Danh sách tư liệu
TÌM KIẾM
Giới thiệu kinh




 
Tâm kinh

心經

Hdaya Sūtra - Heart Sutra


***


 




Nội dung

1. Tổng quan về Tâm kinh
       
1.1. Tâm kinh.
         
1.2. Ma-ha  Bát-nhã  Ba-la-mật-đa  Tâm kinh

Tâm kinh =Ma-ha Bát-nhã  Ba-la-mật-đa  Tâm kinh

2. Ý nghĩa tựa của Tâm kinh.
      
2.1. Ma-ha  Bát-nhã  –  Ba-la-mật-đa.
         
2.2. Cách nói gọn Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa.        

2.3. Thập Ba-la-mật trong Phật giáo Nam truyền.
         
2.4. Lục Ba-la-mật trong Phật giáo Bắc truyền.

3. Ý nghĩa nội dung của Tâm kinh.
         
3.1. Duyên khởi và Không tính.

Duyên khởi tính = Vô thường tính + Vô ngã tính = Không tính
         
3.2. Ngũ Uẩn, Căn-Trần-Thức, Niết-bàn.

         
3.3. Tứ đế và Thập Nhị Nhân Duyên.

4.Các bản văn Tâm kinh.   

                    1) Bản chữHán.
                    2) Bản phiên âm Hán-Việt.
                    3) Bản dịch Việt bằng văn xuôi 1.
                    4) Bản dịch Việt bằng văn xuôi 2.
                    5) Bản phổ kệ tụng 5 chữ.
                    6) Bản phổ kệ tụng 5 chữ của Thích Nhất Hạnh.
                    7) Bản phổ thơ lục bát của Hệ phái Khất sĩ.
 
NBS:  Minh Tâm01/2020
 
1. Tổng quan về Tâm kinh.


Heart Sutra- Wikipedia

Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh– Wikipedia tiếng Việt

Tâm kinhchữ Phạn(Sanskrit)

1.1.Tâm kinh.

Tâm kinh(心經;  S: Hṛdaya Sūtra;  E: Heart Sutra).
- Tâm(心;  S: hṛdaya;  E: heart, centre):  Là giữa, ruột, lõi, chủ yếu (của cái gì). Như tâm điểm 心点.  Nơi đây tâm có thể hiểu là cốt lõi, trọng yếu, tinh yếu, bởi bài kinh này được xem là sự diễn đạt tóm ý chính yếu toàn thể bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn.   
- Kinh (經;  P: sutta;  S: sūtra;  E: canon):  Là sách của các tôn giáo.  Trong Phật giáo, kinh được xem là lời dạy của Phật, và được phân thành 2 hướng là  Tín tâmTriết học lý luận.

Tâm kinh là bản kinh thuộc dạng lý luận triết học, bởi nội dung của kinh hình thành từ chân lý khách quan tự nhiên Duyên khởi, mà chỉ những ai có trí tuệ vượt thoát chấp thủ đối đãi mới có thể lĩnh hội được. Vượt thoát nơi đây không nhằm phủ định chấp thủ đối đãi bởi tính tương đối không bền vững của mọi sự vật, mà hàm ý là không dính mắc vào các chấp thủ đối đãi của chúng bị con người cực đoan tuyệt đối hóa.
Related image
 
        1.2.Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh.
Tâm kinhlà bản kinh tiếng Sanskrit, gọi đủ là Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh(摩訶般若波羅蜜多心經;  S: Mahā Prajñā Pāramitā Hṛdaya Sūtra, Prajñāpāramitāhṛdaya Sūtra;  E: Heart of Perfect Wisdom Sutra), để có thể được rõ ý đây là bản kinh tinh yếu về trí tuệ giải thoát   hay  bản kinh tinh yếu về tuệ giác.

Tâm kinhlà bài kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ của Phật giáo Phát triển và Thiền tông, nằm trong bộ kinh Đại Bát-nhã 600 cuốn, và là bài kinh tóm các ý chính của bộ Đại Bát-nhã này. 
Tâm kinhđược hầu hết các Phật tử tại Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, Tây Tạng, và Trung Quốc biết đến và rất thường dùng trong việc đọc tụng.

Long Thụ – Wikipedia tiếng Việt
Nagarjuna - Wikipedia, the free encyclopedia

Việcxuất hiện của bản kinh này không được các tác giả thống nhất. Thời điểm ra đời của nó có thể là từ năm 100 TCN đến thế kỷ thứ 2 và một số tác giả cho rằng bài kinh này do bồ tát Long Thụ(Nāgārjuna) viết. Tuy nhiên, tính cách lời thoại của bản kinh này vẫn nhưlời thoại thời Phật tại thế. Vì thế,những tác giả cho rằng "Kinh có sau thời Đức Phật" như đã nói trênvẫn là giả thuyết mơ hồ.

Bản kinh phổ biến nhất ở Việt Nam là bản của sư Trần Huyền Trang (Tam Tạng) sau khi thỉnh kinh về đã dịch lại vào năm 649. Trước đó đã có nhiều sư dịch từ tiếng Sanskrit ra Hán ngữ trong đó có Cưu Ma La Thập (402-412), Nghĩa Huyền, Pháp Nguyệt, Bát Nhã và Lợi Ngôn, Trí Tuệ Luận, Pháp Thành, và Thi Hộ.

Kinh cũng đã được sự chú giải của rất nhiều sư từ nhiều quốc gia. Riêng ở Việt Nam, người chú giải kinh này đầu tiên là thiền sư Đạo Tuân Minh Chánh ở chùa Bích Động (tỉnh Ninh Bình) thời vua Minh Mạng.

