhân quả, về đạo đức, và sự giải thoát, ông khao khát muốn dâng cúng Phật thứ gì đó. Dù ngồi nghe từng lời của Phật có khi hiểu, có khi không, nhưng lòng tôn kính trong ông thì cứ dâng trào, ý muốn cúng dường càng thôi thúc. Nhưng ông có gì? Chỉ có mỗi manh áo. Nếu cởi áo ra thì ông vẫn còn chiếc khố nhỏ ở bên trong, ông phân vân đấu tranh giữa ý muốn cúng dường manh áo của mình cho Đức Phật hay là giữ nó lại – thứ tài sản duy nhất của mình.
Giằng co cả đêm, đến sáng, ông đã quyết định. Ông nhẹ nhàng cởi manh áo ra, xếp lại. Đến chỗ Đức Phật, ông đặt manh áo xuống rồi đảnh lễ với ý dâng cúng. Thay vì nói: “Con xin cúng dường Thế Tôn” thì ông lại la lên: “Ta đã chiến thắng, ta đã chiến thắng!”. Trừ Đức Phật ra không ai hiểu tại sao ông lại hét lên như thế. Cả đêm, ông phân vân “Cúng hay không cúng, cúng hay không cúng...”, cho đến sáng thì mới quyết định cởi tấm áo ra cúng dường. Nhiều người ngạc nhiên không biết tại sao ông chạy lên cúng Phật mà lại la lên “Ta đã chiến thắng” như vậy. Ông “đánh ai” mà chiến thắng? Khi ông chạy xuống thì chỉ còn lại cái khố nhỏ xíu.
Cả vua Ba Tư Nặc cũng ngạc nhiên hỏi: “Có chuyện gì vậy?”. Không muốn làm động chúng, vua bèn cho lính đến gặp ông tìm hiểu. Lính bước đến ngăn ông lại: “Tại sao lên dâng cúng Thế Tôn mà ông lại nói rằng đã chiến thắng, như thế nghĩa là sao?”. Lúc này, ông mới trình bày: “Thưa ngài, tôi chỉ có manh áo duy nhất và cả đêm tôi đã giằng xé rằng có nên cúng dường Thế Tôn hay không. Nhưng đến sáng, tôi đã quyết định là phải cúng, và tôi đã thắng được cái tâm bỏn xẻn, chấp thủ của mình. Tôi mừng rỡ la lên đã chiến thắng là vì thế chứ tôi không có ý gì, xin ngài lượng thứ".
Người lính về thuật lại sự tình làm vua rất cảm động. Vua lệnh cho vị thủ kho đứng cạnh hãy tặng ngay hai tấm vải cho người đàn ông kia. Vị này nhanh chóng lấy hai tấm vải mới rất đẹp mang đến trao tận tay cho ông. Suốt cả đêm, ông đã đấu tranh để cúng Phật, ý muốn cúng dường dồn nén mà không có gì để cúng, cuối cùng cúng được manh áo cũ ông đã quá mừng. Vậy mà bây giờ được đến tận hai tấm vải mới. Không một chút đắn đo, ông mang hai tấm vải đến để trước Phật dâng cúng, còn ông vẫn mặc chiếc khố chạy về. Nhìn thấy cảnh này, vua lại ra dấu bốn ngón tay cho vị quan giữ kho. Vị này liền lấy bốn tấm vải tặng ông bù lại. Cũng vậy, vì ước muốn cúng dường được dồn nén cả đêm, ông tiếp tục mang bốn tấm vải cúng Phật. Vua Ba Tư Nặc ra dấu tám tấm, vị thủ kho rút tám tấm đưa cho ông già nghèo, rồi ông cũng lấy cúng Phật...
Cứ như vậy cho tới khi lên đến ba mươi hai tấm thì trời cũng đã sáng, ông cúng dường ba mươi mốt tấm, chỉ giữ lại một tấm cho mình mặc. Ông vẫn là ông già một áo nhưng rất hạnh phúc. Lúc này, vua đã quay về cung nhưng khi nghe báo lại rằng ông mang cúng dường chúng Tăng hết ba mươi mốt tấm, chỉ giữ lại một tấm cho mình, vua sai người giữ kho mang cho ông một số vàng bạc. Thế là từ một người nghèo khổ, ông bỗng chốc sung túc hơn và bắt đầu tu tập, tạo thêm nhiều công đức mới.
Nghe câu chuyện lạ đó các vị tỳ kheo đã hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn, tại sao người này chỉ cúng một manh áo rách rưới, chắp vá, cũng không thơm tho gì lắm, mà lại được phước đến nhanh như vậy?” Phật bảo rằng, nếu người đó dâng cúng từ ngay đầu hôm thì hôm nay không chỉ có bấy nhiêu vàng bạc mà sẽ được hơn rất nhiều. Nhưng vì có tâm do dự nên phước bị tổn giảm, chỉ còn nhận được số vàng bạc kia. Rồi Đức Phật nói bài kệ:
"Hãy mau làm điều lành
Để tâm không nghĩ ác
Ai chậm làm điều lành
Tâm sẽ nghĩ điều ác".
với đại ý là khi muốn làm điều thiện thì hãy làm ngay chứ đừng để lâu. Bởi lẽ, nếu để lâu tư tưởng xấu dễ khởi lên ngăn cản ta. Chậm làm việc lành thì điều ác sẽ chiếm chỗ, tâm ta sẽ dễ nghĩ ác hơn.
Đường đi nhanh - chậm của quả báo
Trong nhân quả, quả báo đến nhanh là do ta không còn nặng nợ quá khứ nhiều. Ví dụ, có người cũng hiền thiện, một hôm bạn bè rủ đi câu cá rồi trên đường về bị ngã xe, trầy xước đôi chút. Người này sực nhớ là hôm nay mình đã câu mấy con cá về nhậu cho vui, và có linh cảm rằng việc ngã xe có liên quan đến mấy con cá vừa câu sáng nay. Trường hợp này là quả báo đến sớm. Vì người này không có nghiệp gì nặng nên quả báo đến ngay, báo cho họ dừng tay tạo nghiệp. Còn người nặng nghiệp thì đi câu cá, thậm chí bắt cả đàn cũng chưa có chuyện gì xảy ra, nghiệp sẽ cộng dồn lại đến kiếp nào đó mới trả quả, kiếp này thì chưa phải trả ngay. Khác với người có phước, vừa sẩy tay một chút là quả báo đã hiện ra để cảnh báo.
Trường hợp của ông một áo cũng vậy, tuy mắc nghiệp nghèo khổ nhưng ông không có tội tình gì nhiều và đặc biệt là dù có một chút do dự, giằng xé nhưng cuối cùng ông đã dám cúng hết những gì mình có lên Phật. Thế nên ông được phước rất lớn và phước báo trở lại cũng đến rất nhanh – được vua ban thưởng hậu hĩnh. Vua thưởng đến đâu ông lại tiếp tục cúng dường đến đó để thỏa cái tâm muốn cúng hết những gì mình có cho Phật. Chính cái tâm tốt đẹp đó đã đem lại quả phước lớn lao cho ông. Trường hợp của ông gọi là quả báo đến nhanh.
Qua câu chuyện chúng ta rất quý trọng người đàn ông nghèo khổ này, đồng thời cũng rút ra được những bài học quý giá khi làm phước. Thứ nhất là đạo đức: xin đừng do dự, vì do dự thì phước sẽ giảm. Thứ hai là phước có thể đến nhanh, có thể đến chậm, tùy vào nghiệp quá khứ của ta nhưng cũng đừng trông mong.
Tạo phước nhưng không liều lĩnh
Vâng lời Phật, chúng ta hiểu rằng khi có cơ hội làm điều thiện hãy cố gắng làm ngay đừng do dự bởi vì sự do dự khiến cho cái phước của ta bị nhỏ lại. Thế nhưng trong một số trường hợp, chúng ta phải rất khéo léo và tinh tế trong việc làm phước, đặc biệt là không được liều lĩnh.
Ông một áo kia độc thân nên ông muốn cúng dường tất cả những gì mình có cũng không ảnh hưởng đến ai. Nhưng với những người đã có gia đình thì không được làm như vậy. Trách nhiệm đối với gia đình là trách nhiệm của đạo đức và của pháp luật, không còn phụ thuộc vào cảm tính của ta nữa. Gia đình là sự ràng buộc rất lớn, và trong sự ràng buộc lớn lao đó ta không được phép vô trách nhiệm. Bởi vậy mà những người đã có gia đình khi muốn làm điều phúc đều phải rất cân nhắc. Trừ trường hợp cả gia đình đồng lòng, còn lại nếu 'vung tay quá trán' thì tuy bên ngoài ta được phước nhưng bên trong lại có lỗi với gia đình.
Chẳng hạn, cả nhà chỉ có một tấm áo mà mọi người đều đồng lòng cúng dường hết thì không có tội. Nhưng nếu chỉ một người phát tâm mà những người còn lại không đồng ý thì người đó không được quyền làm. Họ không được mang quần áo đi cho hết mà chẳng cần biết vợ con mình sẽ mặc gì, hoặc không được tự đem hết số gạo có trong nhà mang đi bố thí để vợ con phải đói khát. Nếu có gia đình thì ta buộc phải có trách nhiệm. Còn nếu cứ liều lĩnh lấy tài sản của gia đình làm phước bên ngoài thì cũng là một cái tội lớn.
Tài sản trong gia đình là của chung, pháp luật cũng quy định rất rõ như vậy. Thế nên dù người chồng hay người vợ, người cha hay người mẹ làm ra tiền cũng không được nghĩ đó là tài sản riêng của mình và có thể sử dụng tùy ý. Nhiều gia đình đổ vỡ chỉ vì một người tự ý lấy tài sản làm việc gì đó mà không hỏi người còn lại. Như người chồng phát hiện vợ mình mang tiền nhà về cho cha mẹ vợ, hoặc người vợ phát hiện chồng mình lấy tài sản mang về cho nhà chồng, từ đó gia đình cũng bắt đầu lục đục, rạn nứt. Vì vậy trong gia đình, vợ chồng phải có sự bàn bạc thống nhất với nhau.
Trong lễ hằng thuận được tổ chức ở chùa, quý Thầy Cô nên dặn các Phật tử: việc của gia đình bên chồng thì để cho người vợ lo, còn việc của gia đình bên vợ thì cũng hãy để chồng lo. Bởi vì khi có sự lo lắng cho nhau thì sẽ làm tăng thêm tình thương yêu, hạnh phúc, trách nhiệm và sự nhất trí cao trong gia đình. Còn nếu nhà chồng chồng lo, nhà vợ vợ biết, thì gia đình sẽ bị chia làm hai và nguy cơ ly hôn rất là cao. Chính nhờ đan xen trách nhiệm, lo lắng lẫn cho nhau như vậy mà gia đình lại gắn bó bền lâu hơn.
ST
__________________
Hoang Nguyen gởi
