THÁNH NI KHEMA, ĐỆ NHẤT TRÍ TUỆ TRONG HÀNG NI GIỚI
Từ Khema mang ý nghĩa là “an lạc”, là “điểm tĩnh ”. Tỳ-khưu-ni Khema xuất thân từ gia đình hoàng tộc ở vương quốc Ma-Kiệt-Đà. Cô có nhan sắc vô cùng diễm lệ, là quý phi được hoàng đế Bimbisara (Tần-Bà-Sa-La) sủng ái nhất. Bà quý phi này rất say mê sắc đẹp của bản thân. Bà luôn tự hào và hãnh diện về nhan sắc của mình. Đặc biệt là Khema đã chứng quả Thánh cao thượng, chỉ sau một thời pháp của đức Phật, ngay khi bà còn là một hoàng phi cao sang quyền quý, chưa hề xuất gia, chưa hề quy y Tam Bảo, chưa phải là đệ tử của đức Phật Gotama.
Những vị A-la-hán là những vị đã đạt trí tuệ giải thoát tột cùng phủ trùm pháp giới. Mỗi vị có công hạnh, sở trường tối thắng và hành đạo theo cách riêng của mình. Tôn giả Khema được mệnh danh là đệ nhứt trí tuệ bởi Ngài có khả năng thấu hiểu mọi điều trong ba cõi. Nhờ thâm nhập giáo pháp vi diệu của đức Như Lai và nhờ có tha tâm thông thấu hiểu tâm trạng căn cơ của người đối diện, nên những lời giảng dạy của Người đã giúp cho chúng sanh tin hiểu và chấp nhận được những điều sâu xa vi tế trong giáo pháp. Những hình ảnh ẩn dụ được Ngài khéo xử dụng để diễn tả những điều trừu tượng khó hiểu. Nhờ vậy mà có nhiều chúng sanh cảm phục, hoan hỷ tuân hành theo chánh pháp.
Đức Thế Tôn đã khen ngợi rằng: “Trong các vị nữ đệ tử của Như Lai, có Đại trí tuệ tối thắng là Tỳ-khưu-ni Khema.” Một cuộc pháp đàm được kể lại trong Tương Ưng Bộ Kinh bài số 44 giữa vua Pasenadi (Ba-Tư-Nặc) và Khema đã chứng minh trí tuệ tối thắng của tôn giả Khema như sau: Vào một ngày nọ, vua nước Kosala là hoàng đế Pasenadi trên đường du hành, nghỉ lại một đêm ở vùng quê Toranavatthu.
Nhân dịp này đức vua sai người hầu đi tìm một vị đạo sĩ trí tuệ hay một vị Bà-la-môn trong vùng để Ngài hỏi Pháp. Người hầu tuân lệnh, đi tìm khắp Toranavatthu, không thấy có vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào cả.
Người ấy trở về tâu lên vua: - Tâu đại vương, tại vùng này không có vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào để Đại vương có thể yết kiến. Nhưng được biết có vị Tỳ-khưu-ni, đệ tử của đức Thế Tôn đang cư trú trong vùng. Đó là nữ tôn giả Khema nổi tiếng là người có trí tuệ quảng bác về pháp học, pháp hành thâm sâu, và là một luận giả tài ba. Đại vương có thể yết kiến vị ấy!
Đức vua đến gặp, sau khi đảnh lễ Tỳ-khưu-ni Khema, Ngài đưa ra 4 câu hỏi về trạng thái sau khi tịch diệt của đức Như Lai. Cuộc đàm đạo diễn ra như sau: - Thưa Nữ tôn giả, Như Lai có tồn tại sau khi chết không?
- Tâu Đại vương, Thế Tôn không trả lời: “Như Lai có tồn tại sau khi chết”. - Vậy thưa Nữ tôn giả, Như Lai không tồn tại sau khi chết? - Tâu Đại vương, Thế Tôn cũng không trả lời: “Như Lai không tồn tại sau khi chết”. - Thưa Nữ tôn giả, Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết? - Tâu Đại vương, Thế Tôn cũng không trả lời: “Như Lai có tồn tại hay không tồn tại sau khi chết”. - Vậy thì thưa Nữ tôn giả, Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết? - Tâu Đại vương, điều ấy cũng vậy, Thế Tôn không trả lời: “Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết”.