2. Ý nghĩa tựa của Tâm kinh.
        2.1. Ma-ha  –  Bát-nhã  –  Ba-la-mật-đa.
       Tâm kinh có tựa là Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đacó các nghĩa sau:
- Ma-ha(摩訶;  P;S: Mahā;  E: Great):  Có nghĩa là đại 大, lớn.
- Bát-nhã(般若;  P: Paññā;  S: Prajñā;  E: Wisdom):  Có nghĩa là trí tuệ 智慧, là sự hiểu biết.
- Ba-la-mật-đa(波羅蜜多;  P: Pāramī;  S: Pāramitā;  E: Perfection, Transcendental perfection, Completeness)  thường được dịch nghĩa là:
+  Độ 度 (sang bờ bên kia).
+  Đáo bỉ ngạn 到彼岸 (đạt đến bờ bên kia).
+  Cứu cánh 究竟 (sau cùng, hoàn tất, hoàn hảo, tối hậu).
Theo đó, cụm từ Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa có thể hiểu là trí tuệ lớn hoàn hảo  hay  trí tuệ lớn giải thoát, là sự hiểu biết sáng suốt bản chất thực của thực tại (the perfected way of seeing the nature of reality).
Trí tuệ lớn giải thoát không gì khác hơn chính là thấu suốt chân lý Duyên khởi, mà cụ thể là thấu suốt:
-LýVô thường (無常;  P: Anicca;  S: Anitya;  E: Impermanence).
-LýVô ngã (無我;  P: Anattā;  S: Anātman;  E: Non-self).
- Lý Nhân Quả (因果;  P;S: Hetu-Phala;  E: Cause and Effect)
        [Hetu: cause, condition, reason;  Phala: fruition, result, effect]
Related image
2.2. Cách nói gọn Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Về sau trong thực tế, cụm từ Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đacó các cách nói gọn như sau:
1) Theo âm tiếng Phạn:
        1/.Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa = Bát-nhã Ba-la-mật(般若波羅蜜;  P: Paññā Pāramī ;  S: Prajñā Pāramitā;  E : the Perfection of (Transcendent) Wisdom).
Đây là cách lượcbớt chữ Ma-hađa.
        2/.Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa = Bát-nhã(般若;  P: Paññā;  S: Prajñā;  E : Wisdom).
        Đây là cách lược bớt chữ Ma-ha  và  Ba-la-mật-đa.  
Có lẽ đây là lý do vì sao chữ Bát-nhã có ý thâm sâu hơn là nghĩa  Trí tuệ thông thường.  Theo đó, Bát-nhã hàm ý Tuệ giác, là trí tuệ của bậc giác ngộ-giải thoát.
        2) Theo âm tiếng Phạn và Hán:
1/. Bát-nhã Ba-la-mật  =  Trí tuệ Ba-la-mật智慧波羅蜜 =  Trí Độ智度.
Cụm từ Trí tuệ Ba-la-mật là được sử dụng ởvị trí thứ 4 trong Thập độBa-la-mật và thứ 6 trong Lục độ Ba-la-mật (xem mục 2.4 và 2.5 bên dưới).
2/.  Bát-nhã  =  Trí tuệ智慧 =  Trí
Điều này có thể giải thích các cách nói sau:
- Đạo Phật là đạo trí tuệ, thì trí tuệ nơi đây không phải là loại trí thông minh (intelligence - như cách nói cuộc thi ‘siêu trí tuệ’) được nói thông thường, mà là trí tuệ giác ngộ-giải thoát, trí tuệ vượt thoát, tức Bát-nhã Ba-la-mật.
- Mục đích tu học của Duy Thức tông hay Tịnh Độ tông là chuyển hóa Thức thành Trí, thì trí nơi đây cũng không phải là loại trí thông minh, mà là trí tuệ giác ngộ-giải thoát, trí tuệ vượt thoát, tức Bát-nhã.
Thức(識;  P: Viññāṇa;  S: Vijñāna;  E: Perception; Consciousness; Knowledge) nói chung là cái biết.  Nếu như những cái biết này được soi sáng bản chất của chúng bởi Duyên khởi tính hay Không tính thì cái biết được xem là hoàn hảo, là Trí (智;  P: Paññā;  S: Prajñā;  E: Wisdom).
Trong kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ nói:
佛法在世间     Phật pháp tại thế gian    
不离世间觉     Bất ly thế gian giác        
离世觅菩提     Ly thế gian mịch bồ đề   
恰如求兔角    Kháp như cầu thố giác   
Dịch nghĩa:
Phật pháp trên thế gian
Không thể rời thế gian mà giác ngộ
Rời thế gian tìm giác ngộ
Giống như tìm sừng thỏ
        Điều này cho thấy rằng thực chất của đạo Phật là luôn thiết thực hiện tại chứ không thần bí huyễn hoặc cao siêu, đến để mà thấy chứ không đến để mà tin .
---------
Ghi chúDựa trên lộ trình Tam Tuệ học Văn Tư Tu, có sự phân biệt Bát-nhã = Tuệ giác về Chân lý Duyên khởi:
        1) Văn tự Bát-nhã (Văn tuệ)     :       Tuệ có được từ việc học hiểu Chân lý Duyên khởi. 
        2) Quán chiếu Bát-nhã (Tư tuệ):  Tuệ có được từ việc suy tưởng luận biện về Chân lý Duyên khởi.           
        3) Thực tướng Bát-nhã (Tu tuệ): Tuệ có được từ việc tu tập Chánh Niệm + Thiền Định + Thiền Tuệ về Chân lý Duyên khởi.
Related image
2.3. Thập Ba-la-mật trong Phật giáo Nam truyền.
Thập Ba-la-mật = Thập độ (十波羅蜜多;  P: DasaPāramiyo;  E: the Ten Perfections), tức Mười pháp Ba-la-mật, là 10 đại hạnh Bồ Tát được hành giả tu tập rốt ráo để đạt đến quả vị Phật.  Mười đại hạnh này là 10 hạnh tu tập thân và tâm với một nội tâm Vô ngã, tức hành giả rèn luyện sống theo chân lý Duyên khởi.
1. Bố thí Ba-la-mật (Dāna Pāramī)
2. Trì giới Ba-la-mật (Sīla Pāramī)
3. Xuất gia Ba-la-mật (Nekkhamma Pāramī)
4. Trí tuệ Ba-la-mật (Paññā Pāramī) => quán triệt
5. Tinh tấn Ba-la-mật (Viriya Pāramī) => nỗ lực
6. Nhẫn nại Ba-la-mật (Khanti Pāramī) => chịu đựng
7. Chân thật Ba-la-mật (Sacca Pāramī) => trung thực
8. Quyết tâm Ba-la-mật (Adhitthāna Pāramī)
9. Từ Ba-la-mật (Mettā Pāramī)  => hành thiện   
10. Xả Ba-la-mật (Upekkha Pāramī)  =>  hành xả
Với 1,2,3 là hành động thuộc thân, 4 -:- 10 là hành động thuộc tâm.
Related image
2.4. Lục Ba-la-mật trong Phật giáo Bắc truyền.
Lục Ba-la-mật = Lục độ (六波羅蜜多;  S : Ṣaṭ pāramitā;  E: the Six Perfections),  tức Sáu pháp Ba-la-mật, là 6 đại hạnh Bồ Tát được hành giả tu tập rốt ráo để đạt đến quả vị Phật.  Sáu đại hạnh này là 6 hạnh tu tập thân và tâm với một nội tâm Vô ngã, tức hành giả rèn luyện sống theo chân lý Duyên khởi.
1. Bố thí Ba-la-mật (布施波羅蜜;  S: Dāna Pāramitā;  E: Generosity, Giving of oneself)
2. Trì giới Ba-la-mật (持戒波羅蜜;  S: Śīla Pāramitā ;  E: Virtue, Morality, Discipline, Proper Conduct)
3. Nhẫn nại Ba-la-mật (忍辱波羅蜜;  S: Kṣānti Pāramitā;  E : Patience, Tolerance, Acceptance)
4. Tinh tấn Ba-la-mật (精進波羅蜜;  S: Vīrya Pāramitā;  E: Energy, Effort)
5. Thiền định Ba-la-mật (禪定波羅蜜;  S: Dhyāna Pāramitā;  E: One-pointed Concentration, Contemplation)
6. Trí tuệ Ba-la-mật (般若波羅蜜;  S: Prajñā Pāramitā;  E: Wisdom, Insight).
Với 1,2 là hành động thuộc thân, 3 -:- 6 là hành động thuộc tâm.
Thập Ba-la-mậthay Lục Ba-la-mật là 10 hay 6  hành động được chọn lọc tiêu biểu cho việc tu tập theo tinh thần Chân lý Duyên khởi.  Việc thuần thục hoàn thiện 10 hay 6 hành động này được xem là hạt nhân để hoàn thiện Ba-la-mật cho tất cả mọi hành động khác trong cuộc sống, là thành đạt Thánh quả.
Image result for vẽ hoa sen bằng acrylic
3. Ý nghĩa nội dung của Tâm kinh.
        Ý nghĩa nội dung của Tâm kinh là nhằm trình bày Ýtừ Lờicủa các bản văn viết và dịch về Tâm kinh.  Ý nơi đây là ý Phật pháp, là ý Chánh pháp thiết thực hiện tại, chứ không thể là thứ ý cao siêu huyễn mộng và chủ quan nào hết.
Trong lời giáo huấn sau cùng nơi kinh Di Giáo, đức Phật nói:
Sau khi ta tịch diệt, Chánh pháp sẽ thay ta làm thầy cho các con. Biết noi theo Chánh pháp, ấy chính là cách các con tỏ lòng trung thành với ta. Trong bốn mươi lăm năm sau cùng trong cuộc đời của ta, ta không hề dấu diếm điều gì trong những lời giáo huấn. Chẳng có một lời giáo huấn nào bí mật, không có một lời nào mang ẩn ý. Tất cả những lời giảng của ta đều được đưa ra một cách ngay thật và minh bạch.
        Chánh pháp ấy là những gì?
- Có thể nói rằng Chánh pháp soi sáng ấy chính là Chân lý khách quan Duyên khởimà đức Phật đã khám phá ra, và Đạo đức ứng xử Từ bi – Trí tuệmà đức Phật đã chỉ dạy được vận dụng từ chính chân lý này.
        - Có thể nói rằng Chánh pháp qua Tam tạng kinh điển của nhà Phật không ngoài việc chuyển tải các giá trị lớn lao từ Chân lý và Đạo đức đến với thế gian này.  Vì thế, Tâm kinh với nội dung chuyển tải Không tính là tuệ giác, cũng không là ngoại lệ trong hệ thống kinh điển.
        Dưới đây là những điểm chính đơn giản về Chánh pháp mà chúng ta cần nắm rõ, nhằm có thể hiểu được thâm ý lời cổ và ngắn gọn của bài Tâm kinh đã được nhiều dịch giả soạn ra.
640px-Prajnyaapaaramitaa_Hridaya_by_Zhao_Meng_Fu_Main_Part
 Tâm kinhchữ Háncủa nhà thư pháp-họa sĩ Zhao Mengfu (1254 -1322 CE),triều đại Yuan
               3.1. Duyên khởi và Không tính.
Nội dung của Tâm kinh cũng như nhiều bài kinh khác, nhằm diễn đạt giáo lý nhà Phật trên tinh thần chủ đạo của chân lý Duyên khởi như đã nói trên; đó là diễn đạt qua Không tính (= tính KhôngŚūnyatā) là bản tính không thực, không có tự tính của vạn sự vạn vật do bởi tính tương tác hình thành và biến đổi của các Duyên, chứ không có nghĩa là không-có của đối đãi trong ngôn ngữ thông thường, theo đó:
Không tính = Duyên khởi tính = Vô thường tính + Vô ngã tính
        Khôngtính nơi bài kinhđược xem là cái chung  nhất của tất cả mọi sự vật hiện tượng, đặc biệt là khai thị vềKhôngtính củacáctướng Ngũ Uẩn,đồng thời cả về các giáo lý phương tiện như Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Niết Bàn, … Với nhận thức Không tính, hành giả sẽ dễ dàng hơn trong việc tu tập giải trừ các chấp kiến cực đoan, vốn đã từng trói buộc con người và gây ra biết bao khổ đau cho con người từ bao đời nay.
Related image
 
3.2. Ngũ Uẩn, Căn-Trần-Thức, Niết-bàn.
1) Ngũ Uẩn
Ngũ Uẩn bao gồm 5 Duyên (= yếu tố) cấu thành con người, tham gia vào tất cả sinh hoạt nơi sự sống của con người, tất cả được xem là Hữu, là tính Hữu, gồm:
1/. Sắc:  Đó là Tứ đại gồm 4 trạng tướng cấu tạo nên thân xác (Đất: thể rắnNước: thể lỏngGió: thể khíLửa: thể plasma).
2/. Thọ:  Đó là Cảm xúc khi căn và trần cảnh  tiếp xúc nhau, nghĩa là khi  sắc thân tứ đại tiếp xúc với hoàn cảnh bên ngoài là lục trần cảnh là Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp.
+ Sắc:  Là các đối tượng của thị giác (hình dáng và màu sắc).
+ Thinh:   Là các đối tượng của thính giác (âm thanh).
+ Hương:  Là các đối tượng của khứu giác (mùi).
+ Vị:  Là các đối tượng của vị giác (vị).
+ Xúc:  Là các đối tượng của xúc giác (cảm …; 
+ Pháp:  Là các đối tượng để suy tưởng.
        3/. Tưởng:  Đó là Suy tưởng  hình thành từ các ấn tượng của Thọ.
4/. Hành:  Đó là Ý chí được trưởng dưỡng kết thành dòng chảy liên tục của Tưởng với mong muốn, tính toán, so đo, phân biệt.
5/. Thức:  Đó là Ký ức hình thành từ lục thức, còn gọi là tâm thức, là những chủng tử đặc thù nơi mỗi người, bao gồm Ý thức, Tiềm thức, Vô thức theo như quan điểm Phân Tâm học ngày nay.
Năm pháp Ngũ Uẩn này cũng đặc trưng cho 100 pháp Đại Thừa (Đại Thừa Bách Pháp) của Duy Thức học, nghĩa là Ngũ Uẩn hàm ý bao gồm cho vạn pháp trong vũ trụ nhân sinh.
Trong kinh Niệm xứ (Satipatthāna Sutta) thuộc Trung Bộ Kinh, đức Phật dạy : “ Chúng ta hãy quán chiếu sâu sắc sẽ thấy rằng năm uẩn không phải là một thực thể, mà là hiện tượng của loạt các tiến trình vật chất và tâm thức; chúng (năm uẩn) sinh diệt một cách liên tục và nhanh chóng, chúng luôn biến đổi từng phút, từng giây; chúng không bao giờ tĩnh mà luôn động, và không bao giờ là thực thể mà luôn biến hiện ”.
Trong kinh Pháp Cú, câu 62:  “Con ta tài sản ta. Người ngu nghĩ quấy khổ. Thân ta còn không có. Con đâu tài sản đâu”.    
        2) Căn-Trần-Thức.
Phật giáo Nguyên thủy chỉ thừa nhận có6 thứcchính,tương hợp với ý nghĩa làcái biết giả tạm (thức)cái biết chân thực (trí).  Theo đó, thấy biết chân thực hàm ý rằng những thấy biết mà chúng ta có được từ các học hỏi, kinh nghiệm, tập quán, … là những thấy biết tương đối nhất thời, cho nên không phải cố thủ chấp kiến mà sinh ra phiền não. Cơ cấu của thức được trình bày như sau:
    LỤC CĂN
    (hữu+vô)
+ LỤC TRẦN 
(hữu+vô)
=> LỤC THỨC
  (vô hình)
─> LỤC DỤC
 (vô hình)
Nhãn (=mắt)   Sắc trần   Nhãn thức   Sắc dục
Nhĩ (= tai)   Thinh trần   Nhĩ thức   Thinh dục
Tị (= mũi)   Hương trần   Tị thức   Hương dục
Thiệt (= lưỡi)   Vị trần   Thiệt thức   Vị dục
Thân (= da)   Xúc trần   Thân thức   Xúc dục
Ý (= não bộ)   Pháp trần   Ý thức   Pháp dục
 
 
 
3) Niết-bàn.
Lục thứclà những cái biết tương đối, nhưng con người lại không nhận ra chúng, nên khiến sinh ra chấp thủ (Si), mê mờ dẫn đến Lục dục, đó là ưa thích chiếm đoạt (Tham) hoặc chê ghét loại trừ (Sân) gây ra Khổ nạn cho con người.
- Trong kinh Tạp A Hàm có chép:
Niết Bàn (涅槃;  P:  nibbāna;  S: nirvāṇacó nghĩa là dập tắt hoàn toàn ngọn lửa phiền não, là đoạn trừ nghiệp gây ra từ  ba bất thiện là Tham, Sân và Si.”
- Trong kinh Tương Ưng Bộ IV. Trang 404 nêu rõ:
Đoạn tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận si, đây gọi là Niết-bàn”.
Thật vậy, Niết Bàn không là một cõi (không gian). mà chính là tuệ giác về thực tại (trạng thái tâm trí), đó là chấm dứt sự bám víu vào tri kiến sai lầm (Si), là chấm dứt bám víu vào dòng lưu chuyển gây khổ đau từ hai đối cực (Tham-Sân). Niết Bàn luôn là một hiện thực thanh tịnh trong một thế giới đầy biến động.
Niết-bàn cùng thế gian
Không có tí phân biệt
Thế gian cùng Niết-bàn
Cũng không tí phân biệt.
                                                  ***
Thật tế của Niết-bàn,
Cùng thật tế thế gian;
Cả hai thật tế đó,
Không mảy may sai biệt.
Related image
        3.3. Tứ đế và Thập Nhị Nhân Duyên.
1) Tứ đế: 
Tứ đế gồm Khổ đế+ Tập đế  và  Diệt đế+ Đạo đếlà 2 cặp Nhân Quả dùng để chỉ ra Khổ đau nơi một nội tâm chấp thủ đối đãi cực đoan (cặp Khổ-Tập), và Hạnh phúc nơi một nội tâm vượt thoát đối đãi cực đoan từ nhận thức Không tính, tức Duyên khởi tính (cặp Diệt-Đạo). Vượt thoát nơi đây không nhằm phủ định chấp thủ, mà hàm ý là không dính mắc vào cực đoan của chấp thủ.
2) Thập Nhị Nhân Duyên:
Thập Nhị Nhân Duyên gồm Vô minh + Hành  –  Thức + Danh sắc + Lục nhập + Xúc + Thọ + Ái + Thủ + Hữu  –  Sinh + Lão tử.
Thập Nhị Nhân Duyên (12 Duyên) thực ra là hình thức diễn đạt sự vận hành của Ngũ Uẩn (5 Duyên) hay Danh Sắc (2 Duyên) đặc trưng nơi con người ở 3 thời Quá khứ-Hiện-Vị lai ngay tại kiếp sống này hay của nhiều kiếp sống khác.
Đức Phật trình bày Ngũ Uẩn là nhằm phá chấp thủ cực đoan về Ngã (= cái Ta thực có) và Thập Nhị Nhân Duyên nhằm phá chấp thủ cực đoan về một Đấng tạo dựng.  Cả 2 cách trình bày Ngũ Uẩn và Thập Nhị Nhân Duyên này dưới ánh sáng Duyên khởi “Không tính” chỉ là những phương tiện phá chấp thủ cực đoan, mà hành giả cần cảnh giác để không khéo lại dính mắc vào chấp thủ cực đoan mới.
Ví như nhận thức Vô ngã dùng phá Chấp ngã, nhưng nếu không khéo vượt thoát thì chúng ta lại rơi vào Chấp “Vô ngã”. Vì thế Chân ngã là cách nhắc chúng ta vượt thoát cả Chấp ngã lẫn Vô ngã. Chân ngã là một trong Tứ đức Niết-bàn:  Chân thường + Chân lạc + Chân ngã + Chân tịnh là vậy. 
Như thế, Tâm kinh chỉ là một trong nhiều bài kinh nhằm phần nào diễn đạt Nguyên lý Duyên khởi. Cho nên việc hiểu bài kinh này không ngoài thâm ý ‘Duyên khởi’ như được trình bày bên trên.
Tâm kinh đã được khá nhiều tác giả biên dịch và chú giải dưới nhiều hình thức. Một ít bản dịch tiêu biểu sẽ được trình bày dưới đây.
4. Các bản văn Tâm kinh.
Kết quả hình ảnh cho bát nhã tâm kinh tiếng phạn
Bồ-tát Quán Tự Tại và Tâm kinh
Bồ-tát (Boddhisatava) là một người tỉnh thức và đang giúp người khác tỉnh thức. Quán Tự Tại là tên Đức Quán Thế Âm (Avalokiteśvara). Quán Tự Tại là dịch theo kiểu mới, người xưa dịch là Quán Thế Âm.
Dưới đây là bản chữ Hán và phiên âm cùng một số bài dịch sang tiếng Việt bằng văn xuôi và văn vần để tham khảo.  
1) Bản chữHán.
Bản này do Đường Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang dịch.
觀自在菩薩。行深般若波羅蜜多時。照見五蘊皆空。度一切苦厄。
舍利子。色不異空。空不異色。色即是空。空即是色。受想行識亦復如是。
舍利子。是諸法空相。不生不滅。不垢不淨不增不減。是故空中。無色。無受想行識。無眼耳鼻舌身意。無色聲香味觸法。無眼界。乃至無意識界。無無明。亦無無明盡。乃至無老死。亦無老死盡。無苦集滅道。無智亦無得。
以無所得故。菩提薩埵。依般若波羅蜜多故。心無罣礙。無罣礙故。無有恐怖。遠離顛倒夢想。究竟涅槃。三世諸佛。依般若波羅蜜多故。得阿耨多羅三藐三菩提。
故知般若波羅蜜多。是大神咒。是大明咒是無上咒。是無等等咒。能除一切苦。真實不虛故。
說般若波羅蜜多咒即說咒曰
揭帝揭帝 般羅揭帝 般羅僧揭帝菩提僧莎訶
觀自在菩薩。行深般若波羅蜜多時。照見五蘊皆空。度一切苦厄。舍利子。色不異空。空不異色。色即是空。空即是色。受想行識。亦復如是。舍利子。是諸法空相。 不生不滅。不垢不淨。不增不減。是故空中無色。無受想行識。無眼耳鼻舌身意。無色聲香味觸法。無眼界。乃至無意識界。無無明。亦無無明盡。乃至無老死。亦無老死盡。無苦集滅道。無智亦無得。以無所得故。菩提薩埵。依般若波羅蜜多故。心無罣礙。無罣礙故。無有恐怖。遠離顛倒夢想。究竟涅槃。三世諸佛。依般若波羅蜜多故。得阿耨多羅三藐三菩提。故知般若波羅蜜多。是大神咒。是大明咒。是無上咒。是無等等咒。能除一切苦。真實不虛。故說般若波羅蜜多咒。即說咒曰。揭諦揭諦。波羅揭諦。波羅僧揭諦。菩提薩婆訶。
2) Bản phiên âm Hán-Việt.
    觀自在菩薩。行深般若波羅蜜多時。照見五蘊皆。度一切苦厄。
       Quán-tự-tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã Ba-la mật-đa thời chiếu kiến Ngũ-Uẩn giai Không, độ nhất thiết khổ ách.
 
     舍利子。色不異不異色。色即是即是色。受想行識亦復如是。
        Xá-Lợi-Tử! Sắc bất dị Không, Khôngbất dị Sắc; Sắc tức thị Không, Khôngtức thị Sắc; Thọ, Tưởng, Hành, Thức, diệc phục như thị.
 
舍利子。是諸法相。不生不滅, 不垢不淨, 不增不減。是故中。無色, 無受, 想,行,識。無眼耳鼻舌身意。無色聲香味觸法。無眼界。乃至無意識界。無無明。亦無無明盡。乃至無老死。亦無老死盡。無苦集滅道。無智亦無得。
Xá-Lợi-Tử! Thị chư pháp Khôngtướng. Bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố Khôngtrung, Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức; nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; nhãn giới, nãi chí ý-thức-giới, vô-minh, diệc vô-minh tận, nãi chí lão tử, diệc lão tử tận; khổ, tập, diệt, đạo; trí diệc đắc.(*)
以無所得故。菩提薩埵。依般若波羅蜜多故。心無罣礙。無罣礙故。無有恐怖。遠離顛倒夢想。究竟涅槃。三世諸佛。依般若波羅蜜多故。得阿耨多羅三藐三菩提。
 Dĩ sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố; tâm quái-ngại; quái-ngại cố, hữu khủng-bố; viễn ly điên-đảo mộng tưởng; cứu cánh Niết-bàn; Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố; đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
故知般若波羅蜜多。是大神咒。是大明咒,是無上咒。是無等等咒。能除一切苦。真實不虛故。
Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa; thị đại-thần chú; thị đại minh chú, thị vô-thượng chú; thị vô đẳng đẳng chú; năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hưcố.
說般若波羅蜜多咒,即說咒曰
Thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết:
揭帝揭帝, 般羅揭帝, 般羅僧揭帝,菩提。僧莎訶
Yết-đế Yết-đế, Ba-la yết-đế, Ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề. Tát bà ha.
(*)
      Chữ nơi đâytuy diễn đạt qua hình thức phủ định, nhưng vẫn hàm ý tính Không .
 
 
tranh-hoa-sen-1-408827
 
3)Bản dịch Việt bằng văn xuôi1.
Bồ-tát Quán Tự tại khi hành Bát-nhãBa-la-mật-đa sâu xa soi thấy năm uẩn đều Không, vượt qua mọi khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng lại như vậy.
Xá Lợi Tử! Tướng Khôngcác pháp đây, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt. Cho nên, tướng Không, Không:Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức; Không:mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; Không:sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; Không:Nhãn thức cho đến Ý thức giới; Không:vô minh cũng không vô minh hết; cho đến Không:già chết, cũng không già chết hết; Không:Khổ, Tập, Diệt, Đạo; Không:trí cũng Không:đắc.
Bởi Khôngsở đắc, Bồ-tát nương Bát-nhãBa-la-mật-đa, nên tâm không mắc ngại; vì không mắc ngại nên không sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo, rốt ráo Niết-bàn. Chư Phật ba đời nương Bát-nhãBa-la-mật-đa nên chứng A-nậu-đa-la Tam-miệu-tam-bồ-đề.
Nên biết Bát-nhãBa-la-mật-đa là chú thần lớn, là chú minh lớn, là chú vô thượng, là chú không gì sánh bằng, trừ hết mọi khổ ách, chắc thật vì không dối.
Nên nói chú Bát-nhãBa-la-mật-đa, nên nói chú rằng:
Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề, Tát bà ha.
hoa-sen-1
4)Bản dịch Việt bằng văn xuôi2.
Bồ-tát Avalokiteśvara, trong khi quán chiếu sâu sắc với tuệ giác qua bờ, đã thấy ra rằng tất cả năm uẩn đều tuy có mà không thực có- tất cả đều Không. Giác ngộ điều ấy xong, Bồ-tát vượt qua được mọi khổ đau ách nạn.
“Này Śāriputra, hình Sắc(Sắc uẩn) này với tự tánh là Không, nghĩa là tự tánh Khôngở nơi hình sắc này. Điều này cũng đúng với các cảm Thọ, suy Tưởng, tâm HànhnhậnThức(Thọuẩn, Tưởng uẩn, Hànhuẩn, Thức uẩn).
“Này Śāriputra, tất cả mọi sự vật hiện tượng đều mang theo tướng Không. Tất cả không tự sinh ra, không tự diệt đi, không thêm-không bớt, không dơ-không sạch.
“Chính vì vậy với tự tánh KhôngNăm Uẩnlà hình sắc, cảm thọ, suy tưởng, tâm hành và nhận thức đều không là những thực tại riêng biệt. Mười tám lĩnh vực hiện tượng là sáu Căn, sáu Trần, sáu Thứccũng đều không là những thực tại riêng biệt; Mười Hai Nhân Duyêncùng sự chấm dứt của chúng, hay bốn đế là Khổ, Tập, Diệt, Đạocũng đều không là những thực tại riêng biệt; tuệ giácchứng đắccũng đều như thế.
“Vị Bồ-tát khi thực tập phép quán tuệ giác qua bờ không thấy có gì cần được chứng đắc, nên không thấy còn có gì chướng ngại trong tâm. Và vì tâm không còn chướng ngại nên vị ấy vượt qua được mọi sợ hãi, vượt qua được mọi thấy biết mê lầm và đạt được thực tại Nirvāa.
“Tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai nhờ nương vào phép thực tập tuệ giác qua bờ mà đạt tới chánh giác toàn vẹn.
“Cho nên, này thầy Śāriputra, ai cũng cần biết rằng tuệ giác qua bờ là một phương tiện tu học chói sáng và kỳ diệu không gì so sánh được. Đó là tuệ giác chân thực có khả năng diệt trừ tất cả mọi khổ nạn. Vì vậy ta nên đọc lên câu linh chú sau đây để tán dương tuệ giác qua bờ:
“Gate, gate, pāragate, pārasamgate, bodhi, svaha!”
 
007
 
5)  Bản phổkệ tụng 5 chữ.
Avalokita
Khi quán chiếu sâu sắc,
với tuệ giác qua bờ,
đã khám phá ra rằng:
Cả năm uẩn đều Không.
Giác ngộ được điều đó,
Bồ-tát vượt qua được
mọi khổ đau ách nạn.
                                  “Này Śāriputra,
Hình Sắcnày là Không,
Khôngnơi HìnhSắcnày;
điều này cũng đúng với
cảm Thọvà suy Tưởng,
tâm Hànhvà nhận Thức.
“Này Śāriputra,
Mọi sự vật đều Không,
không sinh cũng không diệt,
không có cũng không không,
không dơ cũng không sạch,
không thêm cũng không bớt.
 “Cho nên với tánh Không,
năm uẩn đều không thể
tự riêng mình có mặt.
Mười tám loại hiện tượng,
là sáu Căn, sáu Trần
và sáu Thứccũng thế;
cùng Mười HaiNhân Duyên,
sự chấm dứt của chúng.
Tất cả đều như thế,
không tự riêng có mặt;
Khổ, Tập, Diệt, Đạo;
Tuệ giác và Chứng đắc.
Tất cả đều như thế,
không tự riêng có mặt.
 
“Khi một vị bồ-tát
Nương tuệ giác qua bờ
Không thấy có sở đắc
Nên tâm hết chướng ngại.
Vì tâm hết chướng ngại
Nên không còn sợ hãi,
vượt qua mọi vọng tưởng,
đạt thực tại niết-bàn.
                                  Chư Phật trong ba đời,
nương tuệ giác qua bờ,
đều có thể thành tựu,
quả chánh giác toàn vẹn.
                                  “Vậy nên phải biết rằng:
Phép tuệ giác qua bờ,
là phương tiện chóisáng,
là phương tiện kỳ diệu,
là phương tiệncao tột,
mà không phương tiệnnào
có thể so sánh được.
Phép tuệ giác qua bờ,
là tuệ giác chân thực,
có khả năng diệt trừ
tất cả mọi khổ nạn.
                                  Vậy ta hãy tuyên thuyết,
phép tuệ giác qua bờ
bằng một câu linh chú:
“Gate, gate,pāragate,pārasamgate,bodhi, svaha!”
 
 
tranh_hoa_sen02_1746496225
6)  Bản phổkệ tụng 5 chữ của Thích Nhất Hạnh.
GC:  Trí = Bát-nhã;  Độ = Ba-la-mật  =>Trí Độ= Bát-nhã Ba-la-mật
Bồ Tát Quán Tự Tại
Khi quán chiếu thâm sâu
Bát Nhã Ba La Mật
(tức Diệu pháp Trí Độ)
Bỗng soi thấy năm uẩn
Đều không có tự tánh
Thực chứng điều ấy xong
Ngài vượt thoát tất cả
Mọi khổ đau ách nạn.
Nghe đây Xá Lợi Tử:
Sắc chẳng khác gì Không
Khôngchẳng khác gì Sắc
Sắc chính thực là Không
Khôngchính thực là Sắc
Còn lại bốn uẩn kia
Cũng đều như vậy cả.
Xá Lợi Tử nghe đây:
Thể mọi pháp đều Không,
Không sanh cũng không diệt,
Không nhơ cũng không sạch,
Không thêm cũng không bớt
Cho nên trong tánh Không
Khôngcó Sắc, Thọ, Tưởng
Cũng Khôngcó Hành, Thức
Khôngcó Nhãn, Nhĩ, Tỷ
Thiệt, Thân, Ý (sáu căn)
Không có Sắc, Thanh, Hương
Vị, Xúc, Pháp (sáu trần)
Khôngcó mười tám giới
Từ Nhãn đến Ý thức
Khônghề có Vô minh
Khônghết Vô minh
Cho đến KhôngLão tử
Cũng Không hết Lão tử
KhôngKhổ, Tập, Diệt, Đạo
Khôngtrí cũng Khôngđắc
Không có sở đắc
Khi một vị Bồ Tát
Nương Diệu pháp Trí Độ
(Bát Nhã Ba La Mật)
Thì tâm không chướng ngại
Vì tâm không chướng ngại
Nên không có sợ hãi
Xa lià mọi vọng tưởng
Xa lìa mọi điên đảo
Đạt Niết Bàn tuyệt đối
Chư Bụt trong ba đời
Y Diệu pháp Trí Độ
Bát Nhã Ba La Mật
Nên đắc vô thượng giác
Vậy nên phải biết rằng
Bát Nhã Ba La Mật
Là linh chú đại thần
Là linh chú đại minh
Là linh chú vô thượng
Là linh chú tuyệt đỉnh
Là chân lý bất vọng
Có năng lực tiêu trừ
Tất cả mọi khổ nạn
Cho nên tôi muốn thuyết
Câu thần chú Trí Độ
Bát Nhã Ba La Mật
Nói xong đức Bồ Tát
Liền đọc thần chú rằng:
Yết đế, Yết đế
Ba la Yết đế
Ba la Tăng yết đế
Bồ đề tát bà ha
 
7) Bản phổ thơ lục bátcủa Hệ phái Khất sĩ.
Khi hành Bát Nhã Ba La
Ngài Quán Tự Tại soi ra tột cùng
Thấy ra năm uẩn đều Không
Bao nhiêu khổ ách khốn cùng độ qua
Nầy Xá Lợi Tử xét ra
Không Sắc đó, SắcKhôngđây
Sắc cùng Không chẳng khác sai
Không cùng Sắc vẫn sánh tài như nhau
Thọ, Tưởng, Hành, Thức uẩn nào,
Cũng như Sắc uẩn, một màu không không
Nầy Xá Lợi Tử ghi lòng
Như Khôngtướng ấy, đều không tướng hình
Không tăng giảm, không trược thanh
Cũng không diệt, cũng không sanh pháp đồng
Vậy nên trong cái chơn không
Vốn Khôngnăm Uẩn, cũng Khôngsáu Trần
Mắt, tai, mũi, lưỡi, ý, thân
Vị, hương, xúc, pháp, cùng phần sắc, thinh
Từ không giới hạn mắt nhìn
Đến Không ý thức, vô minh cũng đồng
Hết vô minh, cũng vẫn không
Hết già, hết chết, cũng không có gì
KhôngKhổ, Tập, Diệt, Đạo kia
Trí huệ chứng đắc cũng là Không, Không
Sở thành, sở đắc bởi Không
Các vì Bồ Tát nương tùng huệ năng
Tâm không còn chút ngại ngăn
Nên không còn chút băn khoăn sợ gì
Đảo điên mộng tưởng xa lìa
Niết Bàn mới đến bên kia bến bờ
Ba đời chư Phật sau, xưa
Đắc thành Chánh Giác cũng nhờ huệ năng
Trí huệ năng lực vô ngần
Đại Minh vô thượng, Đại Thần cao siêu
Trí huệ năng lực có nhiều
Thật là thần chú trừ tiêu não phiền
Trí huệ năng lực vô biên
Dẫn đường giải thoát qua bên giác ngàn
Liền theo lời chú thuyết rằng:
Độ tha giác ngộ khắp trần chúng sanh.
Yết đế, yết đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ đề Tát bà ha.
Xem thêm:
- Chữ “Không” trong bài Kinh Bát Nhã -Chùa Xá Lợi
- Khái Quát về chữ "Không" trong Tâm Kinh Bát Nhã
- Ngũ Uẩn giai Không: HOA LINH THOAI
- Kinh Tinh yếu Bát Nhã – Làng Mai
- Doc va hieu Bat Nha Tam Kinh - Cu Si
- Bát-nhã tâm kinh diễn giải - Giác Ngộ Online
- Bát Nhã Tâm Kinh Giảng Giải- Thư Viện Hoa Sen
- Tìm Hiểu Ý Nghĩa BÁT NHÃ BA-LA-MẬT ĐA TÂM KINH- BÀI ...
 
VIDEO
- Vấn đáp: Cốt lõi của Bát Nhã Tâm Kinh, thần chú Bát Nhã | Thích Nhật Từ
- Vấn đáp: Sắc Không Trong Bát Nhã Tâm Kinh -TT. Thích Nhật Từ
- Bát-nhã Tâm Kinh ứng dụng – Thích Nhật Từ
- HT. Thích Thanh Từ - Giải Thích Tường Tận Bát Nhã Tâm Kinh
- Bát Nhã Tâm Kinh - TT. Thích Chân Quang
- Thuyền Tuệ Sang Sông - Thích Pháp Hòa
- Bát Nhã Tâm Kinh Phần 1- Thầy Thích Phước Tiến
- Bát Nhã Tâm Kinh Phần 2- Thầy Thích Phước Tiến
- 1/15 - 2016 - THIỀN TÁNH KHÔNG -BÁT NHÃ
- 2/15 - 2016 - THIỀN TÁNH KHÔNG -BÁT NHÃ TÂM KINH
- 3/15 - 2016 - THIỀN TÁNH KHÔNG -BÁT NHÃ TÂM KINH
- 4/15 - 2016 - THIỀN TÁNH KHÔNG -BÁT NHÃ TÂM KINH
- Bát Nhã Tâm Kinh- Thầy Thích Trí Huệ
- Bát Nhã Tâm Kinh (Nhạc không lời)
- Tụng Bát Nhã Tâm Kinh(Có Chữ) - ĐĐ.Thích Trí Thoát
 

 
Hoan nghênh các bạn góp ý trao đổi!


***
 

Huy Thai gởi