Rồi hẹn rằng, sẽ về thăm, lúc đã trăm năm
Tôi gặp nhạc sĩ Phạm Duy, trước hoặc sau năm 2000 một chút. Đó là lần đầu tiên ông về Việt Nam kể từ sau 1975.
Ông lưu trú ở một hotel lớn, khu trung tâm Sài Gòn, hình như Caravelle hay Rex… gì đó, lâu quá tôi quên rồi. Những dòng hồi ức này chắc chắn thiếu sót, thậm chí nhớ cái này xọ cái kia, hơn hai mươi năm rồi còn gì.
Đã có hẹn trước, anh bạn đến quầy tiếp tân làm việc. Tôi nhìn quanh tiền sảnh, hình như có vài anh cớm đang lởn vởn… Phạm Duy tiếp chúng tôi tại phòng, trong bộ đồ bà ba như cán bộ xây dựng nông thôn, màu đen hay xám, tôi quên rồi. Phong cách của ông đúng là bỗ bã, như tôi mường tượng khi đọc một số bài báo ở hải ngoại viết về ông. Không dè dặt, cũng chẳng câu nệ khách sáo với những người lạ mặt như tụi tôi. Ông ngồi duỗi chân trên giường, vén quần tới quá đùi rồi oang oang, tôi suýt chết đấy chứ, tụi bác sỹ Mỹ chích vào bắp chân để đưa cái gì đó vào người tôi. Cũng chẳng còn được bao lâu, tôi muốn về Việt Nam sống những ngày cuối đời. Lần này về để xem họ đối xử với mình thế nào.
Đúng là hồi đó sự quay về Việt Nam của Phạm Duy có nhiều điều tiếng. Một số người trong chính quyền không muốn, úy kỵ nhất là ông TBĐ, có power khá mạnh với tuyên giáo, vận động để triệt ông, kể cả một số ít nhạc sĩ CM ghen tị và giở bài “lập trường chính trị”.
Không chỉ trong nước, hải ngoại cũng nhiều người phê phán Phạm Duy kịch liệt. Nhiều bài báo khai thác cá tính ăn nói bỡn cợt thẳng thừng của ông để vẽ ra hình ảnh một người thiếu tư cách, hám danh, hám lợi… Một số văn hữu đang ngồi trò chuyện ở phòng khách, ông từ trên gác đi xuống, oang oang: Tôi không chống cộng, tôi chỉ chống gậy. Câu chuyện được tung lên báo; ông bị lên án gay gắt là kẻ phản bội. Có lần ông nói với thân hữu, tôi làm nhạc trong cầu tiêu mà thiên hạ vẫn thích. Câu nói cũng lại được đưa lên báo, và ông bị công kích là thiếu tôn trọng thính giả…
Tại sao những chuyện hài hước giỡn chơi trong giới bạn bè văn nghệ lại bị biến thành thái độ nghiêm túc để phê phán? Tại sao bạn có thể đem sách, hay đem smart phone vào cầu tiêu để đọc, thì không thể chấp nhận một nhạc sĩ dùng khoảng thời rỗng đó để nghĩ về lời ca tiếng nhạc? Nếu những mẩu chuyện nhỏ mọn đó ra công luận để nhận định về âm nhạc và con người Phạm Duy, bài báo phê phán đã trở thành bài báo nói xấu. Với tôi, không có chút giá trị tin cậy nào.
Ông kể với tụi tôi, hồi bà Thái Hằng, vợ ông bị bệnh nặng, ông đã gọi các con về, đứng quanh giường và hát (hát những bài nào, ông có nói nhưng tôi quên rồi). Có lẽ vì vậy mà sau này trong đám tang ông, các con ông cũng dùng tiếng hát để tiễn đưa cha mình, một nhạc sĩ.
Phạm Duy cũng thuộc loại gái gú tưng bừng như ông đã kể trong hồi ký của mình. Mà nghệ sĩ nào lại chẳng lăng nhăng gái gú để có cảm hứng sáng tác. Thôi, xả chấp hết. Ít ra không ai có thể phủ nhận ông là người chồng, người cha có bổn phận – Từ ngoài nhìn vào tôi chỉ có thể nói thế, còn sâu đậm thế nào là cảm nhận riêng của gia đình ông. Cũng chuyện gái gú, chỉ vì một cô vũ nữ phòng trà ở Lào Cai, mà ông sáng tác bản “Bên cầu biên giới”. Không thể tưởng tượng nổi, năm 1947 khi nền tân nhạc VN còn phôi thai, cả về âm điệu và ca từ, mà Phạm Duy, ở tuổi 25, cảm ra được những lời lẽ đầy chất giang hồ, lãng tử và sâu sắc đến thế:
“… Nhưng đường quá xa vời
Hương trời vẫn mê mải
Đời tôi sao vẫn còn biên giới
Lòng tôi sao vẫn ngừng nơi đây…”
Tôi không đủ khả năng để viết về những đóng góp của Phạm Duy cho nền âm nhạc Việt Nam. Bài nào của ông cũng chỉ dùng những lời lẽ giản dị, bình dân, chứ không ẩn ý triết học gì cả, nhưng lại đi tận vào lòng người nghe. Nét nhạc lại càng uyển chuyển, đột phá đến không ngờ.
Trong giai đoạn kháng chiến, bản “Bà Mẹ Gio Linh”, ca từ mộc mạc đến lạnh người:
“… Nghẹn ngào không nói một câu
Mang khăn gói đi lấy đầu
Đường về thôn xóm buồn hiu
Xa xa tiếng chuông chùa réo…”
Tiếng chuông chùa mà “réo” được sao? Nghe sởn tóc gáy!
Vào Nam, trong suốt hai mươi năm nội chiến, nhạc Phạm Duy vô cùng phong phú, đủ mọi đề tài, đủ thể loại, kể cả phổ thơ thành nhạc, lời Việt nhạc nước ngoài… Trong ca khúc “Nghìn trùng xa cách”, tôi không hiểu làm sao ông có thể nghĩ ra được ca từ, mà ông không ở trong hoàn cảnh “thất tình” để có thể cảm nhận mà bật ra tiếng nhạc và cả lời tán thán thế này được:
“… Một tiếng thương ôi, gửi đến cho người
Trả nốt đôi môi gượng cười…”
“Trả nốt” và cả nụ cười gượng nữa thì còn gì để giữ lại cho mình?
Ra hải ngoại, dường như sáng tác của ông chậm lại, không còn phong phú như thời vàng son của một Phạm Duy với hai mươi năm âm nhạc miền Nam. Mới đây, tôi cũng tìm ra được những ca khúc trong tập “Rong ca” của ông những suy tưởng cuối đời, nhưng lời lẽ vẫn rất là… “Phạm Duy”. Trong đó có một bài mà tôi cảm thấy đồng cảm, đúng hơn, tìm thấy chính mình trong đó khi tuổi tác về chiều. Đó là ca khúc “Người tình già trên đầu non”
“… Nghe suối vẫn reo trong hang rì rầm, người tưởng nghe tiếng em thì thầm
Đợi người tình đã từ lâu vẫn khát khao nhau… ”
hay đầy triết lý nhân sinh qua lời hẹn với người tình già
“… Rồi hẹn rằng, sẽ về thăm, lúc đã trăm năm
Và người tình, sẽ từ khơi, xuống núi vui chơi
Rồi lại từng, thế kỷ sau, cứ hoá sinh theo…”
Lời lẽ không thể mông lung, lãng mạn và huyền diệu hơn!
Trong buổi gặp mặt, Phạm Duy kể cho tụi tôi nghe chuyện, tôi chỉ nhớ mang máng, cũng hơn hai mươi năm rồi còn gì. Người bạn đi cùng, Nguyễn Văn Đạo sẽ bổ sung vào trí nhớ tồi tệ của tôi. Sau này, tôi còn gặp ông vài lần ở phòng trà ca nhạc ở đường Lam Sơn. Lúc đó, ông là người của khán giả, tôi chỉ im lặng lắng nghe. Tôi cũng gặp Duy Quang ở đấy. Phạm Duy có hai người con, tạm gọi là ca sĩ dài hạn, Duy Quang và Thái Hiền. Cả hai đều có giọng ca “hết hơi”, nhưng rất truyền cảm. Khi nào rảnh, tôi sẽ tán nhảm về tiếng hát Duy Quang và Thái Hiền.
Tôi sanh ra và lớn lên theo tiếng nhạc của Phạm Duy, từ bản “Tình ca” (Tôi yêu tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời…), cho đến ca khúc “Trả lại em yêu” (… Con đường Duy Tân, cây dài bóng mát…). Và bây giờ, ở tuổi về chiều, tôi vẫn còn đôi chút mong đợi với “Người tình già trên đầu non” (Rồi hẹn rằng, sẽ về thăm, lúc đã trăm năm…).
Đóng góp của Phạm Duy cho nền âm nhạc Việt Nam lớn quá. Tôi không phải là nhà phê bình âm nhạc, cũng không có khả năng mô tả cảm nhận, đôi khi chợt nhớ ca khúc nào, thì buột miệng vài câu ngắn ngủi về cảm xúc của mình. Tôi nghĩ, có lẽ cả trăm năm sau, chưa chắc đã có thêm một Phạm Duy khác.
Cách ăn nói, ứng xử của Phạm Duy đúng là bỗ bã, nhưng tôi lại cảm thấy sự chân thật và gần gũi trong đó. Tôi không thích gọi ông một cách trân trọng “nhạc sĩ Phạm Duy”, tôi muốn gọi ông một cách gần gũi: Bố già Phạm Duy.
Vũ Thế Thành
_______________
Đỗ Hứng gởi
