Sò nướng, món ăn của ai ?
Câu hỏi này nghe ra có vẻ đầy ngớ ngẩn, vì món ăn thì của ai, cho ai, ai ăn, ai không ăn có ý nghĩa gì chứ? Nhưng câu hỏi này muốn dẫn sang một chuyện khác, chuyện của những người sống bám vào đầm phá, phó thác cuộc đời mình cho đầm phá và việc ăn của họ chỉ có tính tồn tại, chuyện ngon – dở hình như không đáng bàn. Thế rồi tình cờ, tôi gặp cái “không đáng bàn” của họ, lại thấy rằng với người khác, nó rất đáng bàn, rất đáng nhớ. Món sò nướng của người bám phá Tam Giang.
Mùa này đang mùa mưa bão, nước từ trên núi chảy xuống ngập các con sông, đổ đầy đầm phá, gió từ ngoài khơi vào làm cho mọi thứ trở nên dữ dằn, cuộn sóng… Và, thường thì mùa này người bám phá chỉ sống quanh quẩn ở nhà, chờ những ngày gió lặng thì tìm bắt, cào con nghêu, con hến, con sò mà qua ngày. Trong cái lạnh cắt da cắt thịt trên đầm phá, những gia đình không mảnh đất cắm dùi, quanh năm bám sông, mưa gió thì chui vào những căn chòi tạm bợ để qua mùa, rồi lại lên thuyền, lên ghe mà chu du khắp nẻo đầm, phá… Bởi cuộc đời họ dù muốn hay không cũng gắn với mạn thuyền, may mắn lắm, có người thân thì gửi con cái lên bờ để theo học.
Mùa đông, chẳng biết lúc này cô bé nhỏ tôi tình cờ trò chuyện bên Phá Tam Giang có nhớ món sò nướng, một món ăn thật đáng nói không?!
.jpg)
Đáng nói bởi vị ngon của nó hiếm có món nào thú vị hơn. Bởi người nghèo có cái oách của người nghèo.
Tôi còn nhớ vào một buổi chiều tà, mặt nước gợn sóng như tranh, tôi đã tình cờ gặp một cô bé trạc 11,12 tuổi, đang ngồi nướng sò trên chiếc thuyền nhỏ, đợi Ba về.
– Con đang nướng chi đó?
– Dạ, con nướng sò với đậu phụng rang.
– Ồ, nhìn ngon quá! Răng con biết làm món ni hay ri? (Sao con biết làm món này hay vậy?)
– Thì con bắt chước đó o ơi, năm ngoái theo Ba con vô bán hàu và sò cho nhà hàng, con thấy họ nướng nên về bắt chước nướng thử, ai ngờ ngon lắm o nạ! (cô ạ!)
– Kiểu này chắc ngày nào hai cha con cũng được thưởng thức tài nướng của con phải không?
– Không phải khi mô cũng được ăn mô o nạ! (không phải khi nào cũng được ăn đâu cô ạ!)
Vài câu hỏi bâng quơ, cô bé kể rằng mùa hè thì cùng Ba lên thuyền xuôi phá Tam Giang đánh bắt qua ngày, lúc đậu bến này mai bến khác, khi nào gặp vùng nhiều tôm, cá hay hàu, mới ở lại đôi tuần. Đó là lúc cô có thể xin Ba để lại ít hàu hoặc sò để nướng, cô muốn bồi bổ cho Ba. Cô bảo phải tiết kiệm mai mốt mới có tiền nhập học, rồi qua mùa đông lạnh giá, vì cả gia đình phụ thuộc vào chiếc thuyền nhỏ của Ba.
Có lẽ cũng vì vậy mà con sò nướng nào của cô bé nhìn cũng ngon đến ứa nước mắt.
Tôi chỉ nhớ là bữa đó mùa thu nhưng trời se lạnh, bởi tôi không quen với cái gió của đầm phá chăng. Thấy cô bé đang ngồi ở đầu thuyền hì hà hì hục thổi than trong cái lò nướng làm bằng đất sét. Chỉ có chừng 10 con sò nhưng em làm rất tỉ mẩn, lúc sò bắt đầu nóng lên, em cho thêm một chút hành lá xắt nhỏ, một chút đậu phụng rang giã dập và nướng thêm chừng năm phút cho đến khi mùi thơm của nó bay ra ngào ngạt, thơm đến nao lòng!
Sáng sớm giữa đông, mong đâu đó ở bờ Tam Giang, cô bé và gia đình sẽ có những bữa cơm ngon lành với hàu, sò nướng để ấm bụng.
Nói về sò nướng, ở các nhà hàng trên đầm Lập An, thuộc huyện Phú Lộc, phía Nam thành phố Huế, nơi nổi tiếng là có hải sản ngon, sạch và tươi cũng có, nhưng có vẻ như còn lâu lắm mới bì được món sò nướng của cô bé ấy. Có lẽ một phần vì lòng thơm thảo của em, phần khác nó chứa cả sức nặng cần lao và mơ ước, nên nó ngon một cách lạ thường.
Một món ăn được chế biến tại chỗ, sò mới bắt, cho ngâm với nước vo gạo để nó nhả bớt chất sình, cát, sau đó tách vỏ, rửa sạch các nắp vỏ. Phần còn lại là cho từng miếng sò lên vỏ, cho thêm chút hành lá xắt nhỏ, cho thêm một chút tóp mỡ hoặc một chút phô mai sợi lên trên, sau đó cho một ít đậu phụng rang giã dập lên trên. Việc còn lại là cho lên lò than để nướng, món này vẫn có thể cho lên giấy bạc và đưa vào lò nướng, chừng chưa đầy 10 phút thì sò chín, lấy ra khỏi lò, bắt đầu thưởng thức.
Mọi thứ nghe có vẻ đơn giản. Nhưng độ ngon của món này thì khó mà quên được. Cầu chúc quý vị có một bữa ăn thú vị và ngon miệng!
Bánh tổ chiên món ăn gợi nhớ bâng quơ
Tháng Giêng, trong cái lạnh cắt da cắt thịt của miền Trung, dường như miền Trung năm nào cũng lạnh vào tháng Giêng, có năm lạnh sang tận giữa tháng Hai, giữa những lúc giáp hạt, lạnh lùng như vậy, còn một chút thức quà Tết mà mang ra thưởng thức thì thực lòng mà nói, ngon đến ‘đứt ruột” (cách nói của người Trung). Những ngày lạnh, còn một ổ bánh tổ, mang ra cắt, phải nói là chặt thành từng lát mới đúng, bởi lúc này bánh cứng như đất sét khô vậy, bắc chút dầu hay mỡ, phi chút lá hành mà chiên thì ngon hết biết.
Món bánh tổ chiên sau Tết, ai đã từng ăn một lần, nhất là ăn trong hoàn cảnh tuổi thơ thiếu thốn, đói kém thì sẽ thấu được cái vị ngon khiến nhớ đến từng li từng tí của nó.
Bánh tổ và bánh tét
Nhưng cũng xin giới thiệu qua về bánh tổ, đây là món bánh đặc biệt – bánh tâm linh, một món bánh độc đáo của người Việt Đàng Trong. Có lẽ không cần nói cũng thấu, ông bà, tổ tiên của người miền Trung, từ Nam sông Gianh vào đến Cà Mau vốn có gốc gác từ miền Bắc. Khi người Việt chính thức sống trên mảnh đất bản quán của người Chăm Pa, người Việt luôn biết ơn và trong các lễ cúng của mình, người Việt muốn làm một thứ gì đó mang dấu ấn của người Chăm, trong các văn tế cúng kính, dường như các “hồn ma Chăm” được khấn vái, cầu nguyện và tạ ơn trước, sau đó mới đến các hồn ma tổ tiên Việt (bây giờ cũng vậy).
Món bánh tổ, miền Bắc không có, nhưng miền Trung có, vì món bánh này là biến thể của Yoni, người Chăm tạc Yoni bằng đá, nặn bằng đất nung, người Việt biến nó thành món bánh để cúng kính – bánh tổ như một gạch nối tâm linh, giao hòa Chăm – Việt.
Và nếu bánh tổ là Yoni thì bánh tét lại là Linga, nó được cách điệu, biến thể từ chiếc bánh chưng bằng nếp hình vuông với triết lý trời tròn đất vuông theo truyền thuyết bánh chưng bánh giầy trở thành chiếc bánh tròn, hình trụ giống Linga trên bệ thờ của người Chăm, bánh tét cũng là gạch nối tâm linh Chăm – Việt, chỉ có từ miền Trung trở vào.
Người miền Trung, dù nghèo giàu như thế nào chăng nữa thì ba ngày Tết phải có chiếc bánh tổ và chiếc bánh tét trên bàn thờ. Bánh tét được tét ra cúng và ăn ba ngày Tết, nếu ăn không hết thì cũng kéo dài đến mồng Mười tháng Giêng thì mang ra chiên. Nhưng bánh tổ thì có thể để sang tháng Hai âm lịch, để khi mốc nổi lên khắp mặt bánh, mang ra thổi phù phù, lấy khăn lau, gọt bỏ một lớp mỏng trên mặt bánh và cắt bánh ra chiên.
Mà nói tới bánh tổ, có vẻ như bánh tổ làm thủ công ngon hơn, tức bánh được quết nhuyễn bằng cối đá, nguyên liệu là đường thắng có gừng, bột nếp, bỏ vào cối, trộn đều rồi dùng chày quết nhuyễn, sau đó cho vào rọ đã lót lá chuối, bánh được đổ thành từng rọ, cho vào lò hấp trong vòng 3 tuần hương, tức thắp liên tục 3 cây hương nối đuôi nhau, cây thứ nhất cháy xong đến cây thứ hai, rồi cây thứ ba. Nắp nồi hấp làm bằng vải thấm nước nhằm giữ nhiệt nhưng không đọng hơi nước rỏ xuống làm hư mặt bánh. Chiếc bánh tổ thành phẩm càng rỗ mặt càng cho thấy điềm lành, năm mới tốt đẹp (mô phỏng sự nhấp nhô, gồ ghề của mặt linga chăng?!).
Bánh được bán ngoài chợ hoặc tự làm để chưng, thờ ba ngày Tết. Thường thì ba ngày Tết ít ai ăn bánh tổ bởi có quá nhiều món, món bánh tổ hơi ngọt quá đà, ít ai dùng. Nó gần như bị lãng quên cho đến tháng Giêng, tháng Hai, lúc này, thấy tiếc nhớ bâng quơ không khí Tết, người ta lại mang ra chiên.
Lát bánh tổ chiên mềm, dẻo, thơm, ngọt và béo, làm ấm cả vòm miệng… cảm giác này chỉ có khi ăn bánh tổ chiên vào những ngày lạnh giá Giêng Hai. Và những ai từng ăn món này, chắc có lẽ khó quên. Nhất là từng thưởng thức nó trong những ngày đói kém thuở ấu thơ!
Uyển Ca
________________
Đặng Hữu Phát gởi