Tôn giả Khema từ tốn đáp lời ngắn gọn như thế, bởi Ngài hiểu đức Thế Tôn cũng không muốn chúng sanh lẩn quẩn trong những câu hỏi huyền hoặc. Vì tranh luận những câu hỏi giống như vậy, chỉ làm hao tổn thân tâm, gây phiền não mê muội, đồng thời cũng chẳng có lợi ích gì cho việc tu hành chấm dứt luân hồi khổ đau.
Thế nhưng nhà vua vẫn tiếp tục nêu thắc mắc: - Thưa Nữ tôn giả, do nhân duyên gì mà Thế Tôn không trả lời bốn thắc mắc trên? Tôn giả Khema nhìn nhà vua lòng đầy thương cảm, nếu vua cứ dính mắc với những câu hỏi ấy, muốn tìm đến tận nguồn tận gốc, thì sẽ rơi vào cố chấp, tà kiến.
Trong khi đó hành trình tu tập đi đến giải thoát giác ngộ, thì phải tự tu, tự chứng. Như một người uống nước, nóng lạnh, chỉ người đó biết, dùng lời giải thích người khác không hiểu. Với lòng bi mẫn, tôn giả mong muốn tháo gỡ những điều hỗn tạp ấy trong tâm nhà vua.
Trước tiên Ngài hỏi vua Pasenadi: - Đại vương nghĩ sao? Nếu có một nhà Toán học tài ba, hay nhà thống kê thiện xảo, người ấy có thể ước tính được cho vua có bao nhiêu hạt cát dưới đáy sông Hằng, và số lít nước trong lòng đại dương hay không? - Vua trả lời: Điều này chắc chắn là không thể được, vì hạt cát sông Hằng nhiều vô số kể không thể đếm hay ước tính được, và đại dương thì bao la, sâu thẳm, làm sao dò đến tận đáy!
Bây giờ Nữ Tôn giả Khema mới trình bày rõ hơn: - Cũng vậy, đức Thế Tôn là bậc toàn giác. Ngài cũng như đại dương bao la, sâu thẳm vô cùng tận. Ngài vượt ngoài mọi đo lường hữu hạn của thế gian. Nếu có ai muốn hiểu Thế Tôn qua sắc thân, cảm thọ, hành, thức, thì sớm muộn cũng đi vào bế tắc, bởi đức Thế Tôn đã đoạn tận rồi ngũ uẩn ấy , giống như cắt lìa gốc rễ của cây Sa-La, làm cho nó không thể sanh khởi trong tương lai được. Vì vậy không thể tìm thấy và cảm nhận bản thể của đức Thế Tôn nơi những thuộc tính danh sắc ấy! Nếu có ai nói rằng Thế Tôn “tồn tại” hay “không tồn tại”, hay “vừa tồn tại, vừa không tồn tại”, hoặc “không tồn tại hay không không tồn tại” sau khi nhập Niết-bàn, đều không phải là tri kiến đúng đắn! Nhà vua hoan hỷ, tin thọ lời giải thích thâm sâu của Tỳ-khưu-ni Khema, Ngài đảnh lễ Tỳ-khưu-ni rồi ra về!
Một thời gian sau đó, vua Pasenadi có dịp đến đảnh lễ đức Thế Tôn, nhà vua cũng thỉnh cầu đức Thế Tôn trả lời bốn câu hỏi như thế. Thế Tôn đã trả lời với ngôn từ và ý nghĩa không khác gì với nữ đệ tử Khema. Điều này, khiến đại vương Pasenadi hết sức ngạc nhiên. Nhà vua liền kể lại cuộc đàm luận với tôn giả Khema cho đấng đại giác, và không hết lời tán thán bậc thánh ni có trí tuệ tối thắng trong giáo đoàn của đức Phật...
Namo Buddhaya
________________
Hoang Nguyen gởi