Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh


 
PHẬT KHEN NGƯỜI TRÍ TUỆ

NGƯỜI ĐÃ CHỨNG QUẢ A LA HÁN THÌ KHÔNG CÒN ĐƯỢC PHÉP SỐNG ĐỜI THẾ TỤC. ĐIỀU NÀY KHÔNG CHỈ LÀ GIỚI LUẬT, MÀ CÒN LÀ MỘT QUY LUẬT TỰ NHIÊN CỦA TÂM

VÌ MỘT VỊ A LA HÁN TỰ TÂM HỌ KHÔNG BAO GIỜ CHO PHÉP HỌ RÀNG BUỘC TRONG THẾ GIAN, TRONG NHỮNG BỔN PHẬN ĐỐI VỚI THẾ TỤC. ĐÓ CHÍNH LÀ BẢN CHẤT TỰ NHIÊN CỦA TÂM GIẢI THOÁT, VÀ TỪ ĐÓ HÌNH THÀNH NÊN GIỚI LUẬT ẤY.

DO ĐÓ, TẠI SAO MÀ NGƯỜI TU PHẢI ĐI XUẤT GIA? LÀ VÌ NGƯỜI TU HỌC THEO CÁI TÂM ĐÓ CỦA BẬC A LA HÁN. VÀ CŨNG CHÍNH VÌ ĐÓ MÀ ĐỨC PHẬT MỚI DẠY RẰNG: “CHỈ NHỮNG NGƯỜI XUẤT GIA MỚI CÓ THỂ CHỨNG A LA HÁN”.

LÀ VÌ VẬY, BỞI TÂM CỦA NGƯỜI XUẤT GIA MỚI TƯƠNG ƯNG VỚI TÂM CỦA BẬC ĐÃ HOÀN TOÀN GIẢI THOÁT.

DO ĐÓ, NẾU NGƯỜI ĐÃ XUẤT GIA RỒI MÀ VẪN CÒN ĐỂ TÂM HỒN MÌNH VƯỚNG BẬN VỚI NHỮNG VIỆC THẾ TỤC, NHẤT LÀ ĐỐI VỚI GIA ĐÌNH MÌNH, THÌ ĐÓ LÀ MỘT LỖI — VÀ LÀ LỖI RẤT LỚN.

NÊN CÁI NGƯỜI XUẤT GIA VẬY, VÍ DỤ TA CÓ THỂ NHẮC ĐẾN CHA MẸ, NGƯỜI THÂN, NHƯNG CHỈ NÊN NÓI CHO VUI, CHỨ TRONG LÒNG KHÔNG ĐƯỢC DÍNH, KHÔNG ĐƯỢC VƯỚNG BẬN. VÌ VƯỚNG BẬN LÀ CÓ LỖI. BỞI HỄ CÒN VƯỚNG BẬN, TỨC LÀ CHƯA TRỌN ĐẠO XUẤT GIA.

LÀ BỞI VÌ XUẤT GIA CÓ NGHĨA LÀ HỌC THEO CÁI TÂM CỦA MỘT VỊ A LA HÁN. MÀ KHI MỘT VỊ A LA HÁN CHỨNG ĐẠO RỒI, TÂM HỌ DỨT SẠCH MỌI BỔN PHẬN THẾ GIAN. HỌ CHỈ LÀM THẦY THẾ GIAN THÔI, CHỨ HỌ KHÔNG ĐƯỢC LÀM MỘT NGƯỜI ĐỨNG TRONG THẾ GIAN NÀY, KHÔNG LÀ MỘT NGƯỜI ĐỨNG TRONG TAM GIỚI, KHÔNG LÀ MỘT NGƯỜI MÀ ĐỨNG TRONG MỘT SỰ LIÊN HỆ, RÀNG BUỘC GÌ CÓ TÍNH CÁCH THẾ TỤC.

NÊN KHI MỘT NGƯỜI XUẤT GIA CŨNG VẬY, THÌ HỌ PHẢI HỌC CÁI TÂM ĐÓ, KHÔNG ĐƯỢC CHO PHÉP MÌNH BỊ RÀNG BUỘC BỞI THẾ TỤC, NHẤT LÀ VỚI GIA ĐÌNH MÌNH. Ý LÀ NHƯ VẬY.

“Người trí tuệ sâu xa,
Khéo biết đạo phi đạo,
Chứng đạt quả vô thượng,
Ta gọi Bà La Môn.”

Có một lần, Đức Phật lúc ấy đang ở núi Linh Thứu, Ngài thuyết pháp cho Chư Thiên trong đêm. Cũng trong đêm đó, Tỳ Kheo Ni Khema khởi tâm muốn đến thăm Đức Phật. Khi ấy, bà đang ở tinh xá của bên Ni, là Trúc Lâm tinh xá, nằm gần tinh xá của Chư Tăng. Đó là quy định của Đức Phật, bắt buộc là Chư Ni không được ở quá xa Chư Tăng để được các vị Tăng bảo hộ, theo đúng luật của Bát Kỉnh Pháp.

Thì hôm ấy, khi khởi tâm muốn thăm Phật, bà liền bay từ cái tinh xá của Ni bay lên núi Linh Thứu để thăm Phật. Nhưng khi đến nơi, thì bà thấy Chư Thiên tụ hội đầy khắp cả hư không để lắng nghe Đức Phật thuyết pháp. Cho nên thôi, bà nghĩ thôi, bà nhường lại cái thời gian này cho Chư Thiên. Nên bà lễ Phật xong bà bay trở về.

Lúc ấy, Vua Trời Đế Thích mới hỏi Đức Phật rằng vị Tỳ Kheo Ni vừa rồi là ai. Đức Phật liền đáp sơ lược và khen ngợi bà rằng:

“Người trí tuệ sâu xa,
Khéo biết đạo phi đạo,
Chứng đạt quả vô thượng,
Ta gọi Bà La Môn.”

Ở đây, “Bà La Môn” có nghĩa là người cao quý. Đức Phật dùng danh xưng ấy để tán thán công hạnh của Tỳ Kheo Ni Khema.

TỲ KHEO NI KHEMA – TỪ MỘT HOÀNG HẬU CHƯA TỪNG TU MỘT NGÀY NÀO, CHỈ NGHE PHẬT THUYẾT PHÁP MỘT LẦN ĐÃ CHỨNG QUẢ A LA HÁN 

Tỳ Kheo Ni Khema là một trong những vị Tỳ Kheo Ni nổi tiếng với năng lực thần thông vào thời Đức Phật. Thời Đức Phật, ngoài những vị đại đệ tử Tỳ Kheo Tăng lỗi lạc, xuất chúng, thì phía Ni giới cũng có nhiều vị Tỳ Kheo Ni vô cùng tài giỏi và xuất sắc. Tuy nhiên, họ lại ít được nhắc đến. Lý do là vì quan niệm trọng nam khinh nữ thời bấy giờ, và thêm nữa là dòng truyền thừa của Ni giới trong hệ Nguyên Thủy đã bị gián đoạn, nên các Vị ấy ít được nhắc lại. Chứ thực ra, trong Ni đoàn có rất nhiều Vị rất giỏi.

Như Bà Khema cũng là một trong những vị Tỳ Kheo Ni nổi tiếng về thần thông, bên cạnh những vị khác như Tỳ Kheo Ni Liên Hoa Sắc, v.v... và nhiều vị xuất chúng khác. Không biết còn ai nhớ bà là ai không? Bà chính là hoàng hậu của vua Bình Sa. Vua Bình Sa có bốn người vợ, và trong số đó, bà Khema là một trong những vị hoàng hậu ấy.

Thì bà thấy vua Bình Sa hay mộ đạo, đi nghe giảng về kể lại thì bà ít thích, bà cũng làm lơ lơ. Mà bà đẹp lắm, đẹp kinh hoàng lắm. Thì một lần đó, vua Bình Sa muốn tìm cách để bà có cơ duyên nghe Pháp, nên cho người truyền tin đồn về Đức Phật, nào là tướng hảo, phong thái phi phàm. Nhờ vậy, khi vua rủ, bà mới chịu đi nghe Pháp. Câu chuyện này hình như Thầy từng kể rồi thì phải, có lẽ nằm trong một bài giảng về Kinh Pháp Cú.

Trong bài Pháp Cú trước đây có kể cái chuyện bà đắc đạo rồi. Thì khi mà đến thì Đức Phật thị hiện một người nữ đẹp hơn bà đứng bên cạnh. Thì sau đó cái người nữ đó bắt đầu từ từ già dần, già dần, rồi gục chết luôn, còn có bộ xương cho bà thấy.

Thì đó là, còn Phật nói thì nói cho mọi người nghe, nhưng cái hình ảnh bí mật thì hiện riêng cho mình bà thấy thôi. Cái thần thông của Phật là vậy, là hiện cho một mình bà thấy. Thì bà thấy cảnh đó rồi, cái bà tỉnh ngộ cái lý vô thường. Đức Phật quay sang nói bà một bài kệ, bà chứng A La Hán tại chỗ liền, chưa tu một ngày nào.

Trong Kinh Pháp Cú trước đây có kể lại câu chuyện bà Khema chứng đạo. Khi bà đến gặp Phật, Đức Phật liền thị hiện một người nữ có dung nhan còn đẹp hơn cả bà, người phụ nữ ấy đứng bên cạnh Phật. Thì sau đó cái người nữ đó bắt đầu từ từ già dần, già dần, rồi gục chết luôn, còn có bộ xương cho bà thấy.

Đức Phật khi ấy vẫn giảng pháp cho mọi người, nhưng cái hình ảnh bí mật thì hiện riêng cho mình bà thấy thôi. Cái thần thông của Phật là vậy, là hiện cho một mình bà thấy. Thì bà thấy cảnh đó rồi, cái bà tỉnh ngộ cái lý vô thường. Đức Phật quay sang nói bà một bài kệ, bà chứng A La Hán tại chỗ liền, dù trước đó chưa tu một ngày nào.

Chưa tu một ngày nào, từ một hoàng hậu, chưa tu ngày nào, nghe Phật thuyết pháp một lần chứng A La Hán. Quả thật, phước của bà phải gọi là siêu đẳng. Còn mình đây tu hành cực khổ bao nhiêu năm mà vẫn chưa chứng được gì, trong khi bà đang sống sung sướng rồi, cái phước là một hoàng hậu, nghe Phật một lần rồi chứng A La Hán luôn.

Thì ta nhớ là quy định là cái người chứng A La Hán rồi không được phép làm người thế tục. Đó là cái luật mà là điều tự nhiên, vì một vị A La Hán tự tâm họ không bao giờ cho phép họ ràng buộc trong thế gian, trong những bổn phận đối với thế tục. Đó là cái tâm của một vị A La Hán, tự nhiên nó như vậy và nó thành cái luật.

Do đó, tại sao mà quý thầy phải đi xuất gia, là quý thầy học theo cái tâm đó của Bậc A La Hán. Và cũng chính vì đó mà Đức Phật mới dạy rằng: chỉ những người xuất gia mới có thể chứng A La Hán. Là vì vậy, vì cái tâm nó tương ưng với tâm của A La Hán.

Nên người nào xuất gia rồi mà còn để tâm hồn mình vướng bận với những bổn phận thế tục, nhất là với gia đình mình, thì đây là một cái lỗi, đây là một cái lỗi lớn. Nên cái người xuất gia vậy, ví dụ ta có thể nói về mẹ, nói về cha, nói về gia đình, nhưng nói cho vui thôi, chứ trong lòng không được dính, không được vướng bận. Vì vướng bận là có lỗi.

Là bởi vì xuất gia có nghĩa là học theo cái tâm của một vị A La Hán. Mà một vị A La Hán rồi khi tâm chứng rồi thì cắt đứt hết mọi bổn phận của thế gian. Họ chỉ làm Thầy thế gian thôi, chứ họ không được làm một người đứng trong thế gian này, không là một người đứng trong tam giới, không là một người mà đứng trong một sự liên hệ, ràng buộc gì có tính cách thế tục. Nhớ, một vị A La Hán là như vậy.

Nên khi một người xuất gia cũng vậy, thì họ phải học cái tâm đó, không được cho phép mình bị ràng buộc bởi thế tục, nhất là với gia đình mình. Ý là như vậy.

Vì vậy, ngay khi bà vừa chứng A La Hán xong, Đức Phật liền dạy:
“Khema đã chứng A La Hán, bây giờ hoặc nhập Niết-bàn ngay, hoặc phải xuất gia.”

Nghe đến chữ “nhập Niết-bàn”, vua Bình Sa hoảng hốt, liền thưa:
“Ơ thôi thôi ạ, xin đừng nhập Niết-bàn, cho bà được xuất gia!”

Tức là vua Bình Sa lúc ấy vẫn còn vướng mắc bởi lòng ái luyến, mà chính ông cũng không tự biết. Còn bà Khema, ngay khoảnh khắc chứng đạo, tâm bà đã hoàn toàn dứt sạch mọi ái nhiễm. Nhưng vua Bình Sa thì vẫn còn thương nhớ tha thiết, vì ông mới chỉ chứng đến quả Tu Đà Hoàn thôi. Chính vì vậy, bà liền xuất gia theo lời Phật dạy.

Sau khi xuất gia, bà Khema có được năng lực thần thông vô cùng vĩ đại. Nên trường hợp này không biết bà đã gieo trồng phước đức gì mà lại thù thắng đến như vậy. Thì trong bài câu chuyện về Pháp Cú này thì bà lại xuất hiện một lần nữa, là dùng thần thông bay đến thăm Phật.

Tuy nhiên, khi bay đến nơi, bà thấy Chư Thiên tụ hội đầy khắp hư không nên liền lui lại, nhường buổi Pháp thoại ấy cho họ. Bởi vì nếu mà Phật thuyết pháp cho một người chứng A La Hán, Phật thuyết cách khác. Nhưng mà nếu Phật thuyết Pháp cho Chư Thiên, Phật thuyết một cách khác. Chính vì thế, bà không muốn chen vào, mà chọn lặng lẽ nhường chỗ cho Chư Thiên được nghe Pháp.

Bởi vì nếu Đức Phật thuyết pháp cho một Vị A La Hán, thì Chư Thiên sẽ không thể hiểu nổi những điều sâu xa ấy. Vì vậy, bà chủ động nhường lại, để Phật giảng pháp phù hợp cho Chư Thiên. Đó chính là lý do bà lui ra. Sau đó, Vua Trời Đế Thích bèn hỏi Phật về bà, và Đức Phật đã khen ngợi bà bằng một bài kệ, ý nghĩa là như vậy.

Trích bài pháp “PHẬT KHEN NGƯỜI TRÍ TUỆ”
 
___________________


Tien Tran gởi